Sunday, August 31, 2008

Nguyễn Chí Thiện, "đuốc sống" Lê Văn Tám và "Đóa Hồng Gai" Nguyễn Thị Nga


Trần Thanh

Trong cuộc chiến với bọn việt gian cộng sản, người quốc gia chúng ta đã bị bọn chúng lừa gạt rất nhiều lần. Tên Hồ Chí Minh đã lừa gạt những đảng phái quốc gia rồi sau đó tiêu diệt họ gần hết. Điệp viên Phạm Xuân Ẩn (1927-2006) của việt cộng đã hoạt động ngay trong các cơ quan truyền thông báo chí của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa trong gần 20 năm, đến sau năm 1975 hắn mới xuất đầu lộ diện. Hắn có người con trai lớn là Phạm Xuân Hoàng Ẩn làm thông dịch viên cho tên Nguyễn Minh Triết, đại ca của băng cướp việt gian cộng sản. Ngoài ra còn một số những tên điệp viên gộc khác như Mười Hương, Huỳnh Văn Trọng, Lê Văn thúy, Nguyễn Xuân Hòe, Vũ Ngọc Nhạ ..v..v.. đã từng gây mưa gió, thiệt hại rất lớn cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Đặc biệt, tên Vũ Ngọc Nhạ (1928-2002) đã từng trèo cao, luồn sâu, được tin tưởng tới mức được đề bạt làm .... cố vấn chính trị cho tổng thống Diệm và tổng thống Thiệu!

Đầu năm 1980, tổ chức phục quốc "Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước" do Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, Hồ Tấn Khoa lãnh đạo, từ Pháp trở về nước để hoạt động nhưng đã bị thất bại, 119 phục quốc quân bị bắt, 5 người bị tử hình, trong số đó có Trần Văn Bá. Thực ra tổ chức này đã bị việt cộng cài điệp viên vào ngay từ lúc còn đang hoạt động trên đất Pháp. Các chuyến tàu đổ bộ, đưa người và vũ khí vào vùng Cà Mau đều bị việt cộng giăng lưới bắt gần hết. Chính tên Nguyễn Tấn Dũng là một trong những nhân vật chủ chốt trong vụ vây bắt các lực lượng phục quốc này và sau khi thành công, hắn đã được thăng quan tiến chức vùn vụt, hiện nay đang giữ chức thủ tướng! Hắn đã sống trên xương máu của những chiến sĩ phục quốc, vậy mà bây giờ có một số tên chó săn ở Mỹ ca ngợi hắn là "Yeltsin Việt Nam", là người "thanh liêm", đang đi sâu vào quỹ đạo của Mỹ, xứng đáng là tổng thống của nước Việt Nam trong tương lai!!!

Chính vì đã bị việt cộng lừa cho nhiều vố đau như vậy cho nên chúng ta cần phải cảnh giác. Khi gặp những trường hợp nào đáng ngờ, chúng ta phải nêu nghi vấn và tìm hiểu cho kỹ. Trong phạm vi bài viết này, tôi nêu ra một vài trường hợp để quý độc giả suy xét:

1. Nghi vấn về Nguyễn Chí Thiện:

Ai cũng biết Nguyễn Chí Thiện (thật) là tác giả của tập thơ Hoa Địa Ngục, một tập thơ rất có giá trị, được rất nhiều độc giả hâm mộ. Đó là lý do vì sao khi ông Nguyễn Chí Thiện, sau 28 năm ở tù, được việt cộng cho sang Mỹ định cư thì ông ta đã được đồng bào hoan nghênh, chào đón vô cùng nồng nhiệt. Nhưng sau đó, có dư luận cho rằng ông Thiện này là giả mạo, rằng ông Thiện THẬT ĐÃ BỊ VIỆT CỘNG GIẾT CHẾT, SAU ĐÓ BỌN CHÚNG LỰA MỘT NGƯỜI CÓ DUNG MẠO GẦN GIỐNG ĐỂ THAY THẾ VÀO VÀ "XUẤT CẢNG" SANG MỸ!!!

Đã có nhiều bài viết của nhiều tác giả khác nhau chứng minh rằng ông Thiện hiện đang sống tại Mỹ chính là ông Thiện DỎM. Các dữ kiện mà các tác giả nêu ra là:

1.1: Nghi vấn về ngày, tháng, năm sinh (không phù hợp, không ăn khớp)

1.2: Nghi vấn về gia đình (cha mẹ, anh em, khác với như mô tả trong thơ)

1.3: Nghi vấn về sức khỏe (ông Thiện dỏm rất khỏe mạnh chớ không bị ho lao và bị đủ thứ bệnh như trong tập thơ Hoa Địa ngục mô tả)

1.4: Nghi vấn về dạy học (ở tù ra, vào trường trung học dạy môn lịch sử thay cho người bạn bị bệnh)

1.5: Nghi vấn về chép BỐN TRĂM BÀI THƠ trong ba ngày (tối thiểu phải mất khoảng mười ngày bởi vì phải VỪA CHÉP VỪA LỤC TRÍ NHỚ ĐỂ NHỚ LẠI! Cứ cho là mỗi bài thơ trung bình có mười câu thơ, mỗi câu thơ có mười chữ thì 400 bài thơ sẽ là 40.000 chữ, bằng một quyển tự điển loại trung bình! Nội chỉ NHỚ lại thôi, chưa chắc có thể nhớ lại hết trong BA ngày, đừng có nói đến ghi chép!)

1.6: Nghi vấn về TRÍ NHỚ (ở tù 20 năm mà có đủ trí nhớ, chép được 400 bài thơ trong BA ngày?)

1.7: Nghi vấn về tài làm thơ (những bài thơ trong Hoa Địa Ngục rất hay nhưng những bài thơ mà ông Thiện sáng tác kể từ khi sang Mỹ thì dở ẹc, y như những bài vè!)

1.8: Nghi vấn về sự tuyên bố "không làm thơ nữa, chuyển sang viết văn" (thơ và văn là hai khả năng thiên phú và đó cũng là cái NGHIỆP, không bao giờ bỏ được. Đã là một thi sĩ và là một NHÀ CÁCH MẠNG thì chỉ có khi nào tim ngừng đập mới ngưng sáng tác thơ tranh đấu!)

1.9: Nghi vấn về tập truyện Hỏa Lò của ông Thiện (có lẽ do người khác viết giùm)

1.10: Nghi vấn về các tấm hình chụp (so sánh các tấm hình thấy có sự khác biệt)

1.11: Nghi vấn về những giọt máu trong thơ (mỗi một chữ, một câu thơ trong Hoa Địa Ngục đều toát ra một sự bi thiết, hùng tráng, phẫn nộ của một anh hùng bị sa cơ thất thế, mỗi một giọt thơ là một giọt máu; trong khi đó, những bài thơ mà ông Thiện sáng tác ở hải ngoại, giống như những bài vè, gọi Hồ Chí Minh bằng "bác"!)

1.12: Nghi vấn cho rằng nhà cách mạng Lý Đông A mới chính là tác giả của tập thơ Hoa Địa Ngục

Một vài ví dụ, trích trong những bài thơ của Nguyễn Chí Thiện THẬT:

Không có gì quý hơn độc lập tự do
Tôi biết NÓ, THẰNG nói câu nói đó
Tôi biết NÓ, đồng bào miền Bắc này biết NÓ
Việc NÓ làm, tội NÓ phạm ra sao
............................

Thơ của tôi là những gì KINH KHỦNG
Như ĐẢNG, ĐOÀN, như LÃNH TỤ như TRUNG ƯƠNG!
..............................

Hang Bắc Pó hóa thành hang ác thú
Bác Hồ già hóa dạng bác Hồ Ly
Đôi dép lốp nặng bằng trăm đôi dép sắt
Bộ ka ki vàng, vàng như mắt dân đen!
.................................

Từ buổi Quỷ Vương hớn hở mặt mày
Đứng trước đảng kỳ trịnh trọng
Đọc lời khai mạc thuở hoang sơ

Đọc tập thơ Hoa Địa Ngục, chúng ta thấy tác giả thường xuyên gọi Hồ Chí Minh bằng "NÓ", bằng "THẰNG", bằng "Hồ Ly" hay "QUỶ VƯƠNG", chớ không bao giờ gọi hắn là "bác Hồ". Ngoài ra, tác giả đã bày tỏ sự thù ghét và khinh miệt đến cực độ khi đề cập đến băng đảng việt gian cộng sản và cái chế độ cộng sản hung tàn bạo ngược. Trong nhiều bài thơ, mỗi một chữ dùng của tác giả là một giọt máu, mỗi một câu thơ đều hàm chứa những ý tưởng rất bi hùng, thống thiết, phẫn nộ của một anh hùng đang bị sa cơ thất thế, và khát vọng chặt phá xiềng xích nô lệ, để con đại bàng lại được tung cánh trong bầu trời tự do. Đọc thơ của Nguyễn Chí Thiện, chúng ta có những xúc cảm liền tại chỗ, đôi khi nổi da gà vì những cái thần khí trong thơ như đi thẳng từ những bài thơ vào máu của chúng ta.

Trong khi đó, khi ông Thiện "dỏm" qua Mỹ, ông đã đi diễn thuyết ở nhiều nơi. Ông cũng chỉ trích, lên án chế độ cộng sản nhưng giọng điệu của ông nhẹ hơn rất nhiều so với những gì được mô tả trong tập thơ Hoa Địa Ngục. Thỉnh thoảng ông có sáng tác vài bài thơ nhưng hầu như chỉ là những bài vè, thậm chí có bài ông gọi Hồ Chí Minh là "bác Hồ"! Dù rằng hai chữ "bác Hồ" ông bỏ trong ngoặc kép nhưng so với những lời thơ đầy hùng khí và sự phẫn nộ trong Hoa Địa Ngục thì khác xa lắm! Ông còn cổ động cho việc toàn dân Việt Nam nên kiên nhẫn chờ một vị minh quân của thời đại xuất hiện để cứu nước, đó là một cuộc cách mạng nhung, không đổ máu, với sự xuất hiện của một ông Goóc Ba Chớp Việt Nam, chui ra từ hang Bắc Pó!

Tôi nhớ trước đây có đọc một bài viết của ông Thiện trên internet, trong đó ông đã thách đố những ai dám "vu cáo" ông là đồ giả mạo thì ông sẵn sàng đi thử DNA (để so sánh với ai? với cái gì?) với điều kiện: - sau khi thử xong nếu ông ta thắng thì người vu cáo phải chịu chi trả một số tiền là một trăm ngàn đô la. Ông ta sẽ dùng số tiền đó vào việc từ thiện.

Trong thời gian gần đây, đã có hai tác giả là luật sư Nguyễn Văn Chức và Việt Thường nêu lên những nghi vấn về ông Nguyễn Chí Thiện nhưng không thấy ông Thiện lên tiếng trả lời.

2. Nghi vấn về "ngọn đuốc sống" Lê Văn Tám

Lê Văn Tám là một cậu bé mười tuổi, đã tự tẩm xăng vào người của mình rồi đốt cháy phừng phừng như cây đuốc, lao vào kho xăng (có tài liệu nói là kho đạn) của Pháp ở Thị Nghè, làm cả kho xăng bị phá hủy tan tành. Chiến công "lừng lẫy" này xảy ra năm 1946. Sau năm 1975, nhiều trường học, tên đường, công viên, bệnh viện trong miền Nam bị mang cái tên của con ma Lê Văn Tám. Hàng triệu triệu thế hệ sinh viên học sinh đã phải nhét vào đầu mình cái tên Lê Văn Tám cho qua các kỳ thi, và nhiều người sau này cũng bắt chước Lê Văn Tám tự đốt cháy cuộc đời của mình qua những điếu thuốc xì ke và những ván cờ bạc thua cháy túi!

Sau năm 1975, người dân Sài gòn bắt đầu théc méc: - chắc có lẽ em Lê Văn Tám giống như Tề Thiên Đại Thánh ở trong cục đá chui ra, hoàn toàn không có cha mẹ, anh em hay bà con cô bác gì? Bởi lẽ, sau năm 1975, không thấy bất cứ một người nào tự xưng là anh chị em của Lê Văn Tám, hay một người nào tự nhận là cha mẹ của Lê Văn Tám, đến xin với chính quyền cách mạng giấy chứng nhận "gia đình vẻ vang" hay "gia đình liệt sĩ"! Theo nghi vấn, ông Nguyễn Chí Thiện thật chết đi thì ngay lập tức có ông dỏm lên thay thế liền, huống chi em Lê Văn Tám là một "anh hùng" cách mạng thì phải có nhiều người tình nguyện nhận làm bà con, họ hàng liền chớ! Gia đình liệt sĩ được cấp sổ đỏ, được nhiều quyền ưu tiên trong xã hội, vậy tại sao không có một ai đến nhận họ, nhận hàng?

Đến năm 2005, khi cảm thấy không thể nào che dấu toàn dân được nữa, việt cộng mới cho phép được bật mí: giáo sư sử học Phan Huy Lê tiết lộ rằng Lê Văn Tám chỉ là nhân vật .... tề thiên! Ông kể rằng Lê Văn Tám chính là sản phẩm tưởng tượng của Trần Huy Liệu, bộ trưởng bộ tuyên truyền của việt cộng năm 1945. Và để tự bào chữa cho sự lừa bịp của bọn chúng, băng đảng việt gian cộng sản còn vẽ thêm ra sự "lương thiện" của tên bịp Trần Huy Liệu: hắn đã dặn dò đàn em, sau khi đất nước được hoàn toàn "giải phóng", nếu hắn có chết thì nhớ kể lại sự thật cho toàn dân biết! Viện trưởng viện sử học mà còn bịa đặt, nói láo như vậy thì những tên trí thức, "giáo sư", "nhà khoa học" khác của việt cộng cũng chỉ cùng một loại như nhau mà thôi!

Ngay cả tên đầu sỏ Hồ Chí Minh mà còn chơi những màn bịp, thủ dâm chính trị "Trần Dân Tiên", "T. Lan" thì có gì đáng ngạc nhiên khi sau này người ta thấy xuất hiện những:

- Phan Đình Giót (lấy thân mình lấp lỗ châu mai khi đánh trận Điện Biên Phủ)
- Bế Văn Đàn (lấy thân mình làm giá súng)
- Tô Vĩnh Diện (lấy thân chèn khẩu đại bác cho khỏi tuột xuống dốc núi, bị đè chết liền tại chỗ)
- La Văn Cầu ( tấn công đồn của Pháp, bị thương ở cánh tay, anh ta lấy mã tấu tự chặt đứt luôn cánh tay của mình để khỏi vướng víu, rồi dùng tay trái ôm bộc phá lao vào phá sập đồn!)

Cho đến nay, ở trong nước người dân bắt đầu théc méc về nhân vật Phan Đình Giót, không biết đó có phải là nhân vật có thật hay không? Họ hỏi thẳng "giáo sư" sử học Phan Huy Lê nhưng "giáo sư" rét quá, không dám trả lời, đành phải nói quanh co: - Hiện nay chúng tôi chưa thể nói gì trước công luận!

Như vậy chúng ta có thể hiểu rằng: đảng chưa cho phép bật mí, nếu cãi lệnh thì đầu lìa khỏi cổ! Ngoài ra, có một số các sinh viên cũng thắc mắc:

- Trần Dân Tiên là phóng viên kiêm nhà văn mà tại sao chỉ viết độc nhất có một tác phẩm "Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" rồi sau đó biệt tăm, biệt tích? Sống chết ra sao? Nếu còn sống thì chắc chắn bây giờ tối thiểu ông ta phải hơn 85 tuổi!

- Tác giả T. Lan cũng là nhà văn viết quyển "Vừa đi đường vừa kể chuyện", xuất bản năm 1950, kể chuyện về những hoạt động cách mạng của "bác" Hồ. Tác giả này cũng chỉ viết duy nhất có một tác phẩm rồi biến mất!!!

