Sau các biến cố dồn dập liệu chiến tranh giữa Mỹ và Trung Cộng có xảy ra hay không ?
Tài Liệu Tham Khảo
Mường Giang
Người Mỹ từ xưa tới nay luôn luôn bị mang tiếng là kẻ chủ động trên chính trường và gần như họ đều đạt được chiến thắng bằng nhân đạo và kỹ thuật.Trong quá khứ,từ năm 1948 là thời gian khởi đầu của chiến tranh lạnh,để đạt thế thượng phong, Mỹ đã sử dụng chiến tranh tình báo trên không bằng các loại phản lực cơ RB-47 và U-2. Mưu toan bị bại lộ,ngày 1.7. 1958, Liên xô bắn hạ một chiếc RB-47 tại Mourmanks và cầm tù hai Ðại Úy Phi Công Mỹ là Bruce Olmstead và Johl McKon. Tiếp đến ngày 1.5.1960, một chiếc U-2 lại bị bắn hạ tại Sverlovsk, viên Phi Công Mỹ là Gary Power cũng bị bắt. Thế nhưng việc đâu lại hoàn đó sau khi hai nước đấu võ mồm kịch liệt, làm cho thế giới tưởng rằng đại chiến thứ ba sắp xảy ra. Nhưng gây cấn và hồi hộp hơn hết là ngày 22.10.1961 xe tăng của Liên xô và Hoa Kỳ đã dàn trận suốt 18 giờ liền tại Checkpoint (Bá Linh) chờ lệnh khai hỏa. Rồi khi Mỹ là Tổng Thống Kennedy phát giác là Liên xô đã đem hỏa tiễn có gắn đầu đạn nguyên tử vào thiết trí tại Sierra del Rosario (Cuba),thì nhân loại coi như đứng bên bờ vực thẳm của sự hủy diệt.
Thế nhưng mọi sự vẫn huề cả làng.Bởi vậy lần này, khi có cuộc đụng chạm trên không một máy bay phản lực F-8 của Trung cộng cố tình đâm vào chiếc thám thính cơ EP-3 của Hải Quân Hoa Kỳ, nhưng nó phải rơi xuống biển, làm chết viên phi công. Trung cộng hùng hổ bắt giữ phi cơ và Phi Hành Ðoàn gồm 24 người, khi máy bay EP-3 của người Mỹ xin khẩn cấp hạ cánh trên Ðảo Hải Nam từ 1.4 cho tới ngày 11.4.2001 mới thả, sau khi Tổng Thống W.Bush viết thư tỏ ý hối tiếc vụ đụng chạm trên. Riêng Trung cộng thì răn đe bằng dao to, búa lớn, nói là sẽ không để yên vụ này. Qua các diễn tiến trên, các Nhà Bình Luận trên thế giới đều bảo rằng vụ trên chưa kết thúc mà mới là bắt đầu. Vậy thì liệu chiến tranh có thể xảy ra hay không, khi tình trạng giao hảo giữa Mỹ-Hoa, vốn đã bị rạn nứt từ lâu qua các biến cố chính trị dồn dập,mà kẻ chủ động không phải là Hoa Kỳ.
1. Nguyên nhân khiến Trung cộng làm lớn chuyện trong vụ đụng máy bay:
Thật ra sự rạn nứt giữa Mỹ và Trung cộng đã xảy ra từ mấy năm nay nhưng cả hai phía đều có bưng bít vì còn đang cần lợi dụng lẫn nhau (thời Clinton). Trong quá khứ, Trung cộng đã cố ngậm miệng ăn tiền qua các sự kiện Mỹ và khối NATO oanh kích vào Tòa đại sứ tại Thủ Ðô Bergrade của Nam Tư trong cuộc chiến Kosovo vào tháng 3.1999. Cũng thời gian này, Mỹ lại tố cáo Trung cộng đã gài điệp viên Wen lee Ho vào làm việc tại Phòng Thí Nghiệm Quốc Gia tại Los Alamos (Mỹ) để đánh cắp tài liệu chế tạo vũ khí nguyên tử của Hoa Kỳ. Chưa hết hai nước lại đụng chạm thường xuyên về vấn đề Ðài Loan, mà theo Trung cộng thì Mỹ luôn luôn bảo vệ nước này chống lại họ. Ðó là lẽ dĩ nhiên vì Ðài Loan là nước bạn Ðồng Minh theo thể chế Dân Chủ Tự Do. Mới đây Quốc Hội Mỹ lại họp, nhiều Nghị sĩ đề nghị Chính Phủ Bush can thiệp không cho Trung cộng đăng quan xin tổ chức Thế Vận Hội Mùa Hè năm 2008 tại Bắc Kinh, tại vì Trung cộng hiện nay là một trong những nước không tôn trọng Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, chà đạp nhân quyền, cấm đoán tín ngưỡng và tự do của dân chúng trong nước. Cũng do những sự kiện nhức nhối trên, nên Trung cộng không ngần ngại hy sinh người, chịu tốn của để mong gài bẫy Mỹ phải đáp ứng theo nhu cầu của mình, mới thả con tin. Nhưng Tàu cộng đã tính sai nước cờ vì đối thủ trong cuộc cũng là Khổng Minh và trên hết, nước Mỹ hiện giờ đang được điều khiển bởi Tổng Thống W. Bush và đảng Cộng Hòa không còn là anh phản chiến Bill Clinton nữa. Bởi vậy,ngay khi nhận được tin Phi Hành Ðoàn Mỹ đang bị giam cầm tại Ðảo Hải Nam, người Mỹ dùng chiến lược "tương kế tựu kế" giúp Trung cộng tìm kiếm viên phi công mất tích, để điều động một Lực Lượng Hải,Lục, Không Quân hùng hậu từ các Hạm Ðội 6 và 7 gồm có 42 chiến hạm, 74 phản lực cơ chiến đấu và 10.000 Binh Sĩ Thủy Quân Lục Chiến đến Hải Nam. Ngoài ra,người Mỹ còn biết thâm ý của Trung cộng, nếu lần này chịu lép vế xin lỗi, cũng kể như Mỹ đã đồng tình chấp nhận lãnh hải mới mà Trung cộng tự nhận là của mình trong biển đông.
