Trương Minh Hòa
Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ là một trong số những nước sinh sau đẻ muộn trên hành tinh nầy, dù có quá trình lịch sử không thuộc loại "ngàn năm văn hiến" như Trung Hoa, Việt Nam, Ai Cập nhưng lại là "hậu sinh khả úy". Sau thời kỳ bị đô hộ, xâu xé bởi các cường quốc Âu Châu đương đại như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Nga đổ dồn về đây kể từ khi nhà thám hiểm người Tay Ban Nha là Kha Luân Bố khám phá ra Mỹ Châu; thời kỳ nội chiến và sau đó giành được độc lập với vị tổng thống đầu tiên là George Washington, dần dần nước nầy ổn định nhờ chính thể dân chủ, nhưng bên ngoài vẫn chưa hết họa ngoại xâm luôn dòm ngó. Đời tổng thống thứ 5 là ông Jame Moroe, trong suốt 2 nhiệm kỳ, đưa ra học thuyết bất can dự vào các cường quốc Âu Châu, với mục đích tránh được họa xâm lược, quan hệ, có khả năng bị ảnh hưởng các thế lực lớn và dồn hết sức lực để xây dựng một đất nước non trẻ, hảy còn nhiều vấn đề nội tình chưa ổn định, nhất là vần đế an ninh quốc gia, biên thùy rộng lớn.
Học thuyết Monroe chấm dứt khi Hoa Kỳ lớn mạnh, tham dự vào hai cuộc đại chiến thế giới, trở thành lực lượng quan trọng, tạo nên chiến thắng trong hai cuộc nầy, từ đó trở thành chủ nợ các các cường quốc Âu Châu, vì Hoa Kỳ ít bị thiệt hại hơn các quốc gia Âu Châu, trực tiếp đối diện với chiến trường. Trước đây Hoa Kỳ từng bị dòm ngó, áp lực, thì nay là cường quốc mạnh nhất, đúng là: "cá ăn kiến, kiến ăn cá". Chính sự lớn mạnh vượt bực nầy, khiến các nước Âu Châu sanh lòng ganh tỵ, nên Âu Châu tỏ ra không mặn nồng với các chính sách Hoa Kỳ, ngoại trừ Anh Quốc, chỉ sau nầy là đồng minh thân cận trong cuộc chiến Iraq mà thôi, chớ Anh Quốc cũng từng làm ngơ trong cuộc chiến Việt Nam; đúng hơn là Anh Quốc do thủ tướng Tony blair cũng chẳng tốt lành gì, họ muốn mượn trận chiến chống khủng bố toàn cầu sau 11 tháng 9 năm 2001 mà giải quyết vấn đề nội bộ mà từ lâu trở thành nan giải, nhân cơ hội nầy, như kế "thuận thủ thu dương", khiến tổ chức Đạo Quân Cộng Hòa Ái Nhỉ Lan (IRA) từ bỏ vũ khí vì sợ ghép chung và thành phần khủng bố là mất hết chánh nghĩa, mục tiêu đấu tranh.
Thời chiến tranh lạnh, các đồng minh Âu Châu tỏ ra thờ ơ, dù Hoa Kỳ gánh hết cho phí, nhân mạng trong cuộc chiến tốn kém với khối Cộng Sản, trong đó có cả chuyện bảo vệ an ninh, quyền lợi của các nước dân chủ trước đại họa bành trướng, nhuộm đỏ toàn cầu của khối Cộng Sản quốc tế do Nga, Tàu lãnh đạo; thậm chí có vài nước Âu Châu còn đâm sau lưng, như Thụy Sĩ là nước công nhận chế độ Hà Nội sớm nhất và nước Pháp, nhất là thời tổng thống Charles De Gaulle, có chính sách thân thiện với Hà Nội; Pháp từng cung cấp dụng cụ phim cho Cộng Sản trong lãnh vực tuyên truyền, chi viện ống dẫn dầu trên đường mòn Hồ Chí Minh để các đơn vị chính qui có nhiên liệu mở nhiều trận địa chiến có xe tăng yểm trợ.
