Trương Minh Hòa -
Nhà văn Phạm Xuân Đài tỏ ra rất là tâm đắc khi nhìn thấy bề ngoài, chánh điện, sư, ni, dù là quốc doanh cũng luôn có tác phong, lời nói thật là hiền, nên cho rằng: "chùa là cái thiện". Nhưng khi "chùa là cái thiện" chỉ có ý nghĩa đối với những nơi có "thầy" là bậc tu hành đàng hoàng, thanh tâm trường an lạc, nhất tâm tu tập, làm lành lánh dữ, coi cõi đời là cõi tạm, không màng danh lợi, của cải vật chất, những vị nầy thường có tìm nơi:
"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ.
Người khôn tìm đến chốn lao xao"
( Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Người khôn tìm đến chốn lao xao"
( Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Tuy nhiên ngày nay, tăng ni không phải ai cũng "thiện và tu hành" cả, nhất là thời kỳ mà đảng Cộng Sản vô thần đang thi hành triệt để cái thứ: "giáo chỉ vô thần Marl Marx được ban hành từ thế kỷ 19", coi tất cả các tôn giáo "đều là thuộc phiện", nên đảng Cộng Sản hạ quyết tâm tiêu diệt tôn giáo bằng mọi cách, trong đó có Phật Giáo là mục tiêu được nhắm tới từ lúc có mặt đảng Cộng Sản và tên quỷ vương Hồ Chí Minh. Đời người thường thất cảnh vàng thau lẫn lộn, thật giã khó phân minh, nên riêng Phật Giáo bị và đang "tấn kích ác liệt" từ trước 1975 ở miền Nam Việt Nam qua khối Phật Giáo Ấn Quang do thượng tọa Thích Trí Quang lãnh đạo; điển hình với vụ biến động Phật Giáo miền Trung 1966, thời chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ cầm quyền, là một Phật tử thuần thành, tự xưng là "Buddha child" thì làm gì có đàn áp Phật Giáo?. Thế mà các "tăng ni" nầy lại vùng lên, phá rối sự an bình của dân chúng, làm lợi cho giặc Cộng.
Chùa là nơi tu tập, thờ Phật, phát huy đạo pháp, chớ không phải là nơi "xảy ra biết bao nghiệp báo" do một số TĂNG CHÚNG lúc TÚNG CHĂNG, có cái tâm "mượn đạo tạo tiền", tức là THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI, đưa đến cái quả cho các "tăng ni" trở thành "tu nhất kiếp giàu nhất thời', chỉ trong thời gian ngắn mà nhiều vị "thanh tâm trường kiếm bạc" trở thành "triệu phú Phật Giáo" mà không cần phải "lao động là vinh quang"; ra nước ngoài chỉ ngồi trước "tượng Phật" tụng kinh, gõ mỏ mà giàu xụ, trong khi đó những Phật tử thuần thành phải cày nhiềy job để:
Chùa là nơi tu tập, thờ Phật, phát huy đạo pháp, chớ không phải là nơi "xảy ra biết bao nghiệp báo" do một số TĂNG CHÚNG lúc TÚNG CHĂNG, có cái tâm "mượn đạo tạo tiền", tức là THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI, đưa đến cái quả cho các "tăng ni" trở thành "tu nhất kiếp giàu nhất thời', chỉ trong thời gian ngắn mà nhiều vị "thanh tâm trường kiếm bạc" trở thành "triệu phú Phật Giáo" mà không cần phải "lao động là vinh quang"; ra nước ngoài chỉ ngồi trước "tượng Phật" tụng kinh, gõ mỏ mà giàu xụ, trong khi đó những Phật tử thuần thành phải cày nhiềy job để:
"Một mình lo bảy, lo ba.
Lo nhà, lo cửa, Phật Đà cúng dâng.
Còn tiền, thầy tiếp ân cần.
Không tiền lạy Phật, thứ bần tránh xa".
Lo nhà, lo cửa, Phật Đà cúng dâng.
Còn tiền, thầy tiếp ân cần.
Không tiền lạy Phật, thứ bần tránh xa".
Phật Giáo với các tăng ni luôn đặt vấn đề "hoằng pháp" để giữ gìn đạo, là truyền thống tốt đẹp ty ngàn năm, nên đạo vẫn vững. Tuy nhiên, trong cái "tình huống" đạo đời lộn xộn, nên ngày nay đã và đang có một số tăng ni biến thành "hoằng bạc" đi trước "hoằng pháp", làm cho uy tín Đức Phật bị giảm và đạo pháp, Đạo Phật càng "xuống cấp" với qua nhiều "sự cố" do một số kẻ mặc áo cà sa "nói năng y như Phật, nhưng không phải là Phật", tệ hơn là lũ công an, cán bộ Tôn Giáo vận của Cộng Sản, là thứ ma quái giả dạng tu hành, hóa trang thành Phật trong Tây Du Ký, khiến cho Tam Tạng, vì quá "trọng Phật, kính tăng" mà quỳ lạy, tưởng đâu phật, không nghe lời khuyên chí lý của đệ tử là Tôn Ngộ Không, xuýt là hỏng cả đại sự thỉnh kinh và Tam Tạng cũng nhiều lần vì nghe lời, tin theo ma quái, niệm chú làm vòng kim cố xiết lại, hại người chân chính. Ngày nay lũ ma quái vô thần "mượn đạo tạo đảng" nhởn nhơ tại nhiều tự viện ở Việt Nam và thò bàn tay lông lá ra tận hải ngoại thu tiền, làm công tác văn hóa vận, đánh phá, ru ngủ ..... Một điều thật đau lòng là: ở mọi thời đại, mọi nơi, bọn ma quái vẫn tác quái là nhờ tại hải ngoại còn có nhiều "Tam Tạng thời đại" nhắm mắt đi theo, đóng góp, cúng dường, CÔNG QUẢ dài dài và sau nầy nhiều người đã TÁ HỎA tam tinh khi biết những "vị sư khả kính" nói năng như Phật chính là "đỉnh cao trí tệ nòi người", là những cán bộ, công an ngụy trang "cũng cạo đầu, mặc áo cà sa" và một số vị tăng ni gốc tỵ nạn ló mặt là ma quái nằm vùng, đáng lưu ý là "sư về nguồn" đang là chủ nhân của những ngôi chùa đồ sộ, hiên ngang, công khai bảo lãnh "sư gốc Vẹm" từ Việt Nam sang, dần dần "sang tên" các ngôi chùa tích lũy từ mồ hôi nước mắt của Phật tử thuần thành đóng góp ..... khi có chùa trong tay, đủ tư cách pháp nhân như thương nghiệp, những tên công an giả tu sĩ Phật giáo có khả năng và phương tiện phát triển mạng lưới gián điệp nằm vùng, núp dưới bóng từ bi, rửa tiền bằng cách mua đất, cất chùa, rồi tiếp tục bảo lãnh "đồng bọn" từ Việt nam sang với danh nghĩa tu sĩ; cứ thế mà leo thang, khiến dân số "đảng viên" gia tăng, và sau cùng có đủ "dân số" để khuynh đảo các tổ chức cộng đồng qua hình thức bầu cử dân chủ. Thế là sau nầy, nguy cơ bị Cộng Sản "tiến vào cộng đồng, trận cuối là trận nầy" đang trở thành cái họa thực sự cho người tỵ nạn. Khi cờ đỏ thay cờ vàng treo ở các ngôi chùa, được sứ quán hổ trợ, thì người Việt tỵ nạn, Phật tử chân chính có còn nơi nào để dung thân? Đây là mối nguy, xuất phát từ chùa, như ở miền Nam trước 1975 với đám Phật Giáo Ấn Quang.