3. Nghi vấn về "Đóa Hồng Gai" Nguyễn Thị Nga

Trước đây trung tâm Thúy Nga Paris đã giới thiệu chị Nguyễn Thị Nga đến các khán giả. Chị Nga đã được mời lên sân khấu để kể chuyện về cuộc đời hoạt động phục quốc của mình. Đó là người đàn bà yếu đuối, những bước đi không vững mà sau này mỗi lần đi ra mắt sách ở những nơi khác, bà ta phải ngồi xe lăn. Bà ta cho biết vì bị việt cộng đánh đập nên đã bị tàn phế và vì bận hoạt động phục quốc, bị ở tù nên không có cơ hội lập gia đình. Kể xong câu chuyện bà ta có vẻ rất xúc động, nhiều khán giả rơm rớm nước mắt, thương cho một con người đã hết lòng hy sinh vì dân vì nước! Cũng theo câu chuyện của chị Nga thì trước năm 1975, chị đã gia nhập biệt đội Thiên Nga của quân lực VNCH. (Chú thích: muốn gia nhập biệt đội Thiên Nga, ứng viên tối thiểu phải có bằng trung học đệ nhất cấp)

Mới đây trên báo điện tử Tin Paris, có đăng một bài viết của tác giả Ngô Đông Cường, với tựa đề "Tôi vượt biển với tác giả Đóa Hồng Gai". Theo ông Cường thì câu chuyện của bà Nga kể trong quyển "Đóa Hồng Gai" cũng như trên sân khấu Thúy Nga Paris có nhiều chi tiết không đúng với sự thật. Ví dụ:

- Tên thật của bà ta là Nguyễn Thị Sáu, tức Nguyễn Thị Liên chớ không phải là Nguyễn Thị Nga
- Bà Nga đã từng làm vợ bé chớ không phải sống độc thân
- Bà Nga bị việt cộng bắt đi ở tù vì tội vượt biên năm 1977 chớ không phải là bị bắt vì tội hoạt động phục quốc cùng với cha Hiệu ở Hố Nai năm 1976!
- Khi ở trong tù bà Nga khai là bà đã có cái "bèng tú từa hưa" (bằng tú tài hai) nhưng theo ông Cường thì trình độ học vấn của bà chỉ khoảng lớp 5, lớp 6 vì viết chữ sai lỗi chánh tả quá nhiều.
- Bà Nga là dân Quảng Nam, nói giọng Quảng Nam đặc sệt nhưng những chữ và câu văn trong quyển "Đóa Hồng Gai" thì dùng toàn những chữ của người Bắc.

Từ những nghi vấn này, người ta cho rằng "Đóa Hồng Gai" và bà Nguyễn Thị Nga chỉ là một con bài do băng đảng lưu manh Việt Tân, cấu kết với Thúy Nga Paris dựng lên để lừa bịp đồng bào. Sự lừa bịp này cũng giống như những sự lừa bịp của bọn việt gian cộng sản đã từng làm, thông qua những huyền thoại:

- Cuộc đời của "bác" Hồ và các "phóng viên" Trần Dân Tiên, T. Lan
- Lê Văn Tám, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, La Văn Cầu ..v..v..

Và đã có vô khối người đã CHẾT NGU cho những sự lừa bịp này! Cho tới bây giờ, hơn 60 năm sau, vẫn còn vô khối người Việt trong và ngoài nước vẫn còn tin là Lê Văn Tám là nhân vật có thật! Và theo sự suy luận thông thường: hễ Lê Văn Tám mà "có thật" thì "Đóa Hồng Gai" cũng phải có thật! Nếu "Đóa Hồng Gai" có thật thì sự kiện "linh thiêng" của tướng Hoàng Cơ Minh cũng phải có thật: - sau khi đã tự bắn vào đầu mình bể sọ rồi mà ông ta vẫn CÒN TIẾP TỤC SỐNG THÊM 14 NĂM NỮA MỚI CHẾT!!! Xin mời quý vị theo dõi tiếp câu chuyện:

Trong chúng ta ai cũng biết tướng Hoàng Cơ Minh trong trận đụng độ với việt cộng tại biên giới Lào Việt, bị thương, ông ta đã tự sát. Các kháng chiến quân lần lượt bị bắt, Mặt Trận hoàn toàn tan rã. Lúc đó là thời điểm tháng 8 năm 1987. Sau khi Mặt Trận bị tan rã, các kháng chiến quân bị việt cộng đưa ra tòa. Lúc bấy giờ những ai đang ở Việt Nam hầu như đều biết tin này vì các báo của việt cộng đều đăng tin và hình ảnh rất rõ, nhất là tờ báo công an. Người ta thấy rõ hình của tướng Hoàng Cơ Minh mặc bộ đồ bà ba đen nằm chết, thấy những tấm hình chụp các buổi sinh hoạt của các đoàn viên của Mặt Trận trong chiến khu, thấy những tấm giấy có ghi dòng chữ "Lệnh Tử Hình", lý do "bất tuân thượng lệnh". Sau đo,ù những gì mà các kháng chiến quân khai ra đều được các báo của việt cộng đăng tải đầy đủ, chẳng hạn như:

- Số kháng chiến quân thực sự chỉ khoảng 200 người, đa số được tuyển mộ trong trại tỵ nạn Thái Lan
- Mặt Trận đã mướn những người Lào mặc quân phục, cầm súng cùng đứng chụp hình chung với các kháng chiến quân cho có vẻ đông đúc
- Mặt Trận tuyên bố với cộng đồng người Việt tại hải ngoại là đã tuyển được MƯỜI NGÀN QUÂN!

Thế nhưng sau năm 1987, khi một số người Việt có cơ hội được đi định cư theo diện H.O hoặc ODP, sang Mỹ thì họ vô cùng kinh ngạc khi đi dự những buổi tiệc tất niên vào dịp tết. Trong những buổi tiệc này, họ thấy các đoàn viên của Mặt Trận, thắt cà vạt màu vàng có ba sọc đỏ, lên đọc LÁ THƠ CHÚC TẾT CỦA CHỦ TỊCH HOÀNG CƠ MINH!!! Một số người kinh ngạc kêu lên:

- Ủa chủ tịch Hoàng Cơ Minh còn sống à? Hồi còn ở trong nước, tụi tôi thấy báo công an đăng hình ông ta chết rồi mà?

Đoàn viên Mặt Trận giải thích:

- Chủ tịch Hoàng Cơ Minh vẫn còn sống! Việt cộng nó bịp mấy ông đó! Nó đăng tin như vậy là để làm cho tinh thần của người quốc gia tụi mình bị hoang mang!

Mọi người bán tín bán nghi nhưng không ai dám có thái độ gì. Cũng vào thời điểm năm 1984 - 1989, vợ chồng ký giả Lê Triết bị bắn chết, sau đó có thêm một vài người nữa cũng bị bắn chết. Có tin đồn là Mặt Trận mướn sát thủ bên Canada qua thủ tiêu những người này để dằn mặt những ai chống đối. Những người còn lại cảm thấy lạnh cẳng, không ai dám thắc mắc về những lá thơ chúc tết của chủ tịch Hoàng Cơ Minh nữa. Rồi trong những cái tết tiếp theo, Mặt Trận lại tiếp tục đọc thơ chúc tết của chủ tịch mà chẳng thấy chủ tịch đâu hết! Họ vẫn TIẾP TỤC QUYÊN TIỀN để nuôi kháng chiến quân MA giải phóng Việt Nam! Nhiều người sốt ruột, bắt đầu nóng nảy:

- Chủ tịch Hoàng Cơ Minh bây giờ đang ở đâu, yêu cầu ban lãnh đạo phải cho chúng tôi biết!

Mặt Trận:

- Chủ tịch đang đi công tác tại Nhật Bản/ Pháp/ Ấn Độ/ Thụy sĩ để quyên tiền và vận động quốc tế ủng hộ kháng chiến quân .... Chủ tịch thân mến gởi lời thăm các đồng bào trong và ngoài nước! Yên chí đi, chủ tịch sẽ về lại Mỹ trong nay mai, đồng bào sẽ gặp lại chủ tịch Hoàng Cơ Minh kính mến!

Thế rồi, 14 năm sau khi Hoàng Cơ Minh chết, sau khi thấy cái món vỏ "quyên tiền" đã hết khấm khá, thấy niềm tin của đồng bào vào Mặt Trận ngày càng tuột dốc, thấy không thể nào che dấu được nữa, Mặt Trận mới quyết định công bố sự thật:

- Chủ tịch Hoàng Cơ Minh đang đi công tác tại .... âm phủ!!! Ai muốn gặp chủ tịch thì cứ xuống đó mà gặp!!!

VÌ SAO CHÚNG TA PHẢI LÊN TIẾNG VỀ "ĐÓA HỒNG GAI"?

Qua những điều trình bày nêu trên, chúng ta thấy rằng: - từ Lê Văn Tám đến Nguyễn Chí Thiện, đến "Đóa Hồng Gai", tất cả đều là những sản phẩm lừa bịp của những băng đảng cướp bịp bợm, gian ác. Bọn chúng đều có một mẫu số chung là lưu manh, điếm đàng, chỉ khác nhau ở chỗ thể hiện hình thức lừa gạt. Từ cái thằng mặc áo vét ngồi ở bắc bộ phủ đến cái thằng mặc áo vét cầm micro đứng trên sân khấu, đến thằng mặc bộ quần áo bà ba đen, quấn khăn rằn ở cổ đều giống nhau về bản chất, chỉ khác có bộ quần áo.

Chúng ta đã bị lừa bịp quá nhiều rồi, hết bị việt cộng lừa, đến bị Mặt Trận lừa, rồi đến đảng Việt Tân lừa. Con cắc kè Mặt Trận đổi màu để biến thành đảng Việt Tân và bây giờ nó đã trở thành cái vòi bạch tuộc của bọn việt gian cộng sản. Nếu chúng ta không tố cáo "đóa hồng gai", bọn chúng thấy cái chiêu "phục quốc dỏm" này có thể làm ăn được, sẽ cho ra đời thêm vài chục trường hợp tương tự như vậy! Bọn chúng lại đưa những "chiến sĩ phục quốc" lên sân khấu Thúy Nga Paris để phỏng vấn, sau đó sẽ đi ra mắt sách và quyên tiền! Chúng ta lại nai lưng ra để nuôi béo những thằng việt gian cộng sản. Vừa mất tiền mà còn bị bọn chúng chê cười là những thằng quốc gia quá ngu dốt, quá dễ tin, dễ bị lường gạt còn hơn con nít!!!

Còn gì đau sót hơn, bẽ bàng hơn khi chúng ta khám phá ra chúng ta - vì ngu dốt, vì thờ ơ, u tối - đã đi cày hộc máu để nuôi kẻ thù suốt mấy chục năm nay, cũng tựa như một người đàn ông lo đi cày trong hãng hộc gạch để con vợ ở nhà nó đi ngoại tình với người khác!

Nhưng chúng ta phải có can đảm đối đầu với sự thật. Không dám nhìn thẳng vào sự thật thì không bao giờ thắng được kẻ thù, 83 triệu dân trong và ngoài nước sẽ mãi mãi phải làm nô lệ cho bọn việt gian cộng sản và bọn tay sai chó săn tại Mỹ!

Trần Thanh
Ngày 1 tháng 9 năm 2008

Phần tin nhanh:

CHÚNG TA MẠNH MẼ ỦNG HỘ CUỘC ĐẤU TRANH CỦA GIÁO DÂN HÀ NỘI TẠI GIÁO XỨ THÁI HÀ!

Máu đã đổ tại giáo xứ Thái Hà. Bọn công an gian ác đã dùng bạo lực để đàn áp, đánh những người dân lớn tuổi, là phụ nữ chân yếu tay mềm đến đổ máu. Nhưng các giáo dân nhất quyết không sợ và lần này chúng ta tin rằng những giáo dân Hà Nội sẽ dạy cho bọn cầm quyền lưu manh gian ác một bài học đích đáng!

Năm ngoái, trong cuộc đấu tranh đòi lại tòa Khâm sứ, các giáo dân Hà Nội đã bị bọn việt gian cộng sản lừa gạt. Lần này bọn chúng không thể bổn cũ soạn lại nữa đâu. Trời cao có mắt, các đấng linh thiêng sẽ trừng phạt bầy quỷ đỏ. Chúng ta cầu nguyện ơn trên ban cho những giáo dân dồi dào nghị lực, sự sáng suốt, lòng can đảm và sức khỏe để họ kiên nhẫn đấu tranh cho đến cùng!

Hỡi những tên cướp công an! Nếu bọn bay biết nghĩ đến "nhân quả" thì hãy biết điều. Hôm nay làm điều ác thì ngày mai phải đền tội! Đó là quy luật rất chắc chắn, áp dụng cho tất cả những tên công an đang cầm dùi cui, roi điện cho đến những tên đầu gấu trong bộ chính trị. Hung bạo như bạo chúa Sadam Hussein mà còn bị treo cổ, bọn chúng bay cũng sẽ không thoát khỏi lưới trời lồng lộng!

Trần Thanh
Ngày 1 tháng 9 năm 2008

Tài liệu tình báo về vụ CSVN bá nước

Tài Liệu
19/11/2007
(Vài sự kiện dẫn đến bán nước của csvn)

Sau vụ CSVN bán nước cho Trung Cộng, theo lời ông Hoàng Minh Chính cho biết thì không ai biết được ai trong bộ chính trị đã ký tên trong vụ bán nước nầy . Bộ chính trị CSVN đã dấu nhẹm chuyện nầy và BÍ MẬT ĐÃ được BẬT MÍ và sau đây là những diễn biến về cuộc BÁN NƯỚC NHƯ SAU:

1) Lê Khả Phiêu bị Trung Quốc gài Mỹ Nhân Kế lấy cô Trương Mỹ Vân (Cheng Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu sang thăm Trung Quốc năm 1988 và sanh được một bé gái. LKP không đem con về vì sợ tai tiếng đưa đến nhiều lần Trung Cộng gửi văn thư đòi lấn vùng biển vào tháng 1 năm 1999. Đồng thời đòi đưa ra ánh sáng vụ nầy nếu LKP không hợp tác. Và buộc Lê Khả Phiêu phải hạ bút ký bản hiến biển ngày 30 tháng 12 năm 1999.

2) Ngày 31 tháng 12 năm 1999 phái đoàn Trung Quốc cầm đầu do ông Tang Jiaxuan và tình báo TQ sang Việt Nam, họ gặp kín ông Lê Khả Phiêu bàn thêm về vấn đề hiến đất .

3) Ngày 25 tháng 2 năm 2000, Lê Khả Phiêu phái Nguyễn Duy Niên sang Trung Quốc, ông Nguyễn Duy Niên cho biết Lê Khả Phiêu đã đồng ý việc hiến thêm đất.

Trung Quốc nghe tin rất hoan hỉ mở tiệc chiêu đãi Nguyễn Duy Niên một cách nồng nhiệt với nhiều Cung Tầng Mỹ Nữ ở nhà khách Diao-yu-tai ăn nhậu cùng ông Ngoại Trưởng Tang Jiaxuan .

4) Bộ Trưởng Trung Quốc Tang Jiaxuan gửi thư kín nhắn tin muốn gặp Bô. Trưởng CSVN tại ThaiLand khi ông viến thăm nước nầy. Ngày 26 tháng 7 năm 2000. Ông Nguyễn Duy Niên đáp chiếc Air Bus bay từ phi trường Nội Bài vào lúc 6 giờ 47 sáng sang ThaiLand gặp Bộ Trưởng Ngoại giao Trung Quốc tại khách sạn Shangri-La Hotel Bankok phía sau phòng Ballroom 2. Cuộc gặp rất ngắn ngủi. Tang giao cho Niên một chồng hồ sơ đòi CSVN hiến thêm đất, biển trong hồ sơ ghi rõ TQ đòi luôn 50/50 lãnh hải vùng Vịnh Bắc Việt, đòi VietNam cắt 24,000 sp Km vùng biển cho TQ. Ngày 28 tháng 7 bộ chính trị nhóm chóp bu họp kín.