2. Đảo Hải Nam và lãnh hải Trung cộng:
Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên xô chấm dứt,nhân loại thở phào nhẹ nhõm vì hy vọng được sống hòa bình và những luật trời, luật biển sẽ được mọi người dung hòa. Nhưng Liên xô vừa gục thì Trung cộng nổi lên,càng hung hăng và ngang tàng gấp ngàn lần mấy ông thầy cũ, coi mọi người là số không khi đã chế tạo được vũ khí nguyên tử, ngang nhiên tự vẽ cho mình một biên giới trên trời, dưới biển. Người La Mã xưa từng nói: ''ubi societas,ibi jus'' nghĩa là ở đâu có xã hội, thì ở đó có luật pháp. Tiếc thay người cộng sản không bao giờ coi trọng luật đời mà chỉ quen dùng luật rừng mà thôi. Nhưng luật vẫn là luật, Trung cộng dù có lớn mồm và khoe khoang, phách lối vẫn phải tuân theo luật quốc tế về lãnh hải do Liên Hiệp Quốc đã ấn định như sau:
Luật Biển: Thời Trung Cổ, các Quốc Gia hùng mạnh tự cho mình có quyền tuyệt đối trên biển. Năm 1609, một Luật Gia người Hòa Lan tên Grotius đặt ra căn bản cho Luật Hàng Hải. Nhưng biển, ngoài việc là thủy đạo, còn được coi như kho báu vô tận của con người, nên nhân loại đã phải đặt ra Luật Biển để tránh sự va chạm về quyền lợi của các Quốc Gia. Nhiều cuộc họp quốc tế về Luật Biển đã được tổ chức liên tục tại Lahaye (Hòa Lan) năm 1930, Genève (Thụy Sĩ) năm 1958 và 1960. New York năm 1973 và Caracas (Venèzuela) năm 1973, ấn định lãnh hải, vùng tiếp giáp, thềm lục địa, bờ biển quốc tế và đại dương. Cũng kể từ đó lãnh hải của một nước được ấn định từ 6 tới 12 hải lý, riêng các nước Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh thì đòi tới 200 hải lý. Tuy nhiên, dù có sử dụng theo ý riêng của mình, trước đây vẫn không có sự đụng chạm quá đáng giữa các nước.