Ngày xưa, tại miền Nam, các vị tăng sĩ có chức vụ, được gọi là "TRƯỞNG", như thượng tọa Thích Tâm Châu, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo. Khi ra hải ngoại, vì đây là nước tự do từ cá nhân, doanh nghiệp, chính trị .... nên cái "tình huống" tác động vào chùa. Người dân ở các nước dân chủ đa số là thiếu nợ ngân hàng, từ nhà, credit card, xe .... nên giấc mơ làm chủ luôn có trong đầu. Ai thoát khỏi những món nợ "cơ bản" nêu trên, thì thanh tâm cũng trường an lạc, sống thoải mái đấy. Do đó, các tăng ni khi ra hải ngoại, sau thời gian mướn nhà để tu, nhờ Phật tử đóng góp "tiền từ cúng dường lâu năm, sư xây dựng gấp mười chùa xưa". Thế nên, các chức vụ có mang chữ CHỦ được áp dụng cho phù hạp với "trào lưu thời thượng", như ở Tây Úc, có thượng tọa Thích Phước Nhơn, xưng là "Viện Chủ Thiền Viện Phổ Quang", nay ông tu sĩ nầy đã "đạt quả triệu phú" là làm chủ 3 ngôi chùa, giao cho 3 ni cô "quản lý", nên kiếm thầy rất khó, vì không biết "giờ nầy sư ở đâu?".
Ngay cả chức sắc, lúc mới qua, thượng tọa Thích Tắc Phước, sau là huề thượng Thích Phước Huệ, cũng muốn có sỡ hữu, dù biết cõi đời là cõi tạm, nên gọi là "Giáo hội chủ". Cái thứ Viện chủ, giáo hội chủ, pháp chủ .... được nghe, đọc trên các hệ thống truyền thông, đây là giai đoạn "thầy làm chủ chùa" mà chùa do bá tánh đóng góp, phát triển từ lâu, nay thì thầy nào cũng là "tư bản Phật Giáo", có vị có vài ngôi chùa, có cả cư xá cho mướn, đúng là "tu nhất kiếp, giàu nhất thời". Thầy là chủ, viện chủ, pháp chủ, chủ chùa là cái chắc; từ đó Phật tử có quyền xưng là "Viện Tớ" cũng hỗng ai théc méc; nhưng chủ là các tăng ni thì YẾU, vì hổng có làm gì mà giàu có, đó là "chủ yếu", trong khi thì các thiện nam tín nữ, truất tiền trong ngân sách gia đình để đóng góp, làm việc cực khổ, đương nhiên là "tớ mạnh".
Sức bành trướng các tự viện "quá tải" nên tình trạng chùa trở nên "lạm phát" ở hải ngoại và tăng, ni càng gia tăng, khi làn sóng "đi sang thế giới Tây Phương cực lạc" để tu càng nhiều, nhất là những người nào nằm trong giáo hội do nhà nước đào tạo, chấp nhận thì được dễ dàng xuất cảnh "du tu" và ở luôn, gọi là "di-tu" (tức là di dân để tu). Công an, cán bộ Cộng Sản, mặc áo cà sa, xuất ngoại làm công tác tôn giáo vận, đọc những bài "tham luận Phật Giáo" ru ngủ, méo mó kinh Phật, nhưng có nhiều người u ám, coi là "lời vàng ngọc" bèn thu lại trong các dĩa DVD để phổ biến, cứ thế mà sư, ni từ trong nước sớm trở thành thần tượng. Tình trạng nầy là vấn nạn đe dọa đạo pháp, nên Phó Tăng Thống, huề thượng Thích Hộ Giác ra thông bạch ngày 26-9-2008 về việc các giáo hội ở Hoa Kỳ, Canada, Úc, Âu châu đã" tiếm danh" giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Hòa thượng Thích Quảng Độ, thay mặt hai viện Tăng Thống và Hóa Đạo từ trong nước, ký ngày 24 tháng 8 năm 2008 về việc tiếm danh của các giáo hội sau đây:
Ngày xưa, tại miền Nam, các vị tăng sĩ có chức vụ, được gọi là "TRƯỞNG", như thượng tọa Thích Tâm Châu, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo. Khi ra hải ngoại, vì đây là nước tự do từ cá nhân, doanh nghiệp, chính trị .... nên cái "tình huống" tác động vào chùa. Người dân ở các nước dân chủ đa số là thiếu nợ ngân hàng, từ nhà, credit card, xe .... nên giấc mơ làm chủ luôn có trong đầu. Ai thoát khỏi những món nợ "cơ bản" nêu trên, thì thanh tâm cũng trường an lạc, sống thoải mái đấy. Do đó, các tăng ni khi ra hải ngoại, sau thời gian mướn nhà để tu, nhờ Phật tử đóng góp "tiền từ cúng dường lâu năm, sư xây dựng gấp mười chùa xưa". Thế nên, các chức vụ có mang chữ CHỦ được áp dụng cho phù hạp với "trào lưu thời thượng", như ở Tây Úc, có thượng tọa Thích Phước Nhơn, xưng là "Viện Chủ Thiền Viện Phổ Quang", nay ông tu sĩ nầy đã "đạt quả triệu phú" là làm chủ 3 ngôi chùa, giao cho 3 ni cô "quản lý", nên kiếm thầy rất khó, vì không biết "giờ nầy sư ở đâu?".