5) Sau hai tháng họp kín và bàn bạc. Bộ chính trị CSVN cử Phan Văn Khải qua gặp mặt Lý Bằng. Phan Văn Khải bay chuyến máy bay sớm nhất rời Việt Nam ngày 26 tháng 9 năm 2000 qua Bắc Kinh và được xe Limo chở từ phi trường Bắc Kinh về Quảng Trường Nhân Dân vào trưa hôm đó. Nhìn thấy mặt Khải tỏ vẻ không hài lòng và hoan mang về vụ hiến đất (Điều nầy chứng tỏ Khải không rõ chuyện nầy). Lý Bằng cho Khải biết là hai tay Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân đã gặp nhau 2 lần cho vụ hiến đất rồi. Lý Bằng ôm chặc PVK và khen ĐCSVN làm việc rất tốt và ông cho biết là đã có Nông Đức Mạnh (lúc đó là chủ tịch Quốc Hội ĐCSVN) đã đi đêm sang Trung Quốc vào tháng 4 năm 2000 và Lý Bằng đã gặp lại Nông Đức Mạnh, vào tháng 8 năm 2000 ở New York Hoa Kỳ. Lý Bằng cho biết Nông Đức Mạnh phải được cử làm Bí Thư ĐCSVN sau khi Lê Khả Phiêu xuống, nếu không thì sẽ bị Trung Quốc "đòi nợ cũ" . Khải trước khi về vẫn khước từ vụ hiến vùng biển VN và nói với LB là sẽ xem lại sự việc. Lý Bằng nhăn mặt bắt Khải ngồi chờ, vào gọi điện thoại, nói gì trong đó và trở lại nói là Chủ Tịch Giang Trạch Dân muốn gặp Khải tại Zhong-nai-hai và sau đó Khải được đưa đi gặp GTD và cho ông Zhu Rongji hù dọa Khải nói: Trung Quốc đã nắm trong tay Lê Khả Phiêu, Nồng Đức Mạnh ... nếu không nghe lời TQ Khải sẽ bị tẩy chay và coi chừng bị "chích thuốc". Khải cúi đầu và run sợ, sau đó đòi về. Trước khi Khải về, một lần nữa Giang Trạch Dân nhắn Khải gửi lời thăm Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh chứ không nhắc tới tên người khác trong Quốc Hội CSVN. Khải không được khoản đãi như một vị quốc khách vì tính tình bướn bỉnh vì không nghe lời đàn anh ...

6) Vào ngày 24 tháng 12 năm 2000, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao VN Lê Công Phụng được Trần Đức Lương phái âm thầm đến Trung Quốc gặp ông tình báo của Trung Quốc là ông Hoàng Di, ông nầy là cánh tay phải của Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc. Ông ta nói tiếng Việt rất rành. Hai bên đã gặp nhau ở một địa điểm X gần biên giới Việt, (Tỉnh Móng Cái Việt Nam). Theo bản báo cáo cho bộ chính trị CSVN, ông Lê Công Phụng Cho biết lúc đầu ông Hoàng Di vẫn khăn khăn đòi chia 50/50 với Việt Nam về vùng biển Vịnh Bắc Việt "Beibu Bay" đòi lấy luôn đảo Bạch Long Vĩ sau đó ông Phụng, được bộ chính trị dặn trước là xin lại 6% của Vùng biển gần khu vực Bạch Long Vĩ vì đã được lâu đời là của Việt Nam . Kết Qủa cuộc đi đêm Việt Nam còn lại 56% Vịnh Bắc Việt và mất đi 16,000 sq Km vùng vịnh cho Trung Quốc.

7) Ngày 25 tháng 12 năm 2000, ông Trần Đức Lương rời Hà Nội qua Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân và được đưa về Thành Bắc của Quảng Trường Nhân Dân, theo tài liệu lấy được của tình báo Trung Quốc. Trần Đức Lương và Lê Khả Phiêu chính thức quyết định thông qua bản hiệp ước hiến đất bất chấp lời phản đối của Khải và nhiều người trong quốc hội. Phe thân Nga và Phe Miền Nam đã không đủ sức đấu với Lê Khả Phiêu và Trần Đức Lương. Bản hiến chương hiến đất cho Trung Quốc được chính Giang Trạch Dân và đảng CSTQ trả cho số tiền là 2 tỉ US Dollar được chuyển cho Việt Nam qua hình thức Đầu Tư. ĐCSTQ chỉ thị cho ĐCSVN sẽ phải làm gì trong kỳ đại hội đảng thứ 9 vào tháng 3 năm 2001 sắp tới. Trần Đức Lương được khoảng đãi ở Thành Bắc QTNN.

8) Ngày 26 tháng 12 năm 2000 vào lúc 2 giờ trưa, Lý Bằng được cận vệ đưa tới gặp Trần Đức Lương ở Quảng Trường Nhân Dân. Lý Bằng cho Lương biết là số tiền 2 tỉ dollar để mua 16,000 sq km vùng vịnh Beibu của Việt Nam là hợp lý. Trần Đức Lương cám ơn DCSTQ về số tiền nầy. Số tiền 2 tỉ đồng nầy được Lương đem về để làm bớt sự phẩn nộ của Khải, Kiệt và những nhân vật khác trong quốc hội CSVN. Ông Lý Bằng nhắc lại chuyện Trung Quốc đã bán vũ khí và hỗ trợ cho đảng CSVN trong thời gian chiến tranh và số nợ trên Trung Quốc dùng để trao đổi mua lại vùng đất Bắc Sapa của Việt Nam, Ải Nam Quan, Bản Dốc, Cao Bằng .... Thêm lần nữa Lý Bằng chỉ gửi lời thăm Lê Khả Phiêu và Nồng Đức Mạnh !. Sau đó Lương được mời lên xe Limo và đưa về Zhong-nan-hai để gặp Zhu Rongji . Zhu Rongji không nói gì khác hơn là nhắc lại số tiền 2 tỉ đồng sẽ được giao cho Việt Nam sau khi Lương trở về nước.

9) Ngày 26 tháng 2 năm 2001 Nguyễn Mạnh Cầm bay sang Trung Quốc để gặp ông Qian Qichen tại đảo Hải Nam. Nguyễn Mạnh Cầm cám ơn Trung Quốc đã mua vùng Vịnh Bắc Việt của Việt Nam (Beibu Bay) với giá 2 tỉ US Dollar.

Yahoo search:
http://www3.fmprc.gov.cn/eng/3808.html

General Secretary Le Kha Phieu Met with Foreign Minister Tang Jiaxuan 31/12/1999)

On December 31, 1999, General Secretary of the Communist Party of Vietnam Le Kha Phieu met with Chinese Foreign Minister Tang Jiaxuan in Hanoi, during which Foreign Minster Tang conveyed the cordial greetings from President Jiang Zemin. He indicated that we had just experienced an important moment in the history of the Sino-Vietnamese relations.. The Treaty of Land Border between China and Vietnam had been officially signed at long last after 20-plus years of negotiations. This was a major event that merited celebration in the bilateral relations. He attributed the settlement of land border disputes, first and foremost, to the foresight and able guidance of the leaders of the two countries, the General Secretaries of the Communist Parties of the two countries in particular who pointed out the direction for and gave impetus to the negotiations. Your contributions were irreplaceable. The official signing of the Treaty of Land Border symbolized that we would bring peace, amity and stability along the land border between the two countries into the 21st century. This would not only benefit the two peoples and the coming generations, but also contribute to the advancement of the relations between the two countries and two parties, the bilateral cooperation in all dimensions and peace and stability of the region at large. The achievements of the land border negotiations had been hard-won. This would provide an example for the settlement of the questions left over from history between the two countries. At the same time, it also demonstrated to the world that China and Vietnam were capable of resolving all the outstanding questions left over from history through friendly consultations.

General Secretary Le Kha Phieu said that the signing of the Treaty of Land Border was of great significance to the friendly relations and cooperation of the two countries built on the basis of mutual-trust and was the result of the painstaking efforts of both sides. It marked a step forward in the good-neighborly, friendly relations of solidarity of the two countries and would exert positive impact to peace and stability of the region.

Foreign Minister Tang Jiaxuan said that the relations between the two countries and the two parties were enjoying sound momentum of development. Mutual trust was enhanced and solidarity stepped up through the frequent contacts of state and party leaders, which played a guiding role in the furtherance of the relations between the two countries and two parties. He went on to say that mankind would embark on a new millennium in some 10 hours' time. We should value all the more the peaceful environment, which did not come easily and treasure the traditional friendship between the two countries, the two parties and the two peoples. We had every confidence that the 21st century would see even better Sino-Vietnamese relations.

General Secretary Le Kha Phieu indicated that one of the highlights of Vietnam-China relations was that the leaders of the two countries reached an agreement on putting a complete end to the past and building a future featuring friendship and mutual trust. It was the consistent policy of Vietnam to develop good-neighborly and friendly cooperation with China. The friendship between Vietnam and China would enjoy further development and would be carried on generation after generation. The spirit of cooperation manifested during the land border negotiations was bound to give impetus to the development of bilateral relations in all the fields. Meanwhile, we would move up the settlement of other outstanding questions left over from history between the two countries by drawing on the experience of this round of negotiations.

The two sides also exchanged views on the current regional and international situations. General Secretary Le Kha Phieu thought highly of the independent foreign policy of peace pursued by China and expressed appreciation to China that attached importance to the development of good-neighborly and friendly relations with its surrounding countries. He maintained that Vietnam was not in favor of a uni-polar world, and the world should be characterized by variety.

General Secretary Le Kha Phieu asked Foreign Minister Tang Jiaxuan to convey his best wishes to General Secretary Jiang Zemin and other Chinese state and party leaders.

Prior to this, Foreign Minister Tang Jiaxuan met with President Tran Duc Luong of Vietnam. Tang conveyed the warm regards from President Jiang Zemin, to which President Tran Duc Luong expressed his gratitude. He also expressed his belief that the Chinese people would achieve greater success in the new century under the leadership of President Jiang Zemin.

Google:
http://www.fmprc.gov.cn/eng/wjb/zzjg/tyfls/tyfl/2631/t15493.htm

MSN.com:
http://www3.fmprc.gov.cn/eng/4470.html

http://www.chinaembassy-canada.org/eng/wjb/zzjg/tyfls/tyfl/2631/t15493.htm

http://community.vietfun.com/showthread.php?s=2721afa3c031c944e7e041a9067fb88e&p=2749175#post2749175

http://thangtien.de/index.php?option=com_content&task=view&id=987&Itemid=323


Chùa là cửa ngõ xâm nhập an toàn của việt cộng


Trương Minh Hòa

Tác giả Phạm Xuân Đài, thuộc dòng dõi Phạm Phú Thứ, trong một bài viết với tựa đề: "chùa là cái thiện" được phổ biến khá rộng trên hệ thống truyền thông hải ngoại; chùa là cái thiện cũng có phần đúng về hình thức trong triết lý Phật Giáo, vì cảnh chùa từ trong ra ngoài thường được trang trí cho có vẻ thanh tịnh và đượm phần thoát tục, phù hợp với những ai "coi cõi đời là cõi tạm" muốn tìm con đường giải thoát khỏi kiếp trầm luân khổ ải mà đời người thường hay TRÀN DÂNG nhân quả chốn TRẦN GIAN; chùa mà buồn, cô quạnh quá như "chùa Bà Đanh" cũng không hấp dẫn đối với những người có cái tâm "hàng hai" như đám đón gió trở cờ, vừa tự nhận là người tỵ nạn chính trị, nhưng cũng vừa muốn bắt tay với Việt Cộng để làm ăn, du lịch, du hý, du dâm .... đó là những người "bắt cá hai tay", vừa muốn tu thành chánh quả và cũng vừa muốn nhìn thấy cuộc đời đẹp lắm trước khi tìm đến cõi Niết Bàn.

Tuy nhiên ngày nay, có nhiều chùa không còn thiện nữa, như ngôi Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương, do "cư sĩ gốc công an" Dũng Lò Vôi xây dựng tại Bình Dương với diện tích hơn 500 mẩu tây, có cả những nơi "du hý" giống các tụ điểm du lịch nổi tiếng như Disney Land ở Mỹ; nổi bật là nơi chánh điện có thờ tượng vàng của đại giáo chủ ma đầu "vô thần" kiêm "quỷ vương" Hồ Chí Minh chung với đức Phật và vua Hùng (có công dựng nước); chùa Quán Sứ ở Hà Nội là nơi mà Phật Tử tìm đến nơi thờ Phật, cúng bái, công quả, công đức và đủ thứ "công khác" cũng phải "tịnh khẩu" nếu lỡ lời là bị "sư, tăng ni mắt khóm tai bèo" báo cáo với các "đồng chí công an" về tư tưởng tiêu cực, phản động, có âm mưu lật đổ chế độ, thì con đường cải tạo chập chờ trước mắt, trong khi chưa thấy Niết Bàn đâu; nhưng cái hệ thống nhà tù cải tạo cũng là cửa ngỏ đưa vào "thiên đàng Cộng Sản" đấy.

Chùa là cái thiện cũng ở Việt Nam ngày nay, như ở Thanh Minh Thiền Viện hay các tự viện không nằm trong cái giáo hội Phật Giáo với công thức: "chùa do Phật tử vung bồi công quả, công an giả sư quản lý, đảng Cộng Sản vô thần lãnh đạo". Những tự viện nằm ngoài vòng cương tỏa của Mặt Trận Tổ Quốc, nơi mà các vị cao tăng, tu sĩ muốn thanh tịnh, được tự do tu hành theo truyền thống Phật Giáo đã có từ hàng ngàn năm qua, nhưng cũng không được, vì chùa luôn luôn đặt trong cái "tình huống" cực kỳ khẩn trương, kiểm soát ra vào, ngay cả con kiến, con rận, rệp và loài có cánh như con ong chúa 63 cũng không thể nào lọt vô được, ngoại trừ con mối chúa là có thể "độn thổ" chui vào thôi:

"Người hiền đức như tù trong khám.
Có công an bao bọc bên ngoài".

Chùa chỉ là nơi thờ Phật và người đi tu có nơi nương tựa, được coi là những người quy y, tình nguyện suốt đời làm con của Phật, nên ai đi tu cũng mang họ Thích. Không phải ai họ Thích cũng đều Thích tu hành đâu, cái tâm mới là quan trọng:

"Dò sông dò biển dễ dò.
Nào ai lấy thước mà đo lòng người".

Đại thi hào Nguyễn Du cũng đồng ý:

"Thiện căn bởi tại lòng ta.
chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài".

Chùa với thầy chùa, nhưng không phải thầy chùa nào cũng "đạo hạnh cao dầy", để hết tâm trí tu hành, chắc chắn khi "viên tịch" cũng phải lên Niết Bàn, đứng ngồi gần tòa sen. Nên người đời có danh hiệu "Thầy chùa lửa, sư hổ mang, ác tăng".... ngày nay thêm "dâm tăng" sau khi "phát hiện" ra một số tăng có nhiều hạ lạp, lên đến Hòa thượng đã từng biết thế nào là: "con đường tình ta đi", vừa tu vừa tìm cách hưởng cái lạc thú thế gian để "thanh tâm trường khoái lạc", đạt cả hai mặt "đạo và đời", biến "đời là bể khổ" thành "đời là bể sướng". Như thượng tọa Thích Trí Quang, dù là người tu hành lâu năm, kỵ sát sanh hại vật, nhưng vào thời trung tướng Nguyễn Khánh làm quốc trưởng, sư nầy dùng áp lực với khối Phật Giáo sau lưng mà buộc tướng Khánh phải "giết" ông Ngô Đình Cẩn, đứa em út của tổng thống Ngô Đình Diệm, hành vi nầy cũng như Việt Cộng hay bất cứ kẻ bất lương nào, thế mà có người chấp tay vái lạy, tôn kính hơn cả cha mẹ. Tu khó lắm, nên Đức thầy Huỳnh Phú Sổ, vị sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo có câu: "Thứ nhứt là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thư ba tu chùa" và để khuyến tu, Ngài có câu:

"Tu không cần lạy cần quỳ.
Ngồi đâu sửa đó, vậy thì mới nên".

