Tuesday, April 27, 2010

Cảm giác về "Biến Cố Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt“, qua Tông thư thuyên chuyển Ngài: Ngày 22/04/2010 - Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh

Viết bài này trong nỗi âu lo, khi bất ngờ nghe tin, ngày 22 tháng 4 năm 2010, Phòng Báo chí Tòa Thánh thông báo: Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI, đã bổ nhiệm Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn [1], Giám Mục Ðà Lạt, Chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam, làm Tổng Giám Mục Phó với quyền kế vị của Tổng giáo phận Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt [2]. (Theo nguồn tin của G. Trần Đức Anh, OP (Radio Vatican)

Thế là mọi phỏng đoán và đồn thổi về việc Đức TGM Ngô Quang Kiệt ở lại hay ra đi, hôm nay, đã rõ.

Lo âu! Vì, biểu tượng HY VỌNG và NIỀM TIN – ít nhất là của người Công giáo -, ao ước hòa nhập vào lòng dân tộc, đấu tranh cho một thể chế nhân bản, tự do pháp trị phi Cộng Sản, bỗng dường như bị sụp đổ. Những ước mơ yêu chuộng Chân lý và tôn trọng nhân phẩm giá trị con người, bỗng dưng, tưởng chừng như đang bị chà đạp. Mặc dù, chúng ta đều biết: Công lý sự thật đang bị Việt Cộng trà đạp từ khi có sự hiện diện của họ trên đất nước Việt Nam. Nhưng, nay ai chà đạp thêm?

Tin vào đạo! Tin vào Tôn giáo thánh thiện tông truyền, bỗng dường như, niềm tin này đang bị lường gạt. Một Giáo hội dấn thân cho kẻ nghèo khó, đấu tranh cho lẽ phải sự thật, bỗng dường như Giáo hội này đang bị bàn tay thâm độc hành quyết. Giáo hội làm gương sáng của Chúa, bỗng nay, dường như đang bị một đám mây đen u ám phủ trùm, để thay vào đó thành hội „xã hội đen“?

Niềm Tin và Hy vọng vào Giám Mục nào, sẽ tiếp tục tinh thần Mục tử nhân lành dũng cảm gương mẫu như Đức TGM Ngô Quang Kiệt? Xóa bỏ tinh thần đấu tranh bất khuất trước bất công, sẽ xây dựng lên tinh thần nào và dựa trên tinh thần nào? Tinh thần làm dụng cụ tay sai cho sự gian manh xảo quyệt của Việt Cộng? Hay tư tưởng xin xỏ, nô lệ phục Ác? Đạp đổ thần tượng đấu tranh cho Công Lý sự thật, xây dựng thần tượng ma giáo lừa gạt? Thay vào tinh thần Hiệp thông bằng tinh thần ích kỷ vụ lợi, vinh thân phì da?

Sự bổ nhiệm đây là ý Chúa, hay đây là sự âm mưu thâm hiểm của những kẻ làm tay sai cho kẻ dữ? Ý Chúa thể hiện, hay đây là dã tâm ác ý của kẻ gian Việt Cộng được thi hành?

Bất ngờ! Vì không ngờ, thế lực đen trong lòng giáo hội Công giáo vẫn còn tồn đọng. Nay, vì tinh thần Phong trào Hiệp thông của Đức TGM Kiệt, phong trào đòi hỏi Công lý và Hòa bình, lại một lần nữa, bàn tay ma qủy tiếp tay cho qủy ác Cộng sản, lại có dịp ra tay, tác oai tác quái.

Vì quá sợ Việt Cộng phải tìm „vật“ tế thần chăng sao? Và Đức TGM Ngô Quang Kiệt là chiên tế thần cho Cộng sản. Ngài đã bị phản bội. Ai phản bội Ngài? Muốn lấy lòng Cộng sản, cần „dâng đầu“ của TGM Kiệt cho nhà nước lưu manh, như xưa Herodias, vợ của người em ruột là Philippus, xin đầu của thánh Gioan tiền hô, dâng cho vua Herodes Antipas để làm thái hoàng hậu? (Marcô 6, 17-29). Vậy thử hỏi: Ai trong hàng ngũ Giáo Hội Việt nam xin „đầu“ đức TGM Kiệt „dâng“ cho Việt Cộng? Và ai là Herodias?

Con người có nhiều cái đau khổ. Nhưng cái khổ mà bị chính người bạn thân phản bội, thì sự đau khổ tâm hồn sẽ khó lành khỏi, mà còn mất ăn mất ngủ. Cái khổ thêm nữa, là bị oan ức, mà phải nhịn không nói ra. Làm tốt mà lại bị phản bội.

Khi Đức Giêsu bị phản bội, Ngài quá đau khổ mà phải than phán rằng, khốn cho ngươi! Thà ngươi đừng sinh ra thì hơn. Đấy, là Đấng toàn năng, còn phải thốt ra những lời nguyền rủa như thế, phương chi là con người. Đó là nổi khổ tâm, sự đau xót mỉa mai của những người bị chính anh em bạn hữu phản bội, „xin đầu“ để hưởng vinh. Còn đâu nữa tinh thần Hiệp thông đoàn kết trong tình con cái của Chúa một nhà? Có khác gì kẻ hèn hạ, sống trên sự đau khổ xương máu của người anh em.

Chẳng lẽ, những ai dấn thân hy sinh cho lẽ phải, phải bị trừng phạt. Còn những ai tiếp tay làm điều ác, thì được phần thưởng? Cộng sản chủ trương gía trị quái đảm ma quái này. Nhưng giáo hội thánh thiện?! Chẳng nhẽ, Giáo hội cũng chủ trương học thuyết giá trị phi nhân bản này sao? Tại sao làm chứng nhân cho sự thật, nói lẽ phải lại bị trừng phạt? Chỉ có ma qủy mới có dã tâm đó.

Sự thuyên chuyển Đức TGM Kiệt, qua thông báo ngày 22/04/2010 gây ra biến cố lớn cho Giáo hội Việt Nam. Có lẽ, đây cũng là ý muốn Thiên Chúa chăng? Nhưng, cũng có thể nhờ những biến cố này, mà chúng ta dễ nhận biết được ai là kẻ thù và ai là người anh em mình. Ai là kẻ gieo cỏ lùng và ai là „lúa tốt“. Ai là kẻ phản bội tiếp tay cho sự gian ác. Ai là tòng phạm và ai là những Chiến Sĩ Hòa bình chân chính đích thực.

Tuy nhiên, rồi ra, chúng ta cũng có thể đặt ra câu hỏi, ai là nạn nhân trong việc bổ nhiệm này? Tin vào sự quan phòng của Chúa? Đâu là thánh ý Chúa?

Đứng trước „Biến cố Đức TGM Ngô Quang Kiệt“, chúng tôi nhớ về sự kiện Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Cách đây 35 năm, vào ngày 25/04/1975, Đức giáo Hoàng Phaolô VI, ký tông thư bổ nhiệm Đức Cha Phanxicô Xavê Nguyễn Văn Thuận làm Tổng Giám Mục phó TGM Sàigòn, với quyền kế vị hiệu toà Vadesitana.

Ngày 12/05/1975, trước sự hiện diện của Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre và Đức TGM Nguyễn Văn Bình, Ngài tuyên thệ nhậm chức tại Tòa TGM Sài Gòn. Nhóm linh mục cấp tiến kéo đồng bọn đến biểu tình và nằm vạ phản đối tại tòa TGM và căng biểu ngữ: „Đả đảo việc Henri Lemaitre áp đặt Nguyễn Văn Thuận làm phó TGM Sàigòn“. Để khỏi làm phiền Đức Tổng Bình, Ngài phải nay đây mai đó, tránh sự phá hoại của nhóm cấp tiến.

„Theo tập tài liệu của Hà Thiên Thu, nhóm Linh mục này gồm có: Nguyễn Quang Lãm, Vương Đình Bích, Thanh Lãng, Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Nguyễn Văn Trinh, Phan Khác Từ, và Hoàng Kim. [3]

Ngày 27/06/1975, lúc 14 giờ Ngài được giấy của Ủy ban quân quản Sài gòn Gia định mời lên dinh Độc lập. Tháp tùng Ngài có cha Trần Du và cha Nguyễn Quang Thạnh (Nha Trang). Họ cũng mời nhóm Linh mục cấp tiến gồm: Lm Thanh Lãng (Đinh Xuân Nguyên), Lm Nguyễn Huy Lịch O.P, dàn dựng hoạt cảnh đấu tố Đức cha Nguyễn Văn Thuận. Lúc 19 giờ cùng ngày, „Chánh án“ Cao Đăng Chiếm tuyên bố „bứng“ ngài ra khỏi tòa TGM Sài gòn.

Nhưng thay vì buộc Ngài trở về Phan Thiết, thì vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15/8/75) Ban Quân Quản Tp. Sàigòn đã bắt và giam Ngài luôn cho mãi đến ngày 23/11/1988, nghĩa là sau hơn 13 năm tù đày mới được trả tự do.

Thế mới biết! Đâu là ý Chúa hay đâu là ý nhóm „Linh mục cấp tiến“? Ngay cả việc đại diện tòa thánh, có mặt tại nơi, nhóm Linh Mục cấp tiến cũng không chấp thuận. Thế thì làm gì mà có việc, tay sai Cộng sản, muốn bang giao với Tòa thánh?!

Nhóm „Công giáo tiến bộ“ ở Sài gòn, gồm những Linh Mục hiện diện ra mặt: Lm Thanh Lãng, Lm Phan Khác Từ, Lm Huỳnh Công Minh, đã nhiều lần tổ chức những cuộc biểu tình bạo động.

Không lập bang giao với Tòa thánh, nhóm tay sai linh mục quốc doanh mới có dịp „ra tay“ chứ! Họ chẳng muốn hình thành „Giáo hội tự trị“, do chính họ, những phần tử làm tay sai cho sự ác, điều khiển. Nếu bang giao với Tòa Thánh, thì chẳng nhẽ chính những thành phần „nhóm quốc doanh này“ tự chặt cụt tay mình sao?

Kết luận:

Qua sự kiện TGM Ngô Quang Kiệt, ngày 22/04/2010, chúng ta có vài nhận định sau: Trong lòng giáo Hội Công Giáo Việt nam, vẫn còn những thế lực đen, làm tay sai cho chế độ gian ác. Những phần tử này, sẵn sàng „dâng đầu“ người anh em để tìm hưởng lộc. Họ là những phần tử khá hiểm độc.

Biểu tượng nguồn Hy vọng dường như đang bị đánh phá, để thay thế vào đó, xây dựng hình ảnh làm tay sai tòng phạm, phục tùng thế lực tà thần ma qủy. Thế lực đen này, đã và đang len lỏi vào lòng Giáo Hội và đang tha hồ ra tay ác quái.

Việt Nam, đang hình thành „giáo hội tự trị“, do những thành phần thân Cộng lãnh đạo.

Linh mục trẻ 37 tuổi, Jerzy Popieluszko, phó xứ ở Stanislas, vào trung tuần háng 6 năm nay (2010), sẽ được phong Chân phước Á thánh tử đạo. Ngài tử đạo vì đức tin, vì tự do, vì nhân quyền và vì ái quốc. Ngài là gương anh dũng can đảm đấu tranh cho Công lý và sự thật, không những riêng cho nước Ba lan, mà cho cho Giáo Hội hoàn vũ nữa, và đặc biệt cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta.

Vậy, xóa bỏ biểu tượng đấu tranh cho công Lý, dấn thân cho sự thật, giáo Hội Việt nam và đất nước Việt nam sẽ đi về đâu? Nếu không tôn trọng và trân qúi những giá trị chân chính xứng đáng này, thì chúng ta đi tìm giá trị nào? Nếu những giá trị lành mạnh tốt lành không được bảo vệ và phấn đấu, thì e rằng giáo hội Việt Nam khó mà làm chứng nhân cho Hy vọng, Công Lý và tình bác ái đầy lòng nhân từ được.

Hình ảnh mục tử nhân lành cam đảm sẽ tiêu tan. Vậy, rao giảng tin mừng sẽ là gì? Chẳng nhẽ rao giảng sự giả dối, hèn nhát, phản bội, phục tùng sự ác chăng?

Chúng tôi tha thiết kêu gọi quý anh chị em tín hữu, hãy tự trung thành cương trì dấn thân cho Công lý, cho sự thật và cho lẽ phải, bất chấp hàng rào ngăn cản, rồi Chúa sẽ ban sức mạnh và sự khôn ngoan thêm!? Hãy nói thật làm thật và luôn biết cậy trông vào Thiên Chúa và đừng sợ ai! Cây ngay không sợ chết đứng!

Đất nước Việt Nam có được TGM Ngô Quang Kiệt, cũng là dấu hiệu, dân tộc sẽ không thể và cũng sẽ không bao giờ bị diệt vong. Vậy, phải yểm trợ và bảo vệ những tiếng nói Công lý chánh trực này!

Hãy tiếp tục làm chứng nhân cho sự thật và tự tin vững mạnh vào Thiên Chúa! Hãy luôn kiên trì đứng về lẽ phải và sự thật! Đứng về những khối người có lòng thiện ngay!

Công lý, niềm tin ở ai? Không lẽ Công lý đã bị vùi dập bởi chính người anh em con cái của Chúa? Giu-đa, kẻ phản bội, người là ai? Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra. Rồi thời gian sẽ trả lời!

Lời trăng trối của cha Jerzy Popieluszko sau đây đáng cho chúng ta ghi nhớ và suy nghĩ: „Bổn phận người Công giáo là đứng về phía Chân Lý, dù phải trả giá đắt!“

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh
(Đức Quốc, thứ ba, ngày 27/24/2010, lễ kính thánh Phêrô Canisinus)

[1] Ðức Cha Nguyễn Văn Nhơn năm nay 72 tuổi, sinh ngày 1 tháng 4 năm 1938 tại Ðà Lạt, thụ phong linh mục ngày 21 tháng 12 năm 1967 và được chọn làm Giám Mục Phó giáo phận Ðà Lạt cách đây 19 năm (3-12-1991) và gần 3 năm sau, ngày 23 tháng 3 năm 1994 ngài kế nhiệm Ðức Cha Bartolomeo Nguyễn Sơn Lâm trong nhiệm vụ Giám mục chính tòa Ðà Lạt. Ðức Cha Nhơn kế nhiệm Ðức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa trong nhiệm vụ Chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam.

[2] Ðức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt năm nay 58 tuổi (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1952), nguyên thuộc giáo phận Long Xuyên, thụ phong linh mục năm 1991, và được chọn làm Giám Mục Lạng Sơn và Cao Bằng năm 1999. 6 năm sau đó ngài thăng Tổng Giám Mục chính tòa giáo phận Hà Nội ngày 19 tháng 2 năm 2005.

Theo niên giám năm 2010 của Tòa Thánh, Tổng giáo phận Hà Nội có gần 335 ngàn tín hữu Công Giáo với 143 giáo xứ và hơn 90 linh mục triều và dòng (SD 22-4-2010).

[3] Nguyễn AnTôn: Công giáo Miền Nam Việt Nam sau 30-4-1975, nhà xuất bản Dân Chúa, Gretna, LA 1988, trang 225.



Vấ Đề An Ninh Cho Lực Lượng Giáo Dân - Nguyễn Phúc Liên

Nguyễn Phúc Liên

Khi CSVN nhất quyết tìm đủ mọi cách để loại TGM NGÔ QUANG KIỆT ra khỏi địa bàn Hà Nội và tìm người thay thế ngoan ngoãn làm theo Chính trị của họ, đó chưa phải là mục đích tối hậu của CSVN.

Mục đích tối hậu của CSVN là giải tán cho bằng được LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ hiệp nhất thành một khối ĐÒI CÔNG LÝ và SỰ THẬT. Chúng sợ LỰC LƯỢNG này cũng như sợ tất cả mọi Lực Lượng quần chúng khả dĩ đối kháng lại Chính trị độc tài đè nén của chúng.

Những kẻ Chăn chiên giả đang nộp con chiên cho lang sói. Chúng ta kêu gọi Giáo dân hãy phản công lại những kẻ Chăn chiên giả này để bảo vệ lấy ĐỨC TIN của mình.

Với bài ngắn hôm nay, chúng tôi muốn đề cập đến vấn đề BẢO VỆ AN NINH THÂN XÁC cho những thành phần cốt cán của LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ. Những kẻ Chăn chiên giả không phải là chỉ giao Linh hồn Con chiên cho Ma qủy, mà còn giao THỂ XÁC của Con chiên cho CSVN dầy vò, bỏ tù.