Thời chiến tranh lạnh, ở Á Châu, nhằm ngăn chận sự bành trướng khá nguy hiểm của Trung Cộng, do Mao Trạch Đông lãnh đạo, từ thời tổng thống Eisenhower, học thuyết bao vây ngăn chận từ năm 1949, nhằm cô lập Trung Cộng mọi mặt, vô hiệu hóa kế: "minh tu Sạn Đạo, án độ Trần Thương", bảo vệ Đài Loan, ngăn chận Trung Cộng tại biển Đông. Tại khu vực Đông Nam Á, ngoại trưởng Hoa Kỳ là Dallas, đưa ra học thuyết Domino, nhằm giữ vững tiền đồn chống Cộng miền Nam, nên mới có Tổ chức Liên Phòng Đông Nam Á ra đời; nhưng rất tiếc là học thuyết nầy đã bị gã ma đầu, chuyên viên đi đêm, và sau nầy gặp ma Trung Cộng, đã phá vỡ và dọn đường cho Trung Quốc trở thành "bầu bạn mới" sau cuộc ngoại giao bóng bàn 1972 tại Bắc Kinh.
Miền Nam Việt Nam là đồng minh thân cận của Hoa Kỳ, nhưng bất hạnh cho cả dân tộc là vị tổng thống đệ nhị Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, từng chơi với bạn mà không hiểu ý bạn, thế nên khi bạn không còn thân thiết thì bỏ chạy và bỏ rơi cả miền Nam rơi vào tay kẻ thù Cộng Sản ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông Thiệu và kể cả những cận thần "quân sư" như tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, trung tướng Đặng Văn Quang là những người nắm giữ tình hình hơn ai hết, biết rõ sau khi học thuyết "Nixon" Việt Nam hóa chiến tranh mà không lo tìm đường binh khác, đến khi Hoa Kỳ giảm quân viện thì mời nhảy, là quá trễ.
Nếu sau nầy, văn khố giải mật Hoa kỳ không nói về "sự mật ước rút quân 2 quân khu, để cho Cộng Sản Bắc Việt đánh nhanh, trong vòng 55 ngày vào tới Saigon giữa ông Thiệu và Hoa Kỳ", thì đây là lỗi của ông Thiệu, như vậy, hình như ông Thiệu là người "ích kỷ", ông có thể có ý nghĩ như những kẻ tầm thường: "ăn không được, ta phá cho hôi", tức là "ta thôi làm tổng thống, thì không có ai làm nổi", nên chính ông Thiệu, tổng tư lịnh quân đội, ban hành những lịnh bất nhất từ quân khi 1, quân khu 2, phá nát các đơn vị thiện chiến như sư đoàn Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân và sau cùng trói tay danh tướng Ngô Quang Trưởng, tư lịnh quân khu 1 và kế tiếp là thiếu tướng Phạm Văn Phú, tư lịnh quân khu 2 nếu không có những lịnh "quái gở" nầy thì quân đội Cộng Sản Bắc Việt khó lòng mà nuốt gọn 2 quân khu trong vòng thời gian quá ngắn so với cuộc chiến trải dài từ 1954 đến 1975, lúc đó đạn dạn vẫn còn, tinh thần quân sĩ vẫn còn cao.
Trong bất cứ trận chiến nào, khi chủ tướng sanh tâm, phá nát quân đội để giặc tràn vào, thí thất bại cầm chắc trong tay. Miền Nam bị bức tử không do "đồng minh tháo chạy" mà nguyên nhân chính là do vị chỉ huy tối cao, tổng tư lịnh, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu gây ra. Một điều đau lòng khác là: trong cuộc chiến tranh lạnh, những điểm nóng như bán đảo Triều Tiên, Đông-Tây Đức thì đồng minh Hoa Kỳ chưa tháo chạy, chỉ có miền Nam Việt Nam mới lọt vào tay Cộng Sản, trước khi trách người, hãy xem lại mình trước, thì mới thấy được sự thật; đồng minh với đại sứ quán, cơ quan quân viện DAO, vẫn còn ở Saigòn, thì tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và các cận thần đã "tháo chạy trước đồng minh", là sự thật. Nên quyển sách "khi đồng minh tháo chạy" của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng chỉ có giá trị với các văn bản lịch sử, nhưng chưa nhìn nhận sự thật và cũng nhằm biện minh cho ông Thiệu, kẻ mà tiến sĩ Hưng hưởng được nhiều ơn mưa mốc, chống Cộng trong phòng lạnh, đi hành quân ở "nước ngoài" bằng phi cơ hạng sang dành cho chính khách, thì ông không thông cảm những chiến sĩ trải thân ngoài mặt trận.