Chùa, ở chùa, mặc áo cà sa, cạo đầu, ăn cơm bá tánh, biết đọc kinh cầu siêu, tứ thời, thuyết pháp và cũng biết cách làm Business qua dịch vụ tụng kinh cho các đám tang để cầu nguyện cho các Phật tử quá cố được "lên Niết Bàn" với số tiền "chặt đẹp" (Charge-đẹp), và thân nhân người chết cũng phải "tiêu diêu nơi miền hãng xưởng" để có đủ tiền trả cho sư tụng kinh, làm tiền rất nhẹ nhàng và sáng tạo nhờ những kinh sách của đạo Phật. Những người THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI cũng chưa chắc gì là người tu. Vì ở mọi thời đại, đều có những kẻ "mượn đạo tạo đời". Do người đời còn quá nhiều tội lổi, đam mê, mà trong những đứa con Phật, có thứ tu sĩ THÍCH ĐỦ THỨ và tệ hơn là công an giả dạng là tu sĩ THÍCH VIỆT CỘNG, từng gây bao hệ lụy cho uy danh đức Phật và đạo Phật mà vẫn "an nhiên tự tại" trong cái "thanh tâm trường an lạc", chỉ bị tiếng đời dị nghị và sau đó, thời gian là thuốc xóa sạch những điều xấu xa; trong khi đó bên Công Giáo, các linh mục lạm dụng tình dục thì bị giáo dân, nạn nhân truy tố, thưa kiện và chính đức giáo Hoàng cũng phải xin lỗi, giáo hội phải bồi thường. Nhưng với những tu sĩ Phật Giáo, lén lút quan hệ tình dục, có cả "nghiệp báo" là có con đùm đề, làm nhiều chuyện trái với đạo lý, phạm giới có ai đưa ra tòa đòi bồi thường, sư vẫn "thoải mái hành đạo" tiếp tục lừa đảo thế gian, Phật Tử cho đến mãn phần được gọi là "viên tịch" và các chùa khác, đệ tử đọc kinh cầu siêu, ghi công đức "cao dày", nên trong bài ca Tôn Tẩn Giả Điên, Út Trà Ôn ca rằng: "biết đâu những kẻ lừa thầy phản bạn, thường hay giả dạng kẻ nhân từ".

Luật Nhân-Quả và Luân-Hồi của Phật Giáo rất thâm sâu, uyển chuyển, nếu áp dụng đúng thì là cách răn đời "làm lành lánh dữ" như quyển "Hồi Dương Nhân Quả". Tuy nhiên, ở đời nầy có nhiều kẻ áp dụng và giải thích lệch lạc nên sinh ra nhiều nghiệp báo, hệ lụy:

- Nhiều người sanh lòng bỏ vợ già thì cho là "duyên nợ đã hết", và về Việt Nam bảo lãnh vợ nhí, đáng tuổi con cháu mình thì cho là: "kiếp trước có nợ duyên", mình không thương người ta thì: "mang tội với Trời Phật". Có kẻ lấy vợ nhỏ mà vẫn "an nhiên tự tại" bảo với vợ là "do ông trời đặt để", nếu vợ là người Phật tử thuần thành, cũng đành chấp nhận cái luật nhân quả, luân hồi, không phản ứng, ly dị, chia của, dù trong lòng tức tối, phải chịu đựng để "trả quả" cho kiếp trước.

- Các sư cũng áp dụng luật nầy để thoải mái "quan hệ tình dục" với người khác phái, lòng vẫn "thanh tâm trường an lạc" cho là: kiếp trước có duyên nợ, có vay nợ với nhau, cho nên người phụ nữ có quan hệ với "sư" cũng đành chấp nhận nếu có "con" với nhau. Để bảo vệ cái căn quả nầy, người phụ nữ cũng phải ráng chịu "nuôi con" để trả quả do kiếp trước có vay mượn với nhau. Thế là các phụ nữ nín thinh, không lên tiếng tố cáo với cảnh sát (kể cả bị xâm phạm tình dục), nên các sư Phật Giáo thường được an toàn cho đến khi "viên tịch", rồi sau đó mới lòi ra "thầy chùa con" là coi như "trả quả" cho kiếp trước.

Trước năm 1975 ở miền Nam, lợi dụng thể chế chính trị tự do, quỷ đỏ Cộng Sản xâm nhập và cửa chùa, là cứ địa an toàn, dễ nhất; lý do là ai muốn đi tu, chỉ cạo đầu, mặc áo cà sa là được danh hiệu "THẦY", dù người đó ít học, dốt, cũng được các Phật Tử có bằng cấp cao, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, tiến sĩ .... phải chấp tay cung kính là "Thầy" mà không cần đắn đo.

Ngay cả những ông tướng trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, đi đâu cũng có quân cảnh hộ tống, trước phòng làm việc có lính gác, thế mà vẫn cung kính với các thầy; thế nên thời đó có câu tục ngữ: "NHẤT ĐĨ, NHÌ SƯ, TAM CHA, TỨ TƯỚNG". Đó là cái tập quán "trọng Phật kính tăng" một cách máy móc, nên Cộng Sản dễ lợi dụng, hoạt động từ khi miền Nam chưa mất cho đến nay. Điển hình là vụ biến động Phật Giáo miền Trung 1966 do thượng tọa Thích Trí Quang cùng với một số tên Việt Cộng nằm vùng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ngọc kha, Võ Đắc Xuân ... phát động; nhờ các tướng Phật Tử như trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lịnh quân đoàn 1, chuẩn tướng Nguyễn Xuân Nhuận, tư lịnh sư đoàn 1 "kính tăng" và nghe lời tăng hơn cả cấp trên của mình..

Chùa là cái thiện về hình thức, nhưng người trong chùa không thiện, hòa thượng Thích Tâm Châu ghi lại trong quyển Bạch Thu phát hành ngày 1 tháng 1 năm 1994 tại chùa Phật Quang, Úc Châu:

vào tháng 7 năm 1966, sau chuyến đi từ Tích Lan, Mã Lai, Singapore trở về Saigon, đến Việt Nam Quốc Tự, vừa bước chân vào văn phòng Việu Hóa Đạo thì thấy biểu ngữ nền vàng chữ đỏ căng với hàng chữ: "Muốn quần chúng tuân theo kỷ luật thì phải tuân theo quần chúng". Bước chân vào bàn làm việc, nơi nầy đã có sẵn một chén máu và con dao với tấm giấy đe dọa: "yêu cầu các thượng tọa trong Viện Hóa Đạo không được theo thượng tọa Tâm Châu" (* phần ghi chú về cái chết của Thích Quảng Đức ở cuối bài). Sau 1975 thì chùa càng ít thiện hơn khi đảng Cộng Sản gom thành phần tu sĩ gốc đảng, tu giả, tu trốn lính, vào năm 1981 thành cái giáo hội Phật Giáo Việt Nam, bản doanh là chùa Quán Sứ, Hà Nội với huề thượng Thích Trí Thủ, nghe đâu, vị nầy đã "đắc quả là triệu phú" với số tiền lên đến 250 triệu Mỹ kim.

Từ đó cái ác lan tràn, khống chế các vị tu sĩ chân chính trong giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ lãnh đạo. Vụ án Già Lam cũng là "khổ nhục kế" tinh vi, được dàn dựng khá công phu, một thời làm chấn động lương tri, do bọn ma quái "Cộng Sản" dựng lên để đưa những "con quỷ dữ" vào phá giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước; được biết cái vụ án Già Lam làm chấn động trong nước và thế giới, nhất là tại các cộng đồng người Việt tỵ nạn, lúc đó người ta lầm tưởng là các tu sĩ Tuệ Sĩ, Trí Siêu ... là những người chân chính, dám can đảm đứng lên chống lại đảng Cộng Sản vô thần để bảo vệ đạo pháp. Tuy nhiên, hai ông nầy đã "báo trước" mà nhiều người không hay, lúc kêu án tử hình, thì Tuệ Sĩ cười và với với Trí Siêu: "mình không chết đâu thầy ơi!". Có một số người tin là Tuệ Sĩ giỏi về khoa tử vi nên quả quyết như vậy. Thế là ở hải ngoại, các cơ quan truyền thông, tha hồ mà đánh bóng và những đảng phái, tổ chức tích cực vận động ... rồi Việt Cộng phải nhượng bộ tha (SIC), nếu không ai vận động thì Việt Cộng cũng đâu giết những "con gà của họ", kế nầy thật nhịp nhàng và có bài bản. Nhờ thế mà Trí Siêu, Tuệ Sĩ trở thành "biể tượng đấu tranh" là tù nhân lương tâm, nhất là tay Thích Trí Siêu là người ngạo mạn, với cái gọi là "Giấc Mơ Trường Sơn", hắn còn lếu láo: "ai không biết chữ Hán, không phải là người Việt Nam", bị công tử Hà Đông vạch mặt vào thời đó, nên không ai lưu ý, cũng dám có người bực bội vì dám phê phán cả thần tượng của họ.

Chùa không còn là cái thiện khi mà công an, cán bộ đảng vô thần xâm nhập đánh phá, trong nước thì chùa biến thành nơi "quan trường" ai muốn tu phải có giấy phép, tu sĩ muốn có chỗ tu "tốt" cũng phải lo tiền, những người có quan hệ với đảng, công an, cán bộ được ưu tiên tụ hành ở những ngôi chùa lớn, còn không phải là "đỉnh cao trí tệ tăng ni" thì bị bức hại, đuổi đi, tù đày. Ngày nay quí thầy dùng bia, rượu thay trà, ăn thịt ca thay đồ chay và cũng trở thành tông phái TU ÔM theo Thiền TIẾP HIỆN của sư ông, sáng lập THÍCH NHẤT VẸM, nên tu sĩ biến "cõi đời thành cõi sướng". Hải ngoại, thì những tu sĩ thuộc Mặt Trận Tổ Quốc mới được xuất ngoại làm công tác tông giáo vận từ hàng chục năm qua như Thích Thanh Từ, Thích Thông Kinh ... và gần đây là "trí thức Phật Giáo" đại đức, tiến sĩ Thích Nhật Từ. Hắn tên thật là Trần Ngọc Thảo, sinh ngày 1 tháng 4 năm 1969 tại Saigon, cha là cán bộ Cộng Sản, biên chế sang Mặt Trận Tổ Quốc, năm mới 23 tuổi mà đã tu hành tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trở thành "sư trụ trì chùa quốc doanh" hiệu là chùa GIÁC NGỘ, số 92 đường Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10 thành Hồ. Hắn xâm nhập vào đất Mỹ từ lâu qua "con đường chùa ta đi" do một số Phật tử "tỵ nạn quốc gia, rước ma sư Cộng Sản", chứ không phải mới đây.

Dựa vào "phương án" dịch Kinh Đại Tạng, "tên Thích Nhật Từ cung thỉnh hai tên" Tuệ Sĩ và Trí Siêu làm "chủ trì", từ đó ở hải ngoại có một tổ chức mang tên: "Hỗ Trợ Dịch Đại Tạng Kinh" được một tu sĩ tên là Thích Nguyên Siêu, trụ trì chùa Phật Đà ở San Diego (nam Cali), cùng với cư sĩ Huỳnh Tấn Lê (Tổng Hội Cư Sĩ Orange County) về tài chánh và hai vị "chán tu" bỏ chùa hoàn tục khác có pháp danh là Nguyên Lương và Đức Hạnh; tổ chức nầy gây quỹ liên tục suốt 3 năm nên bè nhóm Tuệ Sĩ, Trí Siêu, Nhật Từ tha hồ mà tiêu pha "tiền chùa" được quyên góp từ mồ hôi của các Phật Tử "thuần thành" đóng góp. Kinh Phật, nhất là kinh Đại Tạng rất nhiều bộ, nhưng người ta tự hỏi: "dịch kinh để làm gì?" với công trình ròng rã cả hàng chục năm, có khi phải dịch cả đời mà vẫn không xong, hao tốn công, tiền; mặt khác, liệu các tay dịch thuật nầy có đủ trình độ để hiểu và dịch đúng theo tinh thần của tác giả các "đại tạng kinh" không?... với hàng chục ngàn trang giấy dịch bí hiểm văn tự; dịch kinh chỉ để trong kệ "tàng kinh các" cho bụi đóng và thỉnh thoảng lau chùi, làm cảnh, chứ Phật Tử ít khi nào đọc; họa hoằng lắm, mới có vài vị "thâm kinh" tới tìm vài câu để viết sách cho mình, hay tra cứu vài tài liệu. Tuy nhiên cái hiện tượng các sư muốn "phô trương" cái sở học uyên thâm "Hán, Phạn" với các học vị "tiến sĩ" tốt nghiệp ở Ấn Độ, Nhật Bản, nên mới bày ra trò "dịch kinh" để lòe thiên hạ mà thôi. Thật ra muốn áp dụng tư tưởng Phật, chỉ cần đọc và hiểu rõ quyển Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân là tạm đủ trong "đại hùng, đại lực, đại từ bi" hầu đối phó với ma quái, xử thế, tu học, chớ cần chi những bộ Tạng Kinh nầy. Con nít ngày nay chỉ cần mua DVD bộ phim nầy cũng thấm nhuần triết lý Phật Giáo:

"Phô trương bằng cấp, dịch Tạng Kinh.
Chứng tỏ ta đây, chữ đầy mình.
Ngàn năm lưu trữ, pho sách quí.
Vạn trang khai mở trí thông minh.
Sư qua Ấn Độ làu tiếng Phạn.
Thầy thuần Hán học, rộng tầm nhìn.
Hao tiền, lại bỏ nhiều công sức.
Có ích lợi gì cho chúng sinh?"

Tên sư Việt Cộng Thích Nhật Từ kết thân với sư Thích Chân Thành, trụ trì chùa Liên Hoa, đường Bixby, Garden Grove (Nam Cali) nhân chuyến sư nầy hành hương ở Ấn Độ, từ đó móc nối, nên sư Chân Thành trở thành người ủng hộ đắc lực cho tên "sư công an Tôn Giáo là Thích Nhật Từ" từ dạo ấy. Từ năm 2004 Sư Chân Thành lợi dụng cơ sở tôn giáo để bảo lãnh Thích Nhật Từ đến Hoa Kỳ lần đầu, cư ngụ tại chùa Liên Hoa và sau đó được giới thiệu với sư Chơn Lễ tại Texas nhằm thuyết pháp và cư ngụ, gây uy thế để mở rộng tầm hoạt động tôn giáo vận trên đất Mỹ qua cửa Phật. Nhắc lại lúc cụ Nghiêm Xuân Hồng còn sống, nhóm Liên Hoa không mời Thích Nhật Từ thuyết pháp; nhưng sau khi cụ Hồng qua đời, cựu trung tá pháo binh quân đoàn 2 thuộc quân lực VNCH, pháp danh là Mật Nghiêm, tục danh Đăng Nguyên Phả, với tư cách hướng dẫn đạo tràng, tiếp tay với sư Chân Thành tổ chức thuyết pháp hàng tuần. Sau nầy chính trung tá Phả hợp lực cùng với Huỳnh Tấn Lê thành lập nhóm Phật Học lấy tên là Đuốc Tuệ, chuyên dành cho Thích Nhật Từ thuyết pháp tại trường Mc Gavin, đường Bishop, gần khu Phước Lộc Thọ một cách công khai; các buổi "hoằng pháp chất lượng cao" nầy được phát thanh trên đài Tiếng Nói Hương Sen, ngoài ta còn ấn hành cả CD, DVD do Thích Nhật Từ thuyết pháp, phát không cho Phật tử nhằm tuyên truyền và tạo thế đứng của hắn tại Hoa Kỳ. (tài liệu trên Nam Úc Tuần Báo, số 658, phát hành 22-8-2008).

Đây là một vài thí dụ điển hình về con đường xâm nhập an toàn của Cộng Sản qua cửa ngõ Phật Giáo, với "cửa chùa rộng mở" thu nhận cả ma quái vào; chính nhờ những Phật Tử thuần thành, không phân biệt chánh tà, thấy ai mặc áo cà sa, nói năng như phật "nhưng không phải Phật", nhất là sư nào có bằng TIẾN SĨ PHẬT GIÁO tốt nghiệp từ Ấn Độ (nơi Đức Phật sinh ra) thì là cao siêu, là lời nói rất "chất lượng" để giúp mình giác ngộ sớm, về bến giác mau. Trọng Phật là đương nhiên, nhưng "kính tăng" thì nên coi lại, hãy cẩn thận: "đừng nghe những gì thầy chùa thuyết pháp, mà hãy nhìn kỷ những gì thầy chùa làm". Cái gương của Tam Tạng trong Tây Du Ký, nhiều lần quỳ lạy ma quái giả Phật, xuýt bị xơi tái; cũng có nhiều lần Tam Tạng mù quáng, không nghe lời Tôn Hành Giả, trái lại còn niệm chú xiết vòng kim cô không phân biệt chánh tà.

