Saturday, October 30, 2010

Suy nghĩ về ngày 01-11-1963 - Võ Phương



Tổng thống Ngô Đình Diệm:
“Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác gì nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang”

Võ Phương

Trong cuộc chiến đấu chống Đế Quốc Đỏ Nga-Tàu, tổng thống Ngô Đình Diệm có cùng chung mục tiêu với Hoa Kỳ là ngăn chận làn sóng CS từ phương Bắc tràn xuống phía Nam trong vùng Đông Nam Á Châu , nhưng cụ Diệm không hoàn toàn chấp nhận sách lược của Hoa Kỳ. Ngài có đường lối riêng để chỉ đạo cuộc chiến ở Nam Việt-Nam. Ngay từ những năm sau Hiệp Định Geneva 1954, với Quốc sách Ấp Chiến Lược (sau chương trình Khu Trù Mật/Ấp Dinh Điền) được xem là một đơn vị hành chánh nhỏ nhất của chính quyền miền Nam dùng để chống du kích quân VC. Trong đó, chủ trương Tam túc: tự túc về tư tưởng; tự túc về tổ chức và tiếp liệu; tự túc về kỹ thuật. Về tư tưởng, có thể được hiểu theo ý nghĩa ‘Nhân Vị’, nghĩa là mỗi con người sinh ra đã có sẵn một vị trí xứng đáng trong sinh hoạt xã hội. Vì thế, cần phải tôn trọng sự tự do suy tư của mỗi cá nhân trong công việc, có mối liên hệ chặt chẽ đến phúc lợi chung của toàn xã hội, bao gồm cả các nguyên tắc về lãnh đạo, chỉ huy trong ý thức tự chủ và dân chủ. Trong tinh thần đó, tổng thống Diệm đã dứt khoát không để bất kỳ một ngoại bang nào, chen vào nội bộ, giành quyền quyết định trong các vai trò lãnh đạo, chỉ huy từ trung ương đến địa phương. Chính người Việt Nam phải chủ động hành sử quyền hạn đó của mình.

Nếu nhìn về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vị anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học đã khẳng định ‘không thành công, cũng thành nhân’, thì trong cuộc đối đầu với thực dân Pháp và CSVN nô lệ Nga-Tàu, chí sĩ Ngô Đình Diệm cũng khẳng định ‘hoặc có tất cả hoặc không’ (tout ou non/all or nothing), chứ không chấp nhận ‘hư vị’. Chính vì không chấp nhận ‘hư vị’, và vì những đòi hỏi về chủ quyền quốc gia của nhà yêu nước họ Ngô không được người Pháp quan tâm, cho nên ngài đã từ chức Thượng Thư Bộ Lại (tuơng đương chức Thủ Tướng) dưới triều vua Bảo Đại. Sau đó, ngài cũng đã từ chối chức Bộ Trưởng Nội Vụ do Hồ Chí Minh mời gọi vì ngài không ưa CS và cũng vì chính Hồ Chí Minh đã giết anh của ngài là cụ Ngô Đình Khôi. Chí sĩ Ngô Đình Diệm chỉ chấp nhận làm điều có ích thực sự cho quốc gia, có lợi thực sự cho dân tộc, và chỉ bắt chước người khác một cách có chọn lọc. Hơn nữa, đối với tổng thống Ngô Đình Diệm, chủ quyền Quốc Gia là tối thượng, cho nên tổng thống Diệm đã tuyên bố với ký giả Mỹ, bà Marguerite Higgins rằng: “Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác gì nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang”.

Sau Hiệp Định Geneva 1954, khi là đồng minh của Mỹ, tổng thống Ngô Đình Diệm biết ơn sự yểm trợ của họ, nhưng cụ đã thẳng thừng tuyên bố ‘Việt Nam không phải là xứ bảo hộ của Mỹ’. Chính vì lập trường Dân Tộc cứng rắn, cho nên không phải chỉ có Cộng Sản căm ghét tổng thống Diệm, mà cả Thực dân Pháp lẫn ‘đồng minh’ Hoa Kỳ cũng tìm cách ám hại ngài, vì ngài đã “cứng đầu” không chịu làm theo ý muốn của họ. Tổng thống Ngô Đình Diệm có thể hy sinh tánh mạng, chứ nhất quyết “không muốn bị coi như bù nhìn hay tay sai của Mỹ” .

Trong khi đó, Hồ Chí Minh có thể làm tay sai cho bất cứ ai. Hắn ta đã từng làm tay sai cho OSS (tiền thân CIA) của Mỹ, tay sai của Pháp, tay sai của Nga và của Tàu. Hắn ta cũng đã khẳng định: “Tôi không có tư tưởng nào ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác Lê-Nin”. Lời khẳng định của của họ Hồ thể hiện rõ tinh thần yếu hèn, óc nô lệ ngoại bang. Trong lịch sử dân tộc, có lẽ Hồ Chí Minh là người duy nhất có tư tưởng đê hèn, đáng hổ thẹn: “Thà ngửi cứt thằng Tây ít lâu, còn hơn suốt đời ăn cứt thằng Tàu". [Plutôt flairer un peu la crotte des Francais que manger toute notre vie celle des Chinois – Paul Mus, "Vietnam, Sociologie d'une guerre", Paris, Seuil, p. 185]. Đúng là lý luận và tư tưởng xuất phát từ bộ óc của một tên bồi tàu cho thực dân. Lời tuyên bố trên còn có ý lường gạt để chữa thẹn khi hắn ta bị dân chúng phản đối việc ký Hiệp Định Sơ Bộ 6-3-1946, rước Pháp trở lại Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Mục đích nhờ Pháp hậu thuẫn và công nhận vai trò lãnh đạo Việt Minh của hắn và sẽ tiến tới vị trí “cha già dân tộc” sau này. Đồng thời mượn tay Thực dân Pháp tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia, nại cớ là các đảng phái Quốc Gia phá hoại Hiệp Định Sơ Bộ (vì các đảng phái Quốc Gia không chấp nhận Hiệp Định Sơ Bộ nhục nhã này). Xong xuôi, hắn ta quay trở lại nhờ Tàu đánh Pháp (1946-1954), tạo ra 9 năm kháng chiến chống Pháp, mà thực ra không cần thiết, vì nước ta đã lấy lại chủ quyền từ tay Nhật (với chính phủ Bảo Đại và Trần Trọng Kim) chứ không phải từ tay Pháp. Từ đó, Hồ Chí Minh và đồng bọn đã ‘ăn kít’ Tàu cho đến bây giờ.

Vào đầu thập niên 1960, ở Nam Việt Nam, vì lầm tưởng rằng chính sách ngoại giao ‘kẻ cả’ của mình sẽ dễ dàng thành công trên đường chống CS, cho nên tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã ngạo mạn, coi thường chính sách của tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông Kennedy đã để thuộc cấp lộng hành, vượt quá phạm vi quyền hạn của một ‘đồng minh’; tìm cách loại bỏ cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu, bào đệ của tổng thống và nếu cần thì loại bỏ cả tổng thống Diệm “cứng đầu” ra khỏi chính trường. Chủ trương “Diem must go” của chính quyền Kennedy với hy vọng khi thay đổi người lãnh đạo, thì cục diện Việt Nam sẽ có cơ hội tốt hơn, vì họ cho rằng tổng thống Diệm không có khả năng chống Cộng. Đối với Tổng Thống Diệm, dù là loại bỏ bất cứ ai ra khỏi chính quyền của cụ, mà không do chính cụ định đoạt, đều xúc phạm trầm trọng đến uy quyền quốc gia. Về phía chánh quyền Kennedy, vì nóng lòng muốn loại bỏ tổng thống Diệm, nhưng lại muốn che giấu bàn tay tội lỗi của mình, cho nên đã tung tiền ra, thuê mướn đám “tướng tá phản loạn” hiếu danh ham lợi, thảm sát tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn chính trị của ngài là bào đệ Ngô Đình Nhu vào sáng ngày 02-11-1963.

Anh em tổng thống Diệm bị hạ sát sáng ngày 02-11-1963, thì ngay trong buổi chiều hôm đó, nữ ký giả Marguerite Higgins, người thường bám sát tổng thống Diêm để viết báo, đã hỏi Roger Hilsman, Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao đặc trách Đông Á vụ, một người trong nhóm chủ mưu giết tổng thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu, rằng: “Bàn tay ông đã nhuốm máu, ông thấy thế nào?”. Hilsman lạnh lùng trả lời: “Ồ Maggie, thôi mà. Cách mạng thì phải gian khổ. Máu đổ thịt rơi”. (sách Bàn Tay Hoa Kỳ Cái Chết Ông Diệm, trang 285, chuyển ngữ của Vũ Văn Ninh&Trần Ngọc Dung, nguyên tác của nữ tiến sĩ Ellen J. Hammer).

Thế nhưng chính quyền Kennedy đã lầm to! Liên tục nhiều năm sau khi anh em tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết, cục diện chính trường và chiến trường miền Nam đã chẳng thay đổi tốt hơn mà còn dẫn đến nhiều hệ luỵ xấu hơn, cho cả Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ. Khi đề cập đến tình hình này, giáo sư Sử học Hoàng Ngọc Thành, trong cuốn ‘Công và Tội Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945-2006 Lịch Sử Hiện Đại Việt Nam’, trang 606, đã viết: “Tình hình miền Nam trở nên hỗn loạn, các tín đồ Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo xung đột với nhau trên các đường của các thành phố lớn, các đồng chí cộng sản thừa dịp xúi giục xung đột, gây hỗn loạn thêm nữa. Vụ đảo chánh của Nguyễn Khánh mở màn cho 5 vụ đảo chánh kế tiếp và chỉ trong năm 1964, miền Nam có đến 7 chính phủ. Trước tình trạng như vậy, ngay cả thứ trưởng Harriman, một trong những nhân vật tích cực chủ trương lật đổ tt NĐD trước kia, cũng phải thốt ra rằng thời ông Diệm khá hơn nhiều”.

Sách đã dẫn ở trên, trang 607&608 tác giả Hoàng Ngọc Thành cho biết thêm: “Sự kiện chính quyền John F. Kennedy mưu đồ đảo chánh kiểu thực dân và gây ra sự ám sát một nguyên thủ đồng minh là một sự phản bội đáng trách và dẫn đến việc Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam. Trái lại khi gặp gỡ cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ McNamara trong một hội thảo rút các bài học về trận chiến tranh trong tháng 11-1995, đại tướng Võ Nguyên giáp và một số đồng chí thời chiến của ông đã lập luận rằng chính sách của chính quyền John F. Kennedy về Việt Nam đã sai lầm đưa đến thất bại. Ngô Đình Diệm, theo họ, là một người quốc gia, ông không bao giờ cho phép người Mỹ nắm quyền chỉ đạo trận chiến tranh, đưa cả Hoa Kỳ và đồng minh Sài Gòn không may đến sự bại trận tốn kém. Vậy vụ đảo chánh lật đổ Diệm năm 1963 là sự kết thúc sớm và đáng ngạc nhiên nhiều về sự can thiệp của Hoa kỳ tại Việt Nam”.

Sự thể đã quá rõ ràng, cuộc “cách mạng 01-11-1963” ở Nam Việt-Nam không phải do “đám tướng tá phản loạn” tự mình chủ mưu, tự mình hành động mà do chính quyền Kennedy ‘organised’, ‘set in motion’, ‘sponsored’, ‘encouraged’. Nếu Mỹ không ‘organised’, không ‘set in motion’, không ‘encouraged’ và không ‘sponsored’ thì chắc chắn đám phản loạn không dám hành động. Cho nên, nếu tìm đến ý nghĩa thực của sự kiện 01-11-1963, thì đây chỉ là một vụ mưu sát và cố sát mang tính chất hình sự do ngoại bang núp trong vỏ bọc ‘ngoại giao’ chủ mưu và bỏ tiền ra thuê mướn đám tướng tá phản loạn thực hiện, chứ không phải là cuộc Cách Mạng theo đúng nghĩa của nó. Do đó, câu trả lời của Hilsman đối với câu hỏi của bà Higgins ở trên, hoàn toàn sai trái, đầy ý nghĩa nguỵ biện, bẩn thỉu và dã man trong vai trò đồng minh đối với Việt Nam Cộng Hòa. Không ai có thể chấp nhận được câu trả lời ngang ngược đầy máu của Roger Hilsman.

Xét về hành động của phe cánh ngoại giao Hilsman, Harriman, Cabot Lodge, tuy dã man, dơ bẩn, nhưng nếu xét về quyền lợi của nước Mỹ, thì họ chỉ đáng trách chứ không đáng nguyền rủa. Riêng đám tướng tá phản loạn chỉ nhắm vào danh và lợi cá nhân, chia chác nhau 3 triệu đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa (tương đương 40 ngàn dollars), số tiền mà chính quyền Kennedy thuê để giết người, mới thực sự đáng ghê tởm và đáng nguyền rủa.

Nhìn tổng quát về quá khứ, đám phản loạn sau cái gọi là “cách mạng 01-11-1963” đã chẳng có một đường lối ‘cách mạng’ nào, ngoài việc thả cán hộ VC như Mười Hương, Lê Câu, v.v…; giết kẻ thù của VC như ông Phan Quang Đông, là người đã có công rất lớn trong tổ chức biệt kích của Việt Nam Cộng Hòa; phá bỏ thành quả Ấp Chiến Lược của cụ Diệm mà VC rất e ngại; đám phản loạn chỉ biết ngồi nhìn quân đồng minh tự ý ồ ạt tiến vào miền Nam như chốn không người, rồi lại ồ ạt rút lui.

Sau hơn 10 năm kịch chiến không thành công, cuối cùng phải tuyên bố đầu hàng giặc Cộng vào trưa ngày 30-4-1975; đưa đến thảm họa 3 triệu người thương vong, quê hương bị tàn phá trầm trọng, hàng trăm ngàn người chết trên đường vượt biên, vượt biển, hàng trăm ngàn người khác bị đưa vào các trại lao tù khổ sai của VC, hàng ngàn cặp vợ chồng tan nát vì thủ đoạn cướp vợ cướp con tù cải tạo, hàng vạn gia đình ly tán, hàng ngàn người không nơi nương tựa sau khi trở về từ vùng “kinh tế mới”. Như thế thì việc lật đổ Tổng Thống Diệm chỉ có một ý nghĩa duy nhất là thay cái ‘tốt’ đã có sẵn bằng cái ‘xấu’ vào ngày 2-11-1963; rồi đến 30-4-75 đảng giặc Đỏ lại thay cái ‘xấu’ bằng cái ‘tồi tệ’. Thực tế đã cho thấy, cái ‘tồi tệ’ cứ tiếp diễn mãi cho đến ngày nay. Rõ ràng, đối với người dân miền Nam, chẳng có ý nghĩa gì là ‘cách mạng’ sau 2 lần ‘thay ngôi đổi chủ’, mà chỉ có ‘cách mạng’ riêng cho đảng Mafia ở Hanoi mà thôi. Dĩ nhiên, không ai phủ nhận, miền Nam sau ngày 2-11-1963, tuy quyền tự chủ trên chiến trường bị giới hạn vì quan niệm ‘người nào chi tiền nhiều, người ấy chỉ huy’, nhưng tự do/dân chủ vẫn còn được duy trì cho đến khi giặc Đỏ tràn vào Saigon.

