Sunday, August 24, 2014

Happy Birthday Hai Bà - Bùi Bảo Trúc

Happy Birthday Hai Bà

Bùi Bảo Trúc

Sang năm, năm 2015, con cháu Hai Bà ở Việt Nam sẽ phải đi kiếm cho được những tấm thiệp mừng sinh nhật gửi cho Hai Bà, xin lỗi về việc năm nay bọn đười ươi ở Hà Nội quyết định không tổ chức sinh nhật cho Hai Bà. Phải kiếm mua bằng được để gửi về tận đền Hai Bà ở huyện Mê Linh, Hà Nội những tấm thiệp chúc Hai Bà một cái sinh nhật muộn (Belated Birthday). Lý do là bọn đười ươi ở Hà Nội nói là có chuyện “đột xuất” nên năm nay chúng không tổ chức sinh nhật cho Hai Bà.

“Ðột xuất” là bất ngờ, nghĩa là không dự định trước.

Một đười ươi tên là Trương Minh Tiến, phó giám đốc sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội nêu lý do hiện nay người ta không thể xác quyết được ngày sinh của Hai Bà nên không thể làm sinh nhật được. Ðười ươi Tiến quyết định hoãn cử hành sinh nhật của Hai Bà đến năm tới, năm 2015, để gộp ngày sinh của Hai Bà vào với kỷ niệm ngày Hai Bà dấy binh khởi nghĩa cho đỡ tốn được một số tiền.

Và đó là “đột xuất.” Ðười ươi Trương Minh Tiến, như vậy, muốn có cái giấy khai sinh của Hai Bà để biết chắc ngày sinh của Hai Bà rồi mới tổ chức sinh nhật cho Hai Bà được.

Ðúng là bố lếu bố láo. Hai ngàn năm trước, nếu quan Lạc Tướng thân sinh ra Hai Bà có đi khai sinh cho Hai Bà thì hỏi từ đó đến nay, bao nhiêu vật đổi sao dời liệu cái giấy khai sinh ấy có còn không? Ấy là nếu thời ấy người ta biết làm giấy khai sinh. Nhưng thời của Hai Bà thì làm quái gì có hôn thư, giá thú, khai sinh, hộ tịch. Bao nhiêu năm qua, kỷ niệm ngày sinh của Hai Bà vẫn được cử hành vào ngày 1 tháng 8 mỗi năm. Tự nhiên tự địa năm nay đòi xem khai sinh của Hai Bà mới cử hành sinh nhật cho Hai Bà thì chỉ có cái thứ vừa ngu, vừa hỗn như đười ươi Trương Minh Tiến mới dám làm.

Lại còn lôi lý do tiết kiệm tiền bạc để “lấy giỗ làm chạp” như thể lo cho người dân khỏi phải chi tiêu thêm cho một ngày lễ khác.

Nhưng người ta không tin đó là lý do đích thực của việc hoãn cử hành sinh nhật của Hai Bà.

Có vài ba chuyện nên nói ra ở đây:

Tháng 8 năm 2013, đền thờ Hai Bà ở Lâm Ðồng bị đốt phá gây hư hại nặng nề đến nay vẫn chưa biết được thủ phạm là những thằng chó điên nào.

Từ vài năm nay, nói rõ hơn là từ năm 2008 đến nay, năm nào Hà Nội cũng đưa một phái đoàn văn công đóng giả làm Hai Bà sang thị trấn Ðông Hưng, một thành phố nằm giáp Móng Cái, để dự lệ giỗ Mã Viện. Nhật báo Ðông Hưng trong số ra ngày 7 tháng 2 năm 2008 đã tường thuật chi tiết buổi lễ với rất nhiều hình ảnh của bọn trâu ngựa đến dự Miếu Hội Phục Ba Tướng Quân. Cả bọn cúi đầu tiến vào cái miếu dưới hàng chữ “Vệ Quốc Anh Hùng, Vạn Dân Kính Ngưỡng” rồi ca hát, nhảy múa, khấn vái đánh dấu “Kỷ Niệm Dân Tộc Anh Hùng, Quảng Dương Phục Ba Văn Hóa”. Mấy con khỉ đột cái làm bẩn những tà áo dài, những chiếc khăn dành dây truyền thống của Việt Nam khi chúng ưỡn ẹo múa may quay cuồng để dâng hương cho tên giặc họ Mã.

Mới đây, một học sinh lớp 3 có viết thư cho tờ Thanh Niên hỏi tòa báo rằng em đọc hết mấy cuốn sách mà vẫn không biết Hai Bà đánh quân giặc nào.

Thảm biết là chừng nào. Trong khi tờ Metroplolitan trong một bài báo cách đây mấy năm có ghi rõ The Trung Sisters là những người được mến mộ nhất lịch sử nhân loại thì bọn súc vật nô dịch đang làm tất cả những gì chúng có thể làm được để đẩy Hai Bà vào quên lãng. Sách vở thì ghi về Hai Bà rất lờ mờ vì không dám nói Hai Bà đánh giặc Hán. Sinh nhật Hai Bà thì dẹp cho đỡ tốn tiền. Giỗ thằng ngựa quỷ Mã Viện thì kéo nhau sang Tầu tế lễ cho tròn chữ hiếu.

Tội nghiệp các em bé Việt Nam. Các em không được dậy bài học thuộc lòng này (trích trong Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca) mà đến tận ngày hôm nay chúng tôi vẫn còn nhớ:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân

Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã tới gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Ðuổi ngay Tô Ðịnh dẹp yên biên thành

... Uy danh động đến Bắc phương
Hán sai Mã Viện lên đường tấn công ...
Biết đâu “đột xuất” lại là vì một tên thái thú từ Bắc Kinh phái sang, ra lệnh cho không được làm sinh nhật cho Hai Bà để khỏi làm phiền lòng bọn chó dại đang ủng oẳng cắn càn ở biển Ðông?

Mả cha bọn cộng sản chó má ở Hà Nội!
Nghĩ tới chúng nó là chỉ muốn văng tục ra là vậy.

 Bùi Bảo Trúc


Từ Thỏa hiệp Thành Đô 1990 tới giàn khoan HD-981 - Mường Giang

Từ Thỏa hiệp Thành Đô 1990 tới giàn khoan HD-981:
Đảng CSVN đã công khai bán nước cho Trung cộng

Mường Giang

Từ đầu năm 2014 tới nay, Trung Cộng công khai sử dụng vũ lực tại Biển Đông với ý đồ cưỡng đoạt gần như toàn bộ biển đảo trong vúng, được đánh giá là có nhiều dầu hỏa và khí đốt. Ngang ngược nhất là việc hải tặc Tàu đem giàn khoan khổng lồ HD-981 vào tận lãnh hải của Việt Nam, từ ngày 2 tháng 5 để tìm dầu, trước thái độ hèn nhục gần như đầu hàng giặc của CS Hà Nội, khiến cho người Việt trong và ngoài nước ai cũng căm hận và tủi nhục.

Rồi như muốn thị uy với thế giới rằng là ta muốn làm gì thì làm nên từ đầu năm 2014, Trung Cộng đã ra lệnh cấm đánh bắt cá hết sức phi lý ở biển Đông. Tiếp theo lại ồ ạt đưa hơn 44.000 tàu đánh cá đủ loại, chẳng khác nào một đoàn hải tặc, tung hoành vơ vét cưỡng đoạt gần hết tài nguyên, hải sản của ngư dân các nước trong vùng, mà thiệt hại nặng nề nhất về sinh mạng, vật chất vẫn là các ngư dân VN.

Việc Trung Cộng đưa giàn khoan vào hoạt động ngay trong hải phận VN, sau đó bất ngờ rút giàn khoan về đảo Hải Nam trước thời gian ấn định, thật sự chẳng làm ai ngạc nhiên, nhất là những người hằng theo dõi tin tức thời sự có liên quan tới cái gọi là “chuyện cười giàn khoan HD-981 của TC & VC “. Điều mà người VN trong và ngoài nước lo lắng là việc TC đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông là bước đầu trong việc xác nhận chủ quyền của giặc trên vùng lãnh hải VN theo những giao kết bí mật giữa hai đảng đã bí mật ký kết tại hội nghị Thành Đô năm 1990. Do đó TC đã nắm được tử huyệt của bọn lãnh đạo đảng tại Hà Nội, nên mới dám ngang ngược tung hoành, những chuyện lạ này chỉ có ở VN mà chẳng bao giờ có thể xãy ra tại vùng biển Nhật, Nam Hàn, Phi Luật Tận, Mã Lai hay bất cứ một quốc gia nào có chủ quyền trên thế giới.