Ngay cả chức sắc, lúc mới qua, thượng tọa Thích Tắc Phước, sau là huề thượng Thích Phước Huệ, cũng muốn có sỡ hữu, dù biết cõi đời là cõi tạm, nên gọi là "Giáo hội chủ". Cái thứ Viện chủ, giáo hội chủ, pháp chủ .... được nghe, đọc trên các hệ thống truyền thông, đây là giai đoạn "thầy làm chủ chùa" mà chùa do bá tánh đóng góp, phát triển từ lâu, nay thì thầy nào cũng là "tư bản Phật Giáo", có vị có vài ngôi chùa, có cả cư xá cho mướn, đúng là "tu nhất kiếp, giàu nhất thời". Thầy là chủ, viện chủ, pháp chủ, chủ chùa là cái chắc; từ đó Phật tử có quyền xưng là "Viện Tớ" cũng hỗng ai théc méc; nhưng chủ là các tăng ni thì YẾU, vì hổng có làm gì mà giàu có, đó là "chủ yếu", trong khi thì các thiện nam tín nữ, truất tiền trong ngân sách gia đình để đóng góp, làm việc cực khổ, đương nhiên là "tớ mạnh".
Sức bành trướng các tự viện "quá tải" nên tình trạng chùa trở nên "lạm phát" ở hải ngoại và tăng, ni càng gia tăng, khi làn sóng "đi sang thế giới Tây Phương cực lạc" để tu càng nhiều, nhất là những người nào nằm trong giáo hội do nhà nước đào tạo, chấp nhận thì được dễ dàng xuất cảnh "du tu" và ở luôn, gọi là "di-tu" (tức là di dân để tu). Công an, cán bộ Cộng Sản, mặc áo cà sa, xuất ngoại làm công tác tôn giáo vận, đọc những bài "tham luận Phật Giáo" ru ngủ, méo mó kinh Phật, nhưng có nhiều người u ám, coi là "lời vàng ngọc" bèn thu lại trong các dĩa DVD để phổ biến, cứ thế mà sư, ni từ trong nước sớm trở thành thần tượng. Tình trạng nầy là vấn nạn đe dọa đạo pháp, nên Phó Tăng Thống, huề thượng Thích Hộ Giác ra thông bạch ngày 26-9-2008 về việc các giáo hội ở Hoa Kỳ, Canada, Úc, Âu châu đã" tiếm danh" giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Hòa thượng Thích Quảng Độ, thay mặt hai viện Tăng Thống và Hóa Đạo từ trong nước, ký ngày 24 tháng 8 năm 2008 về việc tiếm danh của các giáo hội sau đây:
- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Canada do Thích Bổn Đạt điều hành.
- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan do: Giáo hội chủ huề thượng Thích Như Huệ, thượng tọa Thích Bảo Lạc, Thích Quảng Ba ...
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu do huề thượng Thích Minh Tâm làm chủ.
- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan do: Giáo hội chủ huề thượng Thích Như Huệ, thượng tọa Thích Bảo Lạc, Thích Quảng Ba ...
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu do huề thượng Thích Minh Tâm làm chủ.
Bản văn nầy được huề thượng Thích Hộ Giác phổ biến ngày 26-9-2008. Để phản ứng, một thông cáo, với bản thu thập 124 chữ ký của các giáo hội "tiếm danh" ký ngày 24-8-2008, theo hòa thượng Hộ Giác, thì trong danh sách ấy, có một số ít là nằm trong giáo hội, nhưng đa số tăng, cư sĩ, là không nằm trong tổ chức. Như vậy, đây là một màn "kịch nói" vô duyên theo kiểu "chiến tranh nhân dân", được dàn dựng để binh vực cho những kẻ "tiếm danh"; nhưng chỉ có 124 người là "còn dỡ", tuy nhiên điều nầy cũng chứng minh được cái nhóm nầy là "thiểu số", vì họ không có khả năng để xin chữ ký ít nhất cũng vài ngàn, chục, trăm ngàn Phật Tử, thì mới có giá trị là tiếng nói chung.
Như vậy, thì từ hàng chục năm qua, các giáo hội Phật Giáo ở hải ngoại nêu trên đã lợi dụng Phật và tiếm danh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam để "thay mượn thiền môn làm thương mại", lừa đảo Phật tử để thu tiền, xây chùa, tích tụ ngân quỹ, tệ hơn là nhiều chùa bảo lãnh sư, ni từ Việt Nam sang. Đối với những tăng ni nào đi di dân dễ dàng, Phật tử có trí óc trung bình cũng biết họ là ai, ngoại trừ người của họ và những kẻ mù quáng, miễn bàn; nói chuyện với những người nầy, tốt hơn là nói với đầu gối. Một điều dễ nhận vào thời điểm tỵ nạn, là lúc mới sang, ni sư nào cũng nói "đạo pháp và dân tộc" thật tình lý, thu phục được quần chúng qua lập trường, nhưng khi xây xong chùa, sư có tiền là "lòng người thay trắng đổi đen". Điển hình là ở San Jose, lúc chùa Đức Viên mới khởi công, thì sư bà Đàm Lựu thường treo cờ vàng ba sọc đỏ lớn ở trước cổng; nhưng khi chùa xây xong là không thèm treo cờ, đã vậy còn rước tên sư Việt Cộng Thích Thanh Từ sang phá rối, nên dù sư bà Đàm Lựu (đạn) qua đời, nhưng việc làm nầy vẫn còn để lại cái "quả" lâu dài trong lòng Phật Tử. Chùa là cái thiện, nhưng một số thì "chùa là cái tiệm" khi lợi nhuận làm chóa mắt những ai muốn "giải thoát túi tiền trước khi tìm về bến giác". Tiệm Phật là thương nghiệp không vốn mà lời rất nhiều, lời dài dài, nên tiệm Phật trưng bày tượng Phật, bề ngoài càng "hiện đại" càng thu được nhiều khách thập phương chiếu cố; như các siêu thị, trưng bày hàng, quảng cáo, người tiếp thị ... càng lịch sự thì khách tới đông. Thương nghiệp lập ra là vì lợi nhuận, nên khách hàng nào có tiền là được chủ nhân tiếp đón niềm nở; đó là hiện tượng các "tăng ni chủ chùa" sau khi đã "làm chủ ngang hông" thì không tiếp đón niềm nữ các "chúng sanh nghèo" bỏ tiền ít vào thùng Phước Sương. Trái lại các khách cúng dường xộp, viên chức chính phủ cao cấp, thường được các tăng ni xăn xái tiếp, bợ. Ngoài ra, tăng ni một số nơi từ chối tụng kinh cho gia đình người quá cố nào không có nhiều tiền chi trả. Do đó, tụng kinh trở thành "dịch vụ của tiệm Phật ngày nay". Các tiệm Phật còn qui định giá cả để đọc kinh, cầu siêu, đúng như sinh hoạt của các thương buôn vậy.