Tài liệu còn cho biết thêm, kể từ khi ông Ellsworth Bunker được cử làm đại sứ Hoa Kỳ tại Saigon năm 1967 “với nhiệm vụ bí mật, chuẩn bị việc rút quân chiến đấu ra khỏi miền Nam Việt Nam” (sách Cuộc Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ, trang 27, chuyển ngữ Nguyễn Văn Hùng, nguyên tác Stephen B.Young); không hề thấy một sách lược độc lập, tự chủ nào của Saigon được tuyên bố, khả dĩ thay thế những lỗ hổng, một khi quân đồng minh rút khỏi miền Nam Việt Nam. Chính vì không biết rõ ý định của đồng minh, không có viễn kiến chính trị, không có khả năng tiên liệu bất trắc, chỉ trông chờ đồng minh viện trợ, bật đèn xanh lúc nào làm lúc đó, nên đám tướng tá phản loạn đã không tránh khỏi thất bại vào trưa ngày 30-4-1975. Khi thất bại thì đám này sẵn sàng đào tẩu hoặc đầu hàng giặc, mặc kệ thuộc cấp và dân tình ra sao thì ra. Khi còn chức quyền, đám phản loạn không nghĩ được điều căn bản là: chẳng có một đồng minh nào có thể tốt bụng đến độ viện trợ cho không, lại còn hy sinh xương máu, tốn công, tốn của để lo cho sự an nguy của đồng bào, Tổ Quốc của người dân nước khác.

Vì biết trước điều đó, tổng thống Diệm tìm cách bớt dần lệ thuộc vào ‘viện trợ’ Mỹ, từng bước tiến tới tự lực tự cường, mới hy vọng mang chủ quyền thực sự về cho dân tộc, và như thế mới vô hiệu hóa được cái loa tuyên truyền láo khoét “chống Mỹ cứu nước”của giặc Cộng. Nhưng đang thực hiện thì bị phản bội. Cố vấn Ngô Đình Nhu đã tiên liệu, nếu miền Nam rơi vào tay giặc Cộng Hanoi, thì cả nước sẽ rơi vào tay giặc Tàu. Thật vậy, ngày nay cứ nhìn thái độ hung hăng của giặc Tàu trên Biển Đông thì thấy rõ, trước đây nó đã tận tình giúp đỡ đảng giặc đỏ ở Hanoi “đánh Tây đuổi Mỹ” cũng chỉ vì dã tâm, âm mưu cướp đất, cướp biển của Tổ Quốc Việt Nam. Đảng giặc đỏ ở Hanoi đã không nhìn thấy điều hệ trọng đó mà chỉ thấy quyền lợi riêng của đảng! Và với sự giúp sức đắc lực của các quan thái thú Tàu biết nói tiếng Việt ở Hanoi, giặc Tàu đã thực hiện thành công ý đồ đó. Mặc dầu lũ Vẹm cứ lớn tiếng tuyên truyền về “tinh thần quốc tế vô sản”, nhưng đến nay mới thấy rõ hơn, chẳng có “tinh thần quốc tế vô sản” nào cả, mà chỉ có quyền lợi của Đảng Giặc Tàu liên kết với Đảng Giặc Đỏ Hanoi để chia phần, để bán tài nguyên, để phá nát lãnh thổ và biên cương của tiền nhân ta để lại.

Xét về quyền lợi của Mỹ, cho dù chính quyền Kennedy có cho rằng chính sách chống CS của Tổng Thống Diệm kém hữu hiệu, có thể ảnh hưởng xấu đến kế hoạch của họ ở Á Châu đi nữa, thì họ cũng không thể ngang nhiên chà đạp lên Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa -- một nước có chủ quyền và đang là đồng minh của Hoa kỳ -- thay đổi nhân sự, thay đổi cơ chế lãnh đạo theo ý riêng của họ được. Nếu đám phản loạn nghĩ được điều sơ đẳng này, thì đất nước đã không loạn, cục diện Việt Nam đã khá hơn, dân miền Nam đã không rơi vào thảm cảnh ‘quốc phá gia vong’.

Phải nói, ngay cả khi, nếu cho rằng Tổng Thống Diệm có lỗi đi nữa, thì quyền quyết định về số phận cụ Diệm là quyền của toàn dân miền Nam. Cụ phải được đưa ra tòa án, nhận phán quyết của tòa án, chứ không phải phán quyết của của Kennedy, Harriman, Hilsman, hay Cabot Loge và lũ đồ tể người Việt đâm thuê giết mướn. Nên nhớ rằng: sau ngày chia đôi đất nước 20-7-1954, Hoa Kỳ tự ý công nhận Chính Quyền của Thủ Tướng Diệm là đồng minh, tự ý chuyển viện trợ từ tay Pháp sang tay Việt Nam Cộng Hòa, chỉ sau khi thủ tướng Diệm chiến thắng Bình Xuyên vào năm 1955. Chính quyền Mỹ hành động như thế không vì quyền lợi của dân tộc Việt Nam, lại càng không vì quyền lợi của thủ tướng Diệm. Mà đó là vì quyền lợi chung của toàn thể ‘Thế Giới Tự Do’ trong vùng Đông Nam Châu Á, trong đó có miền Nam Việt-Nam. Quyền lợi đó, lúc ấy, phù hợp với quyền lợi của Mỹ vào giai đoạn cuộc ‘chiến tranh lạnh’ với Cộng Sản Nga đang tiếp diễn. Đến khi không cần thiết phải hợp tác nữa thì miền Nam Việt-Nam cũng chỉ là con số không to tướng đối với chính quyền Mỹ.

Thực sự thì đám chóp bu chủ mưu lật đổ tổng thống Diệm như: T.T. Kennedy, Thứ trưởng Ngoại giao Averell Harriman, Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao đặc trách Đông Á vụ Roger Hilsman, Đại sứ Cabot Lodge, v.v… không hề có một chút kinh nghiệm nào, khả dĩ đấu tranh hữu hiệu chống CS Hanoi, con đẻ của Nga-Tàu vào thời điểm ấy, mà họ chỉ thích dùng vũ khí và đạn dược để giải quyết vấn đề. Họ đã chẳng hiểu gì về “bản chất của cuộc chiến”. Bằng chứng là sau khi đám tướng tá tồi bại hạ sát tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn chính trị Ngo Đình Nhu, tình hình chính trị miền Nam đã trở nên rối ren liên tục như đã nêu trên, làm mồi cho VC lợi dụng. Ngoài ra, còn phải kể thêm, kinh tế lệ thuộc vào viện trợ Mỹ nhiều hơn, đời sống xã hội miền Nam khó khăn hơn, lương bổng của lính và công chức ít oi hơn, vợ con lính sống khổ hơn, chiến trường đã trở nên sôi động hơn, phụ nữ đi bán ‘bar’ nhiều hơn; trên chiến trường máu đổ thịt rơi nhiều hơn, ở cả hai miền Nam - Bắc từ 1965 (mà trước kia chỉ xảy ra ở miền Nam, sau này vì kế hoạch đánh bom Hanoi bằng không quân Mỹ đã làm dân cả hai miền Nam-Bắc khốn đốn, nhưng sau cùng thì Hanoi vẫn thắng). Tình hình này có lợi cho xảo kế tuyên truyền “chống Mỹ cứu nước” của Hanoi nhiều hơn. Từ đó, nó lấy cớ xua quân vào miền Nam nhiều hơn.

Tạo ra tình hình đó, chính quyền Mỹ và đám tướng tá phản loạn đã vô tình khuếch đại cái loa tuyên truyền “chống Mỹ cứu nước” giùm cho Hanoi trên chính trường quốc tế. Qua âm thanh khuếch đại đó, thế giới đã nhầm lẫn, ngay cả dân chúng Mỹ cũng đã nhầm lẫn hơn là nhìn thấy thực tế dân sinh của cả 2 miền Nam Bắc Việt-Nam. Qua bức màn sắt, truyền thông báo chí thế giới không thể nhìn thấy “đại hùng binh” Nga-Tàu và các nưóc CS khác đang trá hình, đứng đàng sau hậu trường chính trị Hanoi. Mà chỉ nhìn thấy thực trạng ở miền Nam. Vì nhầm lẫn, cho nên cộng đồng thế giới đã không còn thiện cảm với miền Nam như thời tổng thống Diệm cầm quyền nữa; họ tưởng chính quyền nền đệ nhị Cộng Hòa chỉ là một thứ tay sai của Mỹ, nhưng không hoàn toàn đúng như vậy. Nương theo lợi điểm đó, Hanoi không thèm nói chuyện với Saigon. Tổng thống Thiệu đòi ngồi ngang hàng với Hànoi ở bàn hội nghị mà không được, nó không thèm đếm xỉa đến, mà nó chỉ nói chuyện với Hoa Kỳ. Lúc đó, Saigon chỉ được phép nói chuyện với tay sai của Hanoi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Hòa đàm Paris (4 bên) năm 1973, do Henry Kissinger và Lê Đ. Thọ đạo diễn, là liều thuốc tự tử mà chính quyền Saigon bị bắt buộc phải uống. Do đó, toàn dân ta mới phải gánh chịu đại thảm họa ‘nước mất nhà tan’ vào trưa ngày 30-4-1975, một sự kiện đau thương nhất trong lịch sử dân tộc. Ngược lại, giặc Tàu là người đã thủ đắc lợi lộc nhiều nhất sau khi miền Nam VN rơi vào tay đảng Mafia ở Hanoi.

Tổng thống Ngô Đình Diệm, cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn là các nạn nhân trực tiếp của đồng minh phản bội và tay sai phản loạn. Cả 3 ông đã hiểu thấu đáo bản chất của CS Hanoi chỉ là một lũ tay sai của QTCS đệ Tam, hiếu chiến, nhiều lươn lẹo. Những người theo CS, theo nhận định của ông Ngô Đình Cẩn, phần đông bị bắt buộc hoặc chỉ vì bị lầm lẫn qua xảo thuật tuyên truyền bịp bợm của Hanoi. Họ cần phải được thuyết phục, chiêu hồi bằng chính nghĩa, cần phải đưa họ về với dân tộc bằng con đường hòa bình nữa, chứ không thể chỉ đơn thuần bằng nhà tù hay biện pháp quân sự. Chính sách “Chiêu Mời Và Sử Dụng Những Người Kháng Chiến Cũ” do ông Cẩn đề ra đã đạt thành quả mỹ mãn. Xin nêu một vài chứng minh, trích nguyên văn trong cuốn ‘Dòng Họ Ngô Đình Ước Mơ Chưa Đạt’, trang 99, tác giả Nguyễn Văn Minh, Hoàng Nguyên xuất bản, tái bản lần thứ tư tháng 7-2004: “Lê Phước Thưởng, tỉnh uỷ viên Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên đã bị bắt. (Lê Phước Thưởng một người cựu kháng chiến cảm phục ông Cẩn đến độ, sau 30-4-75, ở trong tù cải tạo luôn luôn sẵn sàng đánh lộn với người nào nói xấu ông Cẩn hoặc Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung. Người từng chứng kiến những vụ đánh lộn của Lê Phước Thưởng là cựu Tr T. Lê Thiện Phước ở tù chung với Thưởng)”.

Cùng trang 99 nêu trên: “Nguyễn Đình Chơn, Thành ủy viên Thành ủy Huế là người đầu tiên thực tâm chuyển hướng đã được trả cấp bậc Thiếu tá Cảnh sát, làm Trưởng ty Cảnh sát Đặc Biệt Gia Định cho đến ngày 30-4-1975, đi tù cải tạo và hiện đã định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O.”. Số cán bộ VC hoạt động ở miền Nam vĩ tuyến 17 càng ngày càng cạn dần thấy rõ, mới chỉ sau 2 năm chính sách ‘Chiêu Mời’ của ông Cẩn đề ra.

Tổng thống Diệm cũng hiểu cả các tổ chức, các phe phái trong hoàn cảnh xã hội hỗn loạn, nhiều xu hướng chính trị phức tạp “thập nhị sứ quân” ở miền Nam do Thực Dân Pháp và Cộng Sản để lại. Đặc biệt là cụ Diệm biết rất rõ các nhu cầu thiết yếu của đời sống nông dân (chiếm 80% dân số Việt Nam) ở vùng quê và vùng núi là những an toàn khu của Việt Cộng cần phải vô hiệu hóa. Cho nên chỉ trong vòng 2 năm sau Hiệp Định Geneva (1955-1957), với ngân quỹ trống rỗng, với binh lực vá víu, nhưng chính quyền tổng thống Ngô Đình Diệm không những đã chiến thắng đám tay sai Thực Dân Pháp, mà còn chiến thắng CS ở Nam Việt Nam, rất vẻ vang, dẫn đến cải tiến sâu rộng toàn bộ xã hội miền Nam, mà trước đó, tưởng chừng như không một ai có thể thực hiện nổi. Vì thế mà tổng thống Mỹ Dweight D. Eisenhower đã gọi tổng thống Ngô Đình Diệm là người có phép lạ (A Miracle Man) trong công cuộc ổn định miền Nam Việt Nam. Tổng thống Diệm được mời đến thăm nước Mỹ trong Tháng Năm 1957, đã được tổng thống Eisenhower ra tận chân cầu thang máy bay nghênh đón rất trọng thể. Ngài cũng nhận được 10 ngàn đô-la cho giải thưởng chống Cộng Magsaysay sau đó, và ngài đã tặng hết số tiền này cho Đức Lạt Lai Lạt-Ma của Tây Tạng. Nhưng đối với tổng thống Diệm, đó không phải là hào quang. Cái hào quang mà cụ Diệm tìm kiếm đã từ 20 năm về trước, đó chính là: chủ quyền của dân tộc và nền an sinh hạnh phúc của toàn dân.

Căn cứ vào thành quả trên, có thể nói tổng thống Diệm là người hiểu rõ mánh khoé của đảng giặc Đỏ, hiểu rõ thực dân Pháp, hiểu rõ ‘đồng minh’ Hoa Kỳ, nhưng cụ đã lầm lẫn khi tin dùng một lũ tay sai phản loạn. Tổng thống Diệm cũng đã coi thường cái chết của chính cụ và các bào đệ, chỉ vì ngài quan niệm “quân đội để bảo vệ Tổ Quốc chứ không để bảo vệ Tổng Thống”. Tổng thống Diệm đã tôn trọng quân đội, nhưng khốn nỗi, trong đám chóp bu quân đội lúc ấy, có một số người “bất tài vô đức” lại được tổng thống tin cẩn, chỉ nghĩ đến danh và lợi nhất thời, dơ bẩn, phản phúc, không tôn trọng hiến pháp, không nhìn xa trông rộng, con nhái bén muốn to bằng con bò, nên mới dẫn đến ngày “gãy súng” 30-4-1975, đưa cả nước vào vòng nô lệ giặc Tàu.