Thực vậy, tiến trình thanh trừng của CSVN đối với LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ như sau:

1. Loại được TGM NGÔ QUANG KIỆT rồi, chúng thay thế vào đó Gm Giáo gian quốc doanh Nguyễn Văn Nhơn ngoan ngoãn làm theo Chính trị của chúng hoặc tối thiểu án binh bất động khi chúng tiếp tục thanh trừng ở những giai đoạn kế tiếp.

2. Giai đoạn tiếp là CSVN loại những Linh mục dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, nơi tụ họp Giáo dân Cầu Nguyện. Chúng trả thù các Linh mục dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà. Nếu TGM KIỆT đi rồi, mà còn các Linh mục dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà nằm đó, thì chúng vẫn sợ Giáo dân tụ họp lại Cầu Nguyện.

3. Giai đoạn ba là chúng tìm trong Linh mục đoàn Hà Nội, những Nam Nữ Tu sĩ đã tác động tích cực trong những buổi nhóm họp cầu nguyện của Giáo dân. Chúng đã quay phim, chụp hình, ghi âm phát biểu của những Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ tích cực ấy. Chúng tìm những cớ để thanh trừng, bắt tội, bỏ tù …

4. Giai đoạn bốn là chúng tìm ra trong hàng ngũ Giáo dân những Thanh niên đã tích cực tổ chức cho Giáo dân tụ lại Cầu Nguyện.

Tóm lại, CSVN sẽ diệt tận gốc LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ để trừ hậu họa cho chúng trong lâu dài.

Một số Giám mục như Hồng y MẪN, Gm NHƠN vân vân chỉ hy vọng hão vào Thương lượng, Đối thoại. Khi CSVN đã diệt được tận gốc Lực Lượng Giáo dân rồi, thì những lời đối thoại, thương lượng của Giáo quyền chỉ như gió thoảng qua không được Cộng sản nghe nữa. Những Giám mục này, ngay cả Vatican đã hy vọng hão. Thực vậy, muốn lời nói đối thoại, thương thảo của mình có giá trị, được kính nể, thì phải có LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN mạnh đứng đàng sau hậu thuẫn. Thánh Gandhi bất bạo động, nhưng phải có Khối dân khổng lồ sẵn sàng bạo động đứng đáng sau, thì Nước Anh mới nghe và trả Độc Lập cho Ấn Độ.

Vấn đề AN NINH THÂN XÁC của những thành phần cốt cán của LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ không thể trao phó trong tay những Giám mục mơ mộng đối thọai ảo tưởng.

Chính LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ phải tự lo BẢO VỆ AN NINH CHO THÂN XÁC MÌNH. Khi một Linh mục hay một Giáo dân bị bắt, bị bỏ tù … thì lúc đó mới kêu gào trách móc Hồng y Mẫn, Gm Nhơn hay Vatican hay sao?

Họ cao chạy xa bay, hết đối thọai, nhưng thân xác mình ngồi tù !

Nguyễn Phúc Liên
Geneva, 28.04.2010

Monday, April 26, 2010

Đôi điều suy nghĩ về sự ra đi của đức TGM Ngô Quang Kiệt - Alf. Hoàng Gia Bảo




Alf. Hoàng Gia Bảo

Việc tòa thánh Vatican bất ngờ công bố quyết định bổ nhiệm Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn từ Đà Lạt ra Hà Nội để chuẩn bị thay Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt đã làm nóng dư luận suốt tuần vừa qua, bởi trước đó chỉ vài ngày mọi người vẫn tin rằng đó chỉ là những lời ‘đồn thổi’ thiếu logic. Bởi việc này là do tòa thánh Vatican quyết định, nhưng trước nay chúng ta lại chưa hề biết đến trường hợp nào tòa thánh lại chịu ‘xuống nước’ trước những yêu sách ‘vô lối’ đòi thuyên chuyển một chức sắc cao cấp của giáo hội như Hà Nội muốn áp đặt lên Đ/c Kiệt. Chính vì thế rất nhiều người đã không khỏi ngỡ ngàng và thất vọng. Thậm chí đến cả Lm. Pascal Nguyễn Ngọc Tĩnh, một người rất am hiểu tình hình giáo hội cũng đã phải thốt lên, rằng đó là một “cảm giác thật khó tả”!

Sự thật phũ phàng!

Có thể nói suốt chiều dài lịch sử 350 năm tồn tại của giáo hội VN chưa bao giờ việc đi ở của một vị giám mục lại trở thành ‘nan đề’ và được dư luận quan tâm một cách đặc biệt như trường hợp của đức cha Kiệt. Không chỉ có các báo công giáo đưa tin - bình luận thôi, vụ việc cũng đã thu hút nhiều báo đài lớn như BBC, VOA, RFA, RFI v.v…

Trước một làn sóng quá nhiều người không đồng tình như vậy, cho dù ai có giải thích theo cách nào, kể cả việc nhân danh đức tin để giải thích rằng đây là do “thánh ý Chúa” đi chăng nữa, thì vẫn luôn còn đó một sự thật hết sức phũ phàng: đó là chức danh TGM Hà Nội của đ/c Kiệt đã bị ông Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo đòi lấy đi trước cả khi tòa thánh Vatican ra quyết định mang nội dung như ông Thảo yêu cầu.

Tưởng cũng cần nhắc lại vào ngày 15/10/2008 UBND Tp.Hà Nội từng đứng ra tổ chức một ‘cuộc họp báo’ nhưng khách mời chủ yếu là các đại sứ quán để nghe ông chủ tịch Nguyễn Thế Thảo tuyên bố rằng TP.Hà Nội “sẽ đề nghị thuyên chuyển Đức Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt ra khỏi Giáo phận Hà Nội”. Và nay thì điều này đã thành sự thật.

Như vậy, dù muốn hay không chúng ta vẫn phải tin rằng nguyên nhân cốt lõi khiến đ/c Kiệt phải ra đi chính là để thỏa mãn đòi hỏi của chính quyền Hà Nội. “Sức khỏe” chỉ là lý do ‘vay mượn’.

Điều đáng buồn cho giáo hội là ở chỗ này. Trong khi giáo dân chúng ta vẫn thường được dạy “Chúa là Đường và là Sự Thậ t… chỉ có sự thật mới là vĩnh cửu, là cứu cánh và là ơn cứu rỗi… chọn đi theo Chúa là phải chọn sự thật làm bạn đồng hành v.v…” nhưng nay khi đụng đến sự thật về tuyên bố của ông Nguyễn Thế Thảo mới thật là … hỡi ôi! chẳng thấy vị giám mục nào trong HĐGMVN dám đả động đến nó!?

Chỉ bấy nhiêu thôi thiết tưởng cũng đã quá đủ để mọi người chẳng phải nhọc công đi tìm “một nửa sự thật” nào khác, như một bài viết trên trang HĐGMVN từng đặt vấn đề với nuvuongcongly. net

Đ/c Kiệt ‘mất ngủ’ hay giáo hội đang lâm trọng bệnh?

Bất cứ ai quan tâm lo lắng đến vận mệnh giáo hội cũng có lý do chính đáng để ‘bất bình’ với quyết định của tòa thánh: Vì sao giáo hội lại có thể để cho thế quyền can dự quá sâu vào việc thay đổi thuyên chuyển nhân sự cấp cao như vậy? Và nhất là khi việc làm này đại được viện dẫn bằng lý do hết sức dối trá “nhằm thể theo tâm nguyện chung của người dân, giáo dân thủ đô” như ông chủ tịch TP.Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đưa ra?

Ai theo dõi vụ Tòa Khâm Sứ hẳn đều biết chắc chắn không hề có loại nguyện vọng ‘bất nhân thất đức’ như vậy trong dân chúng đối với Đ/c Kiệt? (ngoại trừ hạng ‘giáo gian’ thì xin miễn bàn).

- Giả dối trắng trợn như thế, vậy mà ông Thảo vẫn chiến thắng khi sắp sửa gạt được Đ/c Kiệt ra khỏi cương vị TGM thủ đô, một vị trí mà thời gian qua Ngài đã tỏ ra có thừa khả năng chu toàn nó hơn bất kỳ ai khác?

- Tại sao giáo hội lại để cho một sự dối trá lại lên ngôi một cách dễ như vậy? Vì lợi ích lâu dài của cả giáo hội VN ư? Dựa vào đâu để khẳng định và lấy gì đảm bảo?

- Sự lên tiếng không đồng tình của nhiều người trên các trang mạng về việc đ/c Kiệt bị bứng ra khỏi Hà Nội một cách vô lý như vậy há chẳng phải là điều chính đáng sao, khi mà chỉ mới cuối năm vừa qua, nhân dịp khai mạc Năm thánh tại Sở Kiện giáo hội đã nói nhiều về “niềm tự hào về đức tin trung kiên của các bậc cha ông”. Vậy mà nay có người sống tinh thần đức tin kiên trung ấy thì lập tức bị lên án là chia rẽ giáo hội? Nếu giáo hội thật sự có đoàn kết tại sao Đ/c Kiệt lại bị lẻ loi bấy lâu như vậy?

Ai trong HĐGMVN có thể giải tỏa cho dư luận những câu hỏi trên để đàn chiên hàng ngày khỏi mất công leo trèo tường lửa để đi tìm ‘nửa sự thật’ không đáng tìm kia?

‘Biến cố’ Ngô Quang Kiệt?

Quyết định của tòa thánh bổ nhiệm G/m Nhơn thay thế Đ/c Kiệt một ngày gần đây rõ ràng có điều gì đó rất thiếu thuyết phục đối với dư luận giáo hội.

Bởi khi nhìn lại những gì Đ/c Kiệt đã làm cho hai giáo phận Lạng Sơn và Hà Nội chục năm qua, có thể nói hiếm có vị giám mục nào có thể chu toàn cái mà nhà nước VN thường rêu rao là ‘tốt đời đẹp đạo’ theo đúng nghĩa của nó như Ngài, mà bằng chứng dễ thấy nhất là Đ/c Kiệt không chỉ được giáo dân khắp nơi mến mộ thôi, mà còn được rất nhiều người ngoài đạo cả trong lẫn ngoài nước kính trọng.

Một chủ chăn như thế vì sao lại phải từ bỏ cộng đoàn để ra đi?

Với tình thế giáo hội đang đầy rẫy những sự nghi kỵ, bị thù ghét bởi thế quyền như hiện nay, việc vùi dập một chủ chăn cương nghị, mẫu mực như Ngài có thể sẽ trở thành hiểm họa đối với giáo hội. Bởi không ai có thể đoán trước được tương lai giáo phận Hà Nội và cả giáo hội VN sẽ tốt hay sẽ xấu hơn hiện nay sau nước cờ ‘thí tốt’ này?

Tốt xấu ở đây tất nhiên không phải là chuyện đạo công giáo sẽ bị Csvn công khai đàn áp. Thời đại ngày nay không còn có chỗ cho những loại hành động ngu xuẩn ấy nữa, mà sẽ bằng những thủ đoạn tinh vi hơn nhiều núp sau hàng giáo phẩm.

Thật lòng mà nói, bản thân tôi cũng như rất nhiều giáo dân quen biết khác đều rất không đồng tình với Đ/c Nhơn về sự xuất hiện của Ngài trên các phương tiện truyền thông nhà nước cùng ông thủ tướng ở những thời điểm khá nhạy cảm. Như Ngài cùng một số vị giám mục khác từ Long Khánh lặn lội ra tận Hà Nội để ‘chào’ ông thủ tướng Dũng hồi năm 2008. Nếu HĐGMVN họp ở Hà Nội thôi thì ‘nhân tiện’ đã đành, đằng này…!? Phải chăng các vị đứng đầu giáo hội chúng ta có nhiệm vụ phải báo cáo chính phủ kết quả cuộc họp có “thành công tốt đẹp” hay không cho chính phủ nắm?

Gần đây hơn, trong khi một trong số những cơ sở quan trọng của giáo hội là Giáo Hoàng Học Viện chưa đòi lại được, thì Đ/c Nhơn lại đi nhận hơn chục hécta đất do thành phố Đà lạt ‘hào phóng’ cấp để xây dựng Trung tâm Mục vụ với lễ khánh thành rất ‘hoành tráng’ được báo đài trong nước đưa tin ‘rầm rộ’. Làm thế để làm gì để rồi phải ‘há miệng mắc quai’ với họ khi thấy Giáo Hoàng Học Viện bị họ đào bới liền ngay sau đó?

Lịch sử một khi qua đi nó sẽ ‘đóng khung’ vĩnh viễn, không cho phép bất kỳ ai thay đổi sửa chữa được điều gì sau đó. Chẳng còn bao nhiêu ngày nữa, đ/c Kiệt sẽ phải rời khỏi Hà Nội. Liệu giờ ‘G’ của ngày ‘D’ bàn giao ấy sẽ đi vào lịch sử giáo hội như một sự kiện đáng xấu hổ?

Có những biến cố mới xảy ra vài thập niên trước nhưng nay đã được nhiều người nhắc lại với bao nuối tiếc! Như hai anh em ông Diệm Nhu giá như sáng 03/11/1963 đừng gọi điện cho ‘Big Minh’ (tức tướng chủ mưu đảo chính Dương Văn Minh) thông báo nơi họ đang ở để sau đó phải chui vào lòng chiếc thiết vận xa 113 tối om làm mồi ngon cho lũ hèn hạ, mà họ cứ ‘ở lì’ trong nhà thờ Cha Tam. Biết đâu số phận của vài chục triệu dân chúng miền Nam có thể đã rẽ theo hướng khác tốt hơn nhiều so với hiện nay?

Không ít kinh nghiệm ‘đớn đau’ từ lịch sử chắc hẳn đang khiến không ít người cũng như tôi đang băn khoăn tự hỏi, không biết liệu lần “tuân theo Thánh ý Chúa” này của Đ/c Nguyễn Văn Nhơn có thật sự sáng suốt hay không để sau này không ai phải nói câu “giá như ngày ấy… “

Dư luận ‘nóng’ do đâu?

Vụ đ/c Kiệt bị trục xuất khỏi Hà Nội bỗng khiến tôi nhớ lại chuyện Đ/c FX.Nguyễn Văn Thuận cũng từng bị trục xuất khỏi giáo phận Sàigòn đúng 35 năm trước…

Cũng như bao vụ ‘lùm xùm’ khác xảy ra trong thời đại ngày nay đều có ‘công trạng’ rất lớn của mạng internet và những gì đang xảy ra với Đ/c Kiệt hiện nay cũng không thoát khỏi quĩ đạo truyền thông này.

Nếu xét về mức độ hành xử vô lối của nhà cầm quyền Csvn đối với hai vị chủ chăn này, rõ ràng vụ Đức cha FX.Nguyễn Văn Thuận nghiêm trọng hơn nhiều nhưng lại có rất ít người biết. Vì như chúng ta đều đã biết, sau khi cưỡng chiếm miền Nam chính quyền cách mạng khi ấy chẳng những đã không công nhận quyết định bổ nhiệm của tòa thánh (23/4/1975) đưa Đ/c Thuận về làm Phó GM Sàigòn, nhưng thay vì buộc Ngài trở về Phan Thiết, thì vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15/8/75) Ban Quân Quản Tp.Sàigòn đã bắt và giam Ngài luôn cho mãi đến ngày 23/11/1988, nghĩa là sau hơn 13 năm tù đày mới được trả tự do.

Nhưng giả dụ như thời Đ/c Thuận cũng có phương tiện internet đầy đủ như bây giờ, chắc chắn nó cũng không thu hút sự quan tâm của công luận như với trường hợp đ/c Kiệt khiến cả giáo hội phải nóng lên suốt tuần qua.

Nguyên nhân của sự khác biệt theo chúng tôi là ở chỗ, những gì xảy ra cho đ/c Thuận là do một mình Csvn ‘tự tung tự tác’ trong men say chiến thắng 30/4/1975, còn với Đ/c Kiệt chuyện đã khác hoàn toàn. Một mình Csvn không thể làm nổi nếu không được sự chấp thuận của tòa thánh Vatican cũng như sự ủng hộ của HĐGM-VN. Bởi nếu không, hẳn Đ/c Nhơn đã có thể từ chối.