Nhờ có quá nhiều Tam Tạng thời đại, nên Việt Cộng mới xâm nhập vào chùa an toàn từ thời trước 1975 ở miền Nam, nay lan ra hải ngoại, bài học cũ, thế mà nhiều người vẫn chưa thấm, cứ nhắm mắt đi theo "sư Việt Cộng dẫn Phật Tử mù quáng, đi theo tấm bản chỉ đường của đảng" qua các "tên công an mặc áo cà sa". Một tập quán khác cũng rất nguy hiểm là: Phật tử có lối suy tư "mặc kệ nó", tức là: "ai làm bậy thì có trời Phật biết", mình không làm điều sai là không sợ; nên mình đi chùa để lạy Phật, cúng dường, dù biết chùa là của Việt Cộng lãnh đạo bên trong, sư là công an trá hình .... đó là những nguyên do tạo điều kiện cho các sư xấu, kể cả công an đội lớp tu sĩ có nơi hoạt động, nuôi dưỡng ma quái mà tưởng là làm việc thiện.

Trong nước Phật Giáo đã bị cơn đại pháp nạn, khốn đốn hàng mấy thập niên qua kể từ khi có mặt đảng Cộng Sản vô thần do tên đại quốc tặc Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ở hải ngoại, bàn tay quỷ đỏ đang vương ra, núp bóng Phật Đà, lợi dụng Phật tử, phát triển rộng khắp nơi, nên hiện tượng CHÙA MỌC LÊN NHƯ NẤM ở các cộng đồng tỵ nạn, con số chùa của người Việt tỵ nạn lên đến con số hơn 300, nghe qua chóng mặt và ngày nay đang có thêm nhiều ngôi chùa mới nữa, với sư mới, trẻ măng, nói năng dịu dàng, toàn là lời trong kinh, hàng tuần hay tổ chức nấu ăn đồ chay miễn phí để chiêu dụ, chùa giàu có cả xe bus để chở những người già, bịnh tật không lái xe đến chùa, ràng buộc hụi hè, giúp đỡ những Phật tử nào có vốn muốn về Việt Nam kinh doanh qua các sư từ trong nước quen biết với chính quyền, thỉnh thoảng mời sư ở Việt Nam sang thuyết pháp và "hoằng hóa" chúng sanh, chùa cũng có thể là nơi "chuyển tiền" về Việt Nam với huê hồng thật rẻ, là nơi giới thiệu hôn nhân "thiệt-giả", móc nối đủ thứ; có thể nói là; cửa chùa ngày nay sinh hoạt "đa hệ" chớ không thuần túy chỉ tu học, giải thoát; một số Phật tử còn có tấm lòng từ bi, bảo trợ một số sư từ Việt Nam sang, trở thành tam cùng "cùng ăn, cùng ở, cùng tu"; nhưng sư nào đi xuất ngoại dễ dàng là điều ai cũng nhìn thấy, khỏi cần dùng kiếng chiếu yêu, hay là có trình độ văn hóa cao mới nhận biết.

Việt Cộng vẫn dùng cửa thiền môn xâm nhập, nên các sư nào xuất ngoại như đi chợ, được đi dân sang các nước để "tu học" đều là người của Việt Cộng cả, là thứ "công an, gián điệp tôn giáo" rất nguy hiểm. Việt Cộng thất bại nhiều mặt trận hải ngoại: trí vận, kiều vận, kinh tài vận .... nhất là cái nghị quyết 36 càng lộ mặt nhiều cơ sở nằm vùng, do đó mặt trận tôn giáo, được coi là cửa ngõ an toàn xâm nhập và đánh phá qua vụ Hồng y Phạm Minh Mẫn, đại đức Thích Nhật Từ. Do đó, con đường xâm nhập từ chùa là an toàn, nên có thể là Việt Cộng dùng hình thức RỬA TIỀN bằng cách lập ra nhiều ngôi chùa, dùng một số Phật Tử địa phương làm cơ sở để che mắt; khi cất chùa xong là lấy tư cách để bảo lãnh sư từ Việt Nam sang qua diện tôn giáo, các tu sĩ tạm thời "núp bóng từ bi" để hoạt động, học hành, sau khi lấy bằng tiến sĩ, KỸ SƯ thì để tóc dài và trở thành CƯ SĨ, âm thầm biến mất trong dân chúng, cứ thế mà phát huy, tăng nhân số, hoạt động cho đảng, sau cùng là con số nằm vùng gia tăng, hợp với du học sinh, khuynh tả, có làm ăn với Việt Nam vận động "hòa hợp hòa giải", công khai treo cờ đỏ khi họ đông dân, lập ra cộng đồng mới với các Phật tử mù quáng yểm trợ, mở rộng các tổ chức từ thiện với nhiều mục đích: giúp dân nghèo trong nước, sửa chửa chùa, xây chùa.

Hiện tượng chùa mọc "không người lái" tại nhiều nơi ở hải ngoại là điều cần cảnh báo, nếu không thì bài học cũ trước 1975 ở miền Nam được lập lại. Cho nên, trước mắt là Phật tử nên cẩn trọng, nhất là các sư ở Việt Nam sang dễ dàng, chiếc áo không thành nhà tu là thế. Để đối phó, khi nhìn thấy chùa có những điểm khả nghi như có nhiều sư ở Việt Nam sang thuyết pháp, sinh hoạt thì tránh đi chùa đó, kế đến báo với sở thuế để họ xem xét những món tiền lớn ở đâu mà có để mua đất, xây chùa hàng triệu đồng nên nhớ là luật thuế vụ các nước dân chủ rất minh bạch, bất cứ ai đi làm cũng khai thuế và đóng thuế; ngay cả các cơ sở cộng đồng người Việt Tự Do ở Úc Châu, dù được chính phủ tài trợ hàng năm, nhưng vẫn phải khai thuế. Chùa cũng là cơ sở thu-nhập tiền, có quan hệ đến nhiều người, thì cũng phải đóng thuế mới công bằng; hy vọng sở thuế các nước dân chủ sẽ tìm ra được những "triệu phú đầu trọc" ở hải ngoại, là những người "tu nhất kiếp giàu nhất thời", không làm mà giàu xụ, kể cả những số tiền bất chánh từ đảng và nhà nước muốn dùng chùa để đầu tư và rửa tiền. Khi sở thuế khám phá ra những điều bất thường về tài chánh, với số tiền lớn xây chùa, tức nhiên là chính phủ sẽ mở cuộc điều tra về nguồn gốc số tiền ấy, có khả năng tìm ra được "bọn gián điệp" rửa tiền bằng cách lập ra các chùa và từ đó tạo thành cơ sở an toàn, hoạt động có lợi cho đảng và nhà nước Việt Cộng.

Người Việt tỵ nạn chân chính nào cũng không ưa bọn công an, cán ngố ... ngay từ trong nước. Tuy nhiên đã bỏ nước ra đi, mà vẫn chấp tay "vái chào cung kính" công an, cán bộ tôn giáo vận mặc áo cà sa, thì quả là chuyện nghịch lý. Chẳng lẽ tượng của tên quốc tặc Hồ Chí Minh được Dũng Lò Vôi khoác áo cà sa, hay ngồi chung với Phật, Hùng Vương, thì người Phật tử thuần thành cũng quỳ lạy hay sao?.

(*) Ghi Chú:

Vụ tu sĩ Phật Giáo Thích Quảng Đức tự thiêu vào ngày 11 tháng 6 năm 1963 tại ngả tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt vẫn còn nhiều nghi vấn. Chính cái vụ tự thiêu nầy, làm cho Phật Tử càng ghét chính phủ Ngô Đình Diệm thêm, nên 5 tháng sau thì trung tướng Dương Văn Minhhợp với tướng Phật giáo Đỗ Mậu, mới gom các tướng tá đón gió đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, giết tổng thống và bào đệ Ngô Đình Nhu.

Vụ Thích Quảng Đức tự thiêu được báo chí miền Nam ca tụng là "trái tim bất diệt" vì toàn thân xác thành tro, chỉ còn trái tim và được giới tu sĩ coi là đắc quả, ngày nay có một số ngôi chùa lấy pháp danh vị sư tự thiêu. Người Viết tình cờ được biết một số chi tiết trong vụ nầy, xin được nêu lên với tinh thần đóng góp, không có ý đã phá tôn giáo, nhằm tìm ra sự thật.

Số là năm 1977 bị giải từ trại tù Khám Lớn Bạc Liêu lên trại tù quân khu 9 là Chi Lăng, ở liên đội 3, thuộc Liên Trại 3, ở nhà số 4. Kế bên là nhà số 2, gồm một số sĩ quan cấp đại úy, trong đó có đại úy LÊ VĂN LÂM, là sĩ quan tuyên úy Phật Giáo sư đoàn Dù, nên chúng tôi gọi là "Thầy Chùa Lâm". Trong một lần hợp tổ, anh Lâm có nói về vụ Thích Quảng Đức tự thiêu, được một số anh em bên nhà 2 kể, sau đó tôi có hỏi khi anh Trịnh Tiến Bình (đại úy ở cùng nhà với anh Lâm), sau đó tôi có gặp thầy chùa Lâm, được xác nhận là sự thật, xin được nêu lên như sau:

Tụ thiêu là do bốc thăm, chớ không phải tình nguyện, người trúng thăm tự thiêu là thượng tọa Thích Nhật Thường (tục danh là Lê Văn Sua), là thân phụ của đại úy Lê Văn Lâm. Nhưng ông Lê Văn Sua nầy có vợ, cái đêm cuối cùng, nghe lời vợ, trốn khỏi chùa, sáng hôm sau, tới giờ "hành động", không tìm đâu ra người tự thiêu, nên Thích Quảng Đức là người hy sinh. Không rõ là do tình nguyện hay là trong ban tổ chức dùng thuốc mê cho uống và bắt ra đốt? Vì thời đó khối Phật Giáo Ấn Quang có Việt Cộng nằm bên trong, hù dọa cả thượng tọa Thích Tâm Châu bằng chén máu, con dao trên bàn làm việc, thì mới biết tình hình đàng sau chánh điện tệ hại như thế nào ... đó là câu nghi vấn cần được giải tỏa. Có thể Thích Quảng Đức bị chết oan do những người Cộng Sản gây ra trong chùa, nên sự oan ức nầy khiến trái tim không cháy? Xin được đưa ra cho rộng đường dư luận, vì nghe viết chỉ nghe từ một tu sĩ Phật Giáo.

Trương Minh Hòa

Friday, August 29, 2008

Lời tố cáo lịch sử 78 năm tồn tại của Đảng CSVN gian trá và lưu manh


Phạm Khánh Toàn


Đảng CSVN ngày nay vẫn mang bản chất bảo thủ và tư tưởng đạo đức của Đảng CSVN lưu manh thời Hồ Chí Mịnh còn sống vậy. Thành phần của Đảng CSVN chủ yếu vẫn là lưu manh giặc cỏ khi xưa thời tiền kỳ có Đảng. Nay tuy có thêm một số người có chút xíu lương tri làm người đứng trong đội ngũ Đảng CSVN lưu manh. Song số người này lại không nhiều có lập trường quan điểm tiến bộ. Họ không có bản lĩnh để chứng tỏ rõ thái độ và quan điểm của chính bản thân là không đồng tình với chủ trương đường lối chính sách: “Chủ nô độc tài phát xít” của Đảng CSVN lưu manh. Mà họ hết thảy cũng đành nhắm mắt làm ngơ để cho Đảng CSVN lưu manh duy trì bảo lưu chế độ “Chủ nô độc tài phát xít đó và quyết đi theo con đường chủ nô độc tài phát xít” của Đảng CSVN lưu manh mà thôi !!!

Bản chất thành phần của Đảng CSVN lưu manh là bầy lũ giặc cỏ, là lũ cùng đinh vô học nên đầu chúng ngắn tủn và chỉ nghĩ được mỗi một điều đơn giản là giành quyền lực với đủ mưu mô, thủ đoạn bằng mọi giá ngu hèn nhằm duy trì bảo lưu quyền lực làm chủ nô độc tài phát xít. Còn với đất nước, với dân tộc Đảng CSVN lưu manh lại ngu và đểu tận cùng của sự đểu cáng làm hại lớn cho đất nước VN, cho dân tộc VN chúng ta.

Đó là việc Đảng CSVN lưu manh đã ngu lâu ký ngay 2 hiệp ước Biên giới Việt Trung ngày 30/12/1999 để giao 1694 km vuông đất trên biên giới cho Trung Quốc và hiệp ước phân định vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000 giao 11000 km vuông lãnh hải cho cũng cho Trung Cộng. Đây là việc làm ngu hèn tột độ của Đảng CSVN lưu manh đã làm mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm.Vì sao là người thảo dân, dân đen tôi lại ngang ngược xỉ vả cả cái Đảng CSVN lưu manh đến thậm tệ như vậy, vì tôi là một dân thường, một phụ nữ lại tàn tật tay không dám ngang ngửa đấu đá với tất cả Đảng CSVN lưu manh cướp đất của má tôi đến thắng lợi huy hoàng. Cuối cùng Đảng CSVN lưu manh phải chịu thua cuộc không cướp được tấc đấc nào của má tôi.

Vậy mà Đảng CSVN lưu manh dương dương tự đắc với cả thế giới rằng: Hồ Chí Minh cùng Đảng CSVN lưu manh “tài giỏi” lắm đã lừa đảo cả một dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm mà Đảng CSVN lưu manh lại qua mắt dân VN để đi đêm “Tàu ô cộng sản” làm việc vụng trộm với chúng để giao 1694 km đất biên giới và 11000 km lãnh hải cho Tàu Cộng đại Hán. Việc này làm này là nỗi ô nhục muôn kiếp không rửa sạch cho đảng cướp CSVN !!!.

Bây giờ tôi xin kể tỉ mỉ chi tiết việc Đảng CSVN lưu manh cướp đất của má tôi không thành cho cả nhân loại trên thế gian này rõ ngọn nguồn câu chuyện nhé.

Đất của ba má tôi nằm trên địa phận Giáp Bát gần trục đường quốc lộ 1A. Vào năm 1986 nhà nước CSVN mở rộng đường quốc lộ này, nên 756 mét vuông đất của má tôi bị mất một phần cho việc mở rộng đường, phần còn lại trở thành mặt đường lại là trục đường chính quốc lộ 1 A đẹp đẽ đầy lợi nhuận. Bầy lũ Đảng CSVN lưu manh tham lam, tối mắt tối mũi đã dùng quyền lực của Đảng CSVN lưu manh cậy thế đàn áp gia đình má con tôi mưu toan cướp đất Giáp Bát. Ngày 19/6/1987 tên Nguyễn Trọng Thanh phó chủ tịch quận Hai Bà Trưng thay mặt Đảng CSVN lưu manh ký ngay một cái quyết định phá nhà của má tôi đang ở.

Mấy tháng sau khoảng sau ngày quốc khánh của CSVN, mùng 2/9/1987 và sau ba ngày Đảng CSVN lưu manh họp bàn mưu tính kế phá nhà cướp đất của má tôi xong, là Đảng CSVN lưu manh mang một lực lượng lớn khoảng sáu, bảy trăm tên công an mang sắc phục súng ống chỉnh tề và hàng trăm lũ chính quyền các cấp từ thành phố xuống phường, các ban bệ các ngành giao thông tư pháp vv…. dải dày đặc suốt từ Cống Trắng tới cổng làng Tám khoảng chừng 500m chiều dài trục đường Giáp Bát. Và còn rất nhiều xe ôtô các loại, như xe cứu thương xe cứu hỏa, xe cảnh sát, xe thùng bịt kín, xe ben, xe tải vv… được chúng điều đến nữa. Chỉ thiếu mỗi xe tăng thiết giáp là Đảng CSVN lưu manh không huy động đến phá nhà cướp đất của má con tôi thôi.