Làm mưa làm gió, làm nhục CSVN tại biển Đông TC còn chưa thấy đủ, nên lại sai tên Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì tới VN chỉ dạy đàn em trong chính trị bộ suốt hai ngày 17-18.6.2014. Lần này, tên thái thú Tàu họ Dương đã không tiếc lời sĩ vã đám thuộc hạ, qua vụ dám để người dân VN chống lại thiên triều tại các khu công nghệ Bình Dương, Biên Hòa, Vũng Tàu, Hà Tĩnh, đồng thời ra lệnh VC phải chấm dứt những hành động quấy rôi và phản đối giàn khoan của Trung Cộng hoạt động tại biển Đông sắp tới, cũng như cấm VC liên minh quân sự với Mỹ-Nhật-Úc để chống lại Tàu. Cuối cùng phải bỏ ý định theo các nước khác kiện TC ra Tòa An QT về những hành động bá quyền, côn đồ, hải tặc trên biển Đông.

Đó là lý do, Phạm Bình Minh, bộ trưởng ngoại giao VC bị đảng cấm đi Mỹ, dù có lời mời của Ngoại trưởng Hoa kỳ John Kerry. Đồng thời Bí thư thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị thuộc phe giáo điều và bợ Tàu, được thay thế sang Mỹ để kết tình giao hảo giữa hai đảng CSVN và hai đảng chính trị Mỹ Quốc. Những ngày tại Hoa Kỳ, Nghị chẳng hề hé răng nhắc chuyện VN đang bị Tàu đỏ xâm lăng.  Màn đấu đá nội bộ lại tiếp diễn, mặc kệ cho đất nước sắp mất vào tay giặc Tàu.

Ngày thứ bảy, 31 tháng 5, 2014 đài BBC đã phổ biến lời phát biểu của Phùng Quốc Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Cộng . Thanh nói “quan hệ Việt-Trung vẫn phát triển tốt đẹp và so sánh xung đột hiện nay trên Biển Đông với ‘mâu thuẫn gia đình“

Suy cho cùng, chúng ta mới hiểu nổi những lời ví von thâm thúy của tên bộ trưởng quốc phòng đã sớm đầu hàng giặc Tàu từ lâu. Thanh nói đúng ví cuộc tranh chấp mà thực chất là cuộc xâm lăng của giặc Tàu vào lãnh thổ VN hiện nay, được bọn lãnh đạo CS Hà Nội xem như mâu thuẫn trong một gia đình. Về mâu thuẫn gia đình, bởi vì Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và phái đoàn của đảng CSVN Phạm Văn Đồng, Đổ Mười) đã xin cho Việt Nam được làm một khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Bắc Kinh, và đã được “Giang Trạch Dân, Lý Bằng đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên từ năm 1990 tại hội nghị Thành ĐôThời kỳ Bắc thuộc. Thời gian cuối cùng bàn giao lãnh thổ, chính quyền cho TC là năm 2020.

Chúng ta sắp trở thành kẻ vong quốc như người Mãn Châu, Tây Tạng, Tân Cương và Miêu Tộc nếu ngày nào đảng CSVN còn nắm được súng đạn và quyền lãnh đạo đất nước. Thời kỳ Bác thuộc gần kề.

Năm 111 trước Tây Lịch, người Hán xâm lăng và cưởng chiếm non sông Hồng-Lạc, lúc đó có quốc hiệu là Nam Việt, bao gồm lãnh thổ của Âu Lạc và Giao Chỉ. Dân tộc Việt bắt đầu sống trong một thời kỳ bị Tàu đô hộ cả ngàn năm, còn đất đai của tiên tổ thì bị giặc cướp phanh thây thành chín mảnh. Ðó là Nam Hải va Hợp Phố (Quảng Ðông), Thượng Ngô và Uất Lâm (Quảng Tây), Châu Nhai và Nam Nhĩ (Hải Nam), Giao Chỉ (Bắc Việt), Cửu Chân (Thanh Hóa), Nhật Nam (Nghệ An và Hà Tĩnh).

‘Quê hương nay đã mỏi mòn,
Ngàn năm nô lệ, vẫn còn còn đây .. ’
(Ca dao)

Từ đó Dân tộc Việt sống trong một thời kỳ lầm than, nhục hận và đen tối dưới cùm gông nô lệ, dưới đồng hóa xích xiềng cùng với sự áp bức dã man tàn độc của giặc Tàu phương Bắc. Nhưng người Việt vốn là một dân tộc anh hùng tuyệt luân, phi thường dũng liệt, can đãm bất khuất. Vì vậy suốt trong thời gian bị nô lệ, đã không ngừng quật khởi chiến đấu, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi cẩm tú ngàn đời của dòng giống Tiên Rồng, được tạo dựng từ thời các Tổ Hùng dựng nước Văn Lang, cách đây gần 5000 năm lịch sử.

Trong tình cảnh nước mất nhà tan, thương đau và tủi nhục, cuộc đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc thoái khỏi ách nô lệ của giặc Tàu, vẫn liên tục sôi sục trong tâm khảm mọi người. Năm 40 sau Tây lịch, hai phụ nữ đầu tiên của nước Việt là Trưng Trắc và Trưng Nhị, đã thắp sáng lịch sữ bằng ngọn lửa yêu nước, đánh đuổi tên thái thú tàn ác Tô Ðịnh chạy về Hán, dành lại được một phần non sông cẩm tú của dân tộc, dù chỉ giữ được một thời gian ngắn. Cuộc khởi nghĩa trên đã làm cho đồng bào vô cùng phấn khởi và càng thêm ngưỡng kính Hai Bà tuy là phận nữ nhi nhưng đã dám đứng lên chống lại giặc thù của dân tộc, trả thù nhà nợ nước. Thật là một tấm gương để cho con cháu ngàn đời soi chung noi dấu. Ngày nay :

‘Cột đồng Mã Viện tìm đấu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ, bóng nước gương‘

(Thái Xuyên)

Nên đọc lịch sử VN qua hằng ngàn năm trước tới thời cận sử không xa, con cháu ngày nay chỉ thấy đẳm đầy trên những trang sách cũ-mới, toàn là máu lệ và nước mắt anh hùng của tiền nhân, qua công cuộc bảo vệ và dành lại lãnh thổ cũng như nền tự chủ độc lập của Ðại Việt. Còn gì đau đớn và tủi nhục cho bằng thân phận của người dân mất nước, kể từ năm 43 sau TL , Mã Viện lập lại chế độ cai trị vô cùng hà khắc, mục đích duy nhất cũng chỉ là muốn biến Giao Châu thành một quận huyện của Tàu, đồng thời Hán hóa người Việt và bành trướng lãnh thổ xuống phương Nam.

Tuy cách nay gần hai ngàn năm nhưng chính sách xâm lăng đồng hóa các dân tộc yếu kém láng giềng của Hán Tộc vẫn không hề thay đổi, dù cho trong cuộc phong trần vinh nhục, Tàu cũng đã nhiều lần bị các nước khác đô hộ, hạ nhục, thảm thê không có bút mực nào diễn tả cho hết. Mã Viện dựng cột đồng với lời hăm dọa ‘đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt‘ nhưng cột đồng thì mất tích, còn nổi căm hận nhớ đến âm mưu diệt chũng của người Tàu đối với dân Việt thì muôn đời mãn kiếp không bao giờ quên được. Ðó là lý do mà suốt ngàn năm bị áp bức bóc lột đến cùng tận, dân Việt luôn luôn vùng dậy chống quân Tàu. Năm 248 Bà Triệu khởi binh chống quân Ngô ở Cửu Chân (Thanh Hóa). Tiếp theo có Lý Nam Ðế, Triệu Quang Phục, Mai Hắc Ðế, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ và cuối cùng là Ngô Vương Quyền vào năm 939 sau TL, chém đầu thái tử Hoàng Tháo trên sông Bạch Ðằng, đuổi đánh quân Nam Hán chạy về Tàu, kết thúc 1000 Bắc thuộc, dành lại độc lập tự chủ cho dân tộc Việt.

Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (cột đồng đến nay, rêu còn xanh ?)
Ðằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Ðằng tự xưa, máu vẫn đỏ).

Và từ đó cuộc chiến đấu trường kỳ của dân tộc Việt đối với dã tâm xâm lăng thống trị của giặc Tàu phương Bắc, trở thành một bản chất quật cường trong tâm khảm của mọi người. Ðó cũng là chủ nghĩa yêu nước, một tôn giáo đặc dị VN chỉ biết tôn sùng những vị anh hùng liệt nữ tận trung báo quốc, mà họ coi ngang với Trời Phật, thần Ðất như Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo, đã hai lần đại thắng đế quốc Nguyên-Mông trong thế kỷ XIII khi xăm lăng Ðại Việt.