Đành rằng sự yểm trợ của Mỹ cho Saigon -- ở vào giai đoạn khó khăn bước đầu khai sinh nền đê nhất Cộng Hòa ở Nam Việt-Nam -- là cần thiết. Nhưng cách yểm trợ của họ đã thiếu khôn khéo nếu đem so với cách yểm trợ của Nga-Tàu cho Hanoi. Tổng thống Diệm đã hiểu rất rõ cái ‘thế đứng’ của Việt Nam trên trường Quốc Tế lúc ấy rất khó khăn. Cụ muốn tách rời sự yểm trợ của Mỹ ở miền Nam và khuyến dụ Hanoi cũng tách rời sự yểm trợ của Nga-Tàu ở miền Bắc để tránh binh đao cho toàn dân, qua 6 bước phát triển giao lưu:
    1. Cho dân 2 miền trao đổi thư tín.
    2. Cho dân qua lại tự do.
    3. Cho dân 2 bên tự do lựa chọn nơi định cư.
    4. Trao đổi kinh tế.
    5. Hiệp thương.
    6. Tổng tuyển cử.
Tiến trình đó chỉ là đề nghị sẽ được tham khảo, nghiên cứu kỹ càng, và trước khi thi hành phải được quốc hội phê chuẩn. Tổng thống Diệm tin tưởng vào thế mạnh của miền Nam về kinh tế, chính trị và ngoại giao trong thời điểm lúc bấy giờ (1956-1962) để có thể nói chuyện với Hanoi. Vẫn biết, vượt qua được 6 bước giao lưu đó là một điều cực kỳ nguy hiểm và cực kỳ khó khăn cho cả 2 phía người Việt. Rất tiếc, tuy việc lớn không thành, nhưng phải công nhận, đó là sáng kiến táo bạo của một người yêu nước thương dân hết lòng, mà chỉ có cụ Diệm mới dám nghĩ, dám thực hiện. Tổng thống Diệm không muốn nhìn người dân của mình lâm cảnh binh đao, làm mồi cho các xung đột quốc tế. Thật đáng thương tiếc một người yêu dân yêu nước nồng nàn! Tổng thống và các bào đệ đã chết vì chính sáng kiến yêu nước của mình! Lại còn bị vu oan giá họa là “đâm sau lưng chiến sĩ”.

Những người kém hiểu biết, hoặc đần độn, hoặc vì định kiến sai lầm, thoạt nhìn sự kiện ông cố vấn Ngô Đình Nhu gặp Phạm Hùng ở Tánh Linh, đã hồ đồ kết luận ngay rằng tổng thống Diệm “đâm sau lưng chiến sĩ”. Họ cần phải hiểu rằng, trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào, từ cổ chí kim, cũng đều phải kết hợp giữa đấu tranh chính trị với quân sự mới hy vọng chiến thắng. Đó là chuyện thường tình. Kissinger đã đi đêm nhiều lần với Tàu Cộng vì biết Tàu Cộng là cha đẻ của Cộng đảng Hanoi, trong khi quân Mỹ đang chiến đấu ở Việt Nam. Tổng thống Thiệu cũng đã từng đòi nói chuyện ngang hàng với Hanoi ở bàn hội nghị mà không được. Kennedy và Khrushchev vẫn phải nói chuyện với nhau giữa lúc cuộc chiến tranh lạnh đang tiếp diễn. Mới đây, ông Hamid Karzai, tổng thống Afghanistan có ý muốn nói chuyện với thủ lãnh phiến loạn Taliban trong khi quân của ông còn đang lâm chiến với quân Taliban. Thử hỏi, những người này có “đâm sau lưng chiến sĩ không”? Hơn nữa ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã cho Cabot biết là ông sẽ nói chuyện với Hanoi; ‘danh chính ngôn thuận’ như thế thì sao lại gọi là “đâm sau lưng chiến sĩ”? Việt Nam Cộng Hòa có chủ quyền, đương nhiên muốn nói chuyện với ai thì nói. Vả lại, việc ông cố vấn Ngô Đình Nhu nói chuyện với Phạm Hùng mới chỉ là bước đầu, chưa thể thành hình trong một sớm một chiều. Mọi việc, nếu 2 bên thỏa thuận cùng ngồi vào bàn hội nghị, thì qua bàn hội nghị này sẽ còn tốn một thời gian lâu dài, có quốc tế chứng kiến. Như thế, thì dù có muốn “đâm sau lưng chiến sĩ” cũng không đâm được. Dĩ nhiên, kết quả hội đàm còn tuỳ thuộc vào tài năng đấu lý, chiêu dụ, áp lực của mỗi phía. Ai biết trước được kết quả sẽ ra sao.

Như mọi người đã thấy, sau khi tổng thống Diệm và các bào đệ bị thảm sát, hơn 10 năm liên tục chiến tranh với các trận đánh nảy lửa, với số bom đạn sử dụng được biết là còn hơn thế chiến II , đã gây thương vong cho 3 triệu người Việt, và 58 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ, quê hương bị tàn phá, kết quả miền Nam vẫn bị “bể dĩa”. Trước khi “bể dĩa” cũng vẫn phải đi qua hòa đàm, nhưng hòa đàm ở thế yếu, chứ đâu được ở thế mạnh như thời cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu đưa sáng kiến với Phạm Hùng. Đáng trách nhất là 3 tên: Cabot Lodge, Harriman và Hilsman đã chẳng hiểu một tí gì về CSVN và những nét đặc thù của chiến tranh Việt Nam. Họ không hiểu rõ bản chất của cuộc chiến họ đang đeo đuổi là một cuộc chiến tranh “ý thức hệ giữa CS và Tư Bản”, nhưng họ cần phải hiểu thấu đáo hơn nữa về cuộc chiến này là một bên, miền Nam VN bảo vệ nền Tự Do Dân Chủ phôi thai vừa mới lấy lại từ tay Thực dân Pháp. Quan trọng và khó khăn là còn phải lo chống lại một thứ vũ khí tuyên truyền rất tinh vi xảo quyệt, có khả năng thu hút quần chúng các xứ nghèo rất mạnh của Đệ Tam QTCS. Còn bên kia, miền Bắc là con đẻ của Đệ Tam QTCS rất thạo nghề tuyên truyền xảo trá, quyết tâm “đánh Mỹ giùm cho Nga-Tàu đến người Việt Nam cuối cùng”. Sự hiện diện quá đông đảo của quân đội Mỹ lúc ấy, theo tổng thống Diệm là một điều tối kỵ. Cũng không thể chỉ đơn thuần giải quyết bằng bom đạn mà có thể thành công được. Và rõ ràng là đã không thành công. Họ cũng không hiểu nổi những khó khăn, đầy phức tạp trong xã hội miền Nam sau khi dân chúng miền Nam vừa mới thoát khỏi nanh vuốt nham hiểm của thực dân Pháp và CS. Những khó khăn chồng chất về mọi mặt, đòi hỏi nhiều thời gian để ổn định, không thể gấp rút được.

Với 9 năm cầm quyền của tổng thống Diệm, là một thời gian quá ngắn, không đủ để có thể biến một miền Nam VN đầy dẫy tệ đoan xã hội, nhân tâm chia rẽ trầm trọng -- vì đã chịu ảnh hưởng lâu dài của cả 3 chế độ: Phong Kiến, Thực Dân, Cộng Sản với 3 chính sách ‘ngu dân’ sâu đậm -- để trở thành một nước có thể chế Tự Do, Dân Chủ theo kiểu Tây Âu hoặc Hoa Kỳ, là một việc bất khả thi. Nhưng chính việc bất khả thi này đã trở thành một trong những nguyên nhân mà bọn phản bội và phản loạn dựa vào, biện minh cho việc lật đổ chính quyền của tổng thống Diệm.

Giáo sư Sử học, ông Howard Jones tác giả cuốn ‘Death Of A Generation’, trang 97&98, đã nêu ra sự so sánh giữa Mã Lai và Nam Việt-Nam có cùng nhiệm vụ chống CS nhưng rất khác nhau về nòi giống, về hoàn cảnh xã hội và về hoàn cảnh địa dư như sau:

“Lemnitzer’s analysis reinforced Taylor’s feelings. The joint chiefs’chair recognized the advisability of using countersurgency tactics where applicable. But despite the similateries between the British experiences in Malaya and the situation in South Vietnam, the differences were so striking that the latter required military action. The rebels in Malaya had been denied a safe haven in neighboring Thailand; the Vietcong enjoyed that privilege in both Lao and Cambodia. The racial features of the Chinese insurgents in Malaya had distinguished them from the native populace; the Vietcong were not discernible from South Vietnam loyalists. Food war scare in Malaya but plentiful in Vietnam, meaning that the Vietcong had ample supplies. The most important differences, however, lay in leadership and field perfomance: The British had commanded well-trained Commenwealth troops, whereas the ARVN forces suffered from inadequate training and low morale that became evident in their poor fighting record. Despite all these British advantages, it took twelve years to squelch an insurgency in Malaya that was considerably weaker than the one led by Vietcong.”

Lược dịch: Phân tích của ông Lemnitzer đã tăng cường cho cảm nghĩ của tướng Taylor. Vị tham mưu trưởng nhắc nhở lời cảnh báo về việc sử dụng chiến thuật chống nổi dậy, có thể được áp dụng. Mặc dầu có những điểm tương tự giữa kinh nghiệm của người Anh ở Mã-Lai với hoàn cảnh ở Nam Việt-Nam, nhưng những khác biệt đã thuyết phục được điều sau cùng là phải có hành động quân sự. Quân du kích ở Mã-Lai không có nơi an toàn trong đất láng giềng Thái-Lan; trong khi Việt Cộng có đặc quyền này ở cả hai nước Lào và Cambodia. Đặc điểm về nòi giống của quân nổi dậy người Tàu ở Mã-Lai có những khác biệt với quần chúng bẩm sinh ở địa phương; trong khi Việt Cộng lại không có gì để phân biệt với dân chúng thuần tuý Nam Việt-Nam. Thực phẩm dùng cho chiến tranh trong đất Mã-Lai thật đáng ngại, nhưng lại đầy dẫy ở Việt-Nam, có nghĩa là Việt Cộng được tiếp tế thực phẩm đầy đủ. Tuy nhiên, điểm khác biệt quan trọng hơn cả là sự lãnh đạo chỉ huy và đặt kế hoạch: Người Anh đã chỉ huy một quân đội đại chúng, được huấn luyện kỹ càng, trong khi quân đội Nam Việt-Nam lại không được huấn luyện tương ứng và tinh thần thấp kém, nghèo nàn, đã được ghi nhận trong chiến đấu. Mặc dầu người Anh có những lợi điểm như vừa kể, mà cũng phải mất mười hai năm mới đè bẹp được quân nổi dậy ở Mã-Lai mới là điều yếu kém đáng được xem xét hơn là cái mà Việt Cộng đã chỉ đạo.

Nội dung trích đoạn trên có thể chưa hoàn toàn đúng, nhưng phần lớn đã phản ánh những tiêu điểm khách quan, làm nổi bật về thời gian, và về nhiều ưu thế sẵn có của Mã Lai mà Nam Việt-Nam không có. Thế mà Mã Lai cũng đã phải mất 12 năm mới đè bẹp được CS. Điều quan trọng là phương pháp chống CS ở mỗi nước. Sự so sánh rất sát với thực trạng của 2 nước trong thập niên 1960.

Nếu dùng công tâm để nhận xét, không ai phủ nhận, trong 9 năm cầm quyền của tổng thống Diệm có một số nhỏ nhược điểm. Tuy những nhược điểm đó không phải là đường lối chính sách do tổng thống Diệm đề ra, mà chỉ do cấp thừa hành phạm phải, hoặc một vài lề lối cũ chưa kịp sửa đổi, nhưng đã bị phe phái chống đối, đám bất mãn và đặc biệt là CS chen vào khai thác, lợi dụng, thổi phồng, vu khống. Chỉ vì quyền lợi phe phái nhỏ nhen, mà những người này đã cố tình bỏ qua những ưu điểm rất lớn về chủ quyền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, v.v…mà cụ Diệm đã đạt được cả về phẩm và lượng trong thời gian 9 năm cầm quyền; chẳng hạn như trong sách ‘Ngô Đình Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc’, trang 219, tác giả Minh Võ cho biết: “… tòa đại sứ ở Saigon lúc ấy là 81, gần gấp đôi số nước có bang giao với Hanoi. Trong khi Hanoi không đủ gạo ăn thì Saigon xuất cảng, từ 70,000 tấn vào năm 1955 đã tăng lên đến 340,000 tấn xuất cảng vào năm 1962. Số lượng gia súc như heo, gà, vịt xuất cảng trong năm 1961 đã trị giá gần 140 triệu đồng (vào khoảng 4 triệu Đô-la, tính theo giá chính thức là 35 Đồng một Đô-la). Và còn nhiều ưu điểm khác không kể xiết”.

Cùng trang 219, ở một đoạn khác, ông Minh Võ cho biết thêm: “… tác giả Hồ Sỹ Khuê, một người vốn chê ông Diệm là độc tài và kỳ thị tôn giáo, thậm chí đàn áp Phật Giáo. Ông Hồ Sỹ Khuê nói về cảnh thanh bình phồn thịnh ấy như sau. – Đây tôi đọc từ cuốn sách đồ sộ của ông nhan đề Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Trong đó có nhiều câu đại loại như thế này: ‘nông thôn không còn bần cố nông. Thành thị cũng không bao giờ còn gọi là vô sản được …’ ‘Tài xế tắc xi nhưng trưa đến không kể khách, nằm gác chân xem báo. Đạp xích lô nhưng mỗi chiều ngồi nhậu nhẹt lai rai bàn chuyện thời cuộc với xóm giềng. Những cảnh như thế xóa sạch mọi đẳng cấp …’”

Như thế, chỉ nói riêng về dân sinh thì miền Nam cũng đã hơn hẳn miền Bắc với thời gian lâu hơn nhưng tồi tệ hơn, và luôn bị che khuất bởi bức màn sắt rất kiên cố. Ngoài ra, cũng còn nhiều ưu điểm khác đáng chú ý, mà ngay cả kẻ thù cũng không thể phủ nhận là: các hạ tầng cơ sở của Cộng đảng ở miền Nam dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị tiêu diệt nặng nề, gần như bị phá sản không thể cứu vãn. Cũng theo sđd ở trên của tác giả Minh Võ trang 140, phần chú thích cho biết: Nguyễn văn Linh đã nói với nhà báo thân cộng Neil Sheehan các cơ sở hạ tầng bị phá vỡ là 75%. Còn theo Văn Tiến Dũng viết trên giấy trắng mực đen thì 90% cán binh CS ở miền Nam đã bị tiêu diệt, 60.000 chỉ còn 5,000 và đã phải thừa nhận: hy vọng chiến thắng rất mong manh (xem After The War Was Over của Neil và xem Về cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước của Văn Tiến Dũng, chú thích trang 16).

Không biết sau ngày 2-11-1963, các cơ sở VC này ra sao. Chúng có hồi sinh được hay không? Nhưng các trận đánh lớn đã đưa miền Nam vào bàn hội nghị Paris 1973 ở thế yếu. Thật đáng tiếc, những thành quả to lớn về mọi mặt của tổng thống Diệm vừa nêu trên, nền đệ nhị Cộng Hòa đã không đủ bản lãnh để nối dài thêm nữa. Có rất nhiều nguyên do mà theo tiến sĩ, giáo sư sử học Mark Moyar, tác giả cuốn Triumph Forsaken, thì: “Nhiều cá nhân giữ những địa vị trong chính quyền trong thời hậu Diệm, đích thực, thiếu các đức tính cần thiết của một nhà lãnh đạo, và chẳng ai có tài bằng Ngô Đình Diệm.” Nhưng ông không cho đó là vấn đề quan trọng mà: “chính là sự loại trừ một số người trong giới thượng lưu ra khỏi chính phủ và sự thao túng của phong trào Phật Giáo trong việc vận dụng các nhà lãnh đạo chính phủ. Kể từ tháng 11 năm 1963 về sau những lãnh tụ hàng đầu ở Sài Gòn không ngừng lập đi lập lại việc loại trừ những người có tài đáng kể, hoặc vì những người này đã trung thành với ông Diệm, hoặc vì những lãnh tụ đó bị áp lực từ nhóm Phật Giáo tranh đấu …” (trang 334, sđd, Minh Võ).