Cửa hiệu Khánh Anh của sư "về nguồn" thích Minh Tâm ở Âu Châu, nghe đâu cửa hiệu Phật nầy tốn đến 40 triệu Euro, là cái tiệm Phật vĩ đại ở Âu Châu; do đó muốn có nhiều người "tham quan" thì thường mời các nhân vật tâm tiếng như Đức Đa La Đa Ma, có treo cờ vàng ... giống như một tiệm phở ở Saigon, ít ai biết, nhưng tình cờ, năm 2000, tổng thống Bill Clinton tới ăn, chủ làm ăn khắm khá nhờ nhiều người biết có tổng thống" thằng Mỹ" đến thưởng thức.
Tại Úc Châu, có hai giáo hội Phật Giáo:
- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, do huề thượng Thích Phước Huệ làm Pháp Chủ, không ăn nhập gì đến giáo hội phật giáo trong nước do huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang lãnh đạo. Giáo hội chỉ hoạt động từ thiện, dạy dùng computer, mổ mắt cườm, cơm chay, xây tượng, vô quốc tịch ... và trước đây có lần, trong chùa toan tổ chức buổi tưởng niệm nhạc Trịnh Công Sơn, có đăng quảng bá trên các website của Việt Cộng, bị cộng đồng phản đối nên dẹp.
- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất "Hải Ngoại" Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, do huề thượng Thích Như Huệ làm Giáo Hội Chủ, qui tụ thượng tọa Bảo Lạc, Quảng Ba, Phước Nhơn .... từ lâu, bá tánh, Phật Tử, các đoàn thể quốc gia, cộng đồng cứ lầm tưởng đây là giáo hội Phật Giáo trực thuộc giáo hội trong nước do huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang lãnh đạo, đang trong "pháp nạn" nên ủng hộ và kính trọng. Giờ đây, sau cái thông bạch của nhị vị huề thượng thẩm quyền nhất: trong nước là hòa thượng Quảng Độ, hải ngoại là huề thượng Thích Hộ Giác, thì mới bật ngữa là "tiếm danh"; như vậy từ lâu, các giáo hội nầy đã mạo danh giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để thu tiền, làm ăn, chẳng khác nào người ta mượn cái hiệu như: Mc Donald, K.F.C .... để bán đồ ăn. Nay nhờ giáo chỉ số 9 mà nhiều Phật tử biết "cúng dường nhằm Tiệm Phật, chớ hổng phải Chùa Phật".
Vị Giáo Hội Chủ Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan là huề thượng THÍCH NHƯ HUỆ, Ngài là bậc "cao tu", từng tung hoành ở miền Trung, lúc làm hiệu trưởng trường Bô Đề ở Hội An; theo cuốn sách "DÙA-THẦY CHẶT" của Đặng Văn Nhâm thì vị nầy từng tham gia chiến dịch đem bàn thờ Phật "xuống đường" năm 1966, có những hoạt động "tích cực" trong trận tổng công kích tết Mậu Thân và nhất là Ngài đã từng chiêu dụ ít nhất là 4 tín nữ cùng "tu tiếp hiện", có hàng chục "cái quả". Ngài đúng là bậc "GIĂNG-TÂM" (tức là cái tâm giăng ra xa, xin đừng nói lái mà mất hết ý nghĩa). Sau năm 1975, Ngài Thích Như Huệ được các Phật Tử bảo lãnh từ Nhật sang, nhờ tiền cúng dường, đóng góp, công quả, nên ngài có được "cơ ngơi" khang trang là ngôi chùa Pháp Hoa, tọa lạc ở đường Addison, tiểu bang Nam Úc (Adelaide). Sau nầy, do tranh chấp giữa hai cánh Phật Giáo cùng mang tên "Thống Nhất" mà Ngài huề thượng Thích Như Huệ đứng ra làm "Giáo Hội Chủ" để đương đầu với cánh "Phước Huệ công đức tùm lum" và nay thì mới biết cánh nầy cũng "tiếm danh".
Chùa Pháp Hoa do ngài Thích Như Huệ trụ trì, lối hành đạo của Ngài oai phong như một "Phật Giáo Hoàng" cũng đội mão, hành lễ tại Chùa và Ngài làm giáo hội chủ, pháp chủ lâu nay, sau thời gian thu được nhiều "quả" là Đô La, nên nhớ là kinh Đại tạng khó hiểu, cần dịch thuật mà chưa chắc đạt ý nghĩa, nhưng không thể sánh bằng "kinh Đô La", loại kinh xuất phát từ Hoa Kỳ lan rộng, thu hút người cả "phàm", tu hành, cũng như "ma quái vô thần Cộng Sản". Lâu nay Chùa Pháp Hoa biến thành Tiệm Phật mà nhiều người hổng hay, hổng biết, hổng thấy .... nhưng hiện tượng chùa lãnh người ở Việt Nam sang tu càng đông, khiến số Phật tử chân chính bỏ đi chùa khác và số khác trở thành: "cư sĩ trừ bị tại gia" vì biết làm tiệm Phật, chứ hổng phải là "chùa Phật" giống như tâm trạng của những người lỡ mua nhằm hàng dỏm, giả, đề câu "Made in China" vậy. Rồi hòa thượng Thích Như Huệ trở thành "Thái Thượng Hoàng", nhưng đáng lưu ý là Ngài phong chức, nhường ngôi chùa (nay có thể hiểu là Tiệm Phật) cho một người ở Việt Nam qua. Trong phần diễn đàn, đăng trên tờ Nam Úc Tuần Báo, số 662, một Phật tử ở Adelade là Mỹ Phúc, pháp danh Chân Mỹ Phúc viết: Bây giờ "lòng người đổi trắng thay đen" (theo lời của Hạnh Trung), nên hòa thượng Như Huệ cũng đã đổi thay. Việc phong chức trụ trì cho một người từ Việt Nam mới sang mấy năm sau nầy, cũng không cần tham khảo ý kiến PT gì cả. Họ không phải là người tị nạn Cộng Sản như HT Như Huệ, nên chúng tôi không đồng ý. Dư luận nói rằng: người trụ trì đang tại chức là cháu ruột của HT Như Huệ. Nếu sự thật đúng vậy, thì càng phi lý và bất chính, vì ngôi chùa là tiền bạc của đàn na tín thí đóng góp tạo thành, không phải của riêng một ai, hoặc một nhóm nào, lại càng không phải của cá nhân HT Như Huệ, cho nên HT Như Huệ không thể áp dụng phương cách cha truyền con nối được (ngưng trích).
Theo nguồn tin chưa phối kiểm, nhưng là tin đồn, thì hình như vị trụ trì từ Việt Nam sang, được Ngài phong chức, kế thừa "chủ nhân" ngôi chùa Pháp Hoa chính là "cái quả" mà Ngài đã gieo từ lâu, nay trở thành sư, được bảo lãnh từ Việt Nam? Tác giả Mỹ Phúc cảnh báo: "Hiện nay Việt Cộng đang thực hiện nghị quyết 36, mở chiến dịch tung sư, ni quốc doanh ra hải ngoại, trú ngụ rải rác trong các chùa để thi hành kế sách tôn giáo vận".