Nói chung, trong khi chiến đấu để bảo vệ tổ quốc và nền độc lập tự do cho xứ sở, các nhà lãnh đạo Ðại Việt lúc nào cũng cứng rắn với giặc Tàu khi chiến đấu và mềm mỏng trong ngoại giao. Tổ tiên ta từ buổi bình minh lịch sử, cũng chỉ nhờ vào chủ nghĩa anh hùng và chiến lược khôn ngoan, mà đánh bại được tất cả các cuộc xâm lăng của Tống, Mông Cổ, Minh và Mản Thanh. Còn việc triều cống giặc Tàu, sau những lần chiến thắng quân xâm lăng, thực chất không phải vì nước ta sợ chúng, mà là tránh không để cho chiến tranh tiếp diễn, gây thêm cảnh sanh linh đồ thán, để khổ cho muôn người.

Năm 1077 ba chục vạn quân Tống xâm lăng Ðại Việt. Ðại tướng Lý Thường Kiệt trong khi ngăn giặc Tàu tại phòng tuyến Sông Cầu (Bắc Việt), đã sáng tác bốn câu thơ thần, để cổ võ cho tình thần chiến sĩ nơi biên tái:

Nam quốc sơn hà , Nam đế cư (Sông núi nước Nam vua Nam ở )
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Rành rành định phận ở sách trời)
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm (Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm)
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời).

Bài thơ như một bản tuyên ngôn độc lập của nước Nam, đồng thời đanh thép cảnh cáo giặc Tàu đừng bao giờ ỷ mạnh hiếp yếu, luôn nuôi dã tâm cưởng chiếm nước người, không sớm thì muộn cũng có ngày bại vong. Tất cả là sự gắn bó mãnh liệt vào mãnh đất quê hương, vào di sản dân tộc tuy đẳm đầy máu lệ nhưng đâu có thiếu chất lãng mạng kiêu hùng:

‘Ðoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái Bình nghi nổ lực
Vạn cổ thử giang san‘
(Trần Quang Khải).

Vào cuối năm Ðinh Mùi (1428), Bình Ðịnh Vương Lê Lợi sau 10 năm chiến đấu gian khổ, đã đánh đuổi được giặc Minh ra khỏi non sông đất Việt. Nguyễn Trãi thay ông viết ‘Bình Ngô Ðại Cáo‘ công bố trước quốc dân về công cuộc phục quốc đã thắng lợi, nước nhà lại độc lập tự chủ như thuở nào. Ðồng thời bày tỏ lòng thương xót đối với đồng bào vô tội đã bị giặc Minh tàn sát dã man, trong thời gian chúng tạm chiếm được nước ta :

‘Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ trăm ngàn kế
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi, dãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng. ’

Ba trăm năm sau Mãn Thanh lại bắt đầu dòm ngó non sông Việt, qua cái cớ giúp Lê Chiêu Thống dành lại ngôi vua. Vì vậy nữa đêm mùng năm tháng giêng Tết Kỷ Dậu (1789), Ðại Ðế Quang Trung (Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc và chỉ trong một hồi trống đã đại thắng giặc Thanh, bắt Sầm Nghi Ðống thắt cổ tự tử, khiến Tôn Sĩ Nghị phải ôm đầu máu, trốn vào ống đồng chạy về Tàu

Như Lê Thánh Tôn (1460-1497) vị anh quân tài giỏi của Ðại Việt vào cuối thế kỷ XV đã nói ‘Ta phải gìn giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của đất núi‘. Câu chuyện thần thoại về Phù Ðổng Thiên Vương cởi ngựa sắt đánh đuổi giặc Ân xâm lăng nước ta vào thời Hùng Vương thứ VI, là một triết lý lịch sử dựng và giữ nước của Ðại Việt, tuy là một nước nhỏ nhưng luôn chiến thắng kẻ thù to lớn phương Bắc, được văn chương bình dân ca tụng đầy tự tin và ngạo nghễ :

‘Nực cười châu chấu đá xe
tưởng rằng chấu ngã ai ngờ xe nghiêng
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm‘.

Tóm lại bài học lịch sử Việt ngàn đời vẫn còn đó: Giặc Tàu chỉ có thể xâm lăng cưỡng chiếm đất đai của ta mỗi khi thế nước suy hèn, chia rẽ và nội loạn nên Hổ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung và Chúa Trịnh đã dâng nạp cho kẻ thù phương Bắc nhiều đất đai ở biên giới Hoa Việt.

Cuối đời Trần vua quan hèn yếu, Hồ Quý Ly tiếm vị xưng vương vào năm 1401. Trần Khang tự là Thiểm Bình, xưng là con cháu nhà Trần đến Yên Kinh xin Tàu đánh nước Nam đề giựt lại ngai vàng cho mình. Nhà Minh lợi dụng cơ hội đó sang đánh chiếm nước ta, đặt nên đô từ 1413-1428 mới chấm dứt vì bị Bình Ðinh Vương Lê Lợi đánh đuổi chạy về Tàu. Thế mới biết, Nhà Hồ dù có trăm vạn quân thiện chiến và tinh nhuệ nhưng vẫn thua giặc Minh vì mất lòng dân. Trong lúc Kháng Chiến Quân Lam Sơn chỉ có vài chục vạn nhưng quân dân trên dưới một lòng, vì vậy đã đánh đuổi được giặc Tàu xâm lăng ra khỏi bờ cõi, dành lại độc lập cho nước nhà.

Năm 1786, Duy Kỳ hay Duy Khiêm lên nối ngôi vua Hậu Lê tức là Mẫn Ðế niên hiệu Chiêu Thống. Năm 1788 vì thù hận Tây Sơn và Chúa Trịnh, đồng thời muốn giựt lại chiếc ngai vàng cho nhà Lê, nên Chiêu Thống chạy sang cầu viện Mãn Thanh sang chiếm nước ta nhưng bị Ðại Ðế Quang Trung đuổi đánh phải chạy về Tàu vào năm 1789.

Và lịch sử lại tái diễn tấn tuồng ‘Rước voi Tàu về dầy mã Tổ Hồng Lạc‘ từ tháng giêng năm 1949, Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị trung ương lần thứ 6 để ‘nỗ lực chuẩn bị sẵn sàng đón lấy dịp tốt, tuyệt đối không nên bỏ lỡ cơ hội chiến lược từ Trung Cộng‘. Cho nên không ngạc nhiên khi thấy Tàu Ðỏ là nước đầu tiên công nhận Việt Cộng vào ngày 10-1-1950. Ðây cũng là thời gian HCM bí mật sang Tàu chầu Mao Trạch Ðông cầu viện. Từ đó về sau Hồ chọn ngày 10-1 làm quốc lễ và gọi đó là ngày ‘thắng lợi ngoại giao‘. Hàng ngàn cố vấn Tàu có mặt đông đảo tại VN, trong số này có các tướng Trần Canh, Vi Quốc Thanh, Lã Quí Ba giúp các đệ tử thân tín của Hồ từng hoạt động bên Tàu, nắm giữ các địa vị then chốt trong đảng, ngày qua ngày cứ thế sản sinh bè phái thân Trung Cộng, khống chế quyền lực cả nước tới nay, biến nước ta thành một quận huyện của Tàu như thời Bắc thuộc.

Tháng 7-1954, ngay khi chữ ký trên văn bản ngưng bắn tại Genève chưa ráo mực, thì Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới chuyện chiếm miền Nam, để tron gói vơ vét và toàn quyền trên ngai vàng máu lệ. Do ý đồ trên, Hồ đã gài lại một số lớn cán binh bộ đội nằm vùng khắp lãnh thổ VNCH khi có lệnh tập kết. Ðể chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con đường chiến lược Trường Sơn trên bộ, xuyên qua lãnh thổ Lào và Kampuchia . Về mặt biển, Hồ thành lập đường 559B giao cho Ðồng văn Cống chỉ huy. Dĩ nhiên muốn an toàn, đầu tiên là phải nhổ tuyệt hai tiền đồn của QLVNCH trấn đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, đất đai thuộc lãnh thổ từ lâu đời của dân tộc Ðại Việt, đã được tổ tiên bảo toàn từ thời Hậu Lê, Nhà Nguyễn nằm trong Ðông Hải.

Một bí mật khác cũng đã được báo chí phổ biến cho biết “vào tháng 4-1972 khi Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh cầu thân với Tàu đỏ, được Mao Trạch Ðông đem công hàm bán đảo, do Hồ Chí Minh và Phạm Văn Ðồng ký năm 1958 làm bằng chứng“, để phản đối việc tàu Hoa Kỳ vi phạm lãnh hải quần đảo Hoàng Sa của chúng (?). Còn Kissinger thì xảo quyệt hơn, khi viết hồi ký về chuyến đi đó, đã không hề thắc mắc hay nhắc tới một chữ về việc Trung Cộng đòi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng-Trường Sa, dù cả hai đều biết các quần đảo này của VNCH. Từ đó, Nixon ra lệnh cho hạm đội 7 tại Thái Bình Dương phải ở xa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đúng 12 hải lý như Trung Cộng đã quyết định.