Đây là một sự kỳ thị thật đáng trách xuất phát từ óc bè phái nhỏ nhen. Khi nhắc đến ‘nhóm Phật Giáo tranh đấu’ là nhắc đến tên Thích Trí Quang, một người mặc áo thày tu để làm loạn. Qua nhiều tài liệu chưa phân định chính xác, hắn có là đảng viên CS hay không. Nhưng dù hắn có là đảng viên CS nằm vùng, trá hình dưới áo thày tu hay không đi nữa thì thực tế hắn cũng đã lợi dụng chiếc áo cà sa để làm loạn, góp sức gây sụp đổ cả 2 nền đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa ở Nam Việt-Nam. Hắn chỉ ngưng làm loạn sau ngày 30-4-75. Nhưng sau 30-4-75 nhiều người mới vỡ lẽ giặc Cộng mới chính là là kẻ thù của Phật Giáo và các tôn giáo khác, thì hắn lại im hơi lặng tiếng, không làm loạn cũng không ‘tranh đấu’ nữa. Điều đó cho thấy ở 2 giai đoạn trước, hắn ‘tranh đấu’ không vì ‘Pháp nạn’ mà vì mục tiêu chính trị. Cũng có thể là vì bản chất hèn, hắn biết rõ ở 2 chế độ trước không ai làm gì hắn, nhưng dưới chế độ giặc Cộng cầm quyền chuyên nghề sử dụng luật rừng, nếu làm loạn thì hắn có thể bị cầm tù hoặc bị giết. Vào thời đệ nhất Cộng Hòa, hắn đã xin vào núp trong tòa đại sứ Mỹ ở Saigon và được Cabot Lodge che chở vì đây cũng là con bài rất tốt giúp cho phe cánh của Cabot lật đổ tổng thống Diệm. Sang đến đệ nhị Cộng Hòa, khi hắn đang ‘tranh đấu’ thì bị tướng Nguyễn Ngọc Loan bắt ở Huế đưa về Đà Nẵng bằng trực thăng. Theo lời kể lại không rõ thực hư, thì hắn đã quỳ lạy trước tướng Loan như tế sao, vì biết tướng Loan là ‘người dám nói dám làm’ dám đá hắn xuống khỏi trực thăng.

Bên cạnh tên hèn Thích Trí Quang còn có một tên hèn khác là Dương Văn Minh. Trên tờ Hải Ngoại Nhân Văn, Số 2 - Tháng 8 Năm 1997, chủ biên Hồ Công Tâm, trang 41, có đăng bài viết tựa đề: “Lại tên vô-lại Dương Văn Minh”, tác giả bài viết, luật sư Nguyễn Văn Chức, cựu nghị sĩ quốc hội Việt Nam Cộng Hòa. Trong một đoạn của bài viết này, luật sư Chức đã mô tả ông Minh như sau: “Trình độ học vấn của Dương Văn Minh đã thấp, nhân cách của y còn thấp hơn. Liêm sỉ của một tướng lãnh, thì lại quá tệ. Ai cũng biết trong vụ đảo chính 1963, y đã ra lệnh ám sát Tổng thống Diệm trên chiếc xe tăng từ nhà thờ Cha Tam về Tổng Tham Mưu, rạng ngày mùng 2 tháng 11. Nhưng sau này y chối. Chẳng những chối mà còn đổ lỗi cho người khác. Trong cuốn Our Endless Wars, tướng Trần Văn Đôn, linh hồn của cuộc đảo chính, đã phải bực mình …”

Năm 1997, nhân dịp kỷ niệm ngày 30-4, Dương Văn Minh tuyên bố sẽ về Việt Nam để góp phần xây dựng đất nước. Luật sư Nguyễn Văn Chức nhận định: “Người ta hiểu rằng, trước khi tuyên bố như vậy, y đã được Việt Cộng cho phép về Việt Nam. Người ta cũng hiểu rằng y đã được Việt Cộng cho phép về Việt Nam để xây dựng nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Việt Cộng.
    Năm 1963, hèn hạ, phản bội và làm tay sai.

    12 năm sau, năm 1975, làm tay sai, hèn hạ và phản bội.

    22 năm sau, năm 1997, lại phản bội, làm tay sai và hèn hạ.

    Suốt đời phản bội. Suốt đời làm tay sai.

    Suốt đời hèn hạ. Suốt đời háo danh.

    Suốt đời đần độn. Đó là Dương Văn Minh.”
Bây giờ nhìn về quá khứ, thành phần cam chịu nhiều thiệt thòi nhất, nhưng hy sinh nhiều nhất là các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Suốt 20 năm (1954-1975) chiến đấu chống CS không ngừng nghỉ. Không ai có thể phủ nhận được thiện chí và công lao to lớn của họ dành cho Tổ Quốc và đồng bào. Họ đã bảo vệ nền dân chủ/tự do còn non trẻ cho miền Nam Việt-Nam cho đến khi không còn sức để bảo vệ. Nhiều chiến sĩ đã từ giã người thân, âm thầm lên đường và âm thầm gục ngã. Nhiều chiến sĩ đã bị tù mà không có tội sau ngày 30-4-1975. Ngày nay vẫn còn nhiều chiến sĩ bị tàn phế, bị bỏ quên sau chiến cuộc. Tất cả, họ là những người đã chiến đấu hết sức cho tự do/ dân chủ, nhưng cuối cùng họ vẫn không được hưởng tự do/dân chủ trên chính quê hương mình.

Đã 47 năm qua, bây giờ nhắc lại ngày 01-11-1963 là nhắc lại một thời điểm lịch sử đen tối, mở màn cho một thời điểm đen tối hơn: ngày 30-4-1975. Ngày này sẽ còn kéo dài, chưa biết đến bao giờ mới chấm dứt. Vì lẽ, với óc nô lệ giặc Tàu, đảng giặc đỏ ở Hanoi vẫn nhẫn tâm, tiếp tục cai trị dân bằng bạo lực, bằng cờ máu búa liềm. Cha đẻ của cờ máu búa liềm, nước Nga đã vĩnh biệt nó từ 20 năm nay, nhưng khốn nỗi, nó vẫn còn in đậm nét trong đầu não các quan thái thú Tàu biết nói tiếng Việt ở Hanoi. Có lẽ, sẽ còn lâu người dân Việt Nam mới nhìn thấy ánh sáng Tự Do, Dân Chủ, vì giặc đỏ không bao giờ ‘tiêu hóa’ nổi ý nghĩa sâu xa của câu nói: “Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác gì nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang.”

Sách tham khảo:

- Bàn Tay Hoa Kỳ Và Cái Chết Ông Diệm, nguyên tác Ellen J. Hammer, do Vũ Văn Ninh&Trần Ngọc Dung dịch.

- Cuộc Chiến Thằng Bỏ Lỡ theo các chứng liệu về Chiến Tranh Việt Nam của cựu Đại Sứ Mỹ Ellsworth Bunker, nguyên tác Stephen B. Young, do Nguyễn Vạn Hùng dịch.

- Death Of A Generation của Howard Jones.

- Ngô Đình Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc cuả Minh Võ.

- Dòng Họ Ngô Đình Ước Mơ Chưa Đạt của Nguyễn Văn Minh.

- Công Và Tội của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945-2006 Lịch Sử Hiện Đại Việt Nam cùa Hoàng Ngọc Thành.

San Jose 29-10-2010
Võ Phương


Friday, October 29, 2010

Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm Với Những Bài Học Lịch Sử - Linh mục Trần Quý Thiện

Linh mục Trần Quý Thiện

Có những người chết đi nhưng thế giới không bao giờ quên được họ, vì đời sống họ đã ảnh hưởng tới xã hội này nhiều quá. Sự nghiệp họ được truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác, nhưng không bao giờ bớt phần vinh quang rực rỡ. Tư tưởng và hành động của họ vẫn được người đời coi như khuôn vàng thước ngọc để noi theo bắt chước. Họ là ai? Xin thưa đó là các vị Anh Hùng của Dân Tộc.

Trong dòng lịch sử bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt, trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, người ta thấy trên giang sơn gấm vóc thân yêu của chúng ta đã phát sinh nhiều vị Anh Hùng Dân Tộc, mà ngày nay chúng ta là con cháu luôn ngưỡng mộ và tri ân. Mỗi thời đại đều xuất hiện những vị Anh Hùng khác nhau để Kiến Quốc và Cứu Quốc. Nếu sau thời đại các vị Vua Hùng, chúng ta thấy có Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh thì trong thời đại kế tiếp, chúng ta có Lê Lợi, Lý Thái Tổ, Lê Thánh Tôn, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ và trong thời cận đại, chúng ta có Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Trường Tộ v.v…

Trong lịch sử Việt Nam cận đại, các sử gia đã đặc biệt quan tâm đến một con người, một nhà ái quốc, đúng hơn là một nhà cách mạng mà cụ Phan Bội Châu đã hết lời ca tụng nghĩa cử dũng lược từ quan, lúc Người mới hơn 30 tuổi đã dám thách thức quyền lực của cả nước Pháp: Đó là Chí Sĩ Ngô Đình Diệm.

Hôm nay nhân kỷ niệm 50 năm, Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm thiết lập thể chế Tự Do Dân Chủ lần đầu tiên tại Việt Nam, qua biến cố lịch sử Trưng Cầu Dân Ý ngày 23 tháng 10 năm 1955, Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia tổ chức Thánh Lễ Giỗ Năm Thứ 42 cầu nguyện cho Cố Tổng Thống và các Quân Dân Cán Chính đã hy sinh vì Tổ Quốc và tất cả đồng bào đã bỏ mình trên đường đi tìm Tự Do trong hai biến cố lịch sử năm 1954 và 1975, với tư cách là một người Việt quốc gia, chúng tôi xin được trình bày vài nét về Chân Dung Cố Tổng Thống với những Bài Học Lịch Sử mà Người đã để lại cho chúng ta.

Theo thiển ý của chúng tôi, sau nửa thế kỷ Thể Chế Tự Do Dân Chủ được thiết lập trên quê hương, đàng khác chúng ta còn là những người đang chứng kiến những đổi thay khốc liệt đang nhận chìm đất nước trong đói nghèo, khổ đau, lạc hậu, nhân quyền bị chà đạp, thì đây chính là thời điểm quyết định để chúng ta đối diện với Lịch Sử Việt Nam, đối diện với vai trò đặc biệt của người Việt Hải Ngoại trong sứ mệnh định hướng dòng lịch sử đó. – Hiện nay, chủ nghĩa cộng sản đã thất bại, đã bị loại bỏ trên chính trường thế giới, đã đến lúc chín muồi để chúng ta thẩm định Nhân Vật Chống Cộng cương quyết này, trên bình diện đời sống cũng như bình diện tư tuởng. Điều gì chúng ta có thể học được từ cuộc sống của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, khi chúng ta nghĩ về thảm trạng đau buồn của Quê Hương và hướng nhìn về tương lai của đất nước thân yêu này.

VÀI NÉT CHÂN DUNG NGÔ TỔNG THỐNG

Theo các tài liệu lịch sử đã được công bố, Tổng Thống Ngô Đình Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại Huế trong một gia đình công giáo danh vọng bậc nhất miền Trung thời đó. Thân phụ là cụ ông Ngô Đình Khả và thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Thân, nguyên quán làng Đại Phong, Huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Trung Phần Việt Nam. Cụ Ngô Đình Khả là Thượng Thư triều đình Huế kiêm Phụ Đạo Đại Thần và cũng là Cố Vấn của vua Thành Thái.

Gia đình ông bà cụ cố Ngô Đình Khả có tất cả 9 người con: 6 người con trai và 3 người con gái. – Trưởng nam là Tổng Đốc Ngô Đình Khôi đã bị cộng sản giết năm 1945 cùng với người con trai là Ngô Đình Huân; Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục; Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người con trai thứ ba; ba người con gái là bà Ngô Đình Thị Giao, tức bà Thừa Tùng; bà Ngô Đình Thị Hiệp, tức bà Cả Ấm, thân mẫu Hồng Y Nguyễn Văn Thuận và bà Ngô Đình Thị Hoàng, tức bà Cả Lễ, nhạc mẫu nghị sĩ Trần Trung Dung, tiếp theo là ba người con trai: Cố vấn Ngô Đình Nhu, Cố vấn Ngô Đình Cẩn và đại sứ Ngô Đình Luyện, người con út trong gia đình.

Cụ Cố Ngô Đình Khả nổi danh là một vị khoa bảng xuất chúng. Thời đó, tại Việt Nam rất hiếm có người được hấp thụ cả hai nền giáo dục Đông và Tây như Cụ. Lúc thiếu thời, Cụ theo Nho học, sau đó vào chủng viện học chương trình Pháp, rồi được gửi sang đại chủng viện Penang để học Triết học và Thần học Tây Phương bằng tiếng Pháp và tiếng La Tinh. Cụ là một chủng sinh rất xuất sắc, nhưng vì không có ơn gọi để trở thành linh mục, Cụ đã xin trở về cuộc sống thế tục. – Cụ Cố Ngô Đình Khả còn nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, cương trực, đức độ, một nhà ái quốc chân chính, là bạn thân của các nhà cách mạng nổi danh thời đó như cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. – Thành tích đáng kể nhất của cụ cố Ngô Đình Khả là nỗ lực thành lập Trường Quốc Học tại Huế, một trường công lập đầu tiên giảng dạy theo chương trình học thuật Đông Tây tại Việt Nam. Và chính Cụ là vị đại thần duy nhất đã can đảm công khai chống lại thực dân Pháp phế bỏ và đầy vua Thành Thái sang Phi Châu sống lưu vong, sau đó Cụ đã xin rũ áo từ quan về quê làm ruộng.

Lúc thiếu thời, cậu Diệm còn được theo học dưới sự dạy dỗ của một vị cha tinh thần khác, cũng nổi tiếng về kiến thức quảng bác, đức độ và lòng yêu nước: Đó là Quận Công Nguyễn Hữu Bài, Thượng Thư dưới triều vua Duy Tân. Ngài là vị đại thần duy nhất chống lại việc người Pháp tham lam muốn đào ngôi mộ vua Tự Đức để lấy vàng bạc châu báu. Vì thế dân chúng miền Trung thời đó vô cùng cảm kích ngưỡng mộ nên đã có phương ngôn: “Đày vua không Khả. Đào mả không Bài”. – Ngoài việc hấp thụ những đức tính cao đẹp và lòng yêu nước nồng nàn của thân phụ và nghĩa phụ, cậu Diệm còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền giáo dục Nho Giáo và Thiên Chúa Giáo. Thực vậy, nếu Nho Giáo đã hun đúc ông Diệm thành một con người thanh liêm, tiết tháo và cương trực thì nền giáo dục Thiên Chúa Giáo đã đào tạo ông Diệm thành một con người đầy lòng bác ái, vị tha và công chính.

Về giáo dục học đường, từ nhỏ cậu Diệm theo học trường Trung Học Pellerin. Năm 12 tuổi (1913), ông thi vào trường Quốc Học Huế dạy theo chương trình tổng hợp bằng Việt Ngữ và Pháp Ngữ. Đến năm 1917, lúc 16 tuổi, ông đỗ hạng nhì kỳ thi tốt nghiệp Trung Học. – Vì số tuổi qúa trẻ lại đạt thành tích xuất sắc, chính quyền thực dân Pháp đề nghị cấp học bổng sang Pháp du học nhưng ông đã từ chối. Năm 1918, lúc 17 tuổi, ông được mời làm giáo sư Trường Quốc Tử Giám, một trường dành riêng cho con cháu các quan triều đình. Đến năm 1919, lúc 18 tuổi, ông đủ tuổi để vào học trường Hậu Bổ, một trường tương tự như trường Quốc Gia Hành Chánh sau này. Suốt ba năm học, ông luôn luôn chứng tỏ là một sinh viên xuất sắc trong các ngành hành chánh, chính trị, luật pháp, do đó ông đã tốt nghiệp thủ khoa. Năm 1923, lúc 22 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Tri Huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên rồi Tri Phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Năm 1930, lúc 29 tuổi, với thành tích tận tụy phục vụ đồng bào, ông được đề cử làm Tuần Vũ tỉnh Bình Thuận, Phan Thiết.