Trước những dư luận xôn xao về cái chùa Pháp Hoa lòi ra là "Tiệm Phật Pháp Hoa", một người trong giáo hội "tiếm danh" là Nguyên Hảo-Trần Thị Cúc, tự nhận là: "TM. Ban Hộ Trì Chùa Pháp Hoa" nên bà lối trình bày của bà nầy "ĐÓ CHỈ" là thứ: " Đ.....C.." thôi, chớ có lạ gì hạng người nầy; trong lá thư với tiêu đề: "Đến bà Mỹ Phúc, bà Lưu Bích Hằng", cũng đăng trên Nam Úc Tuần Báo, số 663, có đoạn ghi: "Quý thầy, cô là Tăng bào mặc dầu mới đến Úc, nhưng không phạm giới của Đạo và luật pháp của chính phủ ..... quyết tâm tu hành ..". Như vậy là bà nầy cố tình "tăng binh tăng, sải binh sải" nhằm bảo vệ cái tiệm Phật Pháp Hoa, hay là một "Tam Tạng thời đại", hoặc là người "từ Việt Nam sang" mới được Ngài Như Huệ cho phép đại diện, phát ngôn viên của Tiệm Phật Pháp Hoa?. Bà nầy viết tiếp: "Đàng sau vụ bà Diệu Đức, có những bàn tay của các thế lực đen nhúng vào, với những âm mưu phá ngầm Phật Giáo .." luận điệu của bà nầy sao mà giống "đảng và nhà nước" mỗi khi bị vạch mặt là la hoảng: "âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù nghịch". Như vậy, chắc là bà nầy đã từng "học tập chính trị rất bài bản" quả xứng đáng là phát ngôn viên của Ngài Như Huệ, pháp chủ, giáo hội chủ kiêm chủ chùa do tiền Phật tử đóng góp ... ngoài ra, còn cho đây là chuyện nội bộ của chùa, không ai có quyền can thiệp vào; đây cũng là luận điệu của các cán bộ Vẹm, phát ngôn viên từ mụ Phan Thúi Thanh đến Lê Dỏm, la hoảng: đây là chuyện nội bộ, không ai có quyền can thiệp vào .... Phật giáo Úc Châu như "hũ tương thúi" được đậy nắp dấu kỹ lâu năm, nay được mở ra, mùi xú uế bay lên nồng nặc; hết cái thúi của ngài Hề Thượng Thích Phước Xệ về vụ "cúng dường, cúng chiếu" với tín nữ Diệu Đức, là người "điều nghiên thiền Tiếp Hiện" rất kỹ, thuộc Làng-Môn của "giăng-tâm" Thiền sư Thích Nhất Vẹm (có kẻ u mê ám chướng, hay là thứ có quan hệ với đảng cướp Việt Cộng, coi thằng nầy là Phật Sống, như Đa Lai Đa Ma). Nay đến vụ HỀ THƯỢNG Thích Như Xệ, đang là vấn đề gây xôn xao dư luận giới Phật Tử ở Adelaide (Nam Úc), những Phật tử thuần thành, từng đóng góp tiền, công quả để "từ cái cơ ngơi tu hành, chùa to lớn gắp mười lần qua" và hề thượng nầy trở thành "Phật Giáo Hoàng" với chữ CHỦ dính liền, như cái "nền kinh tế thị trường gắng liền với xã hội chủ nghĩa". Ngài Hề Thượng Thích Như Xệ, hay là Thích Như Ghệ, cũng như hề thượng Thích Phước Ghệ (xin đừng hiểu chữ Ghệ là GÁI nhé, làm mất ý nghĩa).
Giáo Hội Phước Xệ Công Đức Tùm Lum thì không nằm trong giáo hội của huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang; còn giáo hội của Ngài hề thượng Thích Như Xệ cũng tiếm danh. Do đó ở Úc có hai hệ thống "Buddha Super Market" chớ hổng phải là hai giáo hội, nên Phật Tử, biết tin ai mà tìm đường giải thoát? Và các tổ chức cộng đồng tin vào "vị lãnh đạo tinh thần" nào? Nếu là Tiệm Phật, thì sự hiện diện cái các Ngài được giọi là "lãnh đạo tinh thần", có khác gì chủ nhà, chủ đề li, chủ farm, chủ shop .... Vào những tiệm Phật, cũng giống như Tam Tạng lọt vào "động ma vương" chẳng những "thanh tâm không trường an lạc" mà còn tạo ra nghiệp báo, khi mà tại các cửa hiệu nầy, có quá nhiều ma quái "công an, cán bộ" từ Việt Nam sang và được sang tên chùa. Từ từ, phật Tử sẽ được "đoàn ngũ hóa" thành các "thành đoàn Phật tử Hồ Chí Minh" là hàng năm phải về hành hương ở chùa Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương của vị "đại sư trụ trì" Dũng Lò Vôi, cùng dắt tay nhau tiến lên" thiên đàng Cộng Sản: "thay vì" Niết Bàn" là coi như mạt pháp đấy..
Tình hình Phật Giáo ngày nay tại hải ngoại cũng như trước 1975 ở miền Nam tự do: Việt Cộng xâm nhập vào chùa, rồi "trèo cao, lặn sâu" thành chức sắc "lãnh đạo tinh thần", có trong tay cái tài sản lớn, nhân sự và Phật Tử, thật là đáng quan ngại. Tại Úc Châu, hiện tượng tăng ni từ Việt Nam sang, phát triển, như sư Minh Hiếu, là người có khả năng mua nhiều chùa, thuộc cánh Phước Huệ (nghe đâu chỉ trong thời gian ngắn, mua một lúc từ đến 3 chùa ở 3 tiểu bang: Tây Úc, Adelaide, Queensland ..). Một số Phật tử phàn nàn và có người cho biết là sư Minh Hiếu có lối đối xử với Phật tử như "quan quyền đối với dân giả" hay là ngày nay ở trong nước như" công an, cán bộ đối xử với dân" vậy. Hình như sư nầy học quen thói ở Việt Nam mà sang đây áp dụng, khiến nhiều Phật tử khó chịu, sư có thói quen là không chào ai, đợi người ta chào mình và đôi khi làm lơ. Theo một số tin nghe được, thì sư Minh Hiếu là người rất mê môn thể dục dành cho người dư giả là" đánh TENNIS", nên thay vì ngồi công phu, sư đánh Tennis cho "thanh tâm trường an lạc", sư nầy có cái job là "thuyết pháp", nhưng trình độ thì chưa biết như thế nào, vậy mà có người nghe và thu băng.