Ngày 11-1-1973 Trung Cộng công khai tuyên bố chủ quyền trên toàn thể các đảo của VN trong biển Ðông. Ngày 26-12-1973 Bắc Kinh bắt đầu thương thuyết việc khai thác dầu khí tại vịnh Bắc Việt với Ý Ðại Lợi. Tháng 1-1974 giặc Tàu xua hải lục không quân chiếm Hoàng Sa và dù Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã trực tiếp yêu cầu Bộ Quốc Phòng Mỹ giúp nhưng Mỹ lại ra lệnh Hạm Ðội 7 không can thiệp, kể cả cấm vớt các chiến sĩ hải quân VNCH lâm nạn trong cuộc hải chiến trên, dù lúc đó hai bên vẫn còn là đồng minh đồng đội.

Ngày thứ bảy 17-2-1979 lúc 3 giờ 30 sáng, 600.000 quân Tàu tiền pháo hậu xung, ào ạt mở cuộc xâm lăng đại quy mô vào VN, trên vùng biên giới từ Lai Châu tới Móng Cáy. Thế là tình nghĩa vô sản quốc tế trong sáng giữa hai nước, đã trở thành hận thù thiên cổ. Những địa danh Cao Bằng, Lạng Sơn, Ðồng Khê, Thất Khê lại đi vào những trang Việt sử đẫm máu của VN chống xâm lăng Tàu. Cuộc chiến thật đẫm máu ngay từ giờ phút đầu. Quân Tàu dùng chiến thuật cổ điển thí quân với tiền pháo hậu xung, bằng các loại hỏa tiễn 122 ly và đại bác nòng dài 130 ly, với nhịp độ tác xạ 1 giây, 1 trái đạn. Sau đó Hồng quân tràn qua biên giới như nước lũ từ trên cao đổ xuống. Tuy nhiên khắp nơi, Trung Cộng đã gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của VN, một phần nhờ địa thế phòng thủ hiểm trở, phần khác là sự yểm trợ hùng hậu của pháo binh các loại, gây cho giặc Tàu nhiều tổn thất về nhân mạng tại Lạng Sơn và Cao Bằng.

Tóm lại sau 16 ngày giao tranh đẫm máu, Trung Cộng cũng như Khmer đỏ, tàn phá tất cả tài sản của dân chúng, bắn giết tận tuyệt người VN, san bằng các tỉnh biên giới, mà suốt cuộc chến Ðông Dương lần II (1960-1975) gọi là vùng an toàn. Ðã có hằng trăm ngàn vừa dân vừa lính của cả hai phía thương vong. Tại miền bắc, hằng triệu dân chúng phải phân ly. Nhà cửa, vườn ruộng, của cải vật chất, đền đài, miếu võ, nhà thờ, di tích tổ tiên bao đời để lại đều vì VC gây chiến tranh, mà tan tành theo cát bụi.

Cuộc chiến tưởng đâu đã chấm dứt, vì VC dấu nhẹm tin tức từ ấy cho đến năm 2006, nhờ mạng lưới Internet của Bộ Quốc Phòng Trung Cộng (Defense-China.com) và tác phẩm ‘Dữ kiện bí mật của cuộc chiến tranh Trung-Việt (Secret Records of Sino-Vietnamese War)‘ của Jin Hui, Zhang Hui Sheng và Zhang WEi Ming, cả thế giới biết được ‘Bí Mật Lịch Sử về việc Tàu chiếm Núi Ðất của VN, trong cuộc chiến biên giới lần hai (1984-1989)‘. Theo tài liệu dẫn chứng, năm 1984 Trung Cộng lại vịn cớ CSVN thường pháo kích và tấn công biên giới, nên bất thần tấn công cưỡng chiếm Núi Ðất của VN tại tỉnh Hà Giang (Thượng Du Bắc Phần), mở màn cho cuộc chiến Biên Giới Việt Hoa lần thứ hai, kéo dài từ năm 1984-1989 mới chấm dứt, do Việt Cộng tự bỏ đất rút quân, nhượng bán (?) lãnh thổ cho giặc Tàu.

CSVN, ngay từ lúc còn trong trứng nước vào những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ XX cho tới đại hội đảng bất thường lần thứ 6 vào đầu tháng 10-2012, từ Hồ Chí Minh tới tập đoàn cầm quyền Trọng-Sang-Dũng và hầu hết các chóp bu trong bộ chính trị và trung ương đảng “đời đời biết ơn và luôn giữ sự thờ kính với Trung Cộng“. Ðiều này cũng không có gì lạ vì hầu hết các cán bộ lớn nhỏ của cộng đảng VN trước khi sang Liên Xô học hỏi kỹ thuật bán nước giết dân tại Ðông Phương Hồng, đều đã trải qua thời gian huấn luyện quân sự và chính trị tại Hoa Lục.

Ngày nay nhờ sự bạch hoá của nhiều văn khố trên thế giới và nhất là sự tiết lộ của Tàu đỏ, cho thấy dã tâm của Trung Cộng qua cái gọi là ‘đồng chí XHCN hay 4 tốt 16 chữ vàng‘ thực chất chỉ là lợi dụng xương máu của người VN qua bình phong ‘sát cánh anh em chung ý thức hệ cộng sản‘, để bảo vệ dùm biên giới phía nam của chúng. Năm 1968 sử gia Pháp Francois Joyaux đã dựa vào tài liệu lưu trữ trong văn khố kết luận “sự có mặt lần đầu tiên của Mao tại hội nghị Geneve 1954, đã chứng tỏ sự quan tâm lớn lao tới tình hình Ðông Dương thời đó của Trung Cộng. Còn Paul Mus một học giả Pháp chuyên nghiên cứu về VN, vào năm 1965 đã viết ‘Sở dĩ Mao nhượng bộ Pháp tại hội nghị Geneve 1954, mục đích cũng chỉ muốn ngăn chận sự thống nhất của VN cũng như không cho CSVN thống trị toàn thể bán đảo này‘.

Ðây mới là lý do quan trọng nhất để Trung Cộng sẳn sàng hy sinh mọi thứ, chẳng những dồn hết nhân vật lực hỗ trợ cho Hà Nội, mà còn ra lệnh cho các đàn em Lào và Cao Miên cho Hồ Chí Minh sử dụng hành lang của hai nước này tại biên giới để Bắc Việt làm đường mòn chuyển quân trang quân dụng vào xâm lăng VNCH. Tóm lại đời đời Trung Cộng vẫn coi Việt Cộng như là một phương tiện không hơn không kém để đạt cứu cánh của riêng mình.

Mãi tới cuối thập niên 70 , quyền sinh sát toàn dân và non nước Việt vẫn nằm trong tay đảng CS, do một thiểu số ủy viên già nua thất học trong cái gọi là bộ chính trị VC được bầu bán từ năm 1960 gồm Hồ chí Minh, Duẩn, Giáp, Ðồng, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan, Lê Ðức Tho, Trường Chinh.. trong số này Hoàng Văn Hoan và Trường Chinh theo Tàu Ðỏ ra mặt. Sự tranh dành quyền lực đảng sau bức màn đỏ rất quyết liệt sắt máu, giữa hai phe Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Nguyễn Chí Thanh và Võ Nguyên Giáp, vì được bưng bít kỹ cho nên người ngoài ít ai biết được. Sinh thời HCM luôn coi trọng Giáp hơn Duẩn nên dù Duẩn là bí thư thứ I của đảng nhưng vẫn là phó cho Giáp trong quân ủy.

Lúc đầu Duẩn vì có lập trường đối đầu với Giáp nên ngã theo Trung Cộng. Trong thời gian Khrushchev cầm quyền Liên Xô có chủ trương xét lại và chống đối Tàu đỏ, đồng thời ra mặt o bế Giáp đầu đảng phe thân Nga lúc đó, với mục đích chia rẽ nội bộ CSVN. Năm 1967 Khruchchev bị hạ bệ, Duẩn-Thọ vin vào thời cơ để tạo ra vụ án xét lại, loại bỏ gần hết phe đảng của Giáp. Riêng Giáp nhờ có HCM che chở nên được sống già vô tích sự tới ngày nay.

Từ sau tháng 5-1975 mặt nạ ‘đánh Mỹ cứu nước‘ của CSVN đã rớt, cũng là lúc kết thúc trò đu dây giữa Nga-Tàu để hưởng lợi. Liên minh Ðông Dương cũng không còn qua sự phá hoại của Trung Cộng, quan hệ Việt-Hoa rạn nứt từ những ân oán cũ mới. Cuối cùng Duẩn bỏ Tàu theo Nga gây nên cuộc chiến long trời lở đất tại biên giới Việt-Miên-Hoa từ năm 1978-1990.