Nhân đây người viết cũng xin nhắc lại một phát biểu có vẻ quá … vô tư thoải mái của Lm.Huỳnh Công Minh với đài BBC hôm 23/4 khi nói về việc G/m Nhơn không muốn nhận nhiệm sở mới, bởi vì "ngoài kia khó khăn lắm trong lúc đó trong này đã yên hàng"!!!

Chúng tôi không biết ý nguyện thật sự của G/m Nhơn ra sao nhưng những lời ‘tung hứng’ loại này trong cương vị một linh mục là rất đáng xấu hổ. Tuy nhiên nó cũng phản ánh tư duy… ‘tìm chỗ ẩn nấp’ hiện không phải là hiếm trong hàng giáo phẩm VN.

Trở lại với mục đích so sánh trên, là để chúng ta dễ nhận ra rằng, lý do quan tâm của mọi người về việc đ/c Kiệt “phải ra đi” (lời của BBC) chắc chắn không phải vì lời tuyên bố của ông Nguyễn Thế Thảo. Bởi xét cho cùng, sau vụ đòi lại Tòa Khâm Sứ của Đ/c Kiệt ‘bất thành’ và nhất là với lời tuyên bố “tự do tôn giáo không phải là ân huệ…” anh chống tôi không được thì anh ắt phải ra đi. Luật đời xưa nay nó vẫn luôn là vậy. Mà chính cách xử lý trường hợp Đ/c Kiệt của cả tòa thánh Vatican lẫn HĐGM-VN không được như nhiều người mong đợi, là thay vì giáo hội có cách nào đó bảo vệ Đ/c Kiệt khỏi sự đe dọa của cường quyền, thì đã nhanh chóng chấp nhận sự áp đặt của họ. Làm thế giáo dân không còn cách hiểu nào khác hơn là giáo hội đã bị lũng đoạn bởi cường quyền.

Chính cái nỗi lo này mới thật sự làm ‘náo loạn’ dư luận khiến giáo hội bị nóng lên suốt tuần qua chứ chẳng phải do ‘âm mưu’ nào hết.

“Mặc cả”

Trang nuvuongcongly. net khi nói về vụ thuyên chuyển Đ/c Kiệt đã dùng từ “mặc cả”, thoạt nghe có vẻ nặng nề. Tuy nhiên, chúng ta cần biết rằng trong khi Vatican đối với Kitô hữu chúng ta là ‘Tòa Thánh’ thì với các thế lực trần gian đó lại là một vương quốc có quyền lực trên trường quốc tế.

Do vậy, trong quan hệ với VN tòa thánh không bao giờ chỉ biết chăm chăm đếm tới lui con số 6-7 triệu linh hồn tín hữu thôi. Mà một khi Vatican đã không thể nhập vai ‘Tòa Thánh’ để rao giảng với ‘con chiên’ Csvn được nữa, thì mọi sự “mặc cả” qua lại giữa đôi bên nếu có cũng là chuyện bình thường tất yếu thôi.

Bức thư khẩn từ Hồng y Quốc vụ Khanh Bertone (tương đương chức thủ tướng) gởi Đ/c Kiệt khi vụ TKS lên đến đỉnh điểm để giải quyết vụ việc “sao cho êm đẹp” cho chúng ta thấy khả năng thi hành những nhiệm vụ trần thế của các đấng bậc ở Vatican chẳng thua gì các chính trị gia tên tuổi thế giới là bao.

Lý giải sự việc của tòa thánh như vậy nghe có vẻ hơi trần trụi, nhưng nếu không, chúng ta sẽ chẳng còn cách nào khác để hiểu vì sao Tòa thánh Vatican dễ dàng chấp thuận yêu cầu của nhà nước VN muốn ‘bứng’ Đ/c Kiệt ra khỏi Hà Nội?

Một khi đã gọi là ‘mặc cả’ rồi thì ‘bánh ít ném đi’ chắc chắn sẽ có ‘bánh qui quẳng lại’, vậy sau vụ thuyên chuyển này nhà nước VN sẽ ‘ném’ cái gì lại cho giáo hội?

Gần đây chúng ta nghe nói nhiều về khả năng sẽ có một chuyến tông du đến VN của ĐGH Benedictô XVI vào năm sau 2011 nhân kết thúc Năm Thánh của giáo hội VN. Chưa biết khả năng này sẽ hiện thực được bao nhiêu phần trăm, nhưng để điều này được xảy đến, thì một trong những điều kiện gần như mang tính nguyên tắc ngoại giao phải được khai thông, đó là bang giao giữa Vatican và VN dù có thể sẽ chỉ là ở cấp độ thấp nhất.

Trước đây chúng ta cũng nghe nói Hà Nội sẽ không bao giờ dám qua mặt ‘đàn anh’ TQ trong quan hệ với Vatican, nhưng nay tình thế đã thay đổi hoàn toàn khác. Hơn bao giờ hết Hà Nội ráo riết vận động có thêm càng nhiều đồng minh càng tốt trước khi ‘lỡ’ nổ ra tranh chấp súng đạn với TQ nay mai.

Như vậy, khả năng thiết lập bang giao ở cấp cao nhất là trao đổi đại sứ đang được Hà Nội nhắm đến. Điều này xảy ra sẽ tạo cơ hội ‘danh chính ngôn thuận’ nhất cho Hà Nội giúp họ giải tỏa vết nhơ về vụ Tòa Khâm Sứ lỡ gây ra hai năm trước. Vì thử hỏi còn nơi nào thích hợp cho vị đại sứ tòa thánh hơn cái ‘vườn hoang’ số 42 Nhà Chung vốn là nơi ở của vị khâm sứ cuối cùng hơn nửa thế kỷ trước? Và như đã có lần chúng tôi nêu ra, khi trưng dụng làm vườn hoa, Hà Nội đã ra lệnh đập phá tất các công trình trong khuôn viên này nhưng họ lại không đụng gì đến tòa nhà chính cũ kỹ được xem là di sản của giáo hội, hẳn họ cũng có ý toan tính điều gì nên mới chừa lối thoát ‘cửa hậu’ như vậy?

Giải quyết vụ Tòa Khâm Sứ theo cách này, còn là bức thông điệp mà Hà Nội muốn gởi cho những vị chủ chăn nào muốn giống như Đ/c Kiệt: “xin thì cho nhưng đòi thì dứt khoát không trả!”.

Phải chăng đây cũng vì tòa thánh muốn hướng đến cách giải quyết này đối với những tài sản của giáo hội đang bị chiếm dụng và được nhà nước VN xem là “đôi bên cùng có lợi”, vì thế mà Đ/c Kiệt đã “phải ra đi”!?

Sàigòn, 26/4/2010
Alf. Hoàng Gia Bảo
Source: http://www.vietcatholic.org/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=79571

Phản Công Của 3 Triệu Ngô Quang Kiệt - Nguyễn Phúc Liên

Nguyễn Phúc Liên

Khi chúng tôi nói 3’000’000 Ngô Quang Kiệt hay 500’000 Cao Đình Thuyên là chúng tôi muốn nói đến LỰC LƯỢNG ĐÒI CÔNG LÝ gồm Giáo dân, Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ sống liền với Giáo dân và đã cùng nhau đổ máu ra tại hiện trường từ Tòa Khâm sứ, Xứ Thái Hà, Tam Tòa và Đồng Chiêm.

CSVN xử dụng đám ngợm Giáo gian quốc doanh

Truyền thống của Cộng sản là phải phá vỡ các Lực lượng dân chúng đối kháng. Cộng sản đi đến đâu là họ giải tán các đòan thể dù là ái hữu, văn hóa, thể thao.

Ở Việt Nam, CSVN không thể nào giải tán một cách đơn thuần Tổ chức Giáo Hội Công Giáo. Họ đành dùng danh, lợi, thậm chí cả gái để chiêu dụ một số Linh mục, Tu sĩ, thậm chí cả Giám mục để làm tay sai len lỏi vào Tổ chức Giáo Hội để chia rẽ, làm tê liệt các Lãnh đạo tối cao của Giáo quyền.

Trong nhiều chục năm trường, Hàng Giám mục VN đã thực sự yên lặng đến nỗi hèn nhát không dám cất tiếng nói trước những bất công, những tha hóa của xã hội, mà chỉ làm việc theo quy chế XIN—CHO, nghĩa là tùy thuộc quyết định của Chính trị Nhà Nước.

Hình thành Lực Lượng Giáo dân lên tiếng

Từ khi Giáo dân tụ họp cầu nguyện tại Tòa Khâm sứ, rồi Xứ Thái Hà, rồi Tam Tòa và Đồng Chiêm, tôi nhìn thấy một sự đứng lên đòan kết và can đảm của GIÁO DÂN của CÁC LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ sống liền với Giáo dân, hiệp lại thành một LỰC LƯỢNG ĐÒI CÔNG LÝ. Tôi vô cùng phấn khởi và nhìn thấy LỰC LƯỢNG này là niềm hãnh diện cho Công Giáo VN và là HY VỌNG cho DÂN TỘC. Hy vọng cho Dân tộc bởi vì Lực Lượng Giáo dân Công giáo có tổ chức và hy vọng sẽ hòa chung hướng dẫn Lực Lượng DÂN OAN, Lực Lượng Công nhân, Lực Lương Nông dân. Đó là là những Lực Lượng Dân nghèo đang bị những BẤT CÔNG về Kinh tế, về chính quyền DẠ DẦY.

Như đã nói ở trên, đã từ lâu, nhiều chục năm, Hàng Giám mục lãnh đạo tối cao YÊN TIẾNG, mặc cho những bất công, những tha hóa xã hội, những kẻ bị đàn áp nằm bên lề đường. Ngày nay, từ vụ việc Tòa Khâm sứ, Giáo Hội Công Giáo VN có được một Giám mục dám can đảm đứng lên nói SỰ THẬT, đi sát với Giáo dân và Dân nghèo. Đó là TGM NGÔ QUANG KIỆT. Ngài chấp nhận đứng ở đầu sóng ngọn gió cho LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC VÀ NAM NỮ TU SĨ của Tổng Giáo phận Hà Nội, một LỰC LƯỢNG đang là HÃNH DIỆN của người Công giáo VN và nguồn HY VỌNG cho Dân Tộc trên đường chống BẤT CÔNG, đòi CÔNG LÝ cho xã hội.

CSVN tái xử dụng đám tay sai Giáo gian

Nhưng trong mấy tuần nay, người ta thấy CSVN và một số Giám mục tay sai, tìm đủ mọi cách triệt hạ vị Giám mục can đảm NGÔ QUANG KIỆT, rồi tìm thay thế vào bằng một Giám mục quốc doanh NGUYỄN VĂN NHƠN, người mà cách đây 6 năm, tôi thấy đã hoàn toàn về phía Lm. Phan Khắc Từ, Lm.Nguyễn Tấn Khóa và một số Giám mục khác như Gm. NGUYỄN THANH HOAN để nhiệt liệt ủng hộ Pháp Lệnh Tín Ngưỡng, Tôn Giáo mà CSVN đặt ra để bắt các Tô Giáo theo quy chế XIN—CHO, nghĩa là phải lệ thuộc vào Chính trị Nhà Nước.

Việc triệt hạ TGM NGÔ QUANG KIỆT là một đau lòng. Nhưng đau lòng hơn nữa là CSVN nhằm triệt hạ LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN CÔNG GIÁO đang đứng lên và cho Dân tộc nguồn HY VỌNG.

Trong hòan cảnh như vậy, mình phải nghĩ thế nào để đấu tranh, tối thiểu BẢO VỆ LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ đã sống chết ở hiện trường với Giáo dân.

Không thể làm tê liệt 3 triệu Ngô Quang Kiệt

Tôi muốn tách các Giám mục, Thần quyền cấp tối cao lúc này (không có TGM KIỆT) ra khỏi LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ để BẢO TÒAN LỰC LƯỢNG đang lên này. Đó là LỰC LƯỢNG 3’000’000 Ngô Quang Kiệt.

Như vậy, hiện nay, một sự tranh đấu giữa hai phía rõ rệt:

  • Một đàng là nhóm thượng tần: Giáo quyền tối cao gồm Hàng Giám mục, thậm chí nội gián tới Vatican.


  • Thực vậy, CSVN xử dụng một số ngợm tay sai quốc doanh đã được lên tới Giám mục. Nhóm này đã tích cực làm tay sai cho CSVN nhằm thực hiện việc lọai TGM NGÔ QUANG KIỆT ra khỏi địa bàn Hà Nội, nhưng mục đích tối hậu là phá vỡ Lực Lượng Giáo Dân, Linh mục và Nam Nữ Tu si đi liền với Gíao dân. Để thực hiện mục đích tối hậu này, chúng xử dụng ngợm Giám mục Nguyễn Văn Nhơn thay thế TGM NGÔ QUANG KIỆT. Lệnh thay thế đã đến từ Vatican. Một số người thạo tin từ Vatican đã nghĩ rằng CSVN đã xử dụng thành phần nào đó ảnh hưởng tới quyết định của Vatican. Người ta đang bị nghi ngờ Đức Ông Francesco CAO MINH DUNG làm Cố vấn chính trong Bộ Ngọai Giáo Vatican. Chúng tôi được thông tin rằng trong dịp Lễ Khai mạc Năm Thánh vừa rồi tại Hà Nội, Đức Ông Cao Minh Dung sang Hà Nội tham dự và đã đuợc CSVN chiều chuộng một các đặc biệt. Tỷ dụ CSVN cho xe chở cả Gia đình, thân nhân của Đức Ông Cao Minh Dung từ Huế ra Hà Nội và CSVN chi phí tất cả những việc thuê và ăn ở tại Khách Sạn cho Gia đình và thân nhân. Một bạn học cũ với Đức Ông Cao Minh Dung tiết lộ rằng Đức Ông Cao Minh Dung có tham vọng lên tới chức Tổng Giám Mục.

  • Một đàng là Lực lượng hạ tầng: LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ


  • Như ở trên đã nói, LỰC LƯỢNG này đứng lại với nhau từ ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM của họ đã bị đè nén trong suốt những chục năm trường. Khi họ đã trở thành 3’000’000 Ngô Quang Kiệt, thì không thể một sớm một chiều mà Giáo quyền tối cao, Hàng Giám mục và ngay cả Vatican, có thể làm họ giải tán được, cho dù TGM NGÔ QUANG KIỆT có thể ra đi và ngợm Giáo gian quốc doanh Nguyễn Văn Nhơn về thay thế do dàn xếp của Giáo quyền tối cao. Họ có các Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ sống liền với họ và cùng họ tiếp tục đấu tranh.

    Nhật báo lớn quốc tế THE WALL STREET JOURNAL ngày 27.07.2009 đã nhận xét sự lớn mạnh của LỰC LƯỢNG này từ căn bản Giáo dân, Linh mục và Nam Nữ Tu sĩ cùng sống liền với Giáo dân, chứ không phải từ Giáo quyền tối cao sống trong lầu ngà: “Con số giáo dân tham gia biểu tình lên đến hàng trăm ngàn người dưới sự hướng dẫn của 170 linh mục và 420 nữ tu. Đụng độ giữa giáo dân và công an Việt Nam đã được ghi nhận trong đó có 2 linh mục bị thương nghiêm trọng.”

    LỰC LƯỢNG hạ tầng bắt đầu phản công

    Những dàn xếp từ nhóm thượng tầng trong mấy tuần qua làm cho một số Giáo dân đã từng đấu tranh lâu năm bảo vệ Giáo Hội VN cảm thấy đau lòng. Một số những bài viết như Giáo Hội Phá Sản, Xin Hàng Giám Mục đừng để CSVN xỏ mũi, Giáo Hội Đổi chác Thần quyền và Thế quyền. Chính bản thân tôi cũng than lên như thất vọng:

    “Khi Giám mục đâm sau lưng những bà già bị Công an CSVN đánh bể mặt vì bảo vệ Giáo Hội, thì Giáo dân thấy sự hy sinh của mình trở thành vô ích. Dại gì phải hy sinh trong khi Giám mục tòng phạm với Cộng sản. Nếu có Giám mục nào bị Cộng sản đánh què cẳng, thì Giáo dân cần gì phải nhào vô bênh đỡ. Cứ để Cộng sản đánh cho Giám mục ấy gẫy thêm tay và bể đâu thì Giám mục ấy mới thấy cái giá phản bội của mình đối với Giáo dân.”