Đảng CSVN lưu manh huy động một lực lượng lớn đồ sộ hùng hậu để đàn áp dân lành trong tay không tấc sắt. Vậy mà trong khi đó gia đình má tôi chỉ vẻn vẹn chỉ có 5 người. Má tôi thì gần 70 tuổi, còn tôi thì bị tàn tật, cậu em trai sát tôi bị bại liệt cả hai chân không đi được, 2 cô em gái đang bước sang tuổi thanh niên. Đảng CSVN lưu manh chúng bắt đầu ngăn cản nội bất xuất, ngoại bất nhập để dân tình hàng xóm láng giềng làng nước không ai tới giúp má con tôi được. Tôi trực tiếp dùng dằng đấu lý về pháp luật với tên Thế Phong chủ tịch phường Giáp Bát nhằm kéo dài thời gian để kịp cho người có quyền lực và có lương tri tới kịp thời cứu giúp má con tôi khỏi bị phá nhà. Nhưng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh chúng cố tình phá nhà cướp đất của má con chúng tôi. Chúng không cho kéo dài thời gian thêm nữa và chúng tiến hành thu giữ tài sản đồ đạc gom vào UBND phường để chúng phá nhà má con tôi tan hoang bằng sức mạnh vũ lực rất thô bạo.

Trời sui sao khiến vậy, thương má con tôi cảnh mẹ già, con tàn tật nên bí thư thành ủy Nguyễn Thanh Bình điện ngay xuống quận Hai Bà Trưng xem xét việc Đảng CSVN lưu manh phá nhà cướp đất của má tôi ra sao để báo cáo lại cho thành ủy biết.

Ông Dương bí thư quận ủy cộng sản quận Hai Bà Trưng phải thân trinh xuống tận số nhà 87 phố Làng Tám ( ngày nay là số nhà 587 và 589 đường Giải Phóng, Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội ) để chứng kiến thực hư cảnh Đảng CSVN lưu manh huy động lực lượng lớn đến đàn áp ức hiếp 5 má con tôi đều cảnh đàn bà và có tôi là phụ nữ bị tật nguyền để phá nhà cướp đất lúc đó. Năm má con tôi bị quây lại giam ngồi trong sân nên không tận mắt thấy ông Dương bí thư quận ủy cộng sản Hai Bà Trưng xuống, mà chỉ đột nhiên thấy lũ hung hăng đang phá nhà dừng hết cả lại.

Còn tất cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh chạy toán loạn như vịt cả lượt, rồi bỗng vắng tanh không người. Lúc đó dân xóm giềng sang báo cho má con tôi biết ông Dương bí thư quận ủy Hai Bà Trưng xuống quan sát tình hình. Lúc đó nhà chúng tôi mới bị chúng phá tan được cả mái nhà, má con tôi chắc mẩm sẽ lợp lại mái để ở. Vậy mà khi ông Dương quay về quận, bầy lũ Đảng CSVN lưu manh lại tiếp tục quay lại phá nốt nhà của mà tôi tới chân móng rồi chúng mới chịu ra về, chiều hôm đó công an CS quận Hai Bà Trưng bắt anh trai tôi lên quận vô cớ vì anh tôi ở nơi khác mà không có mặt tại nhà má chúng tôi khi chúng cướp phá.

Là người dân lại là phụ nữ tàn tật tôi không đủ sức chống đỡ lại với lực lượng lớn hùng hậu đồ sộ của bầy lũ Đảng CSVN lưu manh ngay lúc đó chỉ còn biết chờ cho xong việc ngày hôm phá nhà đó là hôm sau tôi “nhẩy xếch” tố cáo lên trên Trung ương Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo đã dùng lực lượng lớn đồ sộ hùng hậu để đàn áp ức hiếp 5 người vừa già vừa tàn tật lại là phụ nữ để tịch thu tài sản phá nhà cướp đất, bắt người vô cớ gây ra cho dân cảnh “màn trời chiều đất” cho má con tôi.

May sao sự việc của má tôi xảy ra lại rơi vào đúng dịp bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư Đảng CSVN với khẩu lệnh “Những việc cần làm ngay", cô Ba Định, bác Nguyễn Hữu Thọ phó chủ tịch Hội đồng nhà nước (phó chủ tịch nước), bác Trần Kiên trưởng ban kiểm tra trung ương Đảng, bác Mười Hương trưởng ban nội chính trung ương, bác Trần Độ ra tay cứu giúp giải oan cho má con tôi.

Vì thế nên quận Hai Bà Trưng đã phải xin lỗi anh tôi bằng văn bản và ngày 23/9/1990 sẽ bắt chủ tịch thành phố Hà Nội thay mặt Đảng CSVN lưu manh phải ra quyết định số 3484 DS/UB công nhận quyền sống ở của má tôi ở số nhà 87 phố Tám là hợp pháp được tồn tại trên đất đó. Kể từ ngày 23/8/1990 Đảng CSVN lưu manh không dám đem lực lượng xuống đàn áp dân Giáp Bát để phá nhà cướp đất như những lần trước nữa, nhưng chúng quay vào đàn áp và ức hiếp bản thân tôi đủ mọi đường suốt từ năm 1990 cho đến tận ngày nay 2008 này hòng cướp đất Giáp Bát lần nữa.

Chúng ép buộc tôi phải bán hoặc đổi đất Giáp Bát của má tôi ở cho chúng thực hiện chính sách phá nhà của má tôi rồi Đảng CSVN lưu manh lớn tiếng rằng bà Cao Lệ Thu ( tức má tôi ) thua kiện phải phá nhà là lũ Đảng CSVN lưu manh sẽ cướp không đất của dân Giáp Bát - Cống Trắng đến cổng làng Tám rồi. Đảng CSVN lưu man cướp đất theo kiểu cuốn chiếu xuống tận đường khoảng chừng 1 km chiều dài trục đường 1A.

Thế nhưng tôi quyết không đổi, không bán đất của má tôi cho lũ Đảng CSVN lưu manh này. Thế là cả lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này đã và đang dùng mọi thủ đoạn dã man độc ác thậm tệ để đàn áp bản thân tôi mọi kiểu. Đảng CSVN lưu manh sai khiến bọn tay chân bên dưới cắt điện cúp nước của gia đình má tôi làm tất cả dân Giáp Bát cũng bị ảnh hưởng theo gia đình tôi. Đảng CSVN lưu manh lưu manh dùng trò ảo thuật làm cho vô tuyến nhà tôi bị nhiễu mất sóng. Thậm trí Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo sai khiến cả bọ lưu manh đầu gấu đời thường đâm vào xe tôi để tôi ngã lăn trên đường nhựa trước cổng trường Đại học Bách Khoa - Hà Nội ba vòng vv…. và nhiều vô kể các kiểu đàn áp ức hiếp dã man khác.

Vậy mà cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này vẫn không sao cướp nổi đất Giáp Bát với tôi. Nhưng cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo vẫn thường dương dương tự đắc là Đảng cầm quyền lãnh đạo cả một dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm mà Đảng CSVN lưu manh đầu óc như vịt lại ngu hèn đi đêm vụng trộm ký 2 hiệp ước biên giới Việt Trung và Vịnh Bắc bộ giao 1694 km vuông đất và 11000 km vuông lãnh hải cho Tàu Ô một cách mù quáng, nhục nhã.

Khi quân Tàu Cộng giết chết ngư dân Việt nam để cướp đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo sợ bọn Tàu Cộng dúm tứ túc không dám có phản ứng gì với Tàu để bảo vệ dân VN vì thế nên tôi mới ngang ngửa xỉ vả cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo là thế. Cả cái Đảng CSVN lưu manh há miệng mắc quai rồi nên tất cả chúng thấy hành vi tàn ác, vô nhân đạo của bọn Trung Cộng mà không dám, nói gì về việc tôi xỉ vả Đảng CSVN lưu manh. Đấy là nói về chuyện giang sơn đất nước mà cả cái Đảng CSVN lưu manh ngu hèn vô nhân đạo làm hại đất nước.

Nói về tên Nguyễn Trọng Thanh phó chủ tịch CS quận Hai Bà Trưng là thủ phạm đã ký để phá nhà tôi năm ấy ( nay khu vực nhà tôi ở được gọi là quận Hoàng Mai) thì nhà riêng của nó là một biệt thự đẹp, sang trọng thời Pháp số nhà 13 thuộc ở vị trí ngã tư phố Hai Bà Trưng và Nguyễn Khắc Cần, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau đó khoảng năm 2004 hắn bán đi một đợt nhà lần đầu là hơn 10 tỷ nằm trong khuôn viên biệt thự, năm 2006 hắn bán nốt căn liền kề với giá 17 tỷ đồng VN, tất cả có số tài sản trên dưới 30 tỷ đồng VN thời giá năm 2006 trở về trước là tương đương với trên 2 triệu đô la Mỹ. Vậy thử hỏi các triệu phú Mỹ, Pháp, Nhật … có giàu có bằng những thằng quan cộng sản của đảng cướp này không ? Bây giờ tôi được biết gia đình nó chuyển lên gần Tây Hồ sống trong một Vila nguy nga tráng lệ hơn cung điện vua chúa thời trước.

Còn bây giờ tôi lại nói tiếp về Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cùng Hồ Chí Minh cầm quyền lãnh đạo đưa dân tộc Việt Nam quay lại thời kỳ mọi rợ nguyên thủy và nghèo nàn lạc hậu nhất nhì trên thế giới từ năm 1946 tới nay nhé.

Đảng CSVN lưu manh đồng tình với Hồ Chí Minh đi sang Pháp nhằm giành quyền lực với vua Bảo Đại đầu năm 1946, từ đó chúng đã gây ra 2 cuộc chiến tranh với Pháp và Mỹ, thật không đáng có xảy ra làm cho dân VN máu chảy đầu rơi nhiều vô kể, máu chảy thành sông, xương chất thành núi. Lại còn cảnh Nam Bắc Việt Nam người cùng dân tộc tương tàn chém giết lẫn nhau để giành quyền lực cho ĐCSVN lưu manh mất hết cả đạo lý làm người, hủy hoại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam suốt một thời gian dài gần 30 năm.

Năm 1954 Hồ Chí Minh cùng đảng CSVN lưu manh vừa mới có quyền lực trong tay nhờ từ dân VN giúp cho, khi có được rồi vội quay lại cắn dân ngay trong đợt cải cách ruộng đất làm cho trên dưới 30 vạn người dân vô tội chết oan. Với 30 vạn người dân chết oan này cũng đã từng đóng góp cả sức người lẫn tiền của trong công cuộc giành quyền lực cho Hồ Chí Minh và Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo để chúng lên nắm quyền bính.

Hồ Chí Minh cùng Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cướp hết tất cả ruộng đất của nông dân và cướp hết tất cả tài sản, nhà cửa, nhà máy công xưởng nơi thành thị

Hồ Chí Minh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lừa hết tất cả dân VN từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng cho đến đồi núi phải làm công, làm nô lệ cho Hồ và cho Đảng CSVN lưu manh. Chúng không cho phát triển dân trí mà chúng đẻ ra chủ trương đường lối chính sách hà khắc, cay nghiệt dã man là “ngu dân để trị dân”.

Chẳng thế mà tất cả dân VN sống như mọi rợ nguyên thủy vậy, đến nỗi ăn không đủ no, gạo thì gạo hẩm, gạo mốc, mặc dù không đủ ẩm, nhà ở như hang hũ ổ chuột chẳng ra nhà, điện thắp sáng không có, nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày cũng không. Ngay TP - Hà Nội mang tiếng là thủ đô của đất nước mà chỉ có 36 phố phường là có điện của Pháp để lại cho dân dùng là có thôi còn xung quanh 36 phố phường tiến ra ngoại ô Hà Nội dân phải dùng đèn dầu thắp sáng, ăn uống nước giếng đất tự đào, rửa tay tắm giặt nước ao tù.

Năm 1986 bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư CSVN mới mở cửa để cởi trói cho dân chưa được bao lâu thì Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lo sợ không gĩư được độc quyền « chủ nô độc tài phát xít » cho Đảng CSVN lưu manh. Cho nên Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo dùng thủ đoạn đê hèn ám sát bác Nguyễn Văn Linh ở bên CHDC Đức suýt chết. Hết nhiệm kỳ bác Nguyễn Văn Linh từ chức, tất cả các bác Nguyễn Hữu Thọ, Trần Kiên, Mười Hương cô Bá Định cũng từ chức. Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lại đưa những tay đầu ngu như vịt dốt nát ngu xuẩn, nhưng có nhiều mưu mô thủ đoạn làm tổng bí thư Đảng CSVN lưu manh cầm quyền lãnh đạo trị vì dân, như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh .... lên nắm quyền cai trị dân.

Nói về Đỗ Mười là một tay nông dân vô học không có bất cứ một cái tài nào lên làm tổng bí thư CSVN. Đỗ Mười chỉ chăm chú tâm vào những việc cho bản thân y và con cái gia đình ăn cắp tiền tỉ làm giàu cho bản thân chứ không có tài để đưa đất nước phát triển lớn mạnh. Thậm trí Đỗ Mười còn là « học trò xuất sắc » của Hồ Chí Minh cũng đàn áp cướp bóc của dân không kém gì Hồ. Tên này biết quay quắt lừa đảo với cả thế giới để thế giới mất lòng tin vào đường lối mở cửa của Đảng CSVN lưu manh nên bị các nước họ mới cảnh cáo cho.

Công trình Cửa hàng bách hóa tổng hợp Hà Nội bị bỏ hoang gần chục năm ngay giữa lòng trung tâm thủ đô, cái nhà to lớn nguy nga đẹp là thế của Pháp xây dựng để lại cho dân VN dùng thành đống đất hoang sơ gần cả chục năm trời. Chẳng là thế này : Đảng CSVN lưu manh quen với lối sống quay quắt lừa đảo với dân VN thế là cũng lừa đảo với cả các đầu tư nước ngoài. Nhiều nước đầu tư xong mà đất nước không phát triển tiền chảy vào túi cá nhân của bầy lũ Đảng CSVN lưu manh. Nên thấy vậy nước ngoài họ ký hợp đồng với chính phủ Việt Nam xây dựng Bách hóa tổng hợp thành trung tâm siêu thị cao tầng lớn nhất Hà Nội.

Họ chờ cho chính phủ CSVN phá xong tòa nhà cao tầng lớn nhất Hà Nội thành đống đất hoang sơ họ phá hợp đồng không xây dựng trung tâm siêu thị cho VN. Vậy rồi chính phủ VN phải tự xây dựng lấy thành cái nhà 3 tầng thấp lè tè như lô cốt ngay giữa trung tâm thủ đô Hà Nội. Đỗ Mười ngu dốt nên phá là chính, chỉ phá không xây, phá mọi mặt, đất nước lại xộc xệch tồi tệ đi xuống, phẩm chất đạo đức của bọn công quyền triều đại Hồ + đảng CSVN lưu manh tụt dốc thảm hại. Các quan đua nhau ăn cắp, quan lớn ăn cắp lớn, quan nhỏ ăn cắp bé. Đám quan lại CSVN từ Trung ương đến địa phương bảo nhau đua tranh ăn cắp và đàn áp ra sức bóc lột nhân dân.

Về Lê Khả Phiêu gốc vốn cũng là một thằng nông dân Thanh Hóa tham gia kháng chiến giành quyền lực cho Hồ mà lên làm tổng bí thư CSVN. Khả Phiêu u mê nghe theo Đảng CSVN lưu manh chỉ đạo rắp tâm triệt hại những nhà kinh doanh giỏi giàu có ở miền Nam, chẳng thế mà khi Lê Khả Phiêu vừa mới lên ghế tổng bí thư đã chỉ đạo ngay cho ngành tòa án buộc án gán tội cho các vụ Tân Trường Sanh và vụ Ép Cô Minh Phụng để tử hình họ và cướp tiền bạc, tài sản của họ nữa.