Tháng 3-1985 Gorbachev làm tổng bí thư Liên Xô, phát động chính sách ‘cởi mở (glasnov) và tái cấu trúc (perestroika)‘ để cứu vãn nền kinh tế của Nga đang trong cơn khủng hoảng vì phải cưu mang quá nhiều ngoại viện cho các nước chư hầu trong đó có CSVN. Ðồng thời, Gorbachev còn nối lại liên hệ với kẻ thù Hoa Kỳ và Trung Cộng. Trong bước đường cùng vì bị cả thế giới bỏ rơi ngoảnh mặt, tháng 8-1986 Hà Nội tuyên bố rút hết quân ra khỏi Kampuchia và muốn nối lại quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Trường Chinh (tạm thay Lê Duẩn mới chết, làm quyền tổng bí thư) còn gửi điện văn chúc mừng quốc khánh của Tàu đỏ.

Tóm lại sự suy sụp của đế quốc Liên Xô vào năm 1986 cộng thêm cái chết của Lê Duẩn, đã đưa CSVN vào ngõ cụt về ý thực hệ, kinh tế gần như khánh tận, quân sự bị sa lầy tại Kampuchia. Nên để cứu đảng, cứu thân, bọn chóp bu tại bắc bộ phủ mới được bầu trong đại hội đảng lần thứ VI (Linh, Hùng, Công, Mười, Kiệt.) qua cố vấn của Chinh, Ðồng, Thọ “quyết tâm phấn đấu để sớm được trở lại làm đầy tớ cho Tàu“. Trong lúc đó, Trung Cộng vẫn công khai xua quân chiếm thêm nhiều đất đai của ta tại biên giới và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của VN vào ngày 16-3-1988 trước sự phản ứng lấy lệ gần như đầu hàng giặc của chóp bu CSVN.

Tháng 4-1989 Trung Cộng dùng xe tăng đại pháo tàn sát dã man sinh viên và dân chúng biểu tình đòi dân chủ tại quảng trường Thiên An Môn (Bắc Kinh). Từ cuối năm 1989-1990, Ðông Ðức, Ðông Âu và đế quốc Sô Viết tan rã, khối XHCN chỉ còn lại Tàu đỏ, Việt Cộng, Bắc Hàn và Cu Ba. Trước nỗi chết gần kề, ngày 10-4-1990 bộ chính trị cộng đảng VN họp khẩn để ‘nhất trí quyết tâm bằng mọi giá (kể cả bán nước, bán dân) được theo Tàu để bảo vệ XHCH. Và từ đó tới ngày nay 11-2012), cái giá máu mà dân tộc VN phải đổ ra để CSVN trả nợ cho giặc Tàu là một phần lảnh thổ gồm đất đai, biển, đảo và sự Hán hóa dân tộc Việt của Trung Cộng.

Ðỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Trần Ðức Lương, Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang.... đã và đang viết phần cuối trang sử nô lệ giặc Tàu mà Hồ Chí Minh đã đề ra từ năm 1930. VN sẽ trở thành một quận huyện của Trung Hoa như thời Bắc Thuộc. Tất cả đều là sự thật nhục nhã và đau lòng.

Sau ngày 30-4-1975, hằng năm CSVN đều tổ chức ăn mừng ‘chiến thắng Tết Mậu Thân 1968‘ và ‘đại thắng mùa xuân 1975‘. Nhưng tuyệt đối không nhắc tới một chữ về những đau thương trầm thống mà giặc Tàu đã gây cho Nước Việt và Ðồng Bào Việt trong cuộc chiến biên giới Hoa-Việt khởi sự từ ngày 17-2-1979 và kéo dài tới đầu thập niên 1990 mới tạm dứt sau khi toàn bộ chóp bu VC đầu hàng Tàu đỏ.

Ðã vậy Việt cộng còn công khai khinh thường và hạ nhục cả nước, khi đảng cùng với Trung Cộng rầm rộ tổ chức ăn mừng đã hoàn thành việc cắm mốc biên giới Việt-Trung tại Ải Nam Quan vào ngày 24-2-2009. Biên bản do Nguyễn tấn Dũng ký vào cuối năm 2008 nhưng đã tuyệt tích vì bị đảng ém nhẹm nên người dân không hề hay biết một điều gì.

Tháng 4-2008, VC giúp Tàu đỏ tổ chức rầm rộ cuộc rước đuốc máu thế vận hội Bắc Kinh tại Sài Gòn. Ngày 1-10-2012, VC hoan hỉ gửi điện văn và tổ chức ăn mừng quốc khánh Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa của VN, mà giặc đã cưỡng đoạt vào tháng 1-1974. Toàn cảnh bức tranh “đời đời nhớ ơn giặc Tàu“ được Hồ Chí Minh và CSVN khắc cột ghi tâm, nên chuyện những người yêu nước chống ngoại xâm hiện nay tại VN bị tàn sát, tù đày, thủ tiêu và khủng bố cũng chẳng làm ai ngạc nhiên và khiếp sợ, vì bộ mặt thặt của đảng từ trên xuống dưới đã bị nhận diện, sau khi cái gọi là “hội nghị tự phê của đảng làn thứ 6“ khai mạc và kết thúc vào tháng 10-2012, được các diễn đàn “Dân Lam Báo, Quan Làm Báo, Báo Tổ Quốc, Biển Đông“ phổ biến sâu rộng khắp hang cùng ngõ hẹp trên trái đất.

Ðại hội VI (1986-1991) ngoài thành tích đổi mới kinh tế theo định hướng XHCH để tạo thêm đặc quyền đặc lợi cho cán bộ, bộ đội, công an và tư bản đỏ làm giàu thêm nhờ than nhũng và ăn cắp của công. Tháng 7-1987 hội nghị trung ương đảng họp và ban hành nghị quyết số 2 cấm ‘QUÂN ÐỘI NHÂN DÂN VN KHÔNG ÐƯỢC ÐỤNG CHẠM VỚI QUÂN TÀU ÐỎ‘. Lệnh này được giữ kín mãi tới ngày 28-1-1990 báo "Nhân Dân" mới đăng tải.

Tóm lại dù Tàu đỏ đã thẳng tay tàn sát cũng như tàn phá đất nước VN trong trận chiến biên giới Việt-Hoa ngày 17-2-1979 và liên tiếp những năm sau đó. Tại Biển Ðông, TC cướp chiếm Hoàng Sa và nhiều đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa của VN qua trận hải chiến năm 1988. Nhưng mai mỉa thay khi Lê Ðức Anh được cử làm bộ trưởng quốc phòng tại tại hội VI, đã đem ‘quân đội nhân dân VC‘ đầu hàng Tàu đỏ, mặc dù lúc đó sự giao hảo giữa hai nước vẫn chưa thông. Anh còn bắt xuất bản cuốn từ điển Việt-Hoa để bộ đội ‘cụ’ học .

Trong lúc Tàu đỏ gặp nhiều khó khăn quốc tế sau vụ tàn sát Thiên An Môn, các chóp bu VC đã không biết vin vào thời cơ này để lấy lại thế quân bình ngoại giao và uy tín của quốc gia. Trái lại bọn đầu lãnh già nua bảo thủ tại Bắc Bộ Phủ lúc đó như Linh, Mười, Anh, chỉ biết cúi đầu tuân phục giặc để được chủ củ sớm cho làm đầy tớ trở lại. Vì thế vào ngày 29-8-1990 Linh và Mười, kể cả Phạm Văn Ðồng, đã ngoan ngoãn từ Hà Nội sang Thành Ðô để gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng nhận lệnh của thiên triều.

Bổn cũ tiếp tục soạn lại qua các lần đại hội đảng kế tiếp với Manh, Lương, Khải, Triết rồi Trọng, Sang, Dũng... Tất cả đều theo đúng mẫu mã khuôn rập đã có sẵn từ thời Hồ Chí Minh của mấy chục năm về trước ban truyền “đời đời theo Tau và nhớ ơn thiên triều“. Trung Cộng ngày nay còn hung dữ gấp trăm lần Quốc xã Ðức, Phát xít Ý và Quân phiệt Nhật, vậy mà lúc nào cũng to mồm chửi Nhật.

Trong cơn sơn hà nguy biến, dân tộc lâm nguy, đồng bào cả nước và hải ngoại ai nấy đều chung căm hận, quyết chờ cơ hội thuận tiện để đồng đứng dậy lật đổ bọn ngụy quyền CSVN “ác với dân nhưng hèn với giặc“, để đánh đuổi Tàu đỏ ra khỏi Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Ðông, Biên Giới như tổ tiên ta ngày trước đã từng làm. Vì VN không phải là một nước nhỏ, dân Việt không phải là loại người khiếp hèn. Nhỏ hay hèn trước giặc Tàu phương Bắc, chỉ có đảng CSVN còn 80 triệu người Việt luôn khẳng định sức mạnh của mình, sẽ không bao giờ để cho Tàu đỏ hung hăng bá quyền nước lớn. Ngày đó không xa và chắc chắn VN sẽ giành lại những phần đất của tổ tiên, bị Việt cộng dâng bán cho Tàu đỏ suốt mấy chục năm qua, khi chúng bị hầu hết nhân loại quyết tâm tiêu diệt vì lòng tham lam hung bạo và vô nhân tính, qua ảo vọng làm chủ Biển Đông và siêu cường số 1 thế giới.