    Sau tiếng than như thất vọng ấy, chúng tôi bình tĩ lại hơn và suy nghĩ tại sao chúng ta có một LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ đặt căn bản trên ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM, mà chúng ta để cho nhóm thượng tầng làm tay sai cho CSVN khuynh đảo chúng ta và muốn dẫn chúng ta đi như đàn khỉ thuần thục. Chúng ta có LỰC và phải vùng dậy phản công lại theo đúng ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM trong chính con người chúng ta do chính Chúa Giêsu dậy qua Phúc Aâm. Chúng ta không thể để những bọn Chăn Chiên giả giao nộp chúng ta cho lang sói.

    Lá thư phản ứng của một Bà cụ 72 tuổi, Giáo dân Hà Nội, làm dấy động trong chúng ta sức phản công:
      “Kính thưa: HĐGMVN,

      Là Giáo dân Hà Nội, chúng con luôn theo sát mọi tin tức và diễn biến của Giáo phận Hà Nội. Gần đây, qua trang của Nữ Vương Công Lý, chúng con lại được tin Đức Cha Nguyễn Văn Nhơn sẽ ra Hà Nội nhận chức Phó TGMHN.

      Giáo dân chúng con thấy việc làm áp đặt này theo kiểu "quốc doanh" chứ không phài là của Giáo hội, nhất là Giáo hội Việt Nam từ trước tới nay. Do vậy, chúng con xin kính báo tới HĐGM VN như sau:

      1. Chúng con không thể chấp nhận cách "áp đặt" này khi mà ĐTGM Ngô Quang Kiệt hiện đang chức, Đức TGM Ngô Quang Kiệt hiện đã có Đức Cha Chu Văn Minh đang là Phó cho Ngài.

      2. Nếu chúng con không chấp nhận thì có lẽ chúng con phải nghĩ đến việc tập trung CẦU NGUYỆN tại Tòa Tổng Giám Mục 40 Nhà Chung Hà Nội, như đã cầu nguyện ở Tòa Khâm Sứ khi đòi Công Lý vậy.

      3. Xin các vị chủ chăn hãy nghĩ đến Giáo dân Hà Nội nói riêng, giáo dân miền Bắc nói chung đã chịu nhiều đau khổ trong nhiều năm chiến tranh và cũng đã chịu nhiều khổ đau và bất công dưới chế độ CSVN hơn 1/2 thế kỷ nay rồi.

      4. Kính mong HĐGMVN hãy biết lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của Giáo dân, không nên áp đặt theo kiểu "ĐẢNG TRỊ".

      5. Không nên biến HĐGMVN thành Hội đồng Giám Mục kính Chúa yêu nước và dân tộc (theo kiểu CSVN !).

      Tóm lại, không thể vì yêu cầu của ma quỷ, của CSVN mà bứng ĐTGM Ngô Quang Kiệt ra khỏi trái tim của tất cả Giáo dân HN. Giáo dân Hà Nội mong muốn ĐTGM Ngô Quang Kiệt, người Cha kính yêu, vị chủ chăn can đảm và nhiệt thành vẫn tiếp tục chủ chăn của Giáo hội Việt Nam Hà Nội.

      Chúng con kính mong HĐGMVN hãy cùng toàn thể Giáo dân Việt Nam hiệp nhất nên một trong Chúa Kitô. Con xin nhắc lại một lần nữa: Giáo dân HN Nói riêng, Giáo dân miền Bắc nói chung đã chịu rất nhiều khổ đau qua hơn 50 năm dưới chế độ CSVN rồi. Xin hay để Giáo dân chúng con được yên. Không nên để "con giun xéo lắm cũng quằn" và nếu "tức nước sẽ vỡ bờ".

      Cuối cùng, chúng con kính mong HĐGMVN hãy lắng nghe ý kiến của Giáo dân khi chưa muộn.

      Trần Thị Hường 72 tuổi (Giáo dân Hà Nội)”
    Cái trường hợp “TỨC NƯỚC VỠ BỜ“ này, hay “Thượng bất chính, Hạ tác lọan“ đã đẩy LỰC LƯỢNG HẠ TẦNG có những chương trình phản công lại nhóm THƯỢNG TẦNG do CSVN sai khiến. Chúng tôi nhận thấy những phản công sau đây:

    1. Nhóm NỮ VƯƠNG CÔNG LÝ

    Mặc dù dấu tên, nhưng chúng tôi thấy Nhóm này thuộc thành phần những Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ, rất thạo những nguồn tin từ nội bộ Giáo Hội và tích cực họat động giữ vững Tinh thần của 3 triệu Ngô Quang Kiệt. Hiện nay nhóm đang vận động Thỉnh Nguyện Thư để giữ lại TGM NGÔ QUANG KIỆT.

    2. Giáo dân Tẩy Chay ngợm Giám mục Nguyễn Văn Nhơn

    Giáo dân đã trưởng thành, không phải là “Cha bảo sao, Con làm vậy“ nữa. Tỷ dụ cụ thể: Hội đồng một Giáo xứ ở Vinh đã không tiếp Linh mục Tổng Đại diện đến Giáo xứ và nói với Linh mục Tổng Đại diện rằng: “Cha đến bằng xe của Công an, chúng con không tiếp. Cha hãy về đi và đến bằng xe của Cha, thì chúng con tiếp.“

    Giáo dân và Linh mục đòan, Nam Nữ Tu sĩ thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội sẽ đi đến trường hợp tẩy chay ngợm Gm Nguyễn Văn Nhơn: “Giám mục đến do CSVN đặt để, thì chúng con lánh xa Giám mục quốc doanh !“, nhất nữa Gíam mục Nhơn đến và muốn phá tan Lực Lượng đang là sự hãnh diện của Giáo Hội và nguồn Hy vọng cho Dân tộc.

    Sự lạnh lùng, tẩy chay ngợm GM Nhơn sẽ cho CSVN và Vatican một bài học.

    3. Họat động tẩy sạch ảnh hưởng của CSVN tại Vatican

    Nếu có nghi ngờ rằng Đức Oâng Francesco CAO MINH DUNG, Cố vấn chính tại Bộ Ngoại giao Vatican, phụ trách Việt Nam, bị CSVN khuynh đảo, “hối lộ“, thì số Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ VN chân chính tại Vatican cũng đông lắm và sẽ tìm cách lọai sự khuynh đảo của CSVN trên Đức Ông Cao Minh Dung. Những Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ chân chính này sẽ đi thẳng với Đức Giáo Hoàng.

    Tin ở sức mạnh ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM của mình, tin vào SỰ THẬT sẽ thắng, LỰC LƯỢNG GIÁO DÂN, LINH MỤC, NAM NỮ TU SĨ không những không thể để mình bị dẫn đi như đàn khỉ thuần thục, mà phải phản công bảo vệ Giáo Hội mẹ Việt Nam khỏi bị khuynh đảo bởi một nhóm ngợm Giáo gian quốc doanh do CSVN sai khiến.

    Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, Kinh tế
    Geneva, 27.04.2010

    Vietnam, in sadness but not in shame - Sol Sanders

    Sol Sanders

    ANALYSIS/OPINION:

    America's more than 1.5 million Vietnamese-Americans this week will mourn the 35th anniversary of the fall of Saigon and the Republic of [South] Vietnam.

    Defying conventional wisdom, many will remember and honor the bravery and sacrifice of the Army of the Republic of Vietnam. They want recognition for the heroic struggle that South Vietnamese troops put up against overwhelming odds after the withdrawal of American forces and the cutoff of U.S. military aid. Fortunately, a new group of revisionist scholars is setting the record straight, even in the face of the long history of American media and academic malfeasance on the Vietnam disaster.

    The mourners also will recall the enormous loss of life and suffering — "the bloodbath" which, again, conventional wisdom has tried to deny — that followed Saigon's fall. Thousands died in "the Vietnamese gulag," communist "re-education camps" where Prime Minister Pham Van Dong publicly admitted that more than 1 million people had been imprisoned. Few but the Vietnamese remember that in addition to the 255,000 boat people who reached the shelter of the miserable refugee camps, thousands drowned at sea, often refused entry by neighboring countries.

    That is not in any way to minimize the enormous loss of life and the sacrifice of Americans in what was a noble if tragic struggle. But it is an effort to retell the whole story of "Vietnam" for fellow Americans, particularly younger generations who have grown up amid a vast media and pseudo-scholarly distortion of facts. The remembrance also glories in the thousands of young Vietnamese now serving with distinction in the U.S. armed forces.

    Unfortunately, in Vietnam itself, the oppression continues unabated. The communist regime persecutes religious and ethnic minorities, and in its own ham-handed way, attempts to stamp out political dissent. An endlessly feuding politburo guides the one-party state — so enmeshed in petty personal rivalries and ideological confusion that it publicly arrested the Communist Party official newspaper editor after he wrote an anti-Chinese editorial. And, since 1995, when Sens. John McCain of Arizona and John Kerry of Massachusetts — both veterans of the war — pushed for U.S. diplomatic recognition without quid pro quos, official Washington has obfuscated the true nature of the regime. U.S. policy has naively and ignominiously sought favor with Hanoi through economic and trade concessions in a fruitless effort to promote political liberalization.

    Although Vietnam's economic team long ago adopted "the Chinese model," tattered Soviet-style central planning, incompetence and unbridled corruption have led to shortages, inflation and rising debt. Nevertheless, the indomitable Vietnamese entrepreneur, with his traditional thirst for education that finds an echo in the success of America's Vietnamese immigrant communities, has produced a growing gross national product for a youthful population nearing 90 million.

    Ironically, remittances from the American emigres to unfortunate relatives left behind has been the most powerful economic prop for the regime, totaling as much as $8 billion in 2008. That compares with $5 billion annually in aid from the multilateral agencies and bilateral aid programs. These remittances contribute 5 percent of the GDP, adding to the money sent home by a half-million workers abroad and spending by another 400,000 ethnic Vietnamese tourists annually. Capital from the American emigres, often arriving via the black market, funds small entrepreneurs who make Greater Ho Chi Minh City-Saigon the country's overwhelming economic hub, the cash cow for Hanoi's kleptocrats. The U.S. remains Vietnam's largest official investor as well, with some $1 billion in registered capital. More foreign investment would come were it not for the tangle of kickbacks and intrigues between the central Hanoi government and regional party bosses.

    Trying to counteract the effects of the worldwide credit crunch and recession, the communist planners in 2009 threw more than $1 billion — over 1 percent of GDP — at the currency. But while credit expanded by nearly 40 percent, the price of dollars soared despite two massive devaluations.

    Exporters, struggling with the high-priced dollar, have difficulty financing dollar imports of raw materials and components in the battle against their heavily subsidized Chinese competitors. And foreign exchange outflows are draining reserves. The business community is bracing for another round of inflation, probably even greater than the crisis year of 2008.

    The struggles of daily life, especially among the unemployed youths for whom both the French and American wars are a distant past, ignore the continued preoccupation with "Vietnam" in the United States. Hollywood's Vietnam War movies, for example, despite the widespread appeal of American popular culture, have elicited little interest.

    Much more important now, the Vietnamese look over their shoulder at their neighbor and traditional enemy, China. Despite border agreements following the short but bitter war in 1979 in which Hanoi bloodied Beijing's nose, disputes continue over islands in the South China Sea. And a flood of clandestine Chinese imports have wiped out many of Vietnam's cottage industries in the north.

    Bloggers on both sides keep up a steady chauvinist debate over old issues. And everyone waits for some new and spectacular development that will end the current malaise.

    • Sol Sanders, veteran foreign correspondent and analyst, writes weekly on the convergence of international politics, business and economics. He can be reached at solsanders@cox.net.

    Source: http://www.washingtontimes.com/news/2010/apr/26/sanders-vietnam-in-sadness-but-not-in-shame/
    __________________________

      Tưởng Niệm Ngày Mất Saigon 30/4/75:

      Việt Nam, Niềm Nhớ Đau Thương, Nhưng Không Tủi Nhục.
    Nguyễn Minh Tâm dịch

    • Nhân dịp tưởng niệm 35 năm ngày mất Saigon 30/4/75, ký giả Sol Sanders viết bài cảm nghĩ trên nhật báo Washington Times số ra ngày 26/4/2010. Sol Sanders là một cây bút chuyên viết bình luận về những vấn đề chính trị, kinh tế quốc tế. Chúng tôi xin lược dịch dưới đây để chia sẻ cùng quý độc giả nhân dịp tưởng niệm ngày 30 tháng Tư.


    TRONG TUẦN LỄ NÀY, hơn một triệu rưỡi người Mỹ gốc Việt sẽ ngậm ngùi khóc thương, tưởng niệm 35 năm ngày Saigon thất thủ, và mất nướcViệt Nam Cộng Hoà thân yêu của họ.

    Không chấp nhận những phán xét thường tình, nhiều người Việt Nam vẫn nhớ và vinh danh sự can trường, và những hy sinh cao cả của các chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Họ muốn ghi nhận cuộc đấu tranh anh hùng của binh sĩ Miền Nam Việt Nam trước những nghịch cảnh hết sức oái ăm sau khi quân lực Mỹ rút lui, và Hoa Kỳ cắt đứt viện trợ quân sự cho họ. May thay, một nhóm học giả mới đây đã tìm cách duyệt xét lại những sai lầm cũ của lịch sử để sửa lại cho rõ, mặc dù họ phải đối đầu với quá trình lịch sử dài về thảm kịch ở Việt Nam bị giới truyền thông Mỹ và giới trí thức khoa bảng bóp méo sự thực.

    Những người Việt khóc thương cho quê hương bị mất cũng sẽ nhớ lại những thiệt mạng quá lớn, những đau khổ chập chùng họ từng phải gánh chịu. Chuyện “tắm máu” đã thực sự xảy ra sau ngày Saigon bị mất, nhưng những hiểu biết tầm thường vẫn tìm cách chối bỏ điều này. Hàng ngàn người đã bị chết trong các trại tù “gulag kiểu Việt Nam”, tức các “trại tù cải tạo” của cộng sản. Chính Thủ Tướng (CSVN) Phạm Văn Đồng đã công khai thú nhận có hơn một triệu người bị bắt đi tù. Ngoài ra, không ít người Việt vẫn còn nhớ có khoảng 255,000 thuyền nhân đến được nơi tạm dung trong các trại tỵ nạn kham khổ,và bị các nước láng giềng xô ra ngoài biển khơi, hàng ngàn người phải chết chìm trong biển cả.

    Nhân dịp này, người Việt tha hương cũng không dám coi nhẹ sự mất mát về nhân mạng, và sự hy sinh lớn lao của người Mỹ trong cuộc chiến đấu cao thượng, nhưng kết thúc trong bi thảm. Tưởng niệm ngày mất nước cũng là một cách để kể lại toàn bộ câu chuyện “Việt Nam” cho những người bạn Mỹ, đặc biệt là cho thế hệ trẻ, họ lớn lên bị nhồi sọ bằng những thông tin bóp méo sự thật của giới truyền thông cũng như của đám trí thức dởm. Nhớ ngày mất nước cũng là dịp để vinh danh hàng ngàn thanh niên Việt đang phục vụ oai hùng trong các đơn vị chiến đấu của quân lực Hoa Kỳ.

    Tiếc thay, ở Việt Nam hiện nay tình trạng đàn áp vẫn tiếp tục, không hề giảm bớt. Chế độ cộng sản ngược đãi tôn giáo và những sắc dân thiểu số, cũng như dùng biện pháp đàn áp cứng rắn để tận diệt những thành phần đối kháng chính trị. Bộ chính trị là cơ quan chỉ đạo cái quốc gia độc đảng này. Trong lúc đó ở bộ chính trị luôn luôn có tình trạng tranh dành, tị hiềm cá nhân, và khủng hoảng ý thức hệ. Tình trạng tồi tệ đến nỗi chúng công khai bắt giam một tổng biên tập tờ báo chính thức của Đảng Cộng Sản sau khi ông ta viết một bài ý kiến chống Trung Quốc. Và chưa hết, kể từ năm 1995, sau khi Thượng Nghị Sĩ John McCain ở Arizona, và John Kerry ở Massachussetts cố tìm cách đẩy mạnh việc Hoa Kỳ thừa nhận quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Hai ông này đều là cựu chiến binh ở Việt Nam đã cố gắng làm lợi cho Cộng Sản Việt Nam mà chẳng đòi hỏi được gì cho Hoa Kỳ cả. Các quan chức ở Hoa Thịnh Đốn mù tịt không hiểu gì về bản chất thực sự của chế độ. Chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ quá ngây thơ, và hạ mình nhượng bộ cho Hà Nội nhiều đặc lợi về mậu dịch và kinh tế với hy vọng sẽ phát huy được sự cởi mở về chính trị. Nhưng cố gắng này trở thành vô ích.