Năm 1932, Hoàng Tử Vĩnh Thụy sau thời gian du học tại Pháp đã trở về nước lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu Bảo Đại. Để thực hiện một cuộc cải tổ sâu rộng, nhà vua đã mời ông Ngô Đình Diệm, lúc đó mới 31 tuổi, đang làm Tuần Vũ Phan Thiết đảm nhận chức vụ Thượng Thư Bộ Lại. Với chức vụ quan trọng này, ông Diệm đề nghị thi hành các kế hoạch canh tân xứ sở, nhưng Toàn Quyền Pasquier đã bác bỏ. Vì không muốn Pháp lợi dụng danh nghiã và uy tín của mình để lừa phỉnh dân chúng, ông đã nhất quyết từ bỏ chức vụ ra đi ngày 1 tháng 9 năm 1933. Sau khi dứt khoát từ bỏ quan trường, ông Diệm lui về nhà làm dân thường và đi dạy học truờng Thiên Hựu (Providence). Việc từ quan của Chí Sĩ Ngô Đình Diệm đã làm chấn động Triều Đình Huế và Chính Phủ Pháp thời đó.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Bộ Tư Lệnh Nhật ở Đông Dương tổ chức đảo chánh lật đổ nhà cầm quyền Pháp. Đại sứ Nhật Yokohama yêu cầu vua Bảo Đại tuyên cáo Việt Nam Độc Lập trong khối Đông Nam Á. Đối phó với tình hình mới, nhà vua lại mời ông Ngô Đình Diệm về làm Thủ Tướng nhưng vì không muốn làm vật hy sinh, ông đã từ chối và nhà vua đã mời cụ Trần Trọng Kim lúc đó 62 tuổi thành lập nội các. – Ngày 15 tháng 8 năm 1945, khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng, Việt Minh khai thác sự đột biến hoang mang của quần chúng, đã tổ chức cướp chính quyền trong một cuộc biểu tình ngày 18 tháng 8 năm 1945 tại Hà Nội. Sau đó, Cựu Hoàng cũng tuyên bố thoái vị. Còn ông Diệm trên đường từ Sàigòn về Huế đã bị Việt Minh bắt tại Tuy Hoà và biệt giam tại Quảng Ngãi. Để củng cố địa vị, Hồ Chí Minh đã mời ông Diệm hợp tác với chính phủ nhưng ông đã cương quyết từ chối. Khi bị giam tại Tuyên Quang, ông bị bệnh nặng được đưa về điều trị tại bệnh viện Saint Paul Hà Nội, nhưng ông đã được ông Nhu lúc đó đang làm việc tại Thư Viện Trung ương Hà Nội tìm cách cứu thoát. Đến năm 1948, một lần nữa ông Ngô Đình Diệm từ chối lời mời của Cựu Hoàng thành lập chính phủ trong Liên Hiệp Pháp. Từ đó ông xuất ngoại, đi vận động ngoại giao tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Pháp, Bỉ và được Đức Giáo Hoàng Piô XII tiếp kiến tại La Mã.

Vì tình hình chiến sự suy sụp mau chóng sau khi thất thủ tại Điện Biên Phủ, Chính Quyền Pháp muốn rút lui trong danh dự nên đồng ý trao trả độc lập thực sự cho Việt Nam. Trước tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị cắt làm đôi, Cựu Hoàng Bảo Đại đã kêu gọi lòng ái quốc và trách nhiệm trước sự tồn vong của dân tộc, đã yêu cầu ông Diệm nhận lãnh sứ mạng. Vì nghĩ rằng đây là cơ hội cuối cùng, ông có thể đứng ra lập chính phủ để cứu nước nên ông đã nhận lời, bất chấp sự can ngăn của các chính khách thân hữu. Sự kiện lịch sử này xảy ra ngày 19. 06. 1954, trước khi Hiệp Định Genève chia cắt hai miền Nam Bắc đất nước theo sông Bến Hải ngày 20. 07. 1954 đúng sau 31 ngày. Ngày 24 tháng 06 năm 1954 Thủ Tướng Diệm rời Ba Lê về nước thành lập chính phủ. Sau đó cuộc Trưng Cầu Dân Ý được tổ chức ngày 23 tháng 10 năm 1955 và Đệ Nhất Cộng Hoà được thiết lập ngày 26 tháng 10 năm 1955 khởi đầu cho Thể Chế Tự Do Dân Chủ đầu tiên trên quê hương Việt Nam.

NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ VỚI CHÚNG TA

Trên đây chúng tôi đã ghi lại vài nét đại cương về Chân Dung Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nhiều sách báo và sử liệu cũng đã nói về cuộc đời chính trị cũng như đời sống riêng tư của ông, một lãnh tụ cương trực, khí khái và chống cộng quyết liệt. Ông cũng là một nhà lãnh đạo bướng bỉnh với đế quốc, bất luận Pháp, Tàu hay Mỹ. Tuy nhiên Tổng Thống có cái uy riêng phát xuất từ một khuôn mặt phúc hậu, một tác phong cương nghị, một giọng Huế ấm áp, một lối nhìn thẳng vào người đối thoại. Phong cách của ông khiến cho những ai có dịp tiếp xúc với ông đều phải kính nể.

Tổng Thống Diệm dáng người thấp, mái tóc đen, chân đi hai hàng nhưng mau lẹ. Ông ăn uống thanh đạm, thường dùng bữa ngay tại phòng ngủ, do ông già Ân hoặc đại úy Bằng phục dịch. Thực đơn ít khi thay đổi gồm cơm vắt, muối mè, cá kho và rau. Ông thích làm việc trong phòng ngủ, trang trí sơ sài với một cái giường gỗ nhỏ, một bàn tròn và ba ghế da. Tổng Thống là một người công giáo rất sùng đạo, dâng thánh lễ mỗi buổi sáng tại nhà nguyện trong dinh Độc Lập hay nguyện đường Dòng Chúa Cứu Thế. Tổng Thống sống rất nặng về Lý Tưởng. Con người Khổng Giáo nghiêm khắc và một giáo dân khổ hạnh. Ông thích cưỡi ngựa, sưu tập máy ảnh, thích chụp hình. Tiền bạc riêng thì giao trọn cho Chánh Văn Phòng Võ Văn Hải, vì không có nhu cầu tiêu xài riêng. – Tổng Thống sống độc thân và theo bà Ngô Đình Thị Hiệp, thân mẫu Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, ông đã tự nguyện khấn theo nếp sống của một tu sĩ công giáo trong thời gian lưu trú tại tu viện Maryknoll ở Lakewood, tiểu bang New Jersey. Phải chăng những đức tính trên đây của vị Tổng Thống Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà là một bài học lịch sử đáng cho ta suy nghĩ, ngưỡng mộ và bắt chước.

Bài học lịch sử quan trọng và thiết thân nhất mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã để lại cho chúng ta: Đó là lập trường cương quyết Bảo Vệ Chủ Quyền Quốc Gia. Tổng Thống Diệm là con người đã hy sinh cả cuộc đời để tranh đấu cho độc lập và chủ quyền quốc gia. Đối với ông, đó là những thứ thiêng liêng nhất, không thể bị hy sinh, không thể dùng để đổi chác với bất cứ điều gì. Với ông, nếu để người Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam, thì chủ quyền quốc gia sẽ bị xâm phạm, chính nghĩa cuộc tranh đấu chống cộng cũng mất. – Trong cuộc viếng thăm chính thức Việt Nam ngày 9 tháng 5 năm 1961, Phó Tổng Thống Mỹ Johnson đã đề nghị việc gửi Quân Đội Mỹ sang tham chiến tại Việt Nam. Tổng Thống Diệm đã bày tỏ quan điểm chính phủ Việt Nam rất biết ơn sự viện trợ quân sự và cố vấn Mỹ. Nhưng với việc gửi Quân Đội Mỹ đến Việt Nam ông đã cương quyết từ chối và nói: “Nếu Quý Vị mang Quân Đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với dân tộc tôi? Với người dân Việt, hình ảnh hãi hùng của Quân Đội Viễn Chinh Pháp còn hằn sâu trong tâm trí họ. Sự hiện diện của Quân Đội Mỹ sẽ làm cho dân chúng dễ dàng tin theo những lời tuyên truyền của cộng sản. Sự can thiệp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho Việt Nam, vì làm cho cuộc chiến đấu của chúng ta mất chính nghiã “. Và như chúng ta đã biết thái độ cương quyết từ chối này đã là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc chính biến ngày 1 tháng 11 năm 1963 của một nhóm tướng lãnh phản loạn và cái chết thê thảm của chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Bài học lịch sử thật đắt giá, dã man và tàn bạo!!

Sự vĩnh viễn ra đi của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã gây xúc động sâu xa và niềm thương cảm lớn lao nơi các lãnh tụ Á Châu thời đó. Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã than thở: “Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp. Tôi khâm phục ông Diệm. Ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu. Việt Nam có lẽ phải mất 100 năm nữa mới tìm được một nhà lãnh tụ cao qúy như vậy”. – Hơn nữa, cái chết của Cố Tổng Thống Diệm cũng đã làm cho các lãnh tụ Á Châu, đồng minh của Mỹ phải giật mình và đặt vấn đề. Chính Tổng Thống Hồi Quốc, Ayub Khan, đã nói thẳng với Tổng Thống Nixon: “Cuộc thảm sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã khiến các lãnh tụ Á Châu chúng tôi rút ra được một bài học khá chua chát: Đồng Minh với Mỹ thật nguy hiểm! Có lợi hơn nên đứng thế trung lập. Và có lẽ hữu ích hơn nữa khi là kẻ thù của Hoa Kỳ”.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm có thể đã phạm một số sai lầm khi cầm quyền. Điều này lịch sử sẽ phê phán công hay tội. Nhưng bất cứ người nào, dù là đồng minh như Hoa Kỳ hoặc đối thủ như Hồ Chí Minh, cũng phải công nhận rằng Tổng Thống Diệm là một nhà lãnh tụ nhiệt tình yêu nước, thương dân, trong sạch, khí phách và không làm cho người dân Việt phải hổ thẹn, vì ông đã cố bảo vệ đến cùng thể diện và uy quyền quốc gia. Không một gia đình Việt Nam nào đã phải hy sinh quá nặng nề như thế cho Dân Tộc, mất một lần bốn người con ưu tú: một vì tay cộng sản và ba vì tay quốc gia !!. Trên 42 năm qua, hai nấm mồ khiêm tốn của Tổng Thống và ông Cố Vấn nằm quạnh hiu nơi nghĩa trang giáo xứ Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương là một bài học lịch sử quý giá cho thân phận nước nhược tiểu đứng lên chống đế quốc. Nhưng chắc chắn mãi mãi vẫn là của lễ vô giá dâng trên bàn thờ Thiên Chúa và Tổ Quốc.

Linh mục Trần Quý Thiện


TRỞ LẠI DỤ SỐ 10 - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Trong bài “LHQ và vụ khủng hoảng Phật giáo 1963 (VI)”, đăng trên DCVOnline.net ngày 26-10-2010, ông Nguyễn Văn Lục, có đoạn đề cập đến bài viết của tôi nhan đề là “Lý do cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963” đăng trên các báo vào tháng 11-2009, chứ không phải trong sách Việt sử đại cương tập 6 như ông Nguyễn Văn Lục viết, đơn giản chỉ vì sách nầy chưa xuất bản.

Sau khi trích dẫn ba người viết khác nhau, trong đó có một đoạn trong bài viết của tôi, ông Nguyễn Văn Lục viết: “Cả ba đoạn trả lời trích dẫn trên đều có chung đặc điểm là mơ hồ, có chỗ lạc đề, có chỗ như xuyên tạc như nhận xét của ông Trần Gia Phụng. Trong một đoạn văn ngắn ở trên, ông Trần Gia Phụng đã mắc nhiều sai lầm và xuyên tạc vô bằng. Ông cho người ta có cảm tưởng ông chưa hề đọc bản văn về Dụ số 10.”

image002Tôi không dám nói là ông Lục chưa đọc Dụ số 10, nhưng riêng phần tôi, tôi xin gởi tặng ông Lục nguyên bản photocopy chương thứ nhất Dụ số 10 đăng trên Công báo Việt Nam ngày 19-8-1950 (hình trái), nhằm trả lời cảm tưởng của ông Lục rằng tôi “chưa hề đọc bản văn về Dụ số 10” để dư luận rộng rãi theo dõi. Xin ông Nguyễn Văn Lục vui lòng đừng chủ quan phán đoán.

Trở lại Dụ số 10. Dụ số 10 ngày 6-8-1950 gồm 45 điều. Chương thứ nhất (nguyên tắc), điều thứ nhất ghi rằng: “Hội là hiệp ước của hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi tức, như là mục đích thuộc về tế tự, tôn giáo, chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu khiển, thanh niên, thể thao và đồng nghiệp ái hữu. Muốn có hiệu lực thị hội nào cũng phải hợp với nguyên tắc chung của pháp luật về khế ước và nghĩa vụ.”

Sau điều thứ nhất, Dụ số 10 triển khai chi tiết điều kiện, mục đích, điều lệ, quy chế tổ chức hiệp hội,… Đến chương thứ năm, điều thứ 44, ghi rằng: “Chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô và các Hoa kiều lý sự hội sẽ ấn định sau.”

Như thế, theo Dụ số 10, các hội truyền giáo các tôn giáo như Phật giáo, Cao Đài giáo, Phật giáo Hòa Hảo đều nằm ngang hàng với các hội “chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu khiển, thanh niên, thể thao và đồng nghiệp ái hữu”, trong khi theo điều thứ 44 của Dụ nầy, các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô và các Hoa kiều lý sự hội sẽ được ấn định sau.

“Sẽ ấn định sau”, theo ông Nguyễn Văn Lục “có nghĩa là 13 năm sau vẫn chưa ấn định, có nghĩa Hội truyền giáo Ki tô và Hội Hoa Kiều Lý sự vẫn chưa có được quy chế đặc biệt. Vậy thì căn cứ vào đâu để nói rằng hội truyền giáo ki tô giáo được hưởng quy chế ưu đãi dựa trên pháp quy?”

Ông Lục nói đúng là cho đến khi chế độ Ngô Đình Diệp sụp đổ ngày 1-11-1963, vẫn chưa có quy chế cho các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô. Tuy nhiên, chẳng cần căn cứ vào đâu, người ta cũng hiểu rằng các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô không nằm trong các điều khoản do Dụ số 10 quy định thì không bị ràng buộc bởi Dụ số 10, và hoàn toàn tự do hoạt động mà không bị hạn chế bởi bất cứ quy định nào, đứng biệt lập ngoài vòng cương tỏa của luật pháp. Như thế Dụ số 10 có phân biệt đối xử giữa các tôn giáo hay không? Xin để cho người đọc trả lời.