Trước tình hình Phật Giáo ngày nay, vấn đề làm sao ngăn ngừa bọn công an, cán bộ, gián điệp nằm vùng xâm nhập qua cửa chùa. Trước nhất là cái tâm, khi phát giác ra "chùa là cái tiệm" thì chính những Phật tử phải tránh xa, tẩy chay; khi mà cái thương nghiệp không có khách đến "cúng dường" thì dần dần cũng phải dẹp và nếu chùa là "sơ sở rửa tiền" thì sau thời gian lập ra, không có ai tới, chúng cũng phải dẹp, do thiếu quần chúng để làm nơi nương tựa; như du kích mà không có dân thân Cộng nuôi cơm, tiếp tế là trước sau gì cũng đói. Một điều quan trọng khác là "báo cáo với sở thuế" để cho chính quyền sở tại nắm vững nguồn tài chánh từ đâu là các" tiệm Phật" nhiều như thế? Đây là cách để tạo an bình cho xã hội, vì ở các nước dân chủ, tất cả mọi cơ sở, kinh doanh, kể cả các cơ quan từ thiện (Non-Profit) đều phải khai thuế lợi tức hàng năm. Chùa là cái tiệm cũng phải đóng thuế như ai, hảy làm càng sớm càng tốt để ngăn ngừa Việt Cộng xâm nhập, đánh phá và nhuộm đỏ cộng đồng tỵ nạn hải ngoại. Một điều cần lưu ý là: việc báo cáo sở thuế là giúp cho chính phủ có thêm tiền lo công ích, giúp nhân viên thanh tra có việc làm và giúp cho chính gia đình mình được sống yên ổn. Người báo cáo được bảo mật danh tánh hoàn toàn, chỉ cần 50 xu cũng cứu nguy cho Phật Giáo đang bị Việt Cộng vô thần đánh phá, lủng đoạn.
Trương Minh Hòa
Như vậy, thì từ hàng chục năm qua, các giáo hội Phật Giáo ở hải ngoại nêu trên đã lợi dụng Phật và tiếm danh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam để "thay mượn thiền môn làm thương mại", lừa đảo Phật tử để thu tiền, xây chùa, tích tụ ngân quỹ, tệ hơn là nhiều chùa bảo lãnh sư, ni từ Việt Nam sang. Đối với những tăng ni nào đi di dân dễ dàng, Phật tử có trí óc trung bình cũng biết họ là ai, ngoại trừ người của họ và những kẻ mù quáng, miễn bàn; nói chuyện với những người nầy, tốt hơn là nói với đầu gối. Một điều dễ nhận vào thời điểm tỵ nạn, là lúc mới sang, ni sư nào cũng nói "đạo pháp và dân tộc" thật tình lý, thu phục được quần chúng qua lập trường, nhưng khi xây xong chùa, sư có tiền là "lòng người thay trắng đổi đen". Điển hình là ở San Jose, lúc chùa Đức Viên mới khởi công, thì sư bà Đàm Lựu thường treo cờ vàng ba sọc đỏ lớn ở trước cổng; nhưng khi chùa xây xong là không thèm treo cờ, đã vậy còn rước tên sư Việt Cộng Thích Thanh Từ sang phá rối, nên dù sư bà Đàm Lựu (đạn) qua đời, nhưng việc làm nầy vẫn còn để lại cái "quả" lâu dài trong lòng Phật Tử. Chùa là cái thiện, nhưng một số thì "chùa là cái tiệm" khi lợi nhuận làm chóa mắt những ai muốn "giải thoát túi tiền trước khi tìm về bến giác". Tiệm Phật là thương nghiệp không vốn mà lời rất nhiều, lời dài dài, nên tiệm Phật trưng bày tượng Phật, bề ngoài càng "hiện đại" càng thu được nhiều khách thập phương chiếu cố; như các siêu thị, trưng bày hàng, quảng cáo, người tiếp thị ... càng lịch sự thì khách tới đông. Thương nghiệp lập ra là vì lợi nhuận, nên khách hàng nào có tiền là được chủ nhân tiếp đón niềm nở; đó là hiện tượng các "tăng ni chủ chùa" sau khi đã "làm chủ ngang hông" thì không tiếp đón niềm nữ các "chúng sanh nghèo" bỏ tiền ít vào thùng Phước Sương. Trái lại các khách cúng dường xộp, viên chức chính phủ cao cấp, thường được các tăng ni xăn xái tiếp, bợ. Ngoài ra, tăng ni một số nơi từ chối tụng kinh cho gia đình người quá cố nào không có nhiều tiền chi trả. Do đó, tụng kinh trở thành "dịch vụ của tiệm Phật ngày nay". Các tiệm Phật còn qui định giá cả để đọc kinh, cầu siêu, đúng như sinh hoạt của các thương buôn vậy.
Cửa hiệu Khánh Anh của sư "về nguồn" thích Minh Tâm ở Âu Châu, nghe đâu cửa hiệu Phật nầy tốn đến 40 triệu Euro, là cái tiệm Phật vĩ đại ở Âu Châu; do đó muốn có nhiều người "tham quan" thì thường mời các nhân vật tâm tiếng như Đức Đa La Đa Ma, có treo cờ vàng ... giống như một tiệm phở ở Saigon, ít ai biết, nhưng tình cờ, năm 2000, tổng thống Bill Clinton tới ăn, chủ làm ăn khắm khá nhờ nhiều người biết có tổng thống" thằng Mỹ" đến thưởng thức.
Tại Úc Châu, có hai giáo hội Phật Giáo:
- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, do huề thượng Thích Phước Huệ làm Pháp Chủ, không ăn nhập gì đến giáo hội phật giáo trong nước do huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang lãnh đạo. Giáo hội chỉ hoạt động từ thiện, dạy dùng computer, mổ mắt cườm, cơm chay, xây tượng, vô quốc tịch ... và trước đây có lần, trong chùa toan tổ chức buổi tưởng niệm nhạc Trịnh Công Sơn, có đăng quảng bá trên các website của Việt Cộng, bị cộng đồng phản đối nên dẹp.
- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất "Hải Ngoại" Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, do huề thượng Thích Như Huệ làm Giáo Hội Chủ, qui tụ thượng tọa Bảo Lạc, Quảng Ba, Phước Nhơn .... từ lâu, bá tánh, Phật Tử, các đoàn thể quốc gia, cộng đồng cứ lầm tưởng đây là giáo hội Phật Giáo trực thuộc giáo hội trong nước do huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang lãnh đạo, đang trong "pháp nạn" nên ủng hộ và kính trọng. Giờ đây, sau cái thông bạch của nhị vị huề thượng thẩm quyền nhất: trong nước là hòa thượng Quảng Độ, hải ngoại là huề thượng Thích Hộ Giác, thì mới bật ngữa là "tiếm danh"; như vậy từ lâu, các giáo hội nầy đã mạo danh giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để thu tiền, làm ăn, chẳng khác nào người ta mượn cái hiệu như: Mc Donald, K.F.C .... để bán đồ ăn. Nay nhờ giáo chỉ số 9 mà nhiều Phật tử biết "cúng dường nhằm Tiệm Phật, chớ hổng phải Chùa Phật".