Chiếu theo Luật Biển quốc tế, Mỹ có xâm phạm lãnh thổ Trung cộng hay không? Máy bay Mỹ và Trung cộng thật sự đụng nhau trên không là hải phận quốc tế, nều căn cứ theo Luật của Liên Hiệp Quốc ấn định, nhưng vì phi cơ Mỹ bị hư nặng nên phải đáp khẩn xuống Ðảo Hải Nam. Với Mỹ lãnh thổ của một nước chỉ có 6 hải lý, nên Mỹ không xâm phạm lãnh thổ Trung cộng, ngược lại người Tàu ngày nay đã coi Ðông Hải là cái ao của nhà mình, nên nói Mỹ phạm luật. Riêng Ðảo Hải Nam, nơi Phi Hành Ðoàn Mỹ bị giam 11 ngày, trước thuộc Tỉnh Quảng Ðông. Từ tháng 9.1988 Trung cộng tách làm một Tỉnh lỵ riêng, gọi là đặc khu kinh tế. Ðây cũng là quê hương của ba chị em nhà họ Tống nổi tiếng trong lịch sử cận đại Trung Hoa: Tống Ái Linh, Tống Khánh Linh (vợ Tôn Văn) và Tống Mỹ Linh (vợ Tưởng Giới Thạch). Ðảo Hải Nam có diện tích 34.000 km2 và dân số hơn 7 triệu người, Hải Cảng Dương Phố chỉ cách Hải Phòng có 151 hải lý, riêng Thủ Phủ của Ðảo đóng tại Hải Khấu, là nơi giam dữ Phi Hành Ðoàn Mỹ. Hiện Trung cộng tuyên bố lãnh hải của mình ở Hải Nam là 2,1 triệu km2, nghĩa là giáp giới tận bờ biển Nam Dương, Châu Úc. Trung cộng bắt Mỹ xin lỗi nếu muốn đem con tin về: Trên ngôn ngữ ngoại giao, Tàu muốn Mỹ xin lỗi, nhưng bên trong thì khác hoàn toàn. Tóm lại ý của người Tàu trong khi nắm giữ được con tin Mỹ, muốn Hoa Kỳ phải thỏa thuận các vấn đề tối quan trọng với họ như vụ Ðài Loan, kế hoạch hỏa tiễn chống hỏa tiễn và sau hết là xen vào nội bộ của nước Tàu, phá bỉnh không cho họ được tổ chức Thế Vận Hội 2008. Nhưng âm mưu trên đã bị Mỹ đoán biết trước, bởi vậy Tổng Thống W.Bush đã tuyên bố thẳng thừng, là việc nào là giải quyết theo việc đó. Cuối cùng Tàu thả con tin khi Mỹ nói hối tiếc vì viên phi công bị mất tích.
3. Những rắc rối chính hiện nay giữa Mỹ và Trung cộng:
Ngay khi Tổng Thống W.Bush lên nhậm chức, lập trường chính trị của Hoa Kỳ đã thay đổi từ nhu nhược sang cương quyết và cứng rắn của chính quyền Ðảng Cộng Hòa, nhất là việc bán vũ khí phòng thủ tối tân cho Ðài Loan, đã chận đứng mưu mô xâm chiếm Ðông Nam Á của Trung cộng. Thực tế tình trạng của Ðài Loan hoàn toàn khác biệt với hai nhượng địa Hồng Kông và Ma Cao. Ðài Loan từ đầu Thế Kỷ 20 đã tuyên bố độc lập và đa số thổ dân trên Ðảo khác Chủng Tộc với người Hoa. Năm 1949, sau khi mất Hoa Lục vào tay cộng sản, Tưởng Giới Thạch và quân Quốc Dân Ðảng chạy ra chiếm Ðảo này, làm căn cứ chống lại Tàu cộng. Bởi vậy, người Ðài Loan bảo rằng họ là một Quốc Gia độc lập thì cũng là chuyện bình thường. Thật ra Ðài Loan chỉ có một lãnh thổ chật hẹp, người đông và hầu như chẳng có một tài nguyên thiên nhiên nào đáng kể. Thêm vào đó, nơi này hay thường bị thiên tai tàn phá như bão lụt, động đất, hạn hán, nạn sâu rầy tàn phá mùa màn. Nếu con người ở đây không quyết tâm, thì chưa chắc họ đủ cơm ăn, đừng nói chi tới chuyện làm giàu.
Ðài Loan hiện nay gồm có 79 Ðảo nhỏ lớn,hai Ðảo Kim Môn và Mã Tổ nằm sát đất liền, chỉ cách Phúc Kiến có 193 km. Riêng Ðảo Ðài Loan lớn nhất có chiều ngang 102 km và chiều dài 402 km.Hiện Trung Hoa Dân Quốc có diện tích tới 26.195 km2 hay là 3971 sqml dân số tính tới cuối năm 2000 là 20.204.880 người, là nơi có mật độ dân số cao nhất trên thế giới (558 người/1km2), 82% dân số Ðài Loan đều sống ở Thị Trấn hay Thành Phố. Tất cả các Tỉnh Thị quan trọng đều nằm trên Ðảo lớn Ðài Loan,như Ðài Bắc (Thủ Ðô) hơn 3 triệu người, Ðài Trung, Cao Hùng, Cơ Long, Ðài Nam. Từ năm 1990 Ðài Loan đã là một trong những con rồng kinh tế của Á Châu và là nước có trữ lượng tiền thặng dư nhiều nhất thế giới (hơn 100 tỷ Ðô la). Quân Ðội Ðài Loan hiện nay có gần một triệu người, tuy ít hơn Trung cộng nhưng lại vượt hẳn về phẩm chất và trang bị. Mới đây, để chống lại sự đe dọa của Trung cộng, Ðài Loan đã mua thêm rất nhiều quân cụ tối tân của Anh, Pháp, Ðức và Mỹ. Nhưng điều lo ngại nhất của Trung cộng là hiện nay Ðài Loan cũng vẫn còn là một căn cứ nguyên tử của Hoa Kỳ. Thật vậy, qua sự tiết lộ của Tòa Bạch Ốc khi giải mã một số hồ sơ quá hạn vào năm 1995 thì từ năm 1951 đến 1977, Mỹ đã thiết lập căn cứ nguyên tử trên 18 Quốc Gia, khắp các Châu Âu, Phi, Mỹ và Á Châu.