Thật là một chế độ chính sách dã man độc ác thậm tệ của Đảng CSVN lưu manh đối với dân VN. Đảng CSVN lưu manh đã và đang thực hiện đúng di chúc của Hồ Chí Minh là “ngu dân để trị dân” không cho dân tài giỏi phát triển giàu có. Chúng cố thủ đưa dân quay về thời kỳ đói nghèo lạc hậu để duy trì bảo lưu chế độ “chủ nô độc tài phát xít của Hồ Chí Minh với Đảng CSVN lưu manh”.

Với Trung Quốc thì Đảng CSVN lưu manh thật ngu hèn để mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm. Đảng CSVN lưu manh đã để cho Lê Khả Phiêu thay Đảng CSVN lưu manh ký ngay hiệp ước biên giới Việt Trung ngày 30/12/1999 giao cho 1694 km vuông đất biên giới cho Trung Quốc và Hiệp ước Vịnh Bắc bộ ngày 25/12/2000 giao 11000 km vuông lãnh hải cho Trung Quốc để đất nước VN mất dần diện tích đất và biển cho Trung Quốc một cách ngu hèn tột độ. Cả thế giới phải phẫn nộ và phỉ báng với thái độ, việc làm ngu xuẩn hèn hạ của Đảng CSVN lưu manh. Nước Mỹ phải treo cờ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để phỉ báng Đảng CSVN vừa lưu manh lại ngu hèn.

Còn về Nông Đức Mạnh con rơi của Hồ Chí Minh mang đặc gien Hồ lên làm tổng bí thư CS cầm quyền lãnh đạo cũng chẳng có điểm gì thông minh xuất chúng để đưa đất nước tiến lên được. Ngược lại Mạnh có chút ít văn hóa hơn Hồ là bố Mạnh nên có phần Mạnh còn lưu manh hơn Hồ, lừa đảo nhân loại siêu nghệ hơn bố của Mạnh. Đó là khi Mạnh đắc cử vào ghế tổng bí thư CSVN lần thứ hai Mạnh thay đổi ngay bộ máy Trung ương, Mạnh đưa những người có chút ít trong sạch lên thay những phần tử có vết nhơ bị dân phát hiện như Nguyễn Minh Triết thay Trần Đức Lương, Nguyễn Phú Trọng thay Nguyễn Văn An, Nguyễn Tấn Dũng thay Phan Văn Khải vv...

Mạnh làm việc này là để phô trương với nhân loại, rằng bộ máy lãnh đạo của Trung ương cộng sản Việt Nam đã thực sự là người trong sạch. Nhưng thực tế Mạnh đưa họ lên chỉ làm bù nhìn coi dưa vậy thôi, còn Mạnh lấy quyền lực Đảng cầm quyền. Mạnh khống chế hết thảy mọi người phải tuân thủ theo quỹ đạo của Đảng CSVN lưu manh sai khiến. Quỹ đạo của Đảng CSVN lưu manh vẫn là phương thức không phát triển dân trí “ngu dân để trị dân” cốt để duy trì bảo lưu chế độ “Chủ nô độc tài phát xít” của Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này. Chẳng thế mà Mạnh lớn tiếng hô hào toàn Đảng toàn dân sống và làm việc theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của bố hắn.

Về tư tưởng Hồ Chí Minh là một tư tưởng bệnh hoạn của một kẻ nghèo kiết xác cùng đinh muốn nổi loạn dành quyền lực đổi đời cho bản thân và có quyền lực bắt tất cả hết thảy mọi người dân sống nghèo khổ cùng cực như Hồ khi xưa cho bõ tức cảnh nghèo khổ của bản thân Hồ mà thôi, còn y thì không cần nghĩ đến đất nước ra sao với cảnh VN nghèo nàn lạc hậu nhất thê giới !!!

Bản chất đạo đức Hồ thật đồi bại dã man hơn ác thú. Hồ Chí Minh làm tình với Nông Thị Xuân có con với Nông Thị Xuân vậy rồi Hồ cũng còn dã tâm giết chết Nông Thị Xuân và Nông Thị Vàng là chị gái Nông Thị Xuân để bịt đầu mối. Còn đứa con của Hồ với Nông Thị Xuân là Nguyễn Tiến Trung, thì Hồ bỏ rơi bỏ vãi cho Vũ Kỳ người hầu cận của Hồ nuôi. Với dân cả nước Hồ lừa đảo lợi dụng để dựa nhờ vào sức mạnh cuả toàn dân mà dành quyền lực cho bản thân khi có quyền lực Hồ quay cổ lại cắn dân luôn để trả ơn dân giúp Hồ dành quyền lực với vua Bảo đại vậy đó.

Hồ còn đẻ ra cái chủ trương chính sách không phát triển dân trí mà Hồ “ngu dân để trị dân ” để giữ vững ngai vàng làm “chủ nô độc tài phát xít ”. Vậy tất cả nhân loại trên thế gian xem đạo đức của Hồ có được bằng cầm thú không ? Vậy mà Nông Đức Mạnh cậy quyền lực Đảng CSVN lưu manh hô hào và bắt ép dân chúng cả nước phải sống và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vậy đó ?!

Chúng ta hãy nhìn vào thực tế đất nước xã hội và cuộc sống của người dân VN trong suốt thời gian Mạnh làm tổng bí thư để đánh giá tài năng của Mạnh cầm quyền lãnh đạo ra sao nhé.

Suốt 2 nhiệm kỳ Mạnh làm tổng bí thư CSVN dân không hề thấy Mạnh có hướng đưa dân VN tự phát triển ngành nghề sản xuất công nghệ thông tin điện tử, máy móc kỹ thuật hiện đại, máy bay... để tăng lợi nhuận có giá trị thặng dư cao cho đất nước để giảm thiểu nhập khẩu những mặt hàng cao cấp này. Đây là một sự phát triển nội lực lớn mạnh cho VN như các nước phát triển tiên tiến trên thế giới, thế mà Mạnh lại cam tâm cúi đầu đưa dân VN đi lao động xuất khẩu ở các nước phát triển và mở cửa cho các nước vào VN đầu tư để dân là người làm công cho các đầu tư nước ngoài chỉ cốt để giảm đói nghèo trước mắt cho dân và thông qua dân lao động trong nước và dân lao động xuất khẩu bầy lũ Đảng CSVN lưu manh được hưởng nhiều lợi lộc về kinh tế mà thôi, khác nào mạnh bất tài chỉ vì miếng cơm manh áo đơn giản hàng ngày.

Mạnh cam tâm cúi đầu cùng dân VN làm nô lệ cho các nước phát triển trên thế giới. Thế mà Mạnh cùng bầy lũ CSVN lưu manh vênh váo gọi là phát triển đất nước VN lớn mạnh và Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước như thế này ư ?

Khi các nước vào đầu tư VN thì cả họ cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh gây phiền phức nhiễu loạn nhiều mặt đời sống của dân VN, chẳng hạn như vụ thôn My Điền, xã Hoàng Mai, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang mới đây chẳng hạn.

Đảng CSVN lưu manh cắm đất cầy cấy của nông dân My Điền tỉnh Bắc Giang bán cho Tàu ô xây sân gôn. Đảng CSVN lưu manh thí cho người nông dân một cái giá bèo bọt 50 nghìn đồng một m2 ruộng, rồi thả nổi khi nông dân không còn ruộng đất cầy cấy. Nông dân My Điền không thể đáp ứng lòng tham vô nhân đạo của Đảng CSVN lưu manh được. Vậy là Đảng CSVN lưu manh thôn My Điền huy động một lực lượng lớn quân đội và công an đến đàn áp ức hiếp hàng trăm người nông dân thôn My Điền để cướp đất ruộng của người dân làm 60 người nông dân My Điền bị thương trong trận đàn áp cướp đất ruộng đó của Đảng CSVN phải vào bệnh viện và sau đó tất cả bị bắt vào trại giam Kế tỉnh Bắc Giang.

Nông Đức Mạnh thường xách cặp đi các nước, Mạnh tận mắt chứng kiến thấy dân các nước họ sống phong lưu khá giả, trình độ dân trí cao vậy sao Mạnh không thấy tự thẹn với lương tâm rằng : Hồ Chí Minh, cả Mạnh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cũng đội lốt người làm lãnh đạo mà để dân VN từ mọi rợ nguyên thủy rồi tiến tới nghèo nàn lạc hậu nhất thế giới vậy sao ?

Vậy mà Mạnh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh cẫn vô liêm sỉ cố thủ duy trì bảo lưu chủ trương chính sách chế độ làm “chủ nô độc tài phát xít” của Hồ của Đảng CSVN lưu manh như thế.

Mạnh vô liêm sỉ cầm quyền lãnh đạo để dân nghèo đất nước nghèo rồi Mạnh ngửa tay nhận sự viện trợ của các nước trên thế giới khác nào Mạnh nhân danh một tổng bí thư Đảng CSVN lưu manh lại là kẻ ăn mày ăn xin ngửa tay nhận sự bố thí của các nước trên thế giới mà Mạnh không thấy nhục sao ? Mạnh không hề có một tý tính tự tôn dân tộc nào sao ?

Đất nước VN không có những mặt hàng công nghệ cao, điện tử, điện máy, máy móc kỹ thuật hiện đại, máy bay ... để xuất khẩu tăng nhanh giá trị thặng dư cao cho đất nước mà chỉ xuất khẩu dạng cò con những mặt hàng thủ công như dệt may, mây tre đan, hạt thóc, hạt gạo, hạt điều , cà phê, con tôm, con cá ... không có giá trị thặng dư lớn thì bao giờ đất nước mới giàu có được. Ngược lại VN phải nhập khẩu rất nhiều máy móc tối tân cho công nghiệp y tế, cho công nghiệp, nông nghiệp, máy bay vv... với giá thành rất lớn thì thử hỏi số tiền thu được từ xuất khẩu của VN có đủ để nhập khẩu hay không ?

Nói chung suốt 78 năm có Đảng CSVN lưu manh là 78 năm dân VN bị Đảng CSVN lưu manh lừa đảo, lợi dụng, đàn áp ức hiếp bóc lột thậm tệ đến tận xương tủy. Với 78 năm tất cả dân VN một nắng hai sương phải nai lưng è cổ ra nuôi cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh ăn không ngồi dồi vô tích sự lại còn làm hại lớn cho đất nước, cho dân rồi quay cổ lại cắn dân liên tục suốt 78 năm trời.

78 năm Đảng CSVN lưu manh đưa dân tộc Việt Nam hết quay về với mọi rợ nguyên thủy lại quay về cảnh đói nghèo lạc hậu trên thế giới mức sống của dân rất thấp, nhiều hộ gia đình chỉ vay ngân hàng có hai hoặc ba triệu đồng thôi mà gần trục năm trời quần quật vật lộn với cuộc sống không kiếm đủ 2 hoặc 3 triệu để trả nợ ngân hàng vậy đó. Nông thôn VN vẫn nhiều nơi tiêu điều nghèo nàn 78 năm Đảng CSVN lưu manh làm hỏng con người VN bất cứ ai lên làm tổng bí thư CS VN cũng đều hư hỏng xấu xa cả từ Trường Chinh, Lê Duẩn, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh... Nhiều người trong hệ thống Đảng CSVN lưu manh của nhà nứơc VN đều hư hỏng cả. Chỉ trái có mỗi bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư là tạm giữ vững được phẩm chất đạo đức thì Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lại ám sát giết hại bác suýt chết. Còn bác Ngyễn Hữu Thọ, Cô Ba Định, bác Mười Hương, bác Trần Kiên, bác Trần Độ cũng có đạo đức phẩm chất như bác Nguyễn Văn Linh thì Đảng CSVN lưu manh ép các bác các cô phải từ chức để cho bầy lũ mang bản chất lưu manh giặc cỏ nắm quyền trị vì dân chúng.

78 năm Đảng CSVN làm hỏng đất nước VN, đất nước Việt Nam bị mất dần diện tích đất và biển cho Tàu chỉ vì sự ngu hèn cả bầy lũ Đảng CSVN lưuu manh vô nhân đạo vậy đó. Đảng CSVN lưu manh làm mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống ngoại xâm.

78 năm Đảng CSVN lưu manh làm hỏng xã hội Việt Nam. Vì Đảng CSVN luôn quay quắt tráo trở, o ép dân mọi mặt trong cuộc sống đời thường để dân đói nghèo khổ sở, để dân thấp về mặt dân trí sinh ra nhiều tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật sinh ra nghiện hút, siđa vv.....

78 năm Đảng CSVN Việt Nam lưu manh xây dựng và phát triển đất nước chẳng ra làm sao cả, đơn cử như Hà Nội thủ đô của cả nước mà tổng thể kiến trúc xây dựng Hà Nội không ra một hàng lối gì, nhà cao tầng, nhà thấp tầng đan xen lộn xộn, những khu định cư mơí mở đường xá vẫn theo lối mòn hẹp tỉ ti. Giao thông tuy có mở rộng hơn nhưng mới chỉ mở một vài trục đường lẻ tẻ chứ không phải mở rộng hết cả hệ thống giao thông trong nước. Mức mở rộng đường giao thông không có tầm nhìn lớn sau này nên tuy đường mở rộng và mức sống của dân VN vẫn mới chỉ là xe máy làm phương tiện mà thôi cũng vẫn ùn tắc đường liên tục rồi. Hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng của nông thôn còn tồi tệ hơn nhiều. Cấp thoát nước ở nhiều đô thị và thành phố lớn rất dở cứ mưa là ngập lụt tràn lan nhiều nơi.

Đảng CSVN lưu manh lãnh đạo và chỉ đạo các cấp các nghành không ra làm sao cả rất lủng củng lộn xộn đến mức độ các cấp địa phương lợi dụng sự bất tài của trung ương càng gia tăng dàn áp ức hiếp dân để bóc lột cướp đoạt của dân nhiều hơn.

78 năm Đảng CSVN lưu manh không có khả năng, không có tài năng và cũng không đủ đức độ để hướng cho học sinh, sinh viên VN học với tư duy biết sáng tạo biết tổng hợp kiến thức, biết thông thạo nhiều ngoại ngữ, biết luân thường đạo lý như ngành giáo dục của các nước phát triển trên thế giới mà chỉ nhồi sọ cho học sinh, sinh viên là phải yêu Đảng CSVN lưu manh mà thôi.

Xét về mặt phẩm chất đạo đức, tài năng trí tuệ của cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh là bầy lũ giặc cỏ cùng đinh vô học lại lưu manh lừa đảo bất tài thất đức theo kiểu cha truyền con nối mà lên cầm quyền trị vì dân chúng. Cho nên vẫn ở trạng thái Đảng CSVN lưu manh ngày nay không có đủ phẩm chất đạo đức, không có tài năng trí tuệ để phát triển đất nước mà vẫn cứ duy trì dân tộc VN muôn thuở không thể tiến lên được. Nếu cứ như đường lối hiện nay thì đất nước VN không thể phát triển tốt đẹp phồn vinh thịnh vượng được mà còn có nguy cơ bị bon Tàu ô xâm chiếm đô hộ VN lần nữa.

Vì đất nước phồn vinh thịnh vượng, vì lẽ sống thiêng liêng của cả dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm, nên cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo hãy tự động sống làm người có chút ít liêm sỉ để tự xóa bỏ ngay cái Đảng CSVN lưu manh này đi để khỏi hại nước chẳng có ngày nhân dân sẽ đào mồ quốc mả chôn sống cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo. Và nhất định lịch sử VN sẽ phỉ báng Đảng CSVN lưu manh đến muôn thuở mai sau đó.

Phạm Khánh Toàn

Thursday, August 28, 2008

Tuyên Cáo của Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, về Nhân quyền cho Người sống, Linh quyền cho Người chết và Dân chủ cho Xã hội Việt Nam



BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: Paris (331) 45 98 30 85

Fax: Paris (331) 45 98 32 61
E-mail: http://www.blogger.com/ubcv.ibib@buddhist.com
Web: http://www.queme.net/






THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 27.08.2008

Tuyên Cáo của Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, về Nhân quyền cho Người sống,
Linh quyền cho Người chết và Dân chủ cho Xã hội Việt Nam

PARIS, ngày 27.8.2008 (PTTPGQT) - Từ khi Chúc Thư của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ủy thác Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ vào ngôi vị lãnh đạo tối cao Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), các cơ quan truyền thông, báo đài trong thế giới cũng như chính giới quốc tế trông chờ lập trường mới của GHPGVNTN dưới sự lãnh đạo của người kế tục Đức cố Đệ tứ Tăng thống.