    Mặc dù nhóm phát triển kinh tế của Việt Nam đã chọn đường lối phát triển theo “mô hình Trung Quốc.” từ lâu. Họ vứt bỏ đường lối hoạch định từ trung ương kiểu Nga Xô, nhưng sự dốt nát bất lực, và tình trạng tham nhũng bất trị đưa đến sự thiếu thốn về mọi mặt, lạm phát tăng cao, và nợ nần chồng chất. Trong lúc đó, với đầu óc kinh doanh cứng cỏi của người Việt, và lòng hiếu học sẵn có trong truyền thống, khối dân số trẻ trung, gần 90 triệu người ở Việt Nam đã phát triển tổng sản lượng quốc gia tăng lên rất nhiều. Lòng hiếu học của người Việt được tìm thấy qua những tiếng vang về sự thành công của nhiều cộng đồng di dân gốcViệt rải rác trên khắp nước Mỹ.

    Điều trớ trêu ở chỗ là số tiền của người Việt di cư sang Mỹ gởi về giúp cho thân nhân kém may mắn ở trong nước đã trở thành nguồn yểm trợ kinh tế mạnh nhất cho chế độ bạo ngược này, chẳng hạn như năm 2008, người Việt di cư gởi về $8 tỷ đô la. Con số đó còn cao hơn cả con số $5 tỷ đô la tiền viện trợ hàng năm qua các tổ chức đa phương hay những chương trình viện trợ song phương cho Việt Nam. Tổng số tiền kiều hối đóng góp khoảng 5% cho Tổng Sản Lượng QuốcGia –GDP, cộng thêm với số tiền của nửa triệu công nhân đi làm lao động nước ngoài gởi về, và một khoản tiền khác do 400,000 du khách gốc Việt đem về hàng năm. Nguồn tư bản do người Việt sống tại Mỹ thường được gởi qua hệ thống chợ đen, giúp các tiểu thương biến thành phố Hồ Chí Minh -Saigon ngày trước- trở thành đầu tầu kéo vực dậy nền kinh tế, đó cũng là một con bò sữa vắt ra đô la cho bọn chính quyền tham nhũng ở Hà Nội bòn rút. Hoa Kỳ vẫn là quốc gia có vốn đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, với nguồn tư bản đầu tư đăng nhập lên đến $1 tỷ đô la. Còn phải kể ra nhiều dự án đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, nếu họ không bị rơi vào mạng lưới tham nhũng, hối lộ của các tay đầu sỏ ở chính quyền trung ương tại Hà Nội, cũng như những tay tỉnh ủy ở điạ phương.

    Nỗ lực tìm cách giảm ảnh hưởng xấu của tình trạng khan hiếm tín dụng, và suy thoái kinh tế, các nhà làm kế hoạch cộng sản tung thêm vào thị trường tiền tệ hơn 1 tỉ đô la trong năm 2009 - khoảng hơn 1 % Tổng Sản Lượng Quốc Gia. Nhưng kết quả là tuy tình trạng cấp tín dụng có được mở rộng thêm khoảng 40%, nhưng giá đồng đô la lại tăng vọt, mặc dù chính phủ đã can thiệp bằng hai lần định giá lại tiền tệ.

    Vì trị giá đồng đô la tăng, các nhà xuất cảng gặp khó khăn trong việc tìm đô la để tài trợ khoản nhập cảng nguyên vật liệu và yếu tố thành phẩm, trong lúc phải cạnh tranh gay gắt với hàng Trung Quốc, được chính phủ trợ cấp rất nhiều. Và cứ như thế, dự trữ bằng ngoại tệ vơi đi rất nhanh. Giới kinh doanh lo ngại sẽ phải đối đầu với tình trạng lạm phát khá nặng, nặng hơn cả kỳ lạm phát xảy ra vào năm 2008.

    Vất vả tranh đấu với cuộc sống hàng ngày, giới trẻ Việt Nam ngày nay, nhất là những thành phần không có việc làm, coi chuyện chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ là chuyện đã đi vào trong qúa khứ xa xưa, họ chẳng thèm bàn tới chuyện “Việt Nam”, như những câu chuyện vẫn còn ám ảnh ở Hoa Kỳ. Ví dụ ba cái phim về chiến tranh Việt Nam của điện ảnh Hollywood, tuy vẫn còn hấp dẫn trong văn hoá bình dân Mỹ, song không còn lôi cuốn người xem xi nê ở Việt Nam.

    Điều quan trọng hơn trong lúc này đối với người Việt là họ ngoảnh cổ nhìn sang nước láng giềng bên cạnh, Trung Quốc, kẻ thù truyền kiếp của người Việt. Mặc dù sau cuộc chiến tranh ngắn, nhưng cay đắng, xảy ra vào năm 1979, trong đó, Hà Nội đánh sặc máu mũi Bắc Kinh, hai nước đã đạt được những thoả uớc về biên giới, nhưng giờ đây mối tranh chấp vẫn còn tiếp diễn về chủ quyền trên các hòn đảo trong Biển Nam Hải. Và số lượng hàng nhập khẩu rất lớn của Trung quốc được bí mật đưa vào Việt Nam khiến cho các ngành công nghiệp thô sơ của Việt Nam bị xoá sạch ở miền Bắc.

    Các bài viết trên những Blog liên mạng ở hai bên liên tiếp đả kích nhau dựa trên tinh thần yêu nước xô vanh, xoay quanh những vấn đề cũ. Và hiện nay mọi người đang trông chờ sẽ có một biến cố mới, ngoạn mục để chấm dứt tình trạng khó chịu, làm buồn lòng cả đôi bên.

    Nguyễn Minh Tâm dịch ngày 28/4/10



    Thuốc Đắng Dã Tật - Đinh Lâm Thanh

    Đinh Lâm Thanh

    Cuộc chiến giữa hai ý thức hệ Tự Do với cộng sản của người Việt hải ngoại mỗi ngày càng đi vào thời kỳ quyết liệt sau khi Hà Nội gấp rút đưa thành phần nằm vùng ra mặt công khai để đối đầu với cộng đồng người Việt Quốc Gia. Những kẻ bị ‘dính chàm’ hay bọn cầu vinh phản bội nầy được cộng sản ‘cấy’ để trở thành kẻ phá hoại … thì không xa lạ với cộng đồng qua các hành động của chúng trong quá khứ. Họ nguyên là thành phần tỵ nạn hoặc đã một thời cầm súng chiến đấu dưới cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, hay đã trải qua nhiều năm trong các trại tù cải tạo, nhưng một khi đã ngửa tay nhận ân huệ vật chất hoặc chạy theo cái bánh vẽ danh vọng thì họ sẵn sàng quay lại phản bội cộng đồng.

    Chuyện đau lòng gần nhất xảy ra trong tháng ba vừa qua tại phía Đông nước Mỹ, nơi có đông người Việt tỵ nạn định cư. Trong chuyện nầy, một hai người gì đó có liên hệ với cộng sản, đã nằm sẵn trong ban tổ chức, nên họ có dịp mời một ảo thuật viên đến trình diễn màn nhục mạ lá cờ Quốc Gia. Điều đau lòng phải nói ra là hàng trăm vị thực khách đang có mặt trong nhà hàng hôm đó vẫn ‘án binh bất động’ (trừ một vị tướng hải quân … nhưng tiếp theo cũng im lặng) trước cái màn bôi bác nầy diễn ra từ đầu đế cuối. Đây là một điều thật lạ lùng, có thể gọi là kinh hoàng khi vừa nghe qua!. Nhưng chuyện trở thành lớn là do một vài người tố cáo trên các diễn đàn, ban tổ chức đã xác nhận là chuyện thật và ra thông báo ‘xin lỗi’. Xem như hết chuyện !.

    Đây là một nhục mạ lớn lá cờ Quốc Gia, đâu có thể xin lỗi một cách đơn giản và dễ dàng như vậy. Ví dụ hôm đó ảo thuật viên trình diễn xé cờ Mỹ trong buổi tiêc thì chắc giờ nầy tên ảo thuật ‘việt cộng cái’ đã bị cảnh sát giữ và chờ ra tòa lãnh vài cuốc lịch … Vậy đối với lá cờ Quốc Gia, một bảo vật linh thiêng, biểu tượng của nền Cộng Hòa ngày trước và linh hồn của Tổ Quốc, thì ảo thuật viên nầy lại được ra về an toàn sau khi thi hành xong nhiêm vụ do cộng sản ra lệnh. Lúc nhiều người đưa vấn đề nầy ra trước công luận thì có kẻ lên tiếng cho rằng, đừng khơi vấn đề ra vì sẽ gây thêm chia rẽ … Vậy, xin nói thẳng rằng, chúng ta phải đưa vấn đề nầy ra không ngoài mục đích nhắc nhở kiểm soát hành động vô ý thức của những một số người trong cộng đồng hầu tránh những trường hợp đáng tiếc sẽ tiếp tục xảy ra sau nầy. Đây không phải là hành động ‘phá hoại đoàn kết’ mà chính là một thái độ ‘kết chặt đoàn kết’ để những người Việt Quốc Gia siết chặt tay nhau trừ khử thành phần cộng sản nằm vùng. Chỉ có những ai thuộc thành phần cộng sản, hòa giải hòa hợp hoặc chạy theo chiêu bài cộng sản mới đưa ra ý kiến bênh vực cho hành động phá hoại nầy. Màn trình diễn ảo thuật bôi nhọ lá Quốc Kỳ không phải chuyện vô ý, thiếu kiểm soát mà là một cuộc dàn dựng có dự tính trước của một người nào đó đang nằm trong ban tổ chức. Vậy có thể nói vấn đề nầy, kẻ đứng ra mời ảo thuật viên đến trình diễn thì chúng ta đã biết thành tích hoạt động của họ từ lâu. Đây là bằng chứng cụ thể để đi đến một kết luận rằng, cộng đồng cần mạnh dạn loại hẳn các thành phần nầy ra khỏi các tổ chức tranh đấu của người Việt hải ngoại.

    Chúng ta không thể so với người Nhật, nhưng hãy nhìn tinh thần dân tộc cũng như tấm gương liêm sỉ của họ khi một cá nhân nào vấp phải lỗi lầm trong lúc thi hành nhiệm vụ, thì họ từ chức về vườn hay phải mổ bụng tự sát ! Vậy với người Việt chúng ta, dù không thể so với người Nhật thì ít ra, những ai có trách nhiệm trong vấn đề nầy, nếu còn lương tri thì ít ra, nên tỏ một thái độ thiện chí gì khác hơn là một lời xin lỗi đơn giản, đồng thời phải có biện pháp với những người lợi dụng cộng đồng để bôi nhọ lá cờ quốc gia. Riêng đối với cá nhân nào đang cộng tác với Hà Nội mà một khi lá bài đã bị lật ngửa thì nên về Việt Nam phục vụ chế độ cộng sản để được vinh thân phì gia còn hơn nán lại ‘cố đấm ăn xôi’ để bị cộng đồng buộc tội nằm vùng.

    Trở lại thời gian qua, từ một nhật báo ở Litlle Sàigòn đến cuộc triển lãm nghệ thuật tại Santa Anna (Cali) đã đăng hình cũng như viết bài nhục mạ Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, hậu quả đã gây một luồng phẫn nộ trong dư luận và các tổ chức đó đều phải trả một giá khá đắt về những việc làm của họ. Vậy tại sao cộng sản âm mưu dùng ngay người trong các cộng đồng người Việt Quốc Gia để tạo cơ hội nhục mạ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ? Có thể xem đây là cuộc chiến giữa Quốc-cộng, hay nói trong một phạm vi nhỏ, giữa hai lá cờ mà Quốc Kỳ của Việt Nam Cộng Hòa đang tung bay trên khắp các vùng trời tự do thay cho lá cờ máu đỏ sao vàng của cộng sản đã mất hẳn chỗ đứng trên thế giới.

    Đứng đầu chống lại quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa là Hồng Y Phạm Minh Mẫm, bằng lời nói cũng như hành động, đối với những nơi nào có bóng dáng của ngài xuất hiện. Con ‘Tim’ đỏ (người gốc Thụy Sĩ) da trắng, tóc vàng thì từ chối vác bị gậy đứng dưới cờ mỗi khi ra nước ngoài ăn mày lòng nhân đạo của người Việt Quốc Gia. Chuyện vừa xảy ra mới nhất là linh mục Nguyễn Tường Luân, trong ban tổ chức Đại Hội Suy Tôn Lòng Thương Xót Chúa tại Cal. State Long Beach đã cấm giáo dân cầm cờ Mỹ và Vàng Ba Sọc Đỏ đến tham dự. Và hôm qua, linh mục Nguyễn Thuận tổ chức một nhóm ‘quần chúng tự phát’ (y như tổ chức của việt cộng) dàn chào và uy hiếp giáo dân mang theo cờ Mỹ- và Cờ Quốc Gia đến khánh thành nhà thờ họ đạo tại Arizona Trong lúc đó nhóm ‘quần chúng tự phát’ giật hình Đức Thánh Cha Benedic 16 quàng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ trên vai xé thành những mảnh vụn, liệng xuống đất và đưa chân chà đạp lên !. Thời kỳ đen tối của người công giáo Việt Nam đã đến. Từ Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Sàigòn, ‘tổng tư lệnh tối cao’ Huỳnh Công Nghị, và ‘Hội Đồng Giám Mục Quốc Doanh’ đến các cha cộng sản tại hải ngoại đã không chống lại kẻ thù của tôn giáo mà còn hợp tác, thi hành lệnh của quỷ đỏ cộng sản để chống lại đạo Công Giáo và cộng đồng giáo dân tự do hải ngoại. Bây giờ mới thấy những lời báo trước của nhiều vị tiên tri về một sự sụp đổ của đạo công giáo trước nanh vuốt cộng sản và một vài tôn giáo thù nghịch mà vị giáo hoàng đương nhiệm sẽ là chủ chăn áp chót của tòa thánh Vatican, đồng thời cũng là vị Giáo Hoàng sẽ phải giải quyết những khó khăn nầy.

    Trở về vấn đề linh mục quốc doanh là một điều đau lòng của giáo dân đang xảy ra tại Mỹ. Những ông cố đạo đi vắt sữa cũng như mấy cha được Hà Nội gởi qua đây với hai mục đích xin tiền và tuyên truyền cho cộng sản. Mấy ông linh mục nầy quyên góp tiền bạc của giáo dân nguyên là những người tỵ nạn cộng sản để xây nhà thờ và vinh thân phì gia đồng thời gởi tiền xin được ở nước ngoài về Việt Nam dâng cho Mặt Trận Tổ Quốc (một tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản). Nhưng khi khánh thành nhà thờ hoặc họ đạo thì các ông linh mục nầy lại tổ chức những nhóm gọi là ‘quần chúng tự phát’ rặc theo khuôn mẫu của cộng sản để dàn chào, hăm dọa và ngăn chận thành phần giáo dân đển dự lễ !!.

    Trong trận chiến giữa ta với kẻ thù, cộng sản Hà Nội không chỉ dừng lại ở trận tuyến cờ Vàng cờ ‘đỏ’ mà nghị quyết 36 còn nhắm vào các lãnh vực văn hoá, truyền thông, tôn giáo, giáo dục, thương mãi. Mấy lúc gần đây đã xảy ra nhiều vấn đề mà vai chính là người Việt tự do (hay người Việt tỵ nạn) trong các cộng đồng trở cờ một cách lộ liễu, như mấy tên ca sĩ bên Mỹ, chạy theo các buổi trình diễn do tên cộng sản chính cống Đàm Vĩnh Hưng tổ chức ăn mừng cách mạng thành cộng trong ‘tháng tư buồn’ của người Việt tự do hải ngoại. Mới đây xuất hiện thêm một ông thiếu tá gốc HO công khai đề nghị hủy bỏ tổ chức hai ngày kỷ niệm đau buồn mất nước 30.4 và Quân Lực 19.6 hằng năm, vì ông cho rằng tổ chức làm gì cho tốn kém. Như vậy Hà Nội cấy được thành phần tỵ nạn và ngay cả những người đã đi tù cải tạo hàng chục năm qua để ngày nay tung ra tin tức hoặc có những hành động nhằm đánh phá cộng đồng hay bôi nhọ Cờ Vàng Quốc Gia và tập thể QLVNCH. Hành động nầy không ngoài mục đích gây xáo trộn và chia rẽ cộng đồng. Trong lúc đang đánh máy, người viết nhận được một lá thư kêu gọi tổ chức tham dự 35 năm Quốc Hận (1975-2010) của đó 9 hội đoàn và một tờ báo ký tên vào ban tổ chức lại hoàn toàn không Cờ Vàng trên tờ truyền đơn kêu gọi. Đây là một việc làm ngoại lệ so với những truyền đơn kêu gọi cộng đồng người Việt Quốc Gia từ 34 năm qua !!!