Ở một đoạn sau, ông Nguyễn Văn Lục còn viết tiếp: “Có hai điều đặc biệt là Bảo Đại đã ký Dụ số 10 tại Vichy, bên Pháp. Đến 19 tháng 11, năm 1952, có sửa đổi một hai điều lệ liên quan đến Bộ thể thao và thanh niên với chữ ký của Vũ Hồng Khanh, bộ trưởng thanh niên và thể thao cùng với chử ký của bộ trưởng Ngô Thúc Định và chữ ký của Bảo Đại năm 1952. Lần này Bảo Đại ký ở Sài Gòn. Đến ngày 3 tháng tư, 1954 một lần nữa lại có sự sửa đổi và lần này có chữ ký của thủ tướng Bửu Lộc và vua Bảo Đại tại Đà Lạt.”
Đúng là Dụ số 24 ngày 19-11-1952 sửa đổi Dụ số 10 liên hệ đến quy chế các hiệp hội thanh niên và thể thao, nhưng Dụ số 6 ngày 3-4-1954 bổ túc Dụ số 10 mới đáng quan tâm, theo đó điều thứ nhất của Dụ nầy ghi rằng: “Điều thứ 11 của Dụ số 10 ngày mồng 6 tháng tám dương lịch năm 1950 ấn định quy chế các hiệp hội được bổ túc như sau đây: “Các giới thẩm quyền đã ban phép thành lập cho một hiệp hội có thể ra lệnh khai trừ một hay nhiều nhân viên trong ban quản trị hiệp hội ấy mà không cần phải cho biết vì lẽ gì. Hiệp hội nào bất tuân lệnh ấy phải bị giải tán do quyết định của giới thẩm quyền vừa kể ở khoản trên.”

Như thế, tu sĩ các hội Phật giáo, Cao Đài giáo, Phật giáo Hòa Hảo nằm trong quy chế nầy, có thể bị chính quyền khai trừ mà không cần cho biết lý do, trong khi tu sĩ các hội Truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô không nằm trong quy chế Dụ số 10, thảnh thơi hoạt động và đương nhiên không khi nào bị chính quyền có thể khai trừ gì cả. Như vậy, Dụ số 10 và Dụ số 6 bổ túc cho Dụ số 10, có phân biệt đối xử giữa các tôn giáo hay không? Cũng xin để cho người đọc trả lời.

Dụ số 10 được ban hành ngày 6-8-1950 và Dụ số 6 được ban hành ngày 3-4-1954 dưới chế độ Quốc Gia Việt Nam, do Bảo Đại làm quốc trưởng. Qua thời chính phủ Ngô Đình Diệm, từ năm 1954 đến năm 1963, các dụ nầy không bị bãi bỏ, tiêu hủy. Điều đó có nghĩa là các dụ nầy đương nhiên vẫn còn giá trị pháp lý. Vì vẫn còn giá trị pháp lý nên Dụ số 10 và Dụ số 6 vẫn ràng buộc các tổ chức Phật giáo, Cào Đài giáo và Phật giáo Hòa Hảo theo các quy định trong hai dụ nầy.

Sau biến cố ngày 8-5-1963 tại Huế và nhất là sau khi Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11-6-1963 tại Sài Gòn, mới diễn ra cuộc họp từ 14 đến 16-6-1963 giữa Uỷ ban Liên bộ của chính phủ Ngô Đình Diệm và Uỷ ban Liên phái Phật giáo. Cuộc họp nầy đi đến bản thông cáo chung được tổng thống Diệm duyệt ký và công bố ngày 16-6-1963. Thông cáo chung gồm có 4 mục lớn là: 1) Quốc kỳ – đạo kỳ. 2) Dụ số 10. 3) Vấn đề bắt bớ và giam giữ Phật giáo đồ. 4) Tự do truyền giáo và hành đạo.

Mục 2 của bản Thông cáo chung, liên hệ đến Dụ số 10, nguyên văn như sau: “Tách Hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ số 10 và lập một quy chế hợp với tính cách đặc biệt về nhu cầu sinh hoạt của những Hiệp hội tôn giáo ấy. Quy chế đó sẽ là một đạo luật do Quốc hội soạn thảo với sự tham khảo trực tiếp ý kiến của tôn giáo liên hệ. Quốc hội sẽ biểu quyết đạo luật nầy, chậm là cuối năm 1963 hoặc đầu năm 1964. Trong khi chờ đợi ban hành đạo luật mới, Uỷ ban Liên bộ đồng ý sẽ có những chỉ thị cần thiết để Dụ số 10 không áp dụng quá khắt khe đối với các Hội Phật giáo, Phật học. Phái đoàn Phật giáo cam kết chỉ thị cho các tăng ni chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp Quốc gia và thi hành mọi biện pháp kỷ luật nội bộ đối với những hành động lệch lạc.” (Minh Không Vũ Văn Mẫu, Sáu tháng pháp nạn 1963, Paris: Giao Điểm, 2003, tr. 282.) (Cuối sách nầy cũng có đăng nguyên văn Dụ số 10.)

Nếu Uỷ ban Liên bộ chính phủ Ngô Đình Diệm không nhận thấy sự bất công của Dụ số 10, sao Uỷ ban Liên bộ lại chịu: “Tách Hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ số 10 và lập một quy chế hợp với tính cách đặc biệt về nhu cầu sinh hoạt của những Hiệp hội tôn giáo ấy. Quy chế đó sẽ là một đạo luật do Quốc hội soạn thảo với sự tham khảo trực tiếp ý kiến của tôn giáo liên hệ. Quốc hội sẽ biểu quyết đạo luật nầy, chậm là cuối năm 1963 hoặc đầu năm 1964. Trong khi chờ đợi ban hành đạo luật mới, Uỷ ban Liên bộ đồng ý sẽ có những chỉ thị cần thiết để Dụ số 10 không áp dụng quá khắt khe đối với các Hội Phật giáo, Phật học.”
Cần chú ý thêm là thông cáo chung nầy đã được chính tổng thống Ngô Đình Diệm duyệt ký, nghĩa lả tổng thống Diệm cũng chấp nhận rằng Dụ số 10 không còn thích hợp và cần được sửa đổi. Những người trong cuộc đã nhận ra sự bất công của Dụ số 10 và chịu sửa đổi Dụ số 10, mà ông Nguyễn Văn Lục cứ nhất định cho là chuyện đó không có. Thật là ‘bảo hoàng hơn vua”.

Ông Nguyễn Văn Lục còn đi xa hơn khi ông viết: “Đồng hóa hội truyền giáo Thừa sai Ba Lê và giáo hội Việt Nam là một điều thiếu lẽ phải và ác ý. Và nếu có ai lưu tâm một chút là kể từ năm 1951 (chưa có Hội đồng giám mục VN) thì đã có một Thư chung, ký tên rõ ràng như sau: Hàng giáo phẩm công giáo Việt Nam. Việt Nam lấy lại quyền tự chủ và khai sinh nền đệ nhất cộng hòa, điều ấy một cách thầm lặng và tự nhiên đưa tới sự thay thế các thừa sai ngoại quốc trong vai trò lãnh đạo. Và vì thế, cũng sau 1954 thì các vị thừa sai Ba Lê tự rút lui và nhường chỗ cho hàng giáp phẩm Việt Nam cai quản các giáo phận, liên lạc trực tiếp với khâm sứ hay với Vatican…”

Sau đó, không hiểu vì lý do gì, ông Nguyễn Văn Lục viết tiếp trong bài của ông một cách chủ quan rằng: “Đấy là cái ẩn ý gán ghép của ông Trần Gia Phụng. Đồng hóa tất cả các Hội Truyền giáo Ki tô giáo đồng thời nói được hưởng quy chế đặc biệt mà thực sự không có một văn bản pháp lý nào chứng tỏ có hưởng quy chế đặc biệt.”

Thưa ông Nguyễn Văn Lục, ai đồng hóa Hội Thừa Sai Ba Lê và Giáo hội Việt Nam thì tôi không cần biết, nhưng trong bài viết của tôi, tôi chỉ trình bày sự bất công của Dụ số 10 và tình hình giữa Phật giáo và chính phủ Ngô Đình Diệm, chứ tôi hoàn toàn không đả động gì đến Ky-Tô giáo La Mã. Tôi đã tách bạch rõ ràng vấn đề tôn giáo trong phần “Sơ kết cuối tập 3”, tt. 415-442, sách Việt sử đại cương tập 3 xuất bản năm 2007. Vì vậy, tôi thấy không cần thiết trả lời ông Nguyễn Văn Lục về việc nầy, dầu cách viết của ông Nguyễn Văn Lục chẳng những đầy “ẩn ý gán ghép”, mà còn đầy ác ý gán ghép.

Tôi chỉ trả lời những vấn đề trong bài viết của ông Nguyễn Văn Lục liên hệ đến tôi. Còn những vấn đề khác thì xin để dư luận chung phê phán. Dầu sao, tôi cũng xin cảm ơn ông Nguyễn Văn Lục đã chú ý đến bài viết của tôi và quảng cáo sớm sách Việt sử đại cương tập 6 của tôi sẽ xuất bản trong năm tới.

Trần Gia Phụng
(phungtrangia@yahoo.com)


Tưởng niệm Ngô Tổng Thống - Lê Văn Ấn



(01-03-1901_02-11-1963)

NỖI LÒNG

Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến: thuyền không, lái cũng không !
Xe muối nặng nề thân vó Ký
Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng

Vá trời lấp biển người đâu tá ?

Bán lợi mua danh chợ vẫn đông!
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách, thuở nào trong ?

Ngô Đình Diệm 1953

ooOoo
    Tưởng niệm Ngô Tổng Thống
Lê Văn Ấn

Mỗi năm, cứ đến tháng 10 dương lịch, những người ái mộ vị lãnh đạo anh minh, đã hết lòng vì nước vì dân, nêu cao tinh thần bất khuất nhưng trung hậu, cương quyết nhưng nhân từ, công bình nhưng nhiều tình thương và đã gục ngã vì nhất quyết bảo vệ sự độc lập và chủ quyền Quốc gia, đó là chí sĩ Ngô Ðình Diệm, tất cả đều hướng về anh linh của ngài và bào đệ, thắp lên một nén hương lòng, cảm tạ tấm gương trung liệt đáng cho hậu thế noi theo. Cũng trong thời điểm này, những kẻ đã dính máu ăn phần trong cuộc phản loạn ngày 1.11.1963, hoặc những kẻ chầu rìa, lợi dụng biến cố này để kiếm ăn, đều nỗ lực chạy tội tàn ác nhất lịch sử bằng cách vu vạ, bôi xấu, bịa đặt những chuyện xấu xa cho Ngô Tổng Thống và gia đình để mong làm lu mờ tài đức của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, đồng thời chạy tội tầy trời của chúng là làm tay sai ngoại bang để đưa đất nước đến hoàn cảnh khốn khổ hôm nay, thậm chí có kẻ dám cho rằng “họ Ngô phá ấp chiến lược”. Nhưng giấy không gói được lửa. Những nhân chứng còn sống, những tài liệu nhan nhản khắp nơi, những tài liệu của Hoa Kỳ được giải mật đã chứng tỏ những gì là sự thật vẫn là sự thật. Ðúng là:
    Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
    Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”

    (Nguyễn Công Trứ)
Có người cho rằng nếu không có đám phản tướng cam tâm làm tay sai cho ngoại bang, lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và nhẫn tâm sát hại người và tiêu diệt luôn nền Ðệ Nhất Cộng Hòa, thì ngày hôm nay Cộng Sản Việt nam đã bị tiêu diệt và con dân Việt không phải đi lưu lạc khắp nơi trên thế giới, để lại một đất nước lệ thuộc Trung Cộng và toàn dân Việt đang khốn đốn dưới ách cai trị khắc nghiệt nhất lịch sử của bọn tam vô ác độc.

Nhận định trên đây đúng hay sai không ai có thể xác quyết được, tuy nhiên, nếu cuộc binh biến đó không xảy ra, nếu các kẻ bị ngoại bang mua chuộc biết suy nghĩ lại, chắc chắn miền Nam Việt Nam sẽ không thể nào rơi vào tay Cộng Sản, và nhờ đó, chính sách xâm lấn quyền tự trị dân tộc của Hoa Kỳ có cơ may biến đổi, chẳng những đem lại cho công cuộc chống Cộng của Việt Nam đi đến thắng lợi mà cò giúp cho các nước thân thiện với Hoa Kỳ cũng có một “đồng minh” đúng nghĩa của đồng minh. Tại sao chúng tôi dám khẳng định như vậy? Tại vì những gì mà Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã làm cho đất nước trong một giai đoạn cực kỳ nguy hiểm, nhiều người cho rằng miền Nam Việt Nam lâu lắm cũng chỉ 2 năm là sẽ rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Ðó là nhận định chung của những ai theo dõi thời cuộc Việt Nam sau khi Pháp và Việt Minh ký hiệp ước qua phân Việt Nam. Ở ngoài Bắc Việt Minh được yên ổn hoàn toàn thì Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản lại thực hiện một chính sach dã man chưa có trong lịch sử loài người. Trong khi đó, tại miền Nam Việt Nam, thực dân Pháp kiệt quệ, chiến bại nhưng lòng tham thực dân vẫn còn nung nấu tâm can chúng, quyết phá hoại chính quyền miền Nam mà chúng biết nếu chính quyền này tồn tại thì quyền lợi của Pháp không thể nào cứu vớt và bành trướng. Vì thế, Pháp vẫn cho thuộc hạ thi hành kế hoạch này đến kế hoạch khác, kể cả việc lôi kéo Hoa Kỳ về phe với chúng, thúc ép Quốc Trưởng Bảo Ðại “cất chức” ông Ngô Ðình Diệm và đưa Bãy Viễn, một tên xuất thân từ cặn bả xã hội, một tên anh chị nhưng có quyền lực do Pháp cung cấp thay thế làm thủ tướng. Lòng tham không đáy của con người làm mù mắt cả một chính phủ Pháp. Trong khi đó, các giáo phái với mục đích tốt đẹp nhưng cũng bị Pháp lung lạc không chịu thống nhất binh lực với quốc gia vì sợ quyền lợi của mình bị đe dọa.

Cuối cùng tuy tiếng súng phản loạn Bình Xuyên đã nổ nhưng với sự lèo lái của chí sĩ Ngô Ðình Diệm, miền Nam Việt Nam đã qua cơn thử thách nặng nề. Thực dân Pháp phải cuốn gói xuống tàu về Pháp, Bình Xuyên của Bãy Viễn bị đánh tan, các giáo phái đã trở về thống nhất với chính quyền và nền Ðệ Nhất Cộng Hòa ra đời. Cũng trong thời gian này, một cuộc di cư vĩ đại với cả một triệu người từ Bắc vào Nam, chính phủ phải lo cho họ tất cả, vì họ ra đi, đúng hơn phần lớn là trốn chạy với 2 bàn tay trắng, chính quyền phải cung cấp từ lương thực thuốc men, định cư những nơi có thể sống và phát triển. Công lao đó, thành quả đó không phải ai cũng làm được. Nói cách khác chỉ có Ngô Ðình Diệm là người duy nhất làm được điều đó.

Tiếc thay và cũng rủi thay cho thân phận nhược tiểu, Hoa Kỳ đã dùng tiền viện trợ để dồn sức ép lên chính phủ Ngô Ðình Diệm, bắt buộc phải theo kế hoạch của Mỹ. Sức ép ngày mỗi gia tăng, nhưng Tổng Thống Ngô Ðình Diệm không còn con đường nào khác, vì sự hiện diện của Hoa Kỳ đã là cái cớ để Việt Cộng tuyên truyền, xách động tinh thần chống thực dân của người Việt Nam để thu hút nhân tài vật lực để rồi chúng sẽ đoạt được chiến thắng hay tạo thêm ảnh hưởng. Kinh nghiệm này ai cũng biết, chỉ có đám phản loạn quyết theo ngoại bang mới trở nên đui điếc.