Vị Giáo Hội Chủ Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan là huề thượng THÍCH NHƯ HUỆ, Ngài là bậc "cao tu", từng tung hoành ở miền Trung, lúc làm hiệu trưởng trường Bô Đề ở Hội An; theo cuốn sách "DÙA-THẦY CHẶT" của Đặng Văn Nhâm thì vị nầy từng tham gia chiến dịch đem bàn thờ Phật "xuống đường" năm 1966, có những hoạt động "tích cực" trong trận tổng công kích tết Mậu Thân và nhất là Ngài đã từng chiêu dụ ít nhất là 4 tín nữ cùng "tu tiếp hiện", có hàng chục "cái quả". Ngài đúng là bậc "GIĂNG-TÂM" (tức là cái tâm giăng ra xa, xin đừng nói lái mà mất hết ý nghĩa). Sau năm 1975, Ngài Thích Như Huệ được các Phật Tử bảo lãnh từ Nhật sang, nhờ tiền cúng dường, đóng góp, công quả, nên ngài có được "cơ ngơi" khang trang là ngôi chùa Pháp Hoa, tọa lạc ở đường Addison, tiểu bang Nam Úc (Adelaide). Sau nầy, do tranh chấp giữa hai cánh Phật Giáo cùng mang tên "Thống Nhất" mà Ngài huề thượng Thích Như Huệ đứng ra làm "Giáo Hội Chủ" để đương đầu với cánh "Phước Huệ công đức tùm lum" và nay thì mới biết cánh nầy cũng "tiếm danh".
Chùa Pháp Hoa do ngài Thích Như Huệ trụ trì, lối hành đạo của Ngài oai phong như một "Phật Giáo Hoàng" cũng đội mão, hành lễ tại Chùa và Ngài làm giáo hội chủ, pháp chủ lâu nay, sau thời gian thu được nhiều "quả" là Đô La, nên nhớ là kinh Đại tạng khó hiểu, cần dịch thuật mà chưa chắc đạt ý nghĩa, nhưng không thể sánh bằng "kinh Đô La", loại kinh xuất phát từ Hoa Kỳ lan rộng, thu hút người cả "phàm", tu hành, cũng như "ma quái vô thần Cộng Sản". Lâu nay Chùa Pháp Hoa biến thành Tiệm Phật mà nhiều người hổng hay, hổng biết, hổng thấy .... nhưng hiện tượng chùa lãnh người ở Việt Nam sang tu càng đông, khiến số Phật tử chân chính bỏ đi chùa khác và số khác trở thành: "cư sĩ trừ bị tại gia" vì biết làm tiệm Phật, chứ hổng phải là "chùa Phật" giống như tâm trạng của những người lỡ mua nhằm hàng dỏm, giả, đề câu "Made in China" vậy. Rồi hòa thượng Thích Như Huệ trở thành "Thái Thượng Hoàng", nhưng đáng lưu ý là Ngài phong chức, nhường ngôi chùa (nay có thể hiểu là Tiệm Phật) cho một người ở Việt Nam qua. Trong phần diễn đàn, đăng trên tờ Nam Úc Tuần Báo, số 662, một Phật tử ở Adelade là Mỹ Phúc, pháp danh Chân Mỹ Phúc viết: Bây giờ "lòng người đổi trắng thay đen" (theo lời của Hạnh Trung), nên hòa thượng Như Huệ cũng đã đổi thay. Việc phong chức trụ trì cho một người từ Việt Nam mới sang mấy năm sau nầy, cũng không cần tham khảo ý kiến PT gì cả. Họ không phải là người tị nạn Cộng Sản như HT Như Huệ, nên chúng tôi không đồng ý. Dư luận nói rằng: người trụ trì đang tại chức là cháu ruột của HT Như Huệ. Nếu sự thật đúng vậy, thì càng phi lý và bất chính, vì ngôi chùa là tiền bạc của đàn na tín thí đóng góp tạo thành, không phải của riêng một ai, hoặc một nhóm nào, lại càng không phải của cá nhân HT Như Huệ, cho nên HT Như Huệ không thể áp dụng phương cách cha truyền con nối được (ngưng trích).
Theo nguồn tin chưa phối kiểm, nhưng là tin đồn, thì hình như vị trụ trì từ Việt Nam sang, được Ngài phong chức, kế thừa "chủ nhân" ngôi chùa Pháp Hoa chính là "cái quả" mà Ngài đã gieo từ lâu, nay trở thành sư, được bảo lãnh từ Việt Nam? Tác giả Mỹ Phúc cảnh báo: "Hiện nay Việt Cộng đang thực hiện nghị quyết 36, mở chiến dịch tung sư, ni quốc doanh ra hải ngoại, trú ngụ rải rác trong các chùa để thi hành kế sách tôn giáo vận".