    Vậy, kẻ thù nguy hiểm nhất không ở đâu xa mà đang ở ngay trước mặt cũng như ngay trong lòng cộng đồng chúng ta. Thành phần nầy thật nguy hiểm, không biết nằm trong tổ chức nào và chúng có thể bất thần xuất đầu lộ diện bất cứ lúc nào và ở đâu. Cộng đồng cần phải nghiên cứu tìm hiểu, nếu thấy một thành phần nào đang có hành động trở cờ thì phải có biện pháp giải quyết ngay. Không nên nuôi kẻ thù trong vòng tay thân ái, để khi xảy ra chuyện, lúc đó mới bật ngửa ra rồi, như một bệnh nhân bị bệnh truyền nhiễm lại đi kiếm băng keo và thuốc đỏ để đau đâu bôi đó. Chữa bệnh cách nầy chính là nuôi bệnh mà phải dùng liều thuốc cực mạnh để bứng tận gốc. Có thể nói rằng bệnh chạy theo cộng sản là bệnh xu thời của những người đã không có trái tim lại thiếu đầu óc, nhưng họ cần tiền để sống và cần danh bằng đường tắt. Nếu không chận đứng, bệnh sẽ lây lan dễ dàng và bộc phát theo lối dây chuyền do thành phần cò mồi cổ võ làm náo loạn trên các diễn đàn không ngoài mục đích của cộng sản nhằm gây hoang mang và chia rẽ cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại. Vậy một khi đã nắm được đích xác thành phần ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản nầy, các cộng đồng phải can đảm và dứt khoát dùng biện pháp mạnh đối phó là loại thành phần nầy ra khỏi cộng đồng tức khắc. Đúng vậy, có làm sạch cộng đồng thì chúng ta mới hy vọng bắt tay ngồi chung lại với nhau để tạo sức mạnh cho công cuộc tranh đấu hiện tại.

    Một điều rất buồn là cộng đồng người Việt hải ngoại đã và đang mắc phải những loại bệnh thời đại trầm trọng khác như bao che, cả nể hoặc sợ bị ‘chụp mũ ngược’ là cộng sản. Do đó hàng chục năm qua vẫn không dám dứt khoát chữa trị cho dứt những cái ung nhọt thối tha của cộng đồng. Mầm mống bệnh nầy càng ngày càng phát triển, ăn sâu vào gốc rễ và cho đến nay thì đồng loạt xì ra, không phải chỉ ngoài da mà ngay từ trong phèo phổi ruột gan, như chúng ta đã và đang thấy, đám nằm vùng lộng hành ngay giữa thủ đô tỵ nạn như chốn không người. Vậy, nếu một phần cơ thể bị ung thối đã đến thời kỳ vô phương cứu chữa thì phải can đảm chặt bỏ tức khắc, có như vậy mới hy vọng tránh được vết thương ăn lan khắp châu thân.

    Diệt trừ đám nằm vùng, thời cơ đón gió, hòa giải hòa hợp dân tộc không phải là vô phương và đành phải bó tay làm ngơ, nhưng muốn cứu chữa thì cần nhiều can đảm để dứt khoát một lần. Dù biết rằng cách giải quyết nầy thật khó khăn như phải ép con bệnh trước một chén thuốc khó nuốt ... nhưng có đắng thì mới dã tật.

    Đinh Lâm Thanh
    Tháng Tư Đen 2010


    Sunday, April 25, 2010

    Xã hội Việt Nam đỉnh cao siêu việt của trí tệ: Toilet Shopping


















    Source: http://bee.net.vn/channel/1983/201004/Vao-nha-ve-sinh-o-Ha-Noi-de-mua-sam-1748096/

    Saturday, April 24, 2010

    Người Lính Và Vành Khăn Tang Tổ Quốc! - Hoàng Nhật Thơ





    Hoàng Nhật Thơ
      Kính thưa quý Niên trưởng
      Kính thưa quý Huynh trưởng
      Kính thưa quý vị Quân Cán Chính VNCH
    Cuộc chiến Việt Nam trên mặt trận quân sự, thật sự chấm dứt lúc 1:15 trưa ngày 01/05/1975, sau khi Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn,Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện cùng các chiến sĩ dưới quyền bị sa vào tay giặc.

    Trước đó một ngày, tức là vào lúc 10:30 sáng ngày 30/04/1975, Tổng Thống* Dương Văn Minh kêu gọi các đơn vị, quân nhân các cấp thuộc QL/VNCH buông súng, sau này cũng có người gọi ông Dương Văn Minh là tổng thống "vi hiến". Trong phạm vi bài viết này, tôi không bàn về hai chữ "vi hiến" hay hợp hiến, mà tôi chỉ nhắc lại giờ phút lịch sử sang trang máu của 35 năm về trước, để cùng chia sẻ niềm đau thương dân tộc và cũng để "Vinh Danh_Tưởng Niệm_Tri Ân" những Người Lính VNCH. Sau lời kêu gọi buông súng của Ông Dương Văn Minh, một số đơn vị trưởng và cấp chỉ huy vì không muốn người dân và thuộc cấp phải đổ máu trong giờ thứ 25, nên đã ra lệnh kéo mảnh vải trắng lên ngọn cờ tại đơn vị, để chấp nhận chấm dứt chiến tranh. Từ ngày đau thương đó đến nay đã 35 năm, mảnh vải trắng đó bị xem là lá cờ đầu hàng. Không, VNCH bị bán đứng chớ Người Lính VNCH không thua ; Miền Nam Việt Nam bị cộng sản cưỡng chiếm, nhưng Người Lính VNCH không đầu hàng. Người Lính VNCH chẳng những can trường để chiến thắng, mà còn can trường ngay cả trong chiến bại. Thiếu TướngNguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng , Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã hãnh diện và hiên ngang thay mặt cho toàn thể QL/VNCH chứng minh điều đó. Người Lính VNCH không bao giờ thua hoặc đầu hàng cộng sản. Mảnh vải trắng được Người Lính VNCH trân trọng và nghiêm trang từ từ kéo lên đỉnh ngọn cờ, kèm theo hai dòng lệ nhạt nhòa trong ngày tang thương đó là "VÀNH KHĂN TANG TỔ QUỐC" !

    Mùa Xuân đến rồi qua đi, để lại trong lòng người Việt tha hương một nỗi buồn man mác trên con đường viễn xứ ... Tháng Tư lại đến, gợi nhớ trong chúng ta một tháng tư của 35 năm về trước .... Một Tháng Tư mà cả một quân đội hùng mạnh, thiện chiến nhất Đông Nam Á, phải tan hàng vì sự phản bội của đồng minh, một quân đội bách chiến, bách thắng bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới ; Một Tháng Tư mà cả quê hương Việt Nam, đã bị Cộng sản Bắc Việt nhuộm đỏ bằng máu của Quân Dân Cán Chính VNCH ; Một Tháng Tư mà cả một dãy Giang san Việt Nam hoa gấm bị bọn cộng sản phá tan nát, nhận chìm trong máu và nước mắt của 85 triệu người dân Việt trong suốt 35 năm qua. "THÁNG TƯ ĐEN 1975" ...!!!

    Trở ngược dòng lịch sử ... Trong suốt chiều dài của cuộc chiến trên quê hương Việt Nam, Người Lính VNCH đã dâng hiến cả cuộc đời cho Quê Hương, Tổ Quốc ; Người Lính VNCH đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn, để hoàn thành trách nhiệm mà Tổ Quốc đã giao phó: "Bảo Quốc_An Dân".

    Chúng ta không thể nào quên được hình ảnh Người Lính VNCH bước trên những đống gạch vụn đổ nát, trộn lẫn xác đồng đội và giặc thù, dưới từng cơn mưa đạn của địch quân giăng kín cả đất trời, để cắm ngọn cờ chiến thắng trên Cổ thành Quảng Trị vào ngày 16/09/72; Hình ảnh của những Người Lính VNCH tiến lên trong lửa khói mịt mờ, trong những trận mưa pháo kinh hoàng của quân thù, máu chảy theo mỗi bước đi, để chiếm lại từng tấc đất của quê hương nói chung, chiếm lại từng căn nhà góc phố cho người dân nơi thị trấn An Lộc nói riêng, vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 .v..v...
    Người Lính VNCH gục ngã trên khắp các mặt trận lớn nhỏ, thân xác của họ nát tan trong đạn pháo của quân thù, để cho đất Mẹ được an vui; Máu của họ tuôn chảy trên khắp các nẻo đường đất nước, thấm vào lòng đất Mẹ để cho ruộng lúa được xanh tươi, hoặc một phần thân thể của họ đã gởi lại trên chiến trường, mục rã theo thời gian. Tất cả sự hy sinh đó là để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam. Nhưng ... đớn đau thay ! Người Lính VNCH đã bị người bạn đồng minh phản bội và bức tử phải buông tay súng trong ngày 30/04/75. Để rồi bao nhiêu người đã tuẩn tiết chết theo vận nước; Hằng ngàn người đã bị bọn cộng sản hành quyết ngay sau khi bọn chúng cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam ; Hằng trăm ngàn Quân Cán Chính đã bị đưa vào 200 trại tù khổ sai, khắc nghiệt trên hai miền Nam Bắc, nhận lãnh sự trả thù đê tiện và hèn hạ bằng những cực hình tra tấn dã man, độc ác của bọn cộng sản vô thần khát máu. Khoảng một trăm sáu mươi lăm ngàn người (165,000) đã chết trong các trại tù khổ sai. Cho đến ngày hôm nay, còn khoảng sáu mươi lăm ngàn (65,000) Quân Cán Chính VNCH đã chết mất xác vì bị bọn cộng sản thủ tiêu.

    Dòng đời lặng lẽ trôi qua thoáng đó đã 35 năm. Dù cát bụi thời gian có chôn vùi tất cả và mọi việc sẽ đi vào lãng quên. Nhưng có những sự việc, những hình ảnh sẽ mãi mãi trường tồn với thời gian, trơ gan cùng tuế nguyệt. Đó là hình ảnh, sức chiến đấu phi thường và sự hy sinh cao cả của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.

    Chúng tôi, những Người Lính VNCH nhắc lại dĩ vãng, không phải để tiếc nuối một thời quá khứ vàng son, danh vọng. Đời Người Lính VNCH, đầu đội trời quê cha, chân bước đi trên mảnh đất mẹ, đôi vai gầy bé nhỏ gánh vác cả giang san, lưng mang balô trĩu nặng tình yêu thương quê hương, dân tộc, đối diện với cái chết từng giây, từng phút. Đường hành quân trong rừng sâu, núi thẳm, có khi cả tháng không thấy ánh nắng mặt trời, đôi giày trận chưa hề được tháo ra một lần, những buổi cơm gạo sấy, nuốt vội vã dưới cơn mưa tầm tả. Cuộc đời của Người Lính như thế thì đâu có gì là vàng son, danh vọng ... Nếu có danh vọng chăng là chúng tôi hãnh diện và tự hào được khoác vào mình bộ quân phục của QL/VNCH ; Vàng son của Người Lính là đem máu xương để đổi lấy sự thanh bình cho quê hương.

    Chúng tôi nhắc lại dĩ vãng, là để cho những thế hệ trẻ sau này hiểu rõ về một quá khứ bi hùng và sự hy sinh của Người Lính VNCH. Nhờ những sự hy sinh đó, mà chúng ta còn được hít thở bầu không khí tự do ngày hôm nay. Chúng tôi cũng muốn cho thế hệ trẻ đang sống trong nước hiểu rõ về tánh nhân bản và chính nghĩa của Người Lính VNCH; Người Lính VNCH không phục vụ cho bất cứ một đảng phái hay tổ chức nào, Người Lính VNCH đi chiến đấu với một trách nhiệm và một lý tưởng duy nhất là "Bảo Quốc_An Dân".

    Có một số người thiển cận đã đổ hết trách nhiệm lên Người Lính VNCH về quốc nạn 30/04/1975, cũng có nhiều cấp chỉ huy, lãnh đạo đã đứng ra nhận lãnh trách nhiệm này. Nếu nói như thế thì tội cho Người Lính VNCH quá ! Người Lính VNCH đã làm hết sức của mình. Người Lính VNCH dù không còn đầy đủ vũ khí, đạn dược và đã bị người bạn đồng minh bỏ rơi, nhưng họ vẫn tiếp tục chiến đấu trong đơn độc với tỷ lệ một (1) chọi sáu (6), tới giờ thứ 25 của cuộc chiến. Cuối cùng vì quân lệnh, vì kỹ luật của quân đội mà Người Lính đành nghẹn ngào gãy tay súng ! Người Lính đã làm tròn trách nhiệm mà tổ quốc đã giao phó. Một bằng chứng hùng hồn và cụ thể là không có một mảnh đất nào của Miền Nam Việt Nam bị cộng sản chiếm, mà Người Lính VNCH không lấy lại được trong suốt 21 năm chinh chiến.

    Nếu Miền Nam Việt Nam chế tạo được vũ khí, đạn dược, chiến đấu cơ, chiến hạm và các phương tiện thiết bị chiến tranh, thì đừng nói chi là bọn Cộng sản Việt Nam, mà trên thế giới này khó tìm ra được một quân đội nào được xem là đối thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

    Trong thời chiến, Người Lính VNCH là người chịu nhiều gian nan, cực khổ và hiểm nguy nhất, nhưng họ lại là những người bất hạnh, tang thương nhất sau cuộc chiến.

    Những Người Lính VNCH may mắn đến được bến bờ tự do, từ những ngày hổn loạn cuối Tháng Tư Đen, cho đến những chuyến vượt biển kinh hoàng, những chuyến bay ra đi theo diện H.O hoặc chương trình đoàn tụ. Dù họ ra đi bằng phương tiện hay diện nào đi nữa, không phải là họ sợ hoặc trốn chạy cộng sản. Họ ra đi với một lý do duy nhất là "Người LínhVNCH không đội trời chung với cộng sản".

    Người Lính VNCH buông súng là để chấm dứt cuộc chiến trên mặt trận quân sự, để chuyển qua một mặt trận mới trong một cuộc chiến mới. Đó là mặt trận chính trị trong cuộc chiến "Nhân Bản", cuộc chiến nhân bản này chỉ có một trận chiến duy nhất, và trận chiến này sẽ là trận thư hùng cuối cùng, chúng ta dùng Lá Cờ Vàng Chính Nghĩa khai tử và bôi xóa vĩnh viễn đảng CSVN trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam nói riêng và trong dòng lịch sử thế giới nói chung.

    Cho đến ngày hôm nay, 35 năm sau cuộc chiến. Người Lính trẻ nhất của QL/VNCH cũng đã trên 50 tuổi. Những cấp chỉ huy, lãnh đạo thì sương tuyết đã phủ trắng mái đầu. Những Người Lính VNCH bây giờ mắt đã yếu, thân thể không còn được khỏe mạnh, tráng kiện như ngày xưa. Nhưng ý chí và lý tưởng của họ vẫn không phai sờn theo dòng thời gian nghiệt ngã của tạo hóa. Dù họ đang sống ấm no nơi xứ lạ quê người, nhưng họ vẫn đem những chuỗi ngày còn lại, đóng góp công sức vào công cuộc đấu tranh giải thể bạo quyền Cộng sản Việt Nam, để mang lại sự tự do, hạnh phúc, ấm no cho 85 triệu người dân trong nước và những thế hệ mai sau.

    Tất cả những sự hy sinh của Nguời Lính VNCH được trang trọng lưu vào trang sử của Quê Hương, kèm theo bốn chữ mang đầy đủ ý nghĩa nhất "TỔ QUỐC GHI ƠN".