Mường Giang


Saturday, August 23, 2014

Tham, Ác, Dốt, Ngu không lối Thoát của Cộng sản VN - Lê Nguyên

Tham, Ác, Dốt, Ngu không lối Thoát của Cộng sản VN

Lê Nguyên

Tham, Ác, dốt, ngu… là ba trong số nhiều thuộc tính tiêu cực, xấu đáng sợ của đảng cộng sản Việt Nam. Đặc biệt ngu mà ngu lâu nữa là đặc tính của những tên mê cuồng cộng sản tồn tại, lưu truyền qua nhiều thế hệ cộng sản. Thế cho nên những ai nói đến đặc tính ngu lâu nổi trội này thường được nghe cộng sản lý luận rằng “…Nếu lãnh đạo đảng cộng sản ngu thì không thể đánh thắng thực dân, đế quốc, phát xít Pháp, Nhật, Mỹ…” và chúng cứ nhắm mắt, bịt tai không cần biết, không cần tìm hiểu sự thật về cái gọi là “đánh thắng” của đảng cộng sản VN!


Trong thời thông tin toàn cầu này không ai còn lạ với các sự kiện “đánh thắng” của đảng cộng sản Việt Nam và các tên tay sai của cộng sản cứ bám vào cớ “đánh thắng” để phản bác lại bất cứ ai thiếu tin tức về sự thật lịch sử “…Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, Trung Cộng..” cũng như “đánh thắng” thật sự chỉ là đảng cộng sản qua Hồ Chí Minh làm theo lệnh Mao Trạch Đông:
“… Đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng!…”

Thật ra theo lẽ thường của số đông người dân bị bưng bít thông tin cũng khó phản biện lập luận lãnh đạo cộng sản VN ngu thì không thể đánh thắng các “đế quốc sừng sỏ” Pháp, Nhật, Mỹ. Để tránh cãi chày cãi cối của những tên cộng sản cuồng tín ngu lâu, chúng ta sẽ không bàn về sự kiện ngu lâu nhiều tranh cãi của cộng sản mà chỉ sẽ nói đến cái được gọi là khôn của đảng cộng sản xem chúng có thật sự khôn không và khôn như thế nào?

Mọi người ai cũng biết khôn có hai loại rõ rệt khôn ngoan và khôn quỷ. Khôn ngoan thuộc tính tốt tích cực có lợi cho phát triển xã hội bền vững và khôn quỷ thuộc tính xấu, tiêu cực có hại cho phát triển xã hội, chỉ có tính chụp giật, thiếu bền vững. Khôn ngoan hình thành tư tưởng của những bậc vĩ nhân phụng sự xã hội, đề cao tính người. Khôn quỷ hình thành tư tưởng quái đản của những tên ác nhân phá hoại xã hội, chống lại con người.

Xét đến quá trình hình thành, phát triển của đảng cộng sản Việt Nam nếu chúng ngoan cố phủ nhận ngu lâu, giành phần khôn thì cái khôn của chúng thuộc loại khôn quỷ, loại khôn quỷ quyệt của băng đảng xã hội đen, cướp của giết người chỉ biết có mỗi bạo lực cơ bắp, vắng bóng cái đầu suy nghĩ của người khôn ngoan, khốn nỗi đảng cộng sản không biết là chúng ngu lâu, ngu di truyền, cứ hiu hiu tự đắc cho ta đây là “đỉnh cao trí tuệ” và không biết là chúng ngu “lì lợm” nên phạm phải sai lầm này sang sai lầm khác, gây lúng túng trong vòng tròn tham, dốt, ngu không lối thoát.

Điển hình cho loại khôn qủy của đảng cộng sản Việt Nam là chúng sử dụng bộ phận tuyên giáo trung ương đảng tổ chức tầng tầng lớp lớp hệ thống tuyên truyền loa đài các kiểu, chỉ phục vụ công tác tư tưởng với mỗi một việc duy nhất là bóp méo sự thật, ca ngợi mọi chủ trương chính sách ngu xuẩn làm nghèo đất nước làm khổ nhân dân của đảng, nhà nước cộng sản VN.

Có thể nói chỉ người mù mới không thấy, với một lực lượng hùng hậu báo nô, văn nô bồi bút, tuyên truyền viên, dư luận viên…có đầu óc lẫn không có đầu óc tư duy chỉ biết nói theo lời đảng dạy rất vô bổ ngớ ngẩn, phí phạm biết bao nhiêu tài nguyên vật lực lẫn nguồn ngân sách quốc gia là sự thật lịch sử không thể chối bỏ.

Bên cạnh lực lượng “tuyên giáo” ăn hại chuyên nghề sử dụng “nước bọt” lãnh lương từ tiền thuế của người dân là lực lượng thanh gươm lá chắn, bọn mật vụ an ninh, công an “còn đảng còn mình”, sử dụng sức mạnh cơ bắp, hung hăng trấn áp mọi tiếng nói đấu tranh, phản kháng, chống lại bất công, vô đạo từ các chủ trương chính sách của đảng, nhà nước cộng sản Việt Nam.

Hẳn mọi người đều biết, đảng cộng sản VN sử dụng tiền thuế, tài nguyên quốc gia trả lương cho bọn “nước bọt tuyên giáo” và bọn “cơ bắp” công an, không ích lợi gì cho nền tảng xây dựng đất nước bền vững, phát triển đất nước về hướng dân chủ văn minh, nước mạnh dân giàu, xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Có lẽ ngày nay không mấy người không biết, tổ chức lực lượng “tuyên giáo” chuyên nghề nói láo và tổ chức lực lượng phi nhân tính công an chuyên nghề đàn áp, bắt giết nhân dân bằng chính tiền của nhân dân để bảo vệ chế độ, bảo vệ băng đảng giết người cướp của tàn ác, là một trong những cái khôn quỷ, nếu không nói là ngu lâu của đảng cộng sản Việt Nam.

Nếu chịu khó làm bản nghiên cứu khoa học thì con số chi trả lương bổng riêng cho hai lực lượng này lên đến hàng chục vạn người là không phải ít. Thử hỏi với nguồn lực, tài nguyên quốc gia chi trả cho con số hàng trăm ngàn tên suốt ngày theo dõi, rình rập người dân can đảm đứng lên vạch trần bộ mặt xấu xa độc ác, tàn dân hại nước thì còn đâu thời gian, tâm trí, để hình thành chiến lược xây dựng, phát triển quốc gia bắt kịp các nước văn minh tân tiến?

Chắc chắn chính vì tham, dốt, ngu của đảng cộng sản VN là một trong nhiều nguyên nhân làm cho Việt Nam tụt hậu so với các nước trong khu vực và Việt Nam có nguy cơ bị đất nước nhỏ bé Kampuchea bỏ lại phía sau về nhiều mặt trong thập niên tới.

Cụ thể của tham lam cộng sản là tham quyền, tham tiền đến mức ích kỷ bẩn thỉu tới độ chỉ biết mưu toan đấu đá nội bộ tranh giành quyền lực, thu tóm quyền lợi tài nguyên quốc gia về cho cá nhân, gia đình, giòng tộc, phe đảng chứ chúng không hề quan tâm đến đời sống khốn khó tội nghiệp của những người đồng bào.

Cụ thể của dốt nát cộng sản VN là chúng không có nổi một cơ sở lý luận hợp lý khả tín, chỉ biết phát huy dối trá, nhắm mắt bịt tai nghe theo, làm theo lý luận chỉ đạo phản khoa học, phi nhân tính của một số tên lãnh đạo ma đầu cộng sản nhưng cứ đinh ninh, cứ tin tưởng là “đúng đắn, là đỉnh cao trí tuệ của loài người.”

Cụ thể của ngu lâu cộng sản VN là những tên lãnh đạo đảng cộng sản tưởng rằng việc xây dựng lực lượng sử dụng nước bọt đi rao giảng những điều vô bổ, láo khoét cùng với lực lượng cơ bắp độc ác mù quáng, có tính thú lấn át tính người để chúng xúi dục họ đi lừa gạt “đồng chí”, đi trấn áp đồng bào như chúng đã từng thực hiện trong quá khứ, ngay cả trong thời hiện tại, với bản chất ngu lâu là chúng có thể muôn năm trường trị, là được nhân dân tung hô “đảng cộng sản quang vinh muôn năm!”