Tuy số hồ sơ mật được giải mã nhưng tên các địa điểm đều bị bôi xóa.Tuy nhiên các Chuyên viên về nguyên tử như Robert S Norris, William Arkin và William Burr vẫn tìm được tên 17 địa điểm trong đó có Nhật, Ðại Hàn và Ðài Loan. Vào tháng 7.1995, cuộc khủng hoảng về vũ khí nguyên tử bùng nổ, nhiều Quốc Gia Ðồng Minh quan trọng yêu cầu giao cho họ toàn quyền sử dụng vũ khí trên hoặc tháo gỡ. Ngược lại cũng có nhiều nước làm ngơ, coi như không hề biết tới, trong số này có Ðài Loan. Vì vậy, ta cũng đừng lấy làm ngạc nhiên khi thấy Trung Hoa Dân Quốc lúc nào cũng coi thường sự hù họa của Trung cộng. Trung cộng bắt Mỹ phải ngưng kế hoạch phi đạn chống tên lửa thế nào được. Thử hỏi ai mạnh hơn ai? Tính đến cuối năm 2000, Hoa Kỳ đã bốn lần thử nghiệm kế hoạch phi đạn chống phi đạn trong hệ thống phòng thủ toàn diện Quốc Gia. Theo báo chí loan tải thì lần thứ nhất vào ngày 2.10.1999 thành công, lần thứ hai vào ngày 18.1.2000 và lần thứ ba 8.7.2000 đều thất bại. Tuy nhiên, Tổng Thống Bill Clinton vẫn tuyên bố vào tháng 9.2000 là Hoa Kỳ đã quyết tâm thực hiện kế hoạch phòng thủ trên, bất chấp sự phản đối của các nước hiện có vũ khí nguyên tử như Nga, Pháp và nhất là Trung cộng. Vậy kế hoạch trên như thế nào, đã khiến cho những con ngáo ộp, trong đó có Bắc Hàn phải xốn mắt, quyết phá cho được.
* ABM (LÁ CHẮN MẶT ÐẤT): Ngày 26.5.1972, cố Tổng Thống Hoa Kỳ là Richard Nixon và cố Tổng bí thư Liên xô là Leonid Brejnev đã ký một Hiệp ước chống hỏa tiễn đạn đạo (ABM) tại Mạc Tư Khoa. Theo tinh thần hiệp ước này thì cả hai phía đều đồng ý hạn chế việc phát triển vũ khí chống hỏa tiễn, chứ không đề cập tới việc phát triển vũ khí phá hủy hỏa tiễn từ trên không. Ngoài ra cả hai cũng không muốn đề cập tới sự hạn chế vũ khí từ chiến trường, vì nó là chức năng bảo vệ lãnh thổ. Năm 1997, Mỹ và Nga lại họp để bàn lại vấn đề thế nào là vũ khí nguyên tử phòng thủ và vũ khí nguyên tử sử dụng ngoài chiến trường. Vì hiện nay, thế giới chỉ còn có Nga là quốc gia duy nhất còn sử dụng các loại hỏa tiễn galoch, gazelle và gargon để phòng thủ diện địa. Các hỏa tiễn trên đều có gắn đầu đạn nguyên tử. Riêng Mỹ từ năm 1976 đã phá bỏ tất cả hệ thống phòng thủ như Nga, được gọi là safeguard, dùng để bảo vệ kho hỏa tiễn hạt nhân liên lục địa ở Grandfirst (Bắc Dakota).
* Hiệp ước Start 2 và ABM: Trước khi rời Tòa Bạch Ốc,cựu Tổng Thống G.Bush và cựu Tổng Thống Nga là Boris Eltsine đã ký Hiệp ước Start 2, theo đó Nga giảm số đầu đạn nguyên tử còn 3000 và Mỹ là 3600. Hiệp ước trên không ảnh hưởng tới các nước có đầu đạn nguyên tử như Trung cộng (410), Pháp (350), Anh (192), Ấn Ðộ (70) và Hồi Quốc(25). Hiện Nga và Mỹ bắt đầu thi hành Hiệp ước trên sau khi Quốc Hội hai nước phê chuẩn. Thế nhưng năm 1997, Thượng Viện Mỹ lại thay đổi ý kiến, đòi sửa lại thời gian thi hành trong Hiệp ước là năm 2