Trong dịp Chung thất Đức cố Tăng thống vừa qua, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế cho phát hành sách Kỷ yếu Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang dày trên 200 trang. Qua tập Kỷ yếu này, lập trường và đường lối đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền của Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thông qua các Thông điệp, Giáo chỉ, Bản tự thuật về 3 cuộc Pháp nạn của Phật giáo từ năm 1945 đến nay minh xác con đường của Phật giáo Việt Nam rõ hơn bao giờ. Nhất là các thủ bút thư viết tay của Ngài gửi cho Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quang, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, v.v... cho thấy mối ưu tư thâm thiết của Ngài đối với tiền đồ Phật giáo và quê hương Việt Nam.

Hôm nay, với « Tuyên cáo về Nhân quyền cho Người sống, Linh quyền cho Người chết và Dân chủ cho Xã hội Việt Nam », mà Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ nhân danh Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo ban hành, là tập đại thành của một đường lối và lập trường bất biến của GHPGVNTN suốt 33 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang và nay dưới sự lãnh đạo của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Người chết hay người sống đều bình đẳng trong mối ưu tư và bảo vệ của GHPGVNTN. Còn thêm mối ưu tư mất nước mà hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vết thương tấy máu trong tâm hồn người Việt hôm nay. Vì vậy mà Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ cất lời kêu gọi :

« Toàn dân trong và ngoài nước mau chóng kết hợp thành một khối để bảo vệ non sông và nòi giống. Với trách nhiệm công dân, và trong cương vị một tôn giáo từng đóng góp vào công trình lập quốc suốt hai nghìn năm qua, GHPGVNTN sẵn sàng tham gia hậu thuẫn mọi công trình bảo vệ chủ quyền dân tộc ». (...) « Kêu gọi đồng bào các giới và đồng bảo Phật tử đem hết tâm lực tranh thủ Quyền Người, tuyên dương Quyền Sống và thiết lập Quyền Dân, làm nền tảng kết liên dân tộc hầu chen vai thích cánh cùng các quốc gia trên địa cầu bảo vệ an ninh và hòa bình cho nhân loại ».

Hòa thượng cũng kêu gọi Đảng Cộng sản và CHXHCNVN thực hiện 4 điều, mà trọng thiết nhất vẫn là :

« Triệu tập Hội nghị toàn dân bao gồm các cộng đồng tôn giáo và các đảng phái dân tộc ra đời từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, khai mở cuộc hóa giải các tranh chấp, hận thù nẩy sinh từ những ý thức hệ ngoại lai gây nên tấn thảm kịch bản địa suốt sáu mươi năm chưa dứt, hầu đặt cơ sở cho việc trao quyền lãnh đạo cho toàn dân trong một thể chế dân chủ tam quyền phân lập và đa đảng. Bởi vì ba triệu đảng viên Cộng sản và nửa triệu bộ đội hiện tại chưa đủ thế và lực bảo vệ tổ quốc trên mặt quốc phòng, chưa đủ uy và dũng mở rộng mặt trận chính trị và ngoại giao quốc tế, nên phải cần tới sự tham gia toàn diện, đồng đẳng và bình đẳng, của 85 triệu dân cùng khối lượng ba triệu Người Việt hải ngoại. Vì không có sức mạnh nào bằng sức mạnh của toàn dân, lịch sử đã chứng minh điều đó.

« Nếu không dựa vào sức mạnh toàn dân làm nòng cốt để giữ nước mà cứ nay chạy theo nước này mai chạy theo nước khác cầu viện để bảo vệ quyền bính riêng tư của một nhóm người, thì hậu quả sẽ là mất nước và biến mình thành công cụ tay sai cho ngoại nhân mà thôi ».

Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải nguyên văn Tuyên Cáo sau đây :

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG
Thanh Minh Thiền viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15,
Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh
Phật lịch 2552 Số 01/VTT/XLTV

TUYÊN CÁO
CỦA HỘI ĐỒNG LƯỠNG VIỆN
về Nhân quyền cho người sống, Linh quyền cho người chết
và Dân chủ cho xã hội

Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang vừa ra đi về cõi Phật, nhưng hành trạng một đời Ngài, những văn kiện Ngài để lại thông qua các Thư yêu sách gửi Nhà nước Cộng sản, các Giáo chỉ, Thông bạch, Thông điệp chỉ đạo hướng đi cùng lập trường cố hữu của Giáo hội dân lập và lịch sử, là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), vẫn còn văng vẳng bên tai như nhắc nhủ, như sách tấn chư Tăng, Ni, Phật tử trong và ngoài nước hãy đứng dậy và bước đi làm tỏa chiếu nền Văn minh Vô úy và Trí tuệ Bát Nhã, hoàn thành sứ mệnh Hộ Dân, Hộ Pháp và Hộ Quốc mà lịch sử hai nghìn năm Phật giáo từng ghi dấu vẻ vang qua các thời đại huy hoàng của dân tộc.

Sự nhớ tưởng và đền ơn tri ngộ Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang không gì hơn là thực thi nguyện ước và ý chí Ngài, như chúng ta đã đồng tâm phát nguyện tại lễ cung nghinh Kim quan nhập Bảo tháp ở Tu viện Nguyện Thiều ngày mùng 9 tháng 6 năm Mậu Tý : « Tiếp tục đi theo con đường Ngài đã vạch, mặc dù còn rất nhiều chông gai chờ đón phía trước. Chúng ta quyết tâm điều hành Phật sự Giáo hội theo phương hướng của Hội đồng Lưỡng Viện đã hoạch định cho đến khi GHPGVNTN được tự do hoạt động thực sự như thời kỳ trước năm 1975, để hoàn thành chí nguyện của Ngài », và mới đây lại nhất tâm đồng thanh tương ứng tại lễ Chung thất, rằng chúng ta : « Nguyện đem hết sức mình trong cuộc vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN để giữ gìn bảo vệ Giáo hội truyền thống đã do lịch đại tổ sư, chư Thánh tử đạo và toàn thể Phật tử xây dựng nên. Nguyện thực hiện lời Ngài căn dặn để đem lại nhân quyền cho người sống, linh quyền cho người chết, dân chủ cho xã hội, làm nền tảng cho sự phát triển con người và đất nước, cũng như hợp quần với mọi nhân sĩ, trí thức, đoàn thể, tổ chức nhằm hậu thuẫn những công trình bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ, lẽ phải và tự do, hạnh phúc và giác ngộ cho mọi người ».

Các cuộc cách mạng lớn trong thế giới phương Tây là bài học cho thấy cải cách chính trị là nền móng cho việc phát huy con người và phát triển xã hội. Cách đây trên hai thế kỷ, vào lúc ba quốc gia Anh, Hoa Kỳ và Pháp chìm đắm trong một xã hội bất bình đẳng và suy thoái giữa một nền kinh tế nghèo thiếu, lạc hậu, thì cuộc Cách mạng Vinh quang tại Anh quốc năm 1688, cuộc Cách mạng Hoa Kỳ năm 1776 và cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 đặt nền tảng trên sự thay đổi toàn triệt nền chính trị phá sản. Chứ không là đổi mới kinh tế. Nhờ vậy, ba quốc gia này phát triển thành cường quốc tiên tiến trên địa cầu.

Vì vậy mà trước sau như một, GHPGVNTN thực hành bồ tát đạo nhằm đem lại nhân quyền cho người sống, linh quyền cho người chết, dân chủ cho xã hội, làm nền tảng cho sự phát triển con người và đất nước. Thiếu nhân quyền và dân chủ, bất bình đẳng xã hội sẽ là thảm nạn khiến toàn dân, các thành phần xã hội và tôn giáo bó tay không thể tham gia kiến quốc, nhân tài không thể tự tiến cử, thần trí dân tộc không thể phát huy.

Cho nên GHPGVNTN kêu gọi đồng bào các giới và đồng bảo Phật tử đem hết tâm lực tranh thủ Quyền Người, tuyên dương Quyền Sống và thiết lập Quyền Dân, làm nền tảng kết liên dân tộc hầu chen vai thích cánh cùng các quốc gia trên địa cầu bảo vệ an ninh và hòa bình cho nhân loại.

Ngày nay, tổ quốc đang lâm nguy vì nạn xâm lấn đất và biển của ngoại bang, mà hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa là nỗi đau nhức nhối. Trong khi ấy chính quyền tại vị nhu nhược nếu không nói đồng lõa. Nên GHPGVNTN kêu gọi toàn dân trong và ngoài nước mau chóng kết hợp thành một khối để bảo vệ non sông và nòi giống. Với trách nhiệm công dân, và trong cương vị một tôn giáo từng đóng góp vào công trình lập quốc suốt hai nghìn năm qua, GHPGVNTN sẵn sàng tham gia hậu thuẫn mọi công trình bảo vệ chủ quyền dân tộc.

Cuộc đổi mới kinh tế của nhà cầm quyền Cộng sản 22 năm qua chỉ đem lại sự giàu có phiến diện cho các cán bộ Cộng sản cao và trung cấp, và một thành phần thiểu số thị dân. Nhưng 80% dân số nông dân và thợ thuyền vẫn sống trong cảnh nghèo thiếu, bị áp bức và bóc lột. Bản án chế độ thực dân, còn gọi là Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam, do giới sĩ phu yêu nước sống lưu vong tại Paris, là các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Ái Quốc... mang đến trao cho Hội nghị Quốc tế Versailles ngày 18.6.1919, thì nay chỉ cần thay chế độ Pháp thuộc thành chế độ XHCNVN, nguyên trạng xã hội và sự bóc lột người dân trong bản án, cơ bản vẫn chưa có gì thay đổi dù 89 năm đã trôi qua.

Đổi mới kinh tế suốt 22 năm ròng chỉ mang lại và phát huy một nền Văn hóa sợ hãi và bạo động, nhưng chẳng thành công san phẳng hố giàu nghèo. Trái lại, chênh lệch giàu nghèo ngày càng đào sâu thăm thẳm. Không chênh lệch giữa quốc dân, mà chênh lệch giữa giới quan lại và quần chúng, gây ra cảnh « nước giàu dân nghèo » mâu thuẫn với các khẩu hiệu Nhà nước đề cao.

Ấy cũng vì bài học của ba cuộc cách mạng chính trị tại Âu Mỹ cách nay hơn hai thế kỷ không được Đảng và Nhà nước cộng sản học tập, rút kinh nghiệm.

Do đó, GHPGVNTN kêu gọi Đảng Cộng sản và Nhà nước CHXHCNVN:

1. Thay đổi chính sách thù nghịch tôn giáo đối với các tôn giáo tại Việt Nam, thể hiện bằng sự công nhận sinh hoạt độc lập và phi chính trị của các tôn giáo, phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và các tôn giáo chưa được thừa nhận. Có như vậy, các tôn giáo với khối luợng quần chúng đông đảo mới có thể tham gia băng bó vết thương xã hội, tái hồi truyền thống đạo nghĩa Việt Nam, làm đà tiến thủ quốc gia, mang lại ấm no, hạnh phúc và an lạc cho quốc dân ;

2. Áp dụng triệt để Công ước quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam tham gia ký kết tại LHQ năm 1982, và tiêu chuẩn hóa pháp luật Việt Nam theo các Công ước quốc tế về nhân quyền, tự do, dân chủ của LHQ ;

3. Loại bỏ điều 4 trên Hiến pháp tạo điều kiện cho sự tham gia cứu quốc và kiến quốc của toàn dân, của mọi thành phần dân tộc, mọi gia đình tôn giáo và chính trị;

4. Triệu tập Hội nghị toàn dân bao gồm các cộng đồng tôn giáo và các đảng phái dân tộc ra đời từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, khai mở cuộc hóa giải các tranh chấp, hận thù nẩy sinh từ những ý thức hệ ngoại lai gây nên tấn thảm kịch bản địa suốt sáu mươi năm chưa dứt, hầu đặt cơ sở cho việc trao quyền lãnh đạo cho toàn dân trong một thể chế dân chủ tam quyền phân lập và đa đảng. Bởi vì ba triệu đảng viên Cộng sản và nửa triệu bộ đội hiện tại chưa đủ thế và lực bảo vệ tổ quốc trên mặt quốc phòng, chưa đủ uy và dũng mở rộng mặt trận chính trị và ngoại giao quốc tế, nên phải cần tới sự tham gia toàn diện, đồng đẳng và bình đẳng, của 85 triệu dân cùng khối lượng ba triệu Người Việt hải ngoại. Vì không có sức mạnh nào bằng sức mạnh của toàn dân, lịch sử đã chứng minh điều đó.

Nếu không dựa vào sức mạnh toàn dân làm nòng cốt để giữ nước mà cứ nay chạy theo nước này mai chạy theo nước khác cầu viện để bảo vệ quyền bính riêng tư của một nhóm người, thì hậu quả sẽ là mất nước và biến mình thành công cụ tay sai cho ngoại nhân mà thôi.

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, tôi ngỏ lời cám ơn nhân dân yêu chuộng tự do, dân chủ và công lý trên thế giới, các Quốc hội Hoa Kỳ, Quốc hội Châu Âu, các chính phủ Âu Mỹ, các tổ chức nhân quyền quốc tế, các cơ quan truyền thông, báo đài, đã không ngừng lên tiếng bênh vực cho GHPGVNTN và nhân quyền, dân chủ tại Việt Nam.

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, tôi ngỏ lời cám ơn các Cộng đồng Người Việt tại Úc châu, Hoa Kỳ, Canada và Châu Âu đã mạnh dạn lên tiếng hậu thuẫn GHPGVNTN kể từ Giáo chỉ số 9 của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành, nhằm kiện toàn Giáo hội trong lập trường đạo lý và dân tộc bất biến, mà các phản ứng hốt hoảng, hung bạo của đối phương càng làm cho chính nghĩa của GHPGVNTN nổi bật. Sự hậu thuẫn của Cộng đồng Người Việt trên năm châu vô hình trung đang làm bước ngoặt mới trong sự kết liên dân tộc mà Giáo hội và nhân dân trong nước mong đợi.

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, tôi ngỏ lời tán thán chư Tôn đức Tăng, Ni, Phật tử trong và ngoài nước đã khâm tuân Giáo chỉ số 9 của Đức cố Đệ tứ Tăng thống để gìn giữ, bảo toàn và phát huy Giáo hội mở ra tiền đồ Phật giáo đặc thù Việt Nam.

Trong tư thế bát phong xuy bất động (1), chư liệt vị là chứng nhân cho nền Văn minh Vô úy và Trí tuệ Bát nhã, làm rạng ngời chính nghĩa giác ngộ và khiến cho những kẻ phi nghĩa không còn chốn dung thân, tác hại.

Con đường Phật không mở trên mây xanh mà trải dài trên mặt đất. Xin chư Tôn đức Tăng, Ni, Phật tử trong và ngoài nước hành hoạt đạo cứu khổ và giác ngộ như thế nào, để nghìn năm sau nhìn lại thế kỷ nhiễu nhương, tranh chấp, thù hận này, còn thấy có Phật giáo như chiếc phao cứu độ.

Nam Mô Thường Tinh Tấn Dũng Cảm Bồ Tát Ma Ha Tát

Thanh Minh Thiền Viện, Saigon ngày 27.8.2008

TM. Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN
Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống
kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo

(ấn ký)

Sa môn Thích Quảng Độ

(1) Bát phong xuy bất động, có nghĩa là tám gió không làm lay động tâm can. Kinh Phật lấy gió dụ cho những sự yêu, ghét của người đời. Tám ngọn gió này gồm có: lợi ích, suy diệt, chê bai, khen ngợi, tán tụng, dèm pha, khổ ách, vui sướng. Nếu tâm của người có tu hành đạt tới tâm của Chánh pháp, thì không còn bị những sự yêu, sự ghét mê hoặc làm cho tâm thần loạn động. Ở vào tâm cảnh ấy, chẳng có gió nào làm tâm can xao động. Như Kinh viết: « Thân thể và tay chân lặng yên không động đậy, tám gió thổi chẳng lay ». (Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế chú thích).