Tội nghiệp những người cộng sản VN không được giáo dục tử tế trong môi trường đạo đức để hiểu rằng lòng tham không bị kềm chế dễ biến con người trở nên ích kỷ xấu xa, mất đạo lý làm người. Cũng như dốt nát cộng với tính tham lam không đạo đức làm chuẩn mực dễ đưa đẩy con người phạm tội ác ngoài sức tưởng tượng của những con người được giáo dục tương đối trong môi trường giáo dục nhân bản. Điều đó khiến cho không ít người sinh ra lớn lên được giáo dục tử tế trong các nước dân chủ tân tiến văn minh không thể tưởng tượng ra được sự dã man tàn bạo của cộng sản đối với con người, đối với “đồng chí”, đồng bào, đồng loại của chúng, làm họ không dám tin đó là sự thật và cứ ngỡ nó chỉ tồn tại trong chuyện phim, chuyện tiểu thuyết!

Tham lam, dốt nát đã trở thành thảm họa cho con người, thế mà cộng sản, nhất là cộng sản Việt Nam không chỉ có tham lam, dốt nát mà còn ngu lâu nữa khiến cho thảm họa nhân lên gấp bội để trở thành thảm họa vô đối cho loài người qua mọi thời đại.

Điển hình là mọi chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước cộng sản Việt Nam từ xưa đến nay đều được hình thành trên cơ sở tham lam, dốt nát, ngu lâu làm cho đất nước tàn mạt, gây ra biết bao đau thương tang tóc, gieo rắc thảm họa cho dân, cho nước dai dẳng không có dấu hiệu lạc quan hơn trong quá khứ, hiện tại, tương lai gần lẫn xa của Việt Nam.

Điều đáng báo động là tham lam, tham quyền cố vị, tham sinh úy tử thì băng đảng cộng sản VN hiểu biết thấu đáo nhưng dốt nát, ngu lâu thì chúng lại không hề hay biết chúng dốt nát, ngu lâu nên những việc làm dốt nát, ngu lâu có thứ xảy ra liền, có thứ gặp bế tắc gây hậu quả nghiêm trọng trong năm mười năm sau đó và những hậu quả nghiêm trọng do dốt nát, ngu lâu của cộng sản Việt Nam thường là khó “khắc phục” lẫn không thể “khắc phục”.

Chẳng hạn các việc liên quan đến yếu tố nước ngoài như Hồ Chí Minh theo lệnh Nga – Tàu giết hàng chục vạn dân trong cải cách ruộng đất hay việc nguyên thủ tướng Phạm Văn Đồng đại diện đảng cộng sản dưới danh nghĩa nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” ký công hàm công nhận, chính xác là “giao nộp” Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng hoặc dự án khai thác Bauxite giao cho Trung Cộng xây dựng nhà máy tuyển quặng, thực chất là giao an ninh quốc gia cho Trung Cộng nắm giữ… và sự dốt nát, ngu lâu của đương kim “thủ tướng” Nguyễn tấn Dũng bịt miệng, trấn áp người dân chống đối dự án Bauxite với “tuyên bố chủ trương lớn của đảng” cộng sản. Vài vụ việc dốt nát, ngu lâu có cả tham lam điển hình của đảng cộng sản đã để lại hậu quả nghiêm trọng khó hồi phục không thể chối cãi!

Hiện tại tham, ác, dốt nát, ngu lâu gây hậu quả nghiêm trọng, lộ diện ở mọi mặt đời sống trong nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như: nạn tham nhũng hoành hành bất trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên ở mọi cơ quan ban ngành, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, luật pháp, tài chánh… trong đảng chính trị độc quyền lãnh đạo nhà nước –xã hội; nạn kẹt xe, tai nạn giao thông không chỉ ở đô thị, tỉnh thành với mật độ dân số cao mà ngay cả ở vùng sâu, vùng xa vẫn có những tai nạn chết người gây phẫn nộ trong lòng người dân; nạn vòi tiền để được chữa trị đàng hoàng trong các bệnh viện nhà nước “quản lý”, chưa kể bệnh viện thiếu giường nằm, bệnh nhân phải nằm tràn ra hành lang, thiếu nhân viên ngành y trầm trọng lẫn kém tay nghề gây chết người không còn là chuyện hiếm ở Việt nam; nạn mua bán bằng cấp, bằng giả tràn lan với hệ thống giáo dục, đào tạo yếu kém, tồi tệ đến đổi không có nước nào công nhận bằng cấp Việt Nam kể cả hai nước láng giềng lạc hậu Miên, Lào là một sỉ nhục khó tẩy xóa…

Tất cả những hậu quả do đảng cộng sản VN gây ra đều có nguồn gốc từ tham lam, ác, dốt nát, ngu lâu và hậu quả ngu lâu gây ra nghiêm trọng hơn cả là tổ chức lực lượng hùng hậu “tuyên giáo” sử dụng “nước bọt” được đảng lấy tiền thuế của dân chi trả để nói sai sự thật, nói láo với dân, nói tốt cho đảng, nhà nước. Cũng như đảng cộng sản ngu lâu trong công việc thuê mướn lực lượng “cơ bắp” côn an, côn đồ đánh đập, bắt bớ, trấn áp, bịt miệng các tiếng nói đối lập, phản biện với đảng, nhà nước là ngu lâu, không có cái ngu nào ngu lâu hơn cái ngu này. Bởi ảo tưởng với lực lượng “nước bọt” “cơ bắp”mù đảng ngu trung là đảng cộng sản Việt nam có thể muôn năm trường trị?.

Những ai sống trong các nước có chính thể dân chủ đa đảng, văn minh tân tiến đều nhận ra phản biện là động lực phát triển xã hội – không phản biện là xã hội “chết lâm sàng”. Giống như phản biện, tiếng nói đối lập góp phần rất quan trọng trong việc điều chỉnh các chính sách nhằm hoàn thiện xã hội giúp cho đảng cầm quyền phải “động não” để hữu hiệu hơn trong cai trị và tiếng nói đối lập hữu hiệu hơn hẳn tiếng nói chính thống của đảng, nhà nước cầm quyền. Không phản biện, không có tiếng nói đối lập thực chất nên đảng cộng sản cứ mãi loay hoay trong vòng tròn tham lam, ác, dốt nát, ngu lâu gây hâu quả nghiêm trọng qua nhiều thế hệ cộng sản và tham, ác, dốt, ngu không có hy vọng chấm dứt hay tháo gỡ ra khỏi đầu những tên cộng sản Việt Nam ở tương lai gần.

Le Nguyen



Càng sống lâu trong xã hội chủ nghĩa, con người càng thiếu đạo đức - Huy Phương

Càng sống lâu trong xã hội chủ nghĩa, con người càng thiếu đạo đức

Huy Phương

“Trăm năm trồng người...”

Một bản tin ngắn, rất tầm thường ở Việt Nam, không chắc làm cho bạn quan tâm, đau lòng, đó là bản tin từ Hà Nội, cho biết nạn bẻ kính chiếu hậu xe hơi bắt đầu tràn lan. Chỉ với một chiếc Porsch Panamera giá $200,000 đã được quân gian chiếu cố, chỉ trong hai năm, đã bị bẻ kính bảy lần. Ngay một sinh viên trường Cao Ðẳng Văn Hóa-Thể Thao Hà Nội, Ðặng Huy Việt, trước đây cũng từng là thủ phạm loại ăn cắp vặt này. Theo tôi, trong cái thời buổi tệ mạt này, rõ ràng là chuyện “trăm năm trồng người” đã có kết quả hay hậu quả đau lòng.

Một trong những “danh ngôn” của Hồ Chí Minh được CSVN ca tụng nhất là câu: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người,” nhưng trẻ em “quàng khăn đỏ” ít đứa nào biết tới ông Quản Trọng bên Trung Quốc là tác giả chính hiệu danh ngôn này, đã bị “bác” bứng nguyên cây về trồng trong vườn nhà “bác.” Câu này lấy từ ý của Quản Trọng trong sách Quản Tử, nguyên văn là: Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc, thập niên chi kế, mạc như thụ mộc, chung thân chi kế, mạc như thụ nhân. (Kế sách cho một năm, lấy việc trồng lúa làm đầu; kế sách cho mười năm, lấy việc trồng cây làm đầu; kế sách cho trăm năm, lấy việc trồng người làm đầu).

Những gì “bác” đã gieo giống, chăm sóc, tưới nước bón phân, ngày nay rõ ràng là đã có kết quả. Sách Minh Tâm Bảo Giám, chương Kế Thiện, có câu: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. (Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu). Không ai gieo hạt chanh chua mà lại hái được giống cam ngọt, nói đơn giản, gieo nhân nào thì gặt quả nấy!