Hoa Kỳ có nhiều chính sách đối ngoại sau đệ nhị thế chiến, thông thường nghe nói nhiều nhất là "cây gậy và củ cà rốt", tức là dùng tiền tài, viện trợ, cho ăn trước, nếu sau nầy trở mặt là dùng cây gậy đập "vỡ sọ" như trường hợp của Saddam Hussein ở Iraq, mới được áp dụng từ thời Bush cha đến con qua hai cuộc chiến vùng Vịnh Ba Tư. Tuy nhiên dùng cà rốt chỉ có thể nhử được thỏ, bọ còn chồn, chuột,.. thì không thành công. Nhưng đối với những đối tượng nầy, tốt nhất là dùng miếng thịt bên cạnh "gói cà ri, ngũ vị hương, hành tỏi, giền" là có thể làm chung chúng sợ.
Thời tổng thống đảng Cộng Hòa George.W. Bush, qua hai nhiệm kỳ, áp dụng học thuyết, theo tác giả Michael Benge, người từng bỏ ra hơn 11 năm sống và điều tra tình hình tôn giáo, nhân quyền tại Việt Nam, cho là Hoa Kỳ áp dụng học thuyết mới là "chính sách ngoại giao Cocacola" (Coke Bottle Diplomacy), đã được áp dụng từ thập niên 1980 đến nay, tỏ ra rất là "uyển chuyển", được nhiều đời tổng thống giải quyết sau cuộc chiến Việt Nam. Thời ông Bush con thì tình trạng vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo Việt Nam càng gia tăng, thế mà hành pháp, áp dụng lối mập mờ đối với nước theo Cộng Sản như Việt Nam: "khi ẩn khi hiện, khi trồi khi sụt, khi có khi không", lúc đưa vào, khi đưa ra tên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với danh sách các nước vi phạm quyền tự do tôn giáo đáng quan tâm, thì làm sao Việt Cộng, Trung Cộng ngán? Những nước Cộng Sản rất ngoan cố, phải có biện pháp cứng rắn, mới mong tạo áp lực, bắt họ phải biết "uống nước ngọt nhớ nguồn", nếu không thì đừng giao thương, không ban qui chế bình thường hóa thương mại như thời chiến tranh lạnh là những nước độc tài hoảng sợ, như vậy "dung cờ là dung giặc" là nguyên tắc chơi cờ tướng, nhưng cũng nên áp dụng trong lãnh vực chính trị, nhất là đối với những kẻ thù gian hiểm Cộng Sản. Hoa Kỳ không giao thương với Việt Nam thì vẫn không bị ảnh hưởng kinh tế, như vậy Việt Cộng cần Mỹ hơn, đây là thế thượng phong mà Hoa Kỳ đã bỏ quên.
Từ nhiều năm qua, Hoa Kỳ đã cho Việt Cộng uống quá nhiều nước ngọt Cocacola để giải bớt đầu óc tàn ác, và họ tin tưởng là dần dần sẽ đưa đến dân chủ. Thật là ngây ngô, vì Việt Cộng vừa uống Cocacola của Mỹ và cũng vừa nhâm nhi rượu Mai Quế Lộ, Ngũ Gia Bì của quan thầy Bắc Kinh, nên tiếp tục đàn áp tôn giáo; nhờ nước Coca mà Việt Cộng khỏe ra, thẳng tay hơn. Riêng Hoa Kỳ, năm 2007, tổng sản lượng đổ vào hơn 10, 6 tỷ Mỹ Kim mà vẫn chưa thấy có cải thiện tự do tôn giáo, khi mà các tín hữu Tin Lành miền Trung vẫn bị trù dập, bắt bớ, giam cầm, sát hại. Miền Tây thì Phật Giáo Miên Khmer Krom ở Sóc Trăng cũng bị bầy chồn Việt Cộng đàn áp, khiến ông Lục cả Tin Kakhorn đành phải sang Miên lánh nạn, cũng bị mật vụ Việt Cộng vượt biên, bắt, giải về Việt Nam bỏ tù; đạo Thiên Chúa cũng vẫn bị trù dập như cũ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất duới sự lãnh đạo của quí đại lão huề thượng Huyền Quang, Quảng Độ luôn bị "bao vây tứ bề" pháp nạn thảm thương.
Thế mà Hoa Kỳ vẫn cung cấp Cocacola đều đều, nên Việt Cộng càng "hồ hởi phấn khởi" đàn áp tôn giáo. Tháng 6 năm 2008 vừa qua, khi tên tưởng thú, thủ tướng không người lái Nguyễn Tấn Dũng, tức là Dũng Xà Mâu "qui mã", chỉ bàn về hợp tác kinh tế là chánh, còn nhân quyền, tự do tôn giáo chỉ bàn suông cho có lệ, theo ngôn từ ngoại giao thôi; được biết trước đó để chuẩn bị cung cấp thêm Coca, Mỹ lại đưa tên Việt Cộng ra khỏi danh sách, hổng biết, sau nầy có đưa trở lại khi "tình hình" thay đổi?.