Không xoay chuyển được ý chí của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, Hoa Kỳ đã cho CIA dùng những thủ đoạn thâm độc để đưa đất nước Việt Nam đến chỗ hỗn loạn. Thâm độc và tai hại nhất là vu cáo cho chính phủ Ngô Ðình Diệm kỳ thị và đàn áp Phật Giáo. Kế hoạch này đã được mặc nhiên phối hợp giữa Hoa Kỳ và Việt Cộng. Khởi đi từ vụ nổ trước đài phát thanh Huế đêm mừng Phật Ðản. Tất cả các tử thi đều chết vì sức ép chứ không phải bởi súng đạn hay lựu đạn. Sau này có đến 3 nguồn tin khác nhau cho biết chính một Ðại Úy Hoa Kỳ, Janes scott đã ném chất nổ C-4 gây nên cái chết cho 8 nhân mạng trẻ con!. Tiếp theo đó là những màn tự thiêu vì Ðạo Pháp khiến cho dư luận Quốc Tế lên án chính phủ Ngô Ðình Diệm, đúng ra là nhờ sự thổi phồng và xuyên tạc của báo chí Hoa Kỳ và chính quyền Hoa Kỳ phát động. Cuối cùng, một phái đoàn của Liên Hiệp Quốc đã được chính phủ Ngô Ðình diệm mời đến tận nơi để xem xét. Phái đoàn này gồm 7 đại diện của 7 quốc gia hoặc là lấy Ðạo Phật làm quốc giáo hoặc có nhiều tín đồ theo Phật Giáo. Sau những ngày điều tra tận chỗ, đã tiếp xúc với các vị lãnh đạo tôn giáo, đã phỏng vấn 2 nạn nhân bị tuyên truyền thực hành tự thiêu được cứu sống, Phái Ðoàn Liên Hiệp Quốc đã có phúc trình lên Liên Hiệp Quốc: Không có đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam! Mặc dù Phái đoàn còn ở lại Việt Nam mấy ngày sau ngày đảo chánh. Những hoạt động của “Phật giáo” sau ngày 1.11.1963 vẫn tiếp tục để chứng tỏ lời tuyên bố của Thượng Tọa Thích Trí Quang với bà Maguerite Higgin: “Chúng tôi chỉ có thể dàn xếp với miền Bắc sau khi lật đổ Diệm, Nhu”. Cuối cùng thì Thượng tọa Thích Trí Quang đã cho lệnh đem bàn thờ Phật ra giữa đường khiến hầu hết Phật tử chân chánh rất đau lòng, và đến lúc đó, Thượng Tọa Trí Quang mới thấy, người Mỹ lợi dụng Phật Giáo để làm thanh thế lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, xong việc rồi Hoa Kỳ không ngó ngàng đến lời kêu cứu của Thượng tọa khi bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ dùng biện pháp quân sự để giải quyết vấn đề Phật Giáo xuống đường.

Ðến đây, cũng xin đề cập đến một kinh nghiệm để thấy rõ tôn giáo nào cũng có Giu Da. Những kẻ đó không bao giờ tiêu biểu cho tôn giáo mà họ đang theo. Chính họ là kẻ phá hoại, giáo sư Tiến sĩ Phật Giáo Dương Ngọc Dũng có nói một câu rất chí lý, chính những người trong tôn giáo đó mới có thể phá hoại tôn giáo đó, chứ những kẻ khác đạo không thể phá hoại tôn giáo mà họ không theo (đại ý là như vậy, nhưng không nhớ nguyên văn). Ngày nay, Công Giáo Việt nam cũng đang khốn đốn vì “giám mục, linh mục quốc doanh, Phật giáo cũng có Phật giáo quốc doanh: do đó, khi đề cập đến vụ Phật Giáo 1963, chúng tôi không cố ý vơ đũa cả nắm, trong đó có biết bao nhiêu bậc chân tu biết được Cộng Sản và Hoa Kỳ đã lợi dụng Phật giáo và đã lên tiếng phản bác, kêu gọi Phật tử hãy trở về con đường Chánh Ðạo, trường hợp Thương Tọa Thích Thiện Hoa là một.

Ðể dứt điểm chế độ, Hoa Kỳ đã mua chuộc những tên tướng phản loạn. Khi đã lật đổ được chính phủ Ngô Ðình Diệm, Hoa Kỳ cũng như đám tướng tá phản loạn đã tàn ác ám sát một cách dã man Tổng Thống Ngô Ðình diệm và cố vấn Ngô Ðình Nhu. Chính Ðại sứ Hoa Kỳ đã trao ông Ngô Ðình Cẩn cho đám phản loạn tìm cách giết chết luôn! Tại sao Hoa Kỳ và đam phản loạn lại bất chấp dư luận thế giới, bất chấp lương tâm con người? Tại chúng sợ anh em Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, sợ cái khả năng cứu quốc và kiến quốc của họ. Sợ tinh thần bất khuất và lòng yêu nước của họ, sự dân chúng vẫn một mực kính yêu Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Hậu quả của cuộc phản loạn này là tình hình Việt Nam mỗi ngày một đen tối cho đến nỗi ai cũng muốn làm đảo chánh.

Chúng tôi mạnh dạn gọi những tướng tá đảo chánh chỉ là những tên không có đầu óc, không có lòng yêu nước, vì chính những kẻ đó chỉ biết theo lệnh ngoại bang làm sao lật đổ cho được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, lấy 3 triệu bạc tiền thưởng chia nhau rồi thôi. Không có bất cứ một chính sách, kế hoạch nào để thực hiện thay thế chính phủ mà mình lật đổ. Và từ đó, chủ quyền quốc gia không còn nữa, tất cả đều do Hoa Kỳ định đoạt.

Cũng trong những ngày này, một số tay sai Việt Cộng tại hải ngoại, kẻ thì chê Quốc Sách Ấp Chiến Lược, kẻ thì cho rằng chính “Nhà Ngô đã phá ấp chiến lược. Ấp Chiến Lược tuy do cố vấn Ngô Ðình Nhu chủ xướng nhưng nó kết hợp với kinh nghiệm ở các nước đã tiêu diệt được du kích Cộng Sản, phối hợp với tập quán rào làng chiến đấu của Việt Nam. Kết quả của Quốc sách Ấp Chiến Lược đã khiến Việt Cộng điêu đứng, các cán bộ gộc đều đã lục tục kéo về Bắc để bảo toàn lực lượng. Nhưng ngay sau khi tiếng súng phản loạn chấm dứt, Dương Văn Minh đã ra lệnh phá ấp chiến lược khiến Việt Cộng như nước tràn bờ, trở lại đánh giết hệ thống an ninh xã ấp và làm chủ thôn quê trở lại. Sau đó, vì bị dư luận lên án nặng nề, Dương Văn Minh phải ra lệnh khác, gọi là “Ấp Tân Sinh” mà đồng bào gọi mỉa mai là “Ấp mới đẻ”, chẳng khác nào chém chết rồi làm ma chay. Người ta nghi ngờ Dương Văn Minh bị Việt Cộng mua chuộc cũng không phải là chuyện không thể xảy ra.

Ðặc biệt năm nay, khi Hoa Kỳ quyết định trở lại châu Á nói chung, Biển Ðông nói riêng, khi mà áp lực sự xâm lấn đất nước Việt Nam của Trung Cộng ngày càng lộ liễu, có lẽ các tướng tá của cuộc phản loạn năm xưa lại đang tính chuyện “làm một chuyến hàng chót” hay sao, mà linh hồn cuộc phản loạn năm xưa là Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm lại xuất hiện với một nhóm người quá ít so với cái danh xưng quá lớn: Tập Thể Cựu Chiến Sĩ VNCH.

Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, cố vấn Ngô Ðình Nhu và tất cả các chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc trong cuộc binh biến ngày 1.11.1963 rất đáng cho chúng ta ngưỡng mộ, quyết noi gương kiên cường và ái quốc của họ, để, mãi mãi xứng đáng là người Việt Nam. Tưởng niệm Tổng Thống Ngô Ðình Diệm chúng ta phải noi theo gương Tổng Thống một lòng sắt son với tổ quốc, không chia rẽ, không kỳ thị tôn giáo, sắc tộc, địa phương, tất cả đều một lòng lo giải phóng đất nước khỏi ách cai trị của Việt Cộng.

Giỗ lần thứ 47 Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.

Lê Văn Ấn


Tuesday, October 26, 2010

Dân biểu Loretta Sanchez là kẻ dối trá, lừa đảo đáng khinh - Ngô Kỷ

    Kính thưa Quý Đồng Hương,
Trong mùa tranh cử 2010 này, bà Dân Biểu Loretta Sanchez đã phát ngôn một cách hồ đồ, hàm hồ, dối trá, xấc xược về nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề kỳ thị người Việt Nam, khinh khi cựu Dân Biểu Robert K. Dornan, và đặc biệt dối trá về việc mạo nhận là tác giả đệ trình Dự Luật Biệt Kích mà trên thực tế bà ta không có làm Dự Luật (Bill) mà lại còn bỏ phiếu NO, chống lại dự luật giúp Biệt Kích.

Chính vì thấy bà Dân Biểu Loretta Sanchez quá khinh thường sự hiểu biết của cộng đồng Việt Nam, và bà tỏ ra hỗn láo, vô lễ với nhiều người, nên tôi xin kính gởi đến Quý Đồng Hương một số tài liệu gồm: Video, Audio, Bản Tin, Hình Ảnh liên hệ để Quý Đồng Hương kính tường, hầu mong Quý Đồng Hương nhận ra sự thật để có phán xét về sự vô tư cách, thiếu đạo đức, và kém khả năng của bà Dân Biểu Loretta Sanchez.

Các điều tôi muốn trình bày đều có nằm trong các Video, Audio, Bản Tin, Hình Ảnh đính kèm theo đây, mong quý Đồng Hương bỏ chút thì giờ quý báu nhằm theo dõi tận tường để biết rõ sự thật. Tôi chịu trách nhiệm và bảo đảm tất cả những gì tôi đưa ra.

Những việc tôi đã làm và đang làm chỉ là muốn đóng góp chút ít công sức nhằm chu toàn bổn phận của một người tỵ nạn cộng sản. Vì muốn trưng dẫn tài liệu nhằm bạch hóa sự kiện nên tôi buộc lòng tôi phải công khai một số hoạt động trong quá khứ mà thôi.

Nếu ai muốn góp ý, phản đối, phê bình, chỉ trích tôi, xin vui lòng liên lạc về Ngô Kỷ, PO. Box 836, Garden Grove, Ca 92842.

Hay Email: ngokyusa@yahoo.com

Điện thoại (714) 404-7022

Trân trọng,

Ngô Kỷ
ooOoo
    Ngô Kỷ tuyên bố: "Bà Dân Biểu Loretta Sanchez đã từng bỏ phiếu chống Dự Luật Biệt Kích"
Source: Tuần báo Việt Weekly số 43. Oct 21-Oct 27,2010

LTS: Trong thời gian vận động tranh cử, bà DBLB Loretta Sanchez đã đưa ra nhiều thành tích phục vụ trong suốt thời gian 14 năm ngồi ở ghế dân biểu của mình, trong đó bà cho rằng đã “…đệ trình dự luật kêu gọi Chính Phủ Hoa Kỳ vinh danh và bồi thường các biệt kích quân miền Nam Việt Nam,” và trong buổi đón tiếp cựu tổng thống Bill Clinton tới vùng Nam Cali vận động phiếu bầu cho đảng Dân chủ, bà Sanchez cũng đã mời cho được một nhóm các cựu biệt kích của miền Nam Việt Nam tới để thêm phần rôm rả. Sự thật là thế nào? Bà có phải là tác giả hay là người đã đệ trình dự luật như bà nói không? Câu trả lời là “Không.” Phía những người ủng hộ ông Văn đã lên tiếng về vấn đế này. Ông Ngô Kỷ, người cho rằng chỉ đấu tranh cho sự thật, cũng là người từng làm việc trực tiếp dưới thời DB Robert K. Dornan (1996) rất am hiểu vấn đề và dự luật này, đã tham dự buổi họp báo của nhóm truyền thông VPC hôm thứ Bảy, 16 tháng 10, 2010 tại CLB Văn Nghệ Sĩ VNHN để trình bày cặn kẽ sự kiện dựa trên nhiều tài liệu và văn bản. Ông Ngô Kỷ cũng dành cho Việt Weekly một cuộc phỏng vấn để tổng hợp rõ ràng về vấn đề này. Dưới đây là nội dung cuộc trao đổi với ông Ngô Kỷ.

Việt Weekly (VW): Trong lá thư “Lời Tâm Tình Của Dân Biểu Liên Bang Loretta Sanchez Gởi Đến Cộng Đồng Việt Nam” ngày 25 tháng 9 năm 2010, bà Sanchez có viết rằng: “Tôi đã rất hãnh diện và đã cố gắng tranh đấu hết mình, đại diện cho cộng đồng Việt Nam trong Quốc Hội Hoa Kỳ. Điều đầu tiên tôi đã làm ngay từ ngày đầu bước vào Hạ Viện 14 năm về trước là đệ trình dự luật kêu gọi Chính Phủ Hoa Kỳ vinh danh và bồi thường các biệt kích quân miền Nam Việt Nam đã từng cộng tác và đã được quân đội Hoa Kỳ huấn luyện trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Dự luật này được thông qua và đã được cựu tổng thống Bill Clinton ký thành đạo luật - để đất nước Hoa Kỳ ghi nhận công ơn của họ.” Ông Ngô Kỷ là người nắm vững vấn đề này, xin ông cho biết ý kiến về điều bà Loretta Sanchez nói có đúng hay không?

Ngô Kỷ (NK): Thật là láo khoét. Điều bà viết ở trên là một sự dối trá và lừa đảo một cách trắng trợn, bỉ ổi vô cùng. Trong suốt 14 năm làm dân biểu, bà Loretta Sanchez chưa bao giờ đệ trình dự luật nào giúp đỡ cho Biệt Kích cả.

VW: Như vậy thì ai là người đã đệ trình dự luật giúp đỡ cho Biệt Kích?

NK: Cựu Dân Biểu Robert K. Dornan mới chính là tác giả đệ trình Dự Luật H.R. 3668 tại Hạ Viện nhằm giúp đỡ Biệt Kích, vào ngày 18 tháng 6 năm 1996. Còn tại Thượng Viện thì Thượng Nghị Sĩ John McCain và Thượng Nghị Sĩ John Kerry cũng có đệ trình dự luật tương tự.

Tuy nhiên, có một số điểm khác nhau từ hai viện. Các điều khoản trong dự luật của Dân Biểu Dornan tại Hạ Viện thì đòi chính phủ Mỹ phải bồi thường 20 triệu đô la cho các chiến sĩ Biệt Kích OPLAN 34 đã hoạt động tại miền Bắc, và cũng phải bồi thường luôn cho các chiến sĩ Biệt Kích OPLAN 35 đã hoạt động tại miền Nam trên đường mòn Hồ Chí Minh và ngay cả tại Lào. Trong khi đó thì dự luật tại Thượng Viện thì chỉ đòi bồi thường cho chiến sĩ Biệt Kích OPLAN 34 hoạt động tại miền Bắc mà thôi.

Thêm nữa, trong dự luật của Dân Biểu Dornan tại Hạ Viện đòi chính phủ Mỹ bồi thường cho mỗi chiến sĩ Biệt Kích là 40,000 đô la nếu bị công sản giam tù dưới 20 năm, nhưng nếu bị giam tù trên 20 năm, thì phải trả thêm cứ mỗi năm nữa là 2,000 đô la. Thí dụ ở tù 24 năm thì phải trả 48,000 đô la. Nhưng chỉ trả tối đa là 50,000 đô la mà thôi. Trong khi đó thì dự luật bên Thượng Viện chỉ đòi chính phủ Mỹ trả tối đa là 40,000 đô la mà thôi.

VW: Sau khi hai viện đưa ra dự luật thì cái tiến trình cứu xét và bỏ phiếu như thế nào?

NK: Theo thủ tục của Quốc Hội Hoa Kỳ, khi hai viện đưa ra dự luật cùng đề tài thì sẽ ngồi lại với nhau thảo luận “thêm bớt” đôi chút, để rồi đúc kết thành một cái. (House/Senate Conference). Vì cái dự luật của Dân Biểu Dornan có ngôn ngữ và các điều khoản thích hợp với bên Thượng Viện, nên họ đã gom chung thành một cái. Cái bản chung quyết “Conference Report” này đã được Hạ Viện thông qua ngày 1 tháng 8 năm 1996, và Thượng Viện thông qua ngày 10 tháng 9 năm 1996. Và Tổng Thống ký thành luật vào ngày 23 tháng 9 năm 1996.

Điều đáng lưu ý là trong thời điểm 1996 này, Dân Biểu Robert K. Dornan vẫn còn đang còn tại chức dân biểu tại quốc hội, còn bà Loretta Sanchez thì chưa đắc cử, vì bà chỉ được trở thành dân biểu vào năm 1997.

Dù trở thành Đạo Luật vào năm 1996 rồi, nhưng Bộ Quốc Phòng chưa thể tháo khoán tiền ra để trả cho các chiến sĩ Biệt Kích được, vì trong cái Đạo Luật đó có một vài điều khoản không rõ ràng nên kéo dài tới năm 1997 thì lưỡng viện lại đệ trình cái dự luật khác cũng liên hệ đến việc bồi thường tiền cho các chiến sĩ Biệt Kích.

Tại Hạ Viện, vào ngày 29 tháng 4 năm 1997, thì Dân Biểu Bob Livingston lại đệ trình Dự Luật H.R.1469 trong đó có điều khoản đòi chính phủ Mỹ trả tiền cho các chiến sĩ Biệt Kích giống như dự luật năm 1996, và được Ủy Ban Chuẩn Chi Ngân Sách Hạ Viện (The House Committee on Appropriations) chấp thuận ngày 30 tháng 4 năm 1997. Còn bên Thượng Viện thì đệ trình Dự Luật S.672 được Ủy Ban Chuẩn Chi Ngân Sách Thượng Viện (The Senate Committee on Appropriations) chấp thuận ngày 5 tháng 6 năm 1997. Sau đó hai viện ngồi lại với nhau để đưa ra cái chung quyết “The House/Senate Conference Report” và được lưỡng viện thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1997. Tổng Thống ký ban hành Đạo Luật n ày cùng ngày.

VW: Bà Dân Biểu Loretta Sanchez bỏ phiếu ra sao về cái Dự Luật H.R.1469 giúp đỡ các chiến sĩ Biệt Kích?

NK: Một điều vô cùng oái ăm, ngược đời và “rùng rợn” là chính bà Dân Biểu Loretta Sanchez đã bỏ phiếu NO, tức là chống lại cái Dự Luật H.R.1469 giúp đỡ các chiến sĩ Biệt Kích. Rất may là cái Dự Luật H.R.1469 này chiếm đa số 216 phiếu YES, 205 phiếu NO, và 13 dân biểu không bỏ phiếu. Kết quả là dù bà Dân Biểu Loretta Sanchez bỏ phiếu NO, nhưng Dự Luật H.R.1469 giúp đỡ các chiến sĩ Biệt Kích vẫn được thông qua.

VW: Để làm sáng tỏ và thật rõ ràng một lần nữa, tôi muốn hỏi ông Ngô Kỷ nghĩ sao về số báo Việt Weekly số 42 từ 14 đến 20 tháng 10 vừa qua, mà trong đó có đăng lời phóng viên Đoàn Trọng hỏi bà Dân Biểu Loretta Sanchez là “Trong 14 năm qua, bà đã là tác giả của một đạo luật nào đã được tổng thống ký ban hành?”, và bà Dân Biểu Loretta Sanchez trả lời như sau: “Chắc chắn có. Trước tiên, tôi nhắc đến đạo luật dẫn đến việc cho phép những vị chỉ huy vài đơn vị thuộc QLVNCH nhận được số tiền truy lãnh lên đến $44,000 mỗi người, Thật là thú vị khi tôi chọn làm công việc này đầu tiên tại quốc hội”. Ông Ngô Kỷ nhận xét như thế nào về câu trả lời này?

NK: Lại một lần nữa bà Dân Biểu Loretta Sanchez tự tố cáo cái láo khoét trơ trẽn của mình. Tôi thách đố bà Dân Biểu Loretta Sanchez trưng dẫn ra cái Dự Luật nào mà bà đã từng đệ trình ra Hạ Viện để giúp các chiến sĩ Biệt Kích. Bà nói láo quá sá. Bà cứ tưởng là cộng đồng Việt Nam chúng ta là ngu xuẩn dại khờ không biết gì hết, nên bà ta cứ nói hươu nói vượn, nói lấy có mà không biết ngượng miệng.

VW: Như vậy thì theo ông bây giờ bà Dân Biểu Loretta Sanchez phải làm như thế nào?

NK: Nếu bà có chút liêm sỉ và tư cách, đạo đức, thì bà Loretta Sanchez nên công khai đưa ra lời xin lỗi chân thành đến cựu Dân Biểu Robert K. Dornan vì bà đã đi “chôm credit” của ông ta.

Điều thứ hai là bà Sanchez nên công khai xin lỗi các chiến sĩ Biệt Kích đã bị bà lừa dối họ bấy lâu nay. Đặc biệt những chiến sĩ Biệt Kích bị bà lợi dụng kêu đến đón tiếp cựu Tổng Thống Bill Clinton về Santa Ana vận động tranh cử cho bà. Không có lời “lố bịch” nào hơn khi trước đám đông, bà can đảm tuyên bố: “Ngay khi vào Quốc Hội, tôi đã yêu cầu ông ký đạo luật bồi thường cho các cựu biệt kích VNCH. Hôm nay họ có mặt tại đây để cảm ơn ông”.

Và tôi thấy tội nghiệp cho những ai lâu nay “nhe dạ” cả tin nơi lời mật ngọt của bà Sanchez. Thật đắng cay và mỉa mai vô cùng khi ông Biệt Kích Tống Văn Thái ca ngơi một người đã từng đã bò phiếu NO cái Dự Luật giúp đỡ Biệt Kích rằng: “Người Việt mình có câu ‘Ăn quả nhớ kẻ trồng cây’, vì vậy hôm nay chúng tôi tới đây để cám ơn bà Sanchez và ông Clinton đã giúp anh em”.

Điều thứ ba là bà Sanchez nên chính thức tuyên bố công khai với cử tri và cộng đồng người Mỹ gốc Việt là bà không hề đệ trình bất cứ Dự Luật Biệt Kích nào cả. Bà phải xin lỗi họ về những điểu dối trá và láo khoét của bà bấy lâu nay về vấn đề Biệt Kích.

VW: Ông lên tiếng minh xác vấn đề Dự Luật Biệt Kích này có phải vì ông muốn làm hại bà Dân Biểu Loretta Sanchez không?

NK: Không. Trong khoảng 5 năm nay tôi chỉ lo diệt Việt gian tại vùng Little Saigon này mà thôi, tôi không còn để ý gì đến chính trị Mỹ hay việc bầu cử. Tôi chẳng thù oán và cũng chẳng bao giờ có ý định muốn lên tiếng gì về bà Sanchez, dù rằng tôi thừa biết về khả năng, đạo đức, và xảo thuật của bà. Không ai hại bà cả, mà chỉ có bà mới làm hại chính bà mà thôi.

VW: Thế thì tại sao ông lên tiếng lần này?

NK: Chẳng lẽ chúng ta chịu nhục để cho người ta qua mặt và cười nhạo cả cộng đồng mình là ngu ngơ, khờ dại sao? Có thể bà Sanchez và phe nhóm bà sẽ ghét giận tôi, nhưng tôi chấp nhận và thấy cần can đảm nói lên sự thật. Tôi không chủ trương vu oan, nhục mạ hay nói xấu bà.

Nhà ái quốc Nguyễn Trường Tộ có đề cập đến lời của Hàn Dũ trong Thiên Hạ Đại Thế Luận rằng: “Biết mà không nói là bất nhân. Nói mà không nói hết là bất nghĩa”. Và văn sĩ Georges Duhamel cũng có nói: “Kẻ nào dững dưng trước bất công, oan ức là hèn nhát, ích kỷ và đáng khinh”. Do đó, vì tôi thấy bà Dân Biểu Loretta Sanchez nói sai, nói láo nên tôi là người bảo vệ sự thật và lẽ công bằng nên tôi thấy cần lên tiếng. Tôi chỉ muốn nói lên lời công đạo mà thôi. Khổng Tử nói: “Kiến nghĩa bất vi, vô dũng giả”, tức “Thấy việc nghĩa mà không làm là không có dũng”, cho nên tôi muốn trình bày và làm sáng tỏ sự thật và chỉ có sự thật mà thôi. Nếu bà Dân Biểu Loretta Sanchez hay phe nhóm bà thấy oan ức, thì xin lên tiếng đính chính hay phản biện.

Cần tài liệu chứng minh, xin quý vị có thể liên lạc tôi qua số (714) 404-7022 hay ngokyusa@yahoo.com, hay thư về Ngô Kỷ, PO.Box 836, Garden Grove, Ca 92842


THĂM HỎI BÀ NGÔ ĐÌNH NHU - Trương Phú Thứ



Trương Phú Thứ

Các phương tiện truyền thông của người Việt ở khắp nơi trên thế giới đã có những thông báo về ngày giờ và địa điểm lễ tưởng niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một nhà lãnh đạo kiệt xuất hết lòng vì nước, một lãnh tụ đạo đức thánh thiện hết lòng vì dân, đã bị thảm sát bởi chính người bạn đồng minh và bè lũ tay sai. Trong những giây phút đau buồn tiếc thương Tổng Thống Ngô Đình Diệm rất nhiều người cũng nghĩ tới và đặt câu hỏi Bà Ngô Đình Nhu bây giờ ra sao? Sức khoẻ và đời sống như thế nào?

Ngày 22 tháng 8 năm 2010, Bà Ngô Đình Nhu đã mừng sinh nhật thứ tám mươi sáu với đầy đủ các con cháu nội ngoại tại ngôi nhà của các con cháu cách thủ đô La Mã của nước Ý vào khoảng mười cây số. Từ ba năm nay, Bà Nhu không còn ở căn phòng (apartment) ở thủ đô Ba Lê nữa. Bà sống ở La Mã để các con cháu săn sóc giúp đỡ khi trái nắng trở trời. Nói là nhà của các con cháu vì đây là một ngôi nhà trệt có tầng hầm (basement), gia đình ông con trai lớn Ngô Đình Trác ở tầng trên và gia đình cô gái út Ngô Đình Lệ Quyên ở tầng hầm. Con dâu con rể và các cháu nội ngoại sống chung dưới một mái nhà rất đầm ấm và đầy tràn yêu thương. Ông con trai thứ Ngô Đình Quỳnh vẫn có cuộc sống độc thân như một thầy tu và làm việc ở thủ đô của nước Bỉ.

Về sức khoẻ thì với tuổi đời đã cao nhưng Bà Nhu không có những căn bệnh thông thường của người già, ngoại trừ cái chân trái nhiều khi gây đau nhức khó chịu. Vài tuần lễ trước ngày sinh nhật thứ tám mươi sáu, Bà Nhu đã vào bệnh viện để các bác sĩ giải phẫu thay các con ốc bằng kim loại ở xương chân trái đã hai lần bị gẫy bằng các trợ cụ y khoa hiện đại nên đã cảm thấy dễ chịu hơn. Bà chưa đi lại bình thường được nhưng cũng không còn trở ngại nhiều khi đi đứng. Tuổi già thường hay bị suy yếu về trí tuệ, nói cách khác là bị lú lẫn, đặc biệt là những người đã kinh qua nhiều truân chuyên dâu bể, nhưng Bà Nhu vẫn có một trí óc rất minh mẫn với những nhận xét và quyết đoán thông minh, hợp lý và quyết liệt. Nhiều người đưa ra một giả thuyết là nếu Bà Nhu có mặt ở Sài Gòn vào ngáy 1 tháng 11 năm 1963 thì rất có thể tình thế đã không diễn biến tồi tệ như vậy.

Bà Nhu không có nhu cầu nhiều về sinh sống nên số tiền cho mướn căn phòng ở thủ đô Ba Lê chắc cũng dư thừa cho những chi phí thường ngày. Bà có cuộc sống rất đơn sơ và tự giam hãm trong những giới hạn của một đời sống thanh bần. Bà đã qua những ngày tháng túng thiếu vất vả với cái ăn cái mặc. Bây giờ bà không còn phải đối đầu với những khó khăn vật chất nữa nhưng cũng chưa thể nói là sung túc.

Bà Nhu góa bụa ở vào tuổi mặn nồng nhất của người phụ nữ. Với sắc đẹp và danh tiếng, Bà Nhu có thừa điều kiện và rất nhiều cơ hội để hái ra tiền, nhưng Bà Nhu còn màng gì đến danh lợi nữa khi mà cả một dân tộc mà bà hết lòng yêu thương và phục vụ đang chìm đắm trong máu lửa. Bà Nhu sống trong thinh lặng và đạo hạnh. Nhìn vào cuộc sống phóng túng của bà quả phụ Jacky Kennedy hoặc cách ăn nói đi đứng thiếu nghiêm túc của bà quả phụ Imelda Marcos thì ai cũng phải khâm phục và kính trọng Bà Nhu. Ngay cả những người thù ghét chống báng Bà Nhu cũng không có được một dịp dù nhỏ nhoi để bới móc bêu xấu bà.

Nói về cuốn sách của Bà Nhu mà rất nhiều người đang trông đợi thì qua cuộc điện đàm mới nhất tôi đã trình bầy cho bà biết là không thể nào phổ biến đến người đọc vào ngày 2 tháng 11 năm 2010, lễ giỗ thứ bốn mươi bẩy kính nhớ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị thảm sát, vì thời gian quá cấp bách. Thời điểm thuận lợi nhất là vào mùa hè năm 2011, cuốn sách sẽ ‘ra mắt” tại các cộng đồng người Việt trên toàn thế giới. Tôi sẽ thông báo rộng rãi trên các phương tiện truyền thông để mọi người cùng biết.

Chỉ vài tuần lễ nữa nhiều nơi sẽ làm lễ tưởng niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhiều nhà thờ sẽ có lễ cầu nguyện cho Tổng Thống. Chắc hẳn nhiều người cũng không khỏi ngậm ngùi nhớ đến Bà Ngô Đình Nhu với lòng kính trọng và quý mến.

Trương Phú Thứ