    Ba mươi lăm năm (35) chỉ là một thoáng so với thời gian vô cùng tận của tạo hóa, nhưng lại là một chuổi ngày dài đau thương của dân tộc Việt. Ba mươi lăm (35) năm qua, vết thương cũ hầu như chưa một lần khép kín ; Nhưng đau buồn thay ...! Những hình ảnh kinh hoàng, hoang man, sợ hãi chen lấn nhau trong những ngày cuối "Tháng Tư Đen" khi giặc tràn về thành phố; Những hình ảnh vượt biển cả chống chọi với phong ba bão táp, trực diện với thần chết để đi tìm hai chữ "Tự Do", hầu như đã phai mờ trong lòng của một số người; Cuộc sống cơm no, áo ấm nơi xứ lạ đã làm cho họ quên ngày đại tang của quê hương; Cuộc sống vật chất xa hoa nơi đất khách đã phủ lấp đi sự hy sinh cao cả của những Người Lính VNCH. Họ đã thờ ơ, lãnh đạm với sự tan nát của Quê Hương cùng với sự khổ đau, tang tóc của 85 triệu người dân trong nước. Tàn nhẫn hơn nữa là họ đã quay về quỳ mọp bắt tay, hợp tác với giặc, bắt tay và hợp tác với những kẻ đã từng sát hại thân nhân của họ và truy đuổi họ vào con đường chết ...... Hỡi ơi ...!!!

    Xin đừng vứt bỏ hai chữ "Quốc Hận" bên lề đường viễn xứ. Xin đừng nhẫn tâm đâm thêm một nhát dao vào lưng những Người lính VNCH đang ôm nỗi quốc hờn, lưu vong biệt xứ, hoặc đang lê lết cuộc đời tăm tối, tang thương trên quê hương Việt Nam. Xin đừng phản bội những người đã gục ngã và những người đang nằm trong lao tù vì công cuộc đấu tranh giải thể bạo quyền cộng sản.

    Hãy đóng góp công sức, góp một bàn tay cho công cuộc đấu tranh này sớm thành công.

    Xin đừng để con đường viễn xứ mỗi ngày mỗi dài thêm.

    Trân trọng kính chào.

    Tưởng Niệm Quốc Hận lần thứ 35.
    Người Lính VNCH
    Hoàng Nhật Thơ

    * 2 chữ "Tổng Thống" trong bài viết này là nói về giờ phút lịch sử sang trang máu của 35 năm về trước.


    Để rộng đương dư luận

    THÔNG CÁO BÁO CHÍ
    Ngày 20 tháng 4 năm 2010
      Kính gửi: Quý Vị Thân Hào Nhân Sĩ
      Quý Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước
      Quý Cơ quan truyền thông, Báo Chí

      Kính thưa Quý Vị:
    Tôi, Võ Đình Chương: Cộng tác viên với LM Nguyễn Văn Lý khi khối 8406 ra đời.

    Kể từ khi tôi gửi TỐI HẬU THƯ ngày 14.02.2010 yêu cầu lãnh đạo nhà nước csVN trả tự do cho Cha Lý để ngài được trở về nhà chữa bệnh, tôi đã hoàn toàn im lặng cho đến nay. Sau khi csVN tạm cho Cha Lý về nhà chung Tổng giáo phận Huế để trị bệnh, tôi đã trực tiếp nói chuyện với Ngài qua điện thoại 3 lần.

    Lần thứ nhất, Ngài gọi cho tôi bằng máy di động từ VN để thăm hỏi sức khoẻ tôi. Tôi vô cùng xúc động trước sự bất ngờ được nghe lại giọng nói của Ngài vẫn còn như ngày nào. Trước đây hơn 3 năm, hầu như mỗi ngày, hoặc mỗi hai ngày, cha Lý và tôi ít nhất phải có một lần điện đàm trao đổi tin tức, tình hình, hoặc phỏng vấn thu âm để phát thanh trên đài Radio Hải ngoại. Vì tinh thần trách nhiệm cùng với tình cảm gắn bó với Ngài, tôi luôn luôn ủng hộ Ngài hết mình, không ngoài mục đích mong muốn cho quê hương và đồng bào VN được Độc lập, Tự do, Dân chủ và Nhân quyền .

    Lần thứ hai, tôi trực tiếp gọi phone về cho cha Lý để kiểm chứng nguồn tin thân cận cho tôi biết là trong nước định sẽ giao quyền lãnh đạo (chức vụ Chủ tịch) của đảng Thăng Tiến VN cho một người khác (không cho biết tên). Còn anh Nguyễn Phong khi csVN thả về thì chỉ giữ nhiệm vụ là cán bộ của đảng mà thôi.

    Sau khi trao đổi tình hình chung trong và ngoài nước giữa cha Lý và tôi, những vấn đề tiếp theo là:

    1. Tôi đề cập đến Ban Đại Diện của Đảng Thăng Tiến (Anh Nguyễn Phong và Anh Nguyễn Bình Thành ). Cha Lý trả lời rằng (nguyên văn): “Những người bị bắt đó là người ta xung kích ra như vậy để xem coi thử bên kia họ đối xử như thế nào, để từ đó mà ứng xử. Chứ những người này là những cái ... cái vật tế thần!. Họ là những cái người hy sinh thế thôi, không phải là cái người điều hành thực sự. Còn cái người điều hành thực sự thì người ta lại thông giỏi hơn nhiều ... cần cái người sau này để làm việc chứ lệ, chứ mấy anh đó có gì đâu ....” (Hết trích)

    2. Khi đề cập đến tình hình đảng Thăng Tiến, cha Lý nói (nguyên văn: “Cả một cái khối toàn là những trí thức cao cấp. Trước đó đã có nhiều lần Công Nhân (Lê Thị Công Nhân) nói rằng là: Thăng Tiến có khoảng 700 tiến hữu. Đúng!. Cũng có như vậy thật, nhưng họ vẫn nằm im, cho đến bây giờ họ vẫn nằm yên ….” (hết trích)

    3. Khi cha Lý nói tiếp về Liên đảng Lạc Hồng, tôi hỏi ngài: “Bây giờ ai đại diện cho Liên Đảng Lạc Hồng?” Ngài trả lời: “Đến lúc mà anh Phong đã bị bắt rồi á!. Ở trong nước là coi như cũng tê liệt, thì tạm thời để yên ….” (hết trích )

    Dĩ nhiên trong các cuộc điện đàm này, có nhiều vấn đề khác nữa, nhưng vì có liên quan đến danh tánh của anh em trong nước, nên tôi chỉ trích một vài vấn đề quan trọng này thôi.

    Và như đã nói ở phần trên, tất cả các cuộc điện đàm với Cha Lý từ trước nay, tôi đều ghi âm để lưu hồ sơ làm chứng tích lịch sử. Các email liên hệ quan trọng tôi cũng in ra để lưu giữ. Nhờ đó, tôi đã mở nghe lại nhiều lần và không khỏi ngạc nhiên về những điều mờ ám và mâu thuẫn như sau:

    - Trong phần 1 nêu trên, ở cuối câu, Cha Lý nói: “… Chứ mấy anh đó (anh Phong và anh Thành) thì có gì đâu”.

    - Trong phần 3, cha Lý lại nói ngược lại: “Đến lúc mà anh Phong đã bị bắt rồi á!. Ở trong nước là coi như cũng tê liệt, thì tạm thời để yên”.

    Như vậy chính Cha Lý đã xác nhận: Anh Nguyễn Phong là người lãnh đạo quan trọng của đảng Thăng Tiến VN! Cho nên khi anh Phong bị bắt rồi thì Ở TRONG NƯỚC LÀ COI NHƯ CŨNG TÊ LIỆT!

    - Trong phần 2, Cha Lý lại khẳng định: “Cả một cái khối toàn là những trí thức cao cấp”. Như vậy cả một cái khối trí thức cao cấp đó tại sao không làm được gì như anh Phong mà CHO ĐẾN BÂY GIỜ VẪN NẰM YÊN? Phải chăng vì không có Anh Phong lãnh đạo, hay là những trí thức cao cấp “cò mồi” sau khi lùa anh em vô tù hết rồi thì xong việc ngồi chơi hưởng lộc?

    Đối với tôi, những ai đồng lõa trong việc chủ trương dùng anh Nguyễn Phong, anh Nguyễn Bình Thành làm cái VẬT TẾ THẦN, là những kẻ độc ác và thủ đoạn, trong khi chúng ta là những người có TÂM LINH thì càng không thể tha thứ!

    Tôi là người trung thành với Cha Lý lâu nay, nhưng sau nhiều ngày suy nghĩ và đắn đo, hôm nay tôi quyết định phải đưa tin tức này lên DĐ báo chí để cảnh báo những ai còn lầm lẫn, hãy tránh mang họa vào thân. Vẫn biết rằng, đưa những việc này ra ánh sáng sẽ làm phật lòng Cha Lý, nhưng tôi nghĩ Cha Lý cũng là nạn nhận của những con buôn chính trị mà thôi. Tôi thà làm mất lòng ít người mà cứu được nhiều người, mà trong đó đa số là những người thơ ngây chính trị, sẽ tiếp tục sa lưới như anh em đảng TTVN.

    Lần thứ ba trong cuộc điện đàm với Cha Lý, ngài có đọc cho tôi nghe một lá thư của cán bộ đảng csVN gửi cho Ngài như sau (nguyên văn): “Những người cộng sản ngày càng ủng hộ chúng ta. Tôi vừa nhận được lá thư, họ nói rằng: "Chúng tôi là những người vô thần 90% là đảng viên, nhưng nay nhờ Chúa và nhờ Cha, chúng tôi đã từ từ giác ngộ. Chúng tôi luôn luôn sát cánh với 8406 và âm thầm ủng hộ 8406. Chúng tôi là một tập thể đông lắm, hàng vạn người, và chúng tôi đang phải âm thầm như thế. Ngày Cha chiến thắng, chúng tôi sẽ công khai xuất hiện và chúc mưng Cha …” (hết trích)

    Khi nghe cha Lý đọc lá thư này, tôi chợt nhớ đến hơn ba năm trước khi chưa bị vô tù, Ngài cũng đã nói với tôi là có sáu Uỷ viên Bộ chính trị csVN ủng hộ ngài và 8406. Nhưng sự thật trả lời là họ đã nhử cha Lý và anh em lãnh đạo đảng Thăng Tiến ra mặt để thộp cổ cho vô tù ! Vậy mà hôm nay Cha lý chưa sáng mắt sáng lòng, vẫn còn nuôi ảo vọng!

    Tôi nghĩ rằng, những hy vọng và tin tưởng của Cha Lý đối với những tên cò mồi SỜ SỜ TRƯỚC MẮT rất có hại cho những người thật tình đấu tranh cho Tự Do và Dân Chủ của VN, nên tôi không thể im lặng để nhiều người sa lưới công an VGCS.

    Vì vậy, tôi đã kết luận: “Thà mất lòng ít người để giúp được nhiều người!”

    Riêng ở Hải ngoại, tôi thiết tha kêu gọi Quý Đồng Hương, nhất là Quý Niên trưởng, Quý chiến Hữu QLVNCH hãy mau tập hợp lại thành một lực lượng NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA để tìm ra một giãi pháp mới, tiếp tục đấu tranh cho một nước VN được ĐỘC LẬP, TỰ DO, DÂN CHỦ.

    Đối với Đồng Bào trong nước , không nhất thiết đòi hỏi chỉ có trí thức cao cấp , không phân biệt tầng lớp Nhân dân. Vấn đề là muôn người như một , cùng đồng tâm nhất trí đứng lên đòi hỏi nhà cầm quyền csVN phải trả lại Tự do - Dân Chủ và Độc lập cho Quốc Dân Việt Nam. Không chấp nhận bất cứ thoả hiệp , liên hiệp nào với bọn bành trướng Bắc kinh !!!

    Những bài học Cách Mạng tại Ba Lan , nhà Cách mạng Lech Walesa chỉ là một anh Thợ điện tại xưởng đóng tàu Ba Lan , người đã lãnh đạo phong trào đấu tranh Tự do - Dân chủ cho nước Ba Lan thành công rực rỡ và lên làm Tổng Thống đầu tiên, cả Thế giới kính phục .

    Cha Lý kính mến!

    Con thật lòng xin lỗi cha, khi đưa bản tin này lên DĐ báo chí, mong Cha hảy xem đó như một hy sinh, hy sinh tình cảm riêng tư để cứu giúp mọi người. Trước khi cha ra khỏi nhà tù, con đã gửi nhiều hồ sơ quan trọng về trong đó nhờ người chuyển cho cha, nhưng có lẽ cha không cần biết. Vì vậy con không thể nói nhiều hơn với cha những gì con chứng kiến trong thời gian cha ngồi trong tù. Đến lúc này cha vẫn chưa nhận ra hậu quả LẦM NGƯỜI. Con chỉ mong cha yên tâm trị bệnh, như lời cha đã nói với con trong cuộc điện đàm là: Tòa Giám Mục nhận lãnh Cha về trị bệnh, chứ không phải lãnh đạo khối 8406”.

    Những lời nói đó rất đúng, cha nên tuyên bố cho mọi người cùng biết để họ lo liệu. Nhất là đừng để bọn xôi thịt, bọn đấu tranh DC cuội trong và ngoài nước lợi dụng danh nghĩa của cha mà làm nhục và làm hại những người đấu tranh chân chính cho Tự Do, Dân Chủ của Việt nam .

    Trọng kính

    Võ Đình Chương

    Nhìn lại mình sau 35 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975 - Ngọc Châu_M

    Ngọc Châu_M

    Là một đoản văn tự thuật nên không sao tránh khỏi đề cập đến "cái tôi đáng ghét", mong quý độc giả thông càm! (NC_M/Ger)

    Thấm thoát mà tôi đã xa quê hương, xa Việt Nam mến yêu 35 năm, kể từ đầu tháng tư 1975 oan nghiệt!

    Ba mươi lăm năm trôi qua nhanh như thoi đưa, như là một giấc mơ khi nhìn lại mình giờ đây tóc đã bạc nhưng so với nước Đức là nơi tôi đang định cư với tư cách một người tỵ nạn chính trị thì nghiệt ngã, buồn đau, áp bức, tù đày … vẫn còn hiện hữu trên quê hương mặc dầu Việt Nam (VN) đã thống nhất từ đó, 15 năm trước Đức!

    Ba mươi lăm năm rồi mà người Việt đi vẫn đi, tuy không còn bằng cách vượt biển hay vượt biên như sau 30-04-1975 nhưng đồng hương cũng đã tìm ra nhiều cơ hội khác để "rời Việt Nam" qua diện đoàn tụ gia đình (vợ, chồng, con cháu) hay kết hôn với người nước ngoài, miễn làm sao rời xa được nơi mệnh danh là "thiên đàng xã hội chủ nghĩa”, trốn khỏi được cái "thiên đàng cộng sản” là mừng như một lần được hồi sinh; trong khi đó ngược lại thì dân Đông Đức (DDR) chẳng thấy ai trốn chạy vì Cộng Hoà Liên Bang Đức (BRD) đã làm chủ một Đức quốc thống nhất sau khi cộng sản DDR bị giải thể.

    Người dân Đông Đức chẳng những không lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rún mà trái lại họ còn ở lại, vượt qua bao nhiêu khó khăn để cùng nhau nỗ lực xây dựng một nước Đức hùng cường, tự do, dân chủ. Khác với Việt Nam, biến cố Thống Nhất Đất Nước của Đức không đổ một giọt máu nào của đồng bào vô tội cả!

    Đức không tiêu hủy hàng triệu tài nguyên trí tuệ và nhân lực của "Quốc Gia Dân Tộc" trong những trại tù khổ sai ‘‘học tập cải tạo" và cũng không để lại các tệ nạn xã hội xấu xa tiêu biểu nhất của thế kỷ mà vẫn giữ được sự vẹn toàn lãnh thổ và đã xây dựng một xã hội ôn hoà, nhân bản đầy tình yêu thương đồng loại. Vì vậy 20 năm sau khi thống nhất cả thế giới đang nhìn nước Đức với lòng thiện cảm và đầy khâm phục.

    Chừng đó thôi cũng đủ để chứng minh một cách rõ ràng rằng những ai từng yêu chuộng Tự Do đều không thể sống dưới chế độ cộng sản gian manh, tàn bạo. Minh chứng cho sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản cách hùng hồn nhất là sự sụp đổ của cộng sản Đông Đức cũ, của cả khối cộng sản Ðông Âu và tiếp theo là đàn anh Nga Sô vào cuối thập niên 1980!