Trước những dư luận xôn xao về cái chùa Pháp Hoa lòi ra là "Tiệm Phật Pháp Hoa", một người trong giáo hội "tiếm danh" là Nguyên Hảo-Trần Thị Cúc, tự nhận là: "TM. Ban Hộ Trì Chùa Pháp Hoa" nên bà lối trình bày của bà nầy "ĐÓ CHỈ" là thứ: " Đ.....C.." thôi, chớ có lạ gì hạng người nầy; trong lá thư với tiêu đề: "Đến bà Mỹ Phúc, bà Lưu Bích Hằng", cũng đăng trên Nam Úc Tuần Báo, số 663, có đoạn ghi: "Quý thầy, cô là Tăng bào mặc dầu mới đến Úc, nhưng không phạm giới của Đạo và luật pháp của chính phủ ..... quyết tâm tu hành ..". Như vậy là bà nầy cố tình "tăng binh tăng, sải binh sải" nhằm bảo vệ cái tiệm Phật Pháp Hoa, hay là một "Tam Tạng thời đại", hoặc là người "từ Việt Nam sang" mới được Ngài Như Huệ cho phép đại diện, phát ngôn viên của Tiệm Phật Pháp Hoa?. Bà nầy viết tiếp: "Đàng sau vụ bà Diệu Đức, có những bàn tay của các thế lực đen nhúng vào, với những âm mưu phá ngầm Phật Giáo .." luận điệu của bà nầy sao mà giống "đảng và nhà nước" mỗi khi bị vạch mặt là la hoảng: "âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù nghịch". Như vậy, chắc là bà nầy đã từng "học tập chính trị rất bài bản" quả xứng đáng là phát ngôn viên của Ngài Như Huệ, pháp chủ, giáo hội chủ kiêm chủ chùa do tiền Phật tử đóng góp ... ngoài ra, còn cho đây là chuyện nội bộ của chùa, không ai có quyền can thiệp vào; đây cũng là luận điệu của các cán bộ Vẹm, phát ngôn viên từ mụ Phan Thúi Thanh đến Lê Dỏm, la hoảng: đây là chuyện nội bộ, không ai có quyền can thiệp vào .... Phật giáo Úc Châu như "hũ tương thúi" được đậy nắp dấu kỹ lâu năm, nay được mở ra, mùi xú uế bay lên nồng nặc; hết cái thúi của ngài Hề Thượng Thích Phước Xệ về vụ "cúng dường, cúng chiếu" với tín nữ Diệu Đức, là người "điều nghiên thiền Tiếp Hiện" rất kỹ, thuộc Làng-Môn của "giăng-tâm" Thiền sư Thích Nhất Vẹm (có kẻ u mê ám chướng, hay là thứ có quan hệ với đảng cướp Việt Cộng, coi thằng nầy là Phật Sống, như Đa Lai Đa Ma). Nay đến vụ HỀ THƯỢNG Thích Như Xệ, đang là vấn đề gây xôn xao dư luận giới Phật Tử ở Adelaide (Nam Úc), những Phật tử thuần thành, từng đóng góp tiền, công quả để "từ cái cơ ngơi tu hành, chùa to lớn gắp mười lần qua" và hề thượng nầy trở thành "Phật Giáo Hoàng" với chữ CHỦ dính liền, như cái "nền kinh tế thị trường gắng liền với xã hội chủ nghĩa". Ngài Hề Thượng Thích Như Xệ, hay là Thích Như Ghệ, cũng như hề thượng Thích Phước Ghệ (xin đừng hiểu chữ Ghệ là GÁI nhé, làm mất ý nghĩa).
Giáo Hội Phước Xệ Công Đức Tùm Lum thì không nằm trong giáo hội của huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang; còn giáo hội của Ngài hề thượng Thích Như Xệ cũng tiếm danh. Do đó ở Úc có hai hệ thống "Buddha Super Market" chớ hổng phải là hai giáo hội, nên Phật Tử, biết tin ai mà tìm đường giải thoát? Và các tổ chức cộng đồng tin vào "vị lãnh đạo tinh thần" nào? Nếu là Tiệm Phật, thì sự hiện diện cái các Ngài được giọi là "lãnh đạo tinh thần", có khác gì chủ nhà, chủ đề li, chủ farm, chủ shop .... Vào những tiệm Phật, cũng giống như Tam Tạng lọt vào "động ma vương" chẳng những "thanh tâm không trường an lạc" mà còn tạo ra nghiệp báo, khi mà tại các cửa hiệu nầy, có quá nhiều ma quái "công an, cán bộ" từ Việt Nam sang và được sang tên chùa. Từ từ, phật Tử sẽ được "đoàn ngũ hóa" thành các "thành đoàn Phật tử Hồ Chí Minh" là hàng năm phải về hành hương ở chùa Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương của vị "đại sư trụ trì" Dũng Lò Vôi, cùng dắt tay nhau tiến lên" thiên đàng Cộng Sản: "thay vì" Niết Bàn" là coi như mạt pháp đấy..
Tình hình Phật Giáo ngày nay tại hải ngoại cũng như trước 1975 ở miền Nam tự do: Việt Cộng xâm nhập vào chùa, rồi "trèo cao, lặn sâu" thành chức sắc "lãnh đạo tinh thần", có trong tay cái tài sản lớn, nhân sự và Phật Tử, thật là đáng quan ngại. Tại Úc Châu, hiện tượng tăng ni từ Việt Nam sang, phát triển, như sư Minh Hiếu, là người có khả năng mua nhiều chùa, thuộc cánh Phước Huệ (nghe đâu chỉ trong thời gian ngắn, mua một lúc từ đến 3 chùa ở 3 tiểu bang: Tây Úc, Adelaide, Queensland ..). Một số Phật tử phàn nàn và có người cho biết là sư Minh Hiếu có lối đối xử với Phật tử như "quan quyền đối với dân giả" hay là ngày nay ở trong nước như" công an, cán bộ đối xử với dân" vậy. Hình như sư nầy học quen thói ở Việt Nam mà sang đây áp dụng, khiến nhiều Phật tử khó chịu, sư có thói quen là không chào ai, đợi người ta chào mình và đôi khi làm lơ. Theo một số tin nghe được, thì sư Minh Hiếu là người rất mê môn thể dục dành cho người dư giả là" đánh TENNIS", nên thay vì ngồi công phu, sư đánh Tennis cho "thanh tâm trường an lạc", sư nầy có cái job là "thuyết pháp", nhưng trình độ thì chưa biết như thế nào, vậy mà có người nghe và thu băng.
Trước tình hình Phật Giáo ngày nay, vấn đề làm sao ngăn ngừa bọn công an, cán bộ, gián điệp nằm vùng xâm nhập qua cửa chùa. Trước nhất là cái tâm, khi phát giác ra "chùa là cái tiệm" thì chính những Phật tử phải tránh xa, tẩy chay; khi mà cái thương nghiệp không có khách đến "cúng dường" thì dần dần cũng phải dẹp và nếu chùa là "sơ sở rửa tiền" thì sau thời gian lập ra, không có ai tới, chúng cũng phải dẹp, do thiếu quần chúng để làm nơi nương tựa; như du kích mà không có dân thân Cộng nuôi cơm, tiếp tế là trước sau gì cũng đói. Một điều quan trọng khác là "báo cáo với sở thuế" để cho chính quyền sở tại nắm vững nguồn tài chánh từ đâu là các" tiệm Phật" nhiều như thế? Đây là cách để tạo an bình cho xã hội, vì ở các nước dân chủ, tất cả mọi cơ sở, kinh doanh, kể cả các cơ quan từ thiện (Non-Profit) đều phải khai thuế lợi tức hàng năm. Chùa là cái tiệm cũng phải đóng thuế như ai, hảy làm càng sớm càng tốt để ngăn ngừa Việt Cộng xâm nhập, đánh phá và nhuộm đỏ cộng đồng tỵ nạn hải ngoại. Một điều cần lưu ý là: việc báo cáo sở thuế là giúp cho chính phủ có thêm tiền lo công ích, giúp nhân viên thanh tra có việc làm và giúp cho chính gia đình mình được sống yên ổn. Người báo cáo được bảo mật danh tánh hoàn toàn, chỉ cần 50 xu cũng cứu nguy cho Phật Giáo đang bị Việt Cộng vô thần đánh phá, lủng đoạn.
Trương Minh Hòa
No comments:
Post a Comment