Kể từ sau năm 1975 đến nay, con số người bị Việt Cộng tàn sát lên đến hàng triệu, nhưng nhân quyền, tự do tôn giáo vẫn là thứ "nằm trên đầu môi chót lưỡi" của giới lãnh đạo Hoa Kỳ và được hứa hẹn, cũng "bằng mồm" của những tướng cướp lừng danh trong bộ máy cầm quyền đảng và nhà nước Cộng Sản như Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng mỗi lần mở chuyến công du, bèn xì chút hơi, thả vài nhà dân chủ, hay giảm án cho vài nhà đấu tranh mà Hoa Kỳ cũng như những viên đại sứ từ Peter Peterson, Michael Marine, nay là Michael Michalak cũng đều "phản ánh" tình hình nhân quyền "khi trồi, khi sụt" tùy theo hứa hẹn, hẹn hứa như "thủy triều" nước lớn, nước ròng.
Tức là những kẻ nầy đang đùa giỡn trên sinh mạng của hàng triệu người, mà lòng phơi phới niềm vui "quyền lợi", cứ thế mà phát huy. Nếu Hoa Kỳ cho Việt Cộng uống cocacola, thì nhớ đặt bên cạnh đó CÁI CÒNG SỐ TÁM, với án lịnh "phong tỏa tài chánh" từ tòa án quốc tế, kèm theo đơn thưa của những nạn nhân, những phúc trình các cơ quan điều tra liên quốc như Human Rights Watch, Amnest International để gây áp lực trực tiếp với những tên nào muốn uống Cocacola; uống phải tuân thủ điều kiện, chớ uống mà vẫn mặt chay mày đá, thì đâu phải của chùa, uống hoài sao?.
Tình hình vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo là rất nghiêm trọng, nhưng mỗi lần chính phủ Hoa Kỳ muốn thăm hỏi ý kiến của những công dân Mỹ gốc Việt, thì họ đã lầm, mời những người không đại diện cho dân, là các nhóm đảng phái như Việt Tân, Dân chủ Nhân Dân là không tôn trọng nguyên tắc dân chủ. Thay vì mời các đại diện cộng đồng là phù hạp với nguyện vọng và lá phiếu mà họ ủng hộ chính quyền trong các cuộc bầu cử. Khi những người không đại diện cho ai, nhóm thiểu số, nhất là đảng Việt Tân, hai lần qua chủ tịch đảng Đổ Hoàng Điềm, phát biểu lạng quạng, có lợi cho Việt Cộng, phớt lời tự do tôn giáo, và còn ca tụng Việt Cộng là: "không còn phân biệt đối xử với người quốc gia từ 1991 ....", thì Việt Cộng vô cùng "hồ hởi phấn khởi".
Hình như Hoa Kỳ cũng đã bị lọt vào bẩy của những tên "gian manh Bắc Bộ Phủ, cấu kết với thành phần đón gió hải ngoại nằm vùng" như băng đảng Việt Tân; đó là chuyện Việt Cộng cứ la lớn, lên án đảng Việt Tân với đủ các từ ngữ "phản động, khủng bố".... thì Hoa kỳ nhìn vào, bèn kết luận ngay: "đấy là những tổ chức chống Cộng THIỆT TÌNH", thì Việt Cộng mới đưa tên, cho nên mỗi khi có vấn đề cần tham khảo ý kiến là cứ nhắm mắt mời đại diện Việt Tân là không sai, nhưng Hoa Kỳ nào ngờ Việt Tân là tổ chức cò mồi của Việt Cộng đưa ra, họ chống Cộng chỉ vì THỊT TIỀN mà thôi Việt Cộng gian manh lắm, chúng lựa chọn tổ chức của chúng để" nâng cấp" thành kẻ thù cực kỳ nguy hiểm, đánh lừa thế giới, Hoa Kỳ và cả những người Việt tỵ nạn. Xin hảy đề cao cảnh giác, đừng lầm mà bị lọt vào cạm bẩy Việt Cộng lẫn Việt Tân, thì đường về tổ quốc" xa lắc xa lơ, khi trót nghe theo lời u mê".
Trương Minh Hòa
No comments:
Post a Comment