Hạt giống độc địa ấy từ ngày được Hồ Chí Minh mang về gieo trong khu vườn nhà đã như là “loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh; là loài trùng độc, sinh sôi nảy nở trên rác rưới của cuộc đời” như câu nói của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Tây Tạng, khi nhận xét về chủ nghĩa cộng sản. Sau ngày cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam, nơi Bắc Việt gọi là vùng tạm chiếm, tệ nạn xã hội càng ngày càng gia tăng, làm băng hoại đạo đức xã hội, luân thường đạo lý, như những chuyện băng đảng nhóm xã hội đen, cướp của giết người, mại dâm, ma túy, cờ bạc, hiếp dâm trẻ em, loạn luân, lừa gạt, chiếm đoạt tài sản.

Lúc đầu, nói về tình hình trật tự xã hội, đề cập đến những điều xấu xa đầy rẫy này, đảng cộng sản tránh né trách nhiệm, đổ lỗi cho đó là hậu quả, tàn dư của chế độ cũ để lại, chỉ đích danh là Mỹ, Ngụy, nhưng rõ ràng là sau hơn 39 năm “làm chủ” đất nước, thực tế ngày nay không thể còn đổ lỗi cho ai.

Sau nữa là cả nước từ 60 năm nay, dưới sự cai trị của đảng, do chủ trương của đảng, là “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh!” Vậy thì những gì được ghi nhận hôm nay là thành quả chiếu sáng từ tấm gương ấy, đó là chân lý, mà chân lý này không bao giờ thay đổi. Không ai dám hỏi Hồ Chí Minh thực sự có đạo đức hay không, và cả đất nước mù quáng tin theo những gì đảng nhồi nhét từ những đứa trẻ, làm đông đặc đầu óc thanh niên, bắt người ta tin vào những chuyện không có thật.

Hậu quả là ngày nay cả nước nói dối như cuội.
Hậu quả là ngày nay cả nước ai cũng gian dối để sống.
Hậu quả là ngày nay, lý tưởng của cuộc sống là đồng tiền.

Ở xã hội ấy cái gì cũng mua được bằng tiền, cái gì cũng được đem bán, và người ta sẵn sàng bán đi những cái gì quý nhất.

Ở xã hội ấy, người ta không biết hổ thẹn vì nhân cách, nhưng cảm thấy hổ thẹn khi thua sút những người chung quanh vì cái nhà, cái xe, cái điện thoại, cái xách tay...

Ở xã hội ấy, ai cũng muốn bỏ đi, những ai còn ở lại là không đi được, hay đang còn kiếm được tiền để chuẩn bị đi hay lo cho những người đã đi.

Con người là vốn quý như ai đó đã từng nói, nhưng một mạng người không đáng giá bằng một con chó!

Con người là vốn quý, nhưng người ta coi rẻ sinh mạng của nhau, cầm dao giết nhau chỉ vì một cái nhìn, một chuyện tranh cãi hay để cướp đoạt tài sản của người khác.

Con người là vốn quý, nhưng công an, thế lực của chế độ, sẵn sàng đánh chết dân vì dân không chịu nhận tội mình không làm.

Xã hội chủ trương mình sống vì mọi người, nhưng người vá xe sẵn sàng rải đinh trên đường để cho tiệm mình đông khách, thêm lợi nhuận.

Xã hội chủ trương mình sống vì mọi người nhưng bọn phục vụ cho dân, ăn gian, làm dối, sống chết mặc bay.

Cộng sản đã từng ca tụng: “Chủ Nghĩa Xã Hội là đỉnh cao trí tuệ loài người!” Hà Nội là lương tri của nhân loại! Báo Quân Ðội Nhân Dân đã ca tụng “đỉnh cao của khí phách và trí tuệ Việt Nam,” nhưng ngày nay nhân dân Việt Nam đi đến đâu đều được mọi người có những cái nhìn thiếu thiện cảm. Nhật, Thái Lan, Nam Hàn, Singapore... kết án người Việt trộm cắp, ăn tham, xả rác, bán dâm... khiến hình ảnh Việt Nam đang dần trở nên xấu xa. Cả nhân viên nhà nước cũng buôn lậu, ăn cắp, hối lộ, vậy người Việt ra nước ngoài còn dám ngẩng mặt nhìn ai?

Ở trong nước dân Việt đã bày tỏ dân trí bằng cách ẩu đả, chửi bới nhau để chen lấn mua bánh Trung Thu ở Hà Nội, giành giật đạp lên nhau để giành được kiếm một miếng sushi miễn phí ở một cửa hàng mới khai trương, hỗn loạn trèo lên đầu nhau lên nhau để mua bằng được lá ấn trong lễ khai ấn đền Trần, hôi của khi có tai nạn qua đường như rơi tiền, đổ bia... Người ngoại quốc và các tòa đại sứ ở Việt Nam thì bắt đầu “sợ” dân Việt khi những cây anh đào được đem từ Nhật đến bị đám đông nhào đến vặt sạch, chính phủ Hòa Lan tổ chức phát 3,000 chiếc áo mưa cho dân chúng để tỏ tình hữu nghị thì đám đông ào ạt, hung dữ nhào lên sân khấu cướp từ tay các tình nguyện viên và nhân viên đại sứ quán.

Chính giới trí thức trong nước, như Giáo Sư Nguyễn Thanh Giang đã viết rằng, “Phải nói rằng kể từ khi đưa Chủ Nghĩa Mác vào Việt Nam thì con người Việt Nam bấy giờ còn tha hóa hơn con người Việt Nam hồi thời phong kiến. Và tư chất, đạo lý của con người Việt Nam bây giờ còn thua cái thời Pháp thuộc. Cho nên điều đó là do ảnh hưởng của chế độ chính trị và của tổ chức xã hội. Tổ chức xã hội mà chủ yếu đẩy con người vào tình trạng không cạnh tranh lành mạnh, không cạnh tranh dựa trên đạo lý, không dựa trên pháp luật, mà bằng phe nhóm, ỷ thế, ỷ quyền, ỷ vào giai cấp, ỷ vào thành phần lý lịch, ỷ vào con ông cháu cha. Hơn nữa, kể từ khi đưa cái Chủ Nghĩa Mác vào, lấy chuyên chính vô sản vào, thì người ta không tôn trọng pháp luật nữa. Cho nên người ta sẵn sang giẫm đạp lên pháp luật, lên đạo lý, từ đấy ảnh hưởng đến tâm tính của con người Việt Nam. Rồi đời sống không cần đạo lý, không cần pháp luật. Thì đó là cái tội của chế độ chính trị và tổ chức xã hội này.”

Ai đưa Chủ Nghĩa Mác vào Việt Nam, phải chăng là công ơn “bác Hồ,” cho nên hôm nay, chưa đến một trăm năm, mà việc trồng người của “bác” đã có kết quả “khả quan,” đưa đất nước vào chỗ lụn bại, tha hóa. Muốn gieo lại hạt giống tốt thì phải quét sạch, khai quang, đào xới lại cả khu vườn, thay đất mới, và phải mất trăm năm nữa, con người hôm nay mới trở lại được cái tử tế, văn hóa, chỉ mong được tương đối như người miền Nam trước 1975, hay nói xa hơn là cả cái thời Pháp thuộc.

Chúng ta phải thẳng thắn nhìn vào sự thật đau lòng, đừng mang ảo tưởng quê hương giàu đẹp, văn minh, trí tuệ, có ai đụng vào thì giãy lên như đỉa phải vôi, kêu la là “chống phá tổ quốc, tay sai ngoại bang, thù nghịch với nhân dân !”

Huy Phương


What happened to this guy’s face?

Cung Le suffers gruesome eye injury against Michael Bisping during UFC Fight Night 48
Michael Bisping (R) of England punches Cung Le of USA
during their 5-Round middleweight fight during the UFC Fight Night in China

OUCH.

Some rather painful things happened to UFC fighter Cung Le’s face overnight. Le took on Englishman Michael Bisping in the main event of UFC Fight Night 48, and he was beaten badly.

Le, a 42-year-old fighter who was born in Vietnam, managed to be competitive for most of the first round, before Bisping landed a telling jab on his eye socket. It hurt.

The underdog protested to the referee, claiming he’d been poked, but it was a clean hit. For two more rounds, he struggled to see through his injured eye, as Bisping added a huge cut on the other side of his face for good measure.

By the time the fight was stopped 57 seconds into the fourth round, Le was a mess, and Bisping was feeling very cocky.

“This is what I’m capable of, and I’m capable of better,” Bisping said. “I want the title. There’s an idiot named Luke Rockhold who doesn’t stop talking about me. I think he’s got the hots for me to be honest. I’m going to beat Rockhold and then I’m taking the title.”

The Englishman clearly reckons he’s on the way up. Meanwhile, Le’s future career prospects are looking worse than his face.
Michael Bisping and Cung Le - UFC Fight Night - August 20, 2014 in Hong Kong!