    Hôm nay tôi chỉ muốn ghi lại đây vài ý tưởng chợt thoáng về liên quan chút ít đến cuộc đời tỵ nạn của mình và xin được nói sơ về "cái tôi đáng ghét" qua bài tạp ghi ngắn này! Là một bài ngắn mang tích cách tự thuật nên chắc chắn khó tránh khỏi được cái nhìn chủ quan có thể làm phật lòng ai đó qua sự diễn đạt tư tưởng rất trung thật của mình, vì thế mong tất cả hoan hỉ cho!

    Tôi nói riêng đã may mắn đón nhận được rất nhiều "tình cờ" trong cuộc đời. Ngẫu nhiên đầu tiên là dù không bao giờ nghĩ đến nhưng … tôi đã được phép của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà thời đó cho xuất dương du học sau khi xong Tú Tài II, giữa lúc quê hương ngập chìm trong binh lửa trước tham vọng cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam (NVN) do cộng sản miền Bắc chủ xướng với sự giúp đỡ về mọi mặt của Nga, Tàu và khối cộng sản nói chung!

    Đầu tháng 03-1975 tôi về thăm quê hương và gia đình nhưng lúc ấy chiến trường VN sôi động, người dân miền Nam bối rối, lo âu nên tôi đành phải rời VN sớm hơn dự tính. Lại thêm một "tình cờ" nữa, tôi may mắn đã rời Sài Gòn vào đầu tháng 04-1975, vì vài tuần sau đó, Nam Việt Nam thất thủ. Nếu không chắc tôi cũng sẽ phải chọn đường vượt biên hoặc vượt biển như bao đồng hương khác, sau 30-04-1975.

    Có thể nói cuộc đời của những du học sinh thời VNCH như tôi trải qua khá nhiều truân chuyên từ dạo ấy, sau tháng tư đen 1975, từ khi cộng sản Bắc Việt ngự trị NVN. Khác với quyết định đi tìm Tự Do, đi tìm sự sống trên cái chết qua hình thức vượt biên vượt biển của đồng hương, chúng tôi may mắn hơn, đơn thuần chỉ phải chọn lựa một trong hai: về Việt Nam hay ở lại nước ngoài. Nếu quyết định về VN thì phải cúi đầu phục tùng nhóm sinh viên đoàn kết và toà đại sứ Việt Cộng. Còn ngược lại nếu quyết định ở lại nước ngoài thì phải chấp nhận xa quê hương, xa gia đình, bạn bè anh em và không biết khi nào mới gặp lại!

    Cuối cùng, riêng tôi đã có một quyết định "xin tỵ nạn chính trị", dù tuổi và kinh nghiệm đời của mình lúc đó chẳng là bao. Cũng không phải là những người từng phục vụ trong quân đội hoặc tham chính thời VNCH; chưa từng bị cộng sản bắt bớ giam cầm hay đã "bị tra tấn dã man và nếm mùi học tập cải tạo của cộng sản" nên muốn được "tỵ nạn" những sinh viên du học phải chứng minh cho chính quyền Đức lúc đó rõ lý do là tại sao không muốn hồi hương v.v… Trong thời gian chuyển tiếp kể từ khi nộp đơn chúng tôi từ những người tuy có quốc gia, gia đình bỗng nhiên trở thành những kẻ "vô tổ quốc" vì đã nhận được sổ thông hành mang tên như vậy. Cơ quan hữu trách Đức cứu xét hồ sơ xin tỵ nạn khá lâu, có người chờ đến 2-3 năm nhưng cuối cùng tôi đã nhận được sổ thông hành tỵ nạn.

    Điều làm chúng tôi đau lòng nhất là trong sổ thông hành tỵ nạn này có ghi câu "được phép đi khắp nơi, nhưng trừ Việt Nam", nơi mình sinh ra và lớn lên. Vâng, điều kiện tỵ nạn là vậy vì dễ hiểu thôi, đã viện dẫn "gặp khó khăn với nhà cầm quyền cộng sản" để xin tỵ nạn thì thật là quá mâu thuẫn nếu mình về Việt Nam và lại ra đi an toàn phải không? Khó khăn ban đầu sau 30-04-1975 xem như đã vượt qua, được chỗ tạm dung. Chưa hết, vấn đề sinh kế cũng làm chúng tôi xính vính thời gian khi mà tình trạng kinh tế lúc bấy giờ đang bị khủng hoảng trầm trọng.

    Có lẽ thánh nhân đãi ngộ nên tôi đón nhận thêm ngẫu nhiên, may mắn khác trong hoàn cảnh lúc đó sau khi cầm sổ thông hành tỵ nạn trong tay. Được thâu nhận vào làm việc thuộc phần hành "nghiên cứu và phát triển, trọng điểm là phát triển" cho hãng rất nổi tiếng trên thế giới nên tôi nói riêng cảm thấy an tâm từ đó nhưng buồn ray rức vì nỗi nhớ nhà và tủi thân cho kiếp sống tha hương, ăn nhờ ở đậu của mình. Tôi như con chim lạc đàn, trong thức ngủ vẫn ước mơ có ngày tìm về tổ ấm. Với thông hành tỵ nạn, chúng tôi nói chung được quyền sống và đi làm như dân bản xứ, chỉ khác điều là không được phép bầu cử.

    Cuối thập niên 70, phong trào tỵ nạn lên cao. Người Việt được thâu nhận vào Đức rất dễ dàng mà không phải qua những thủ tục rườm rà hay khó khăn như chúng tôi trước đó. Ai thuộc diện "boat people" tự động được cấp thông hành tỵ nạn khi đến Đức, không cần cứu xét gì cả! Thỉnh thoảng gặp đồng hương thuộc diện này chúng tôi có trò chuyện. Hết kể những cuộc vượt biên vượt biển thật hãi hùng thì họ xoay ra than chuyện khó khăn về hội nhập hay khi học tiếng Đức … Đôi khi họ đề cập đến chuyện nhập tịch, viện dẫn có quốc tịch đi đó đây làm việc dễ dàng hơn. Tôi chỉ nghe và ghi nhận. Khi được hỏi thì tôi cũng chỉ trả lời là vẫn còn mang sổ thông hành tỵ nạn dù ở đây lâu gấp mấy lần cũng như thường hay đi nước ngoài vì lý do nghề nghiệp thời đó. Thú thật, đã đi công tác Bắc Âu, Pháp, Áo, Ý, thăm thân nhân ở Úc, Mỹ, Anh nhưng ít gặp trở ngại, chỉ tội mất thì giờ chờ lâu hơn tại các phi trường so với những ai có quốc tịch Đức mà thôi.

    Thế rồi những đồng hương qua sau tôi lần lượt xin nhập tịch Đức. Riêng tôi vẫn giữ sổ thông hành tỵ nạn cho đến năm 1994. Thêm một tình cờ khác làm tôi thay đổi ý định và … xin vào quốc tịch xứ người, một quyết định không đơn giản sau nhiều đêm dài trằn trọc suy nghĩ.

    … Số là trong chuyến công tác đi miền Nam nước Pháp cho hãng vào cuối hạ 1993, tôi gặp trở ngại ngay tại phi trường. Bạn đồng nghiệp ra ngoài cỗng đứng chờ còn tôi vì thấy trong thông hành tỵ nạn để quốc tịch Việt Nam nên nhân viên phi trường nghi ngờ, lý do Pháp "đón nhận bất đắc dĩ người Việt sang Pháp không hợp lệ" và tìm cách định cư tại đó. Phải giải thích khá dài giòng, nói là có vé máy bay khứ hồi, ngủ ở khách sạn do hãng giữ chỗ v.v… thì họ mới bằng lòng cho đi. Mấy người bạn Đức thấy vậy chọc quê quá xá nên sau đó …. tôi mới có ý định xin nhập tịch Đức, nộp đơn vào cuối năm 1993.

    Nói đến đây cho tôi vòng vo thêm một tí. Hoàn thành đủ thủ tục giấy tờ đòi hỏi từ phía Đức đem nộp thì được nhân viên chỉ cho đống hồ sơ trước mặt và nói, hồ sơ ông hôm nay nằm dưới cùng. Đến khi được duyệt xét chắc cũng nửa năm sau. Nghe vậy tôi giật mình. Hỏi thêm thì bà nhân viên mách nước phải làm thế này thế kia thì may ra được ưu tiên hơn. Tôi xin hãng cấp cho giấy phải công tác ngoại quốc nên nộp vào thì hồ sơ tôi không còn nằm hạng chót nữa. Lại thêm một ngẫu nhiên tốt đến với tôi. Chưa hết. Cái khó khăn mà tôi phải đương đầu giải quyết là việc phải nộp cho chính quyền Đức giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam. Thế là một cuộc bút chiến xảy ra giữa tôi bà bộ nội vụ tiểu bang Bayern liên tục trong vài tháng. Tôi đã viện dẫn không liên hệ gì hết với toà đại sứ Việt cộng từ 30- 4 -1975 nhưng chẳng nhằm nhò gì, họ khư khư nói, bây giờ Việt Nam đã cấp giấy thôi quốc tịch rồi, không có không được.

    Thế là tôi đành cắn răng viết thư cho toà đại sứ Việt cộng. Tuy nhiên tôi nghịch ngợm nên viết thư toàn bằng tiếng Đức với nhân viên sứ quán. Có lần điện thoại lên hỏi sự việc đến đâu sau hơn 6 tháng chờ đợi thì họ nói "vòng vo" làm tôi cảm thấy khó chịu nên cuối cùng tôi viết thư (cũng bằng tiếng Đức) lên cho biết VÌ chính quyền ĐỨC yêu câù chứ thật ra tôi chẳng muốn liên hệ gi cùng quý vị cả và nếu không cho tôi thôi quốc tịch thì trả lời cho biết qua thư. Một bản sao (Copy) tôi gởi cho bộ nội vụ Đức để kính tường vì trong trường hợp như vậy tôi sẽ được nhập tịch mà không cần giấy chứng minh thôi quốc tịch VN. Chắc thấy tôi cứng rắng quá nên vài tuần sau tôi nhận được giấy từ bỏ quốc tịch, dễ hiểu thôi … vì nếu không cấp thì tòa đại sứ mất toi hơn hai ngàn Đức Mã là lệ phí mà tôi phải trả cho cái giấy từ bỏ quốc tịch VN, một số tiền không nhỏ!

    Trong thời gian chờ đợi giấy tờ từ toà đại sứ Việt cộng tôi được giấy chấp nhận cho phép nhập tịch Đức. Nộp thêm chứng minh thư cho thôi quốc tịch VN là tôi được gọi ra nhận sổ thông hành Đức ít lâu sau đó. Xứ tôi ở không rườm rà như các quốc gia khác, làm lễ rình rang khi nhập tịch. Ra sở ngoại kiều ký giấy nhận sổ thông hành, nộp pass tỵ nạn cũ và nhận thông hành Đức là xong, sau khi trả lệ phí cho sở ngoại kiều mà nếu tính ra thì quá rẽ, chỉ bằng 1/10 số tiền phải đóng cho toà đại sứ Việt cộng để có được giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam.

    Một điểm khác xin nói thêm nhờ theo học Đại Học Đức và ở đây trên 15 năm (theo luật thời đó) nên tôi khỏi phải thi khoá Đức ngữ thành ra tiết kiệm được thêm chút ít tài chánh.

    Vậy là tôi, một kẻ da vàng tóc đen, mũi tẹt trở thành công dân Đức từ giữa năm 1994, sau 26 năm kể từ khi tôi đặt chân đến xứ Đức lạnh lẽo này. Có thể nói chỉ trên giấy tờ vì ra đường dưới con mắt của người dân bản xứ chúng tôi vẫn là một người ngoại quốc dựa theo màu da và hình dáng, không hơn không kém. Cũng vì "thành dân Đức bất đắc dĩ" mà con trai đầu lòng tôi đã phải bị động viên, gọi đi quân dịch khi mới vừa vào học Đai Học lục cá nguyệt hai có hai ngày và sau 10 tháng quân trường mới về học lại; không như ở Mỹ là sinh viên đi lính vài năm để được học bỗng hay trợ cấp vào Uni học.

    Thời gian cứ thế mà trôi, đời sống tôi thật sự chẳng có gì thay đổi, chỉ khác là đã đi bầu nghị sĩ quốc hội, nghị viên tiểu bang và đại diện làng xã được vài lần trong suốt 16 năm qua, kể từ khi tôi mang quốc tịch Đức. Tôi vẫn đi làm như bao người khác, thi hành đúng bổn phận "một người Đức mới" và cảm thấy mình đang chia sẻ với dân bản xứ, với quốc gia đã cưu mang mình!

    Thỉnh thoảng gặp lại đồng hương, những người vượt biên, vượt biển trước đây và tuy đến sau nhưng đã nhập tịch Đức trước chúng tôi thì tôi nhận thấy có nhiều thay đổi. Họ đi lui tới về VN với nhiều lý do …, những lý do giải thích mà mọi người - trừ những ai thiếu may mắn đã bỏ mình trên con đường đi tìm Tự Do - đều có thể sử dụng trong trường hợp "về thăm quê hương". Có người gặp tôi lần đầu biết là thành phần đi du học thời VNCH hỏi anh về VN chưa, nói VN giờ thế này thế kia ... tôi chỉ cười nói chưa dù có đủ khả năng. Nghe vậy họ nhìn… rồi đổi sang đề tài khác. Một lần, gặp vài người quen trong giới tỵ nạn hỏi: sao anh có xin Visa về VN, được cấp chưa v.v… tôi tỉnh bơ trả lời. "tôi đâu có bao giờ liên hệ với sứ quán Việt cộng xin chiếu khán (Visa) đâu mà chờ với đợi, mà cho với không cho …"!

    Vâng, 35 năm rồi kể từ khi tôi đặt chân tại Sài Gòn lần cuối hay đúng hơn kể từ khi tôi "trốn chạy vào đầu tháng tư 1975" trong chuyến về thăm gia đình với dự tính ở lại ba tháng để đi thăm bà con từ Sài Gòn ra Huế thì tôi đã để lại quê hương yêu dấu của mình đàng sau lưng từ dạo ấy. Tôi đang chôn chân xứ người, vẫn làm thợ khách và chờ ngày về hưu. Tuy nhớ nhung muôn vàn Việt Nam quê tôi nhưng chỉ biết ngậm ngùi thương nhớ, vẫn hằng ước mong một ngày về mà VN thật sự có đầy đủ tự do, dân chủ và nhân quyền. Tôi nghĩ mình không thể nào cam tâm cúi đầu xin phép để được du lịch, để được cho phép về thăm quê hương của chính mình trong hoàn cảnh hiện tại mà chắc chắn tôi sẽ phải tự hổ thẹn với lương tâm nếu tôi làm việc này bởi vì một khi mà tôi với hơn 25 tuổi đầu, có thể nói là quá trưởng thành đã quyết định xin tỵ nạn, xin chọn nước Đức làm quê hương thứ hai và lý do được nêu ra rất rõ ràng: "vì tôi không chấp nhận chế độ cộng sản".

    Tôi chẳng phải là đứa bé lên năm! Một đứa bé chừng ấy tuổi nếu ai đưa cho nó hai miếng bánh chắc chắn nó sẽ tự chọn cái nào thấy ngon hơn. Khi chọn lựa cho mình "con đường để đi" sau 30-04-1975, tuy còn quá trẻ, chỉ mới hơn 25 tuổi và vừa tốt nghiệp Đại Học xong nhưng chẳng ai ép bắt tôi phải làm theo ý họ.

    Chính tôi phải có một sự lựa chọn dứt khoát. Tôi đã bỏ tất cả để chọn cho cuộc đời mình hai chữ "TỰ DO"!

    Bút mực còn đó, giấy tờ và chữ ký quả quyết rằng đã khai đúng sự thật khi nộp đơn xin tỵ nạn còn đó. Tôi không thể nào dối lòng, dối mình được!

    Nhìn lại mình thì tôi, một cựu du học sinh thời Việt Nam Cộng Hoà không hổ thẹn gì hết. Tôi quan niệm rất thực tế: "Đất lành chim đậu". Ngày đêm vẫn thiết tha mơ ước được dịp "Tung cánh chim tìm về tổ ấm" nhưng rất tiếc tôi vẫn còn là con chim lạc đàn, đang tha phương và vẫn còn giữ vững tư cách của một người tỵ nạn chính trị sau 35 năm đổi đời, theo đúng nghĩa của nó vì đã không chấp nhận chế độ chuyên chính vô sản sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam nên tạm " Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương"!

    Ngọc Châu_M / Đức quốc
    (ghi vội lại vài ý tưởng chợt về nhân ngày 30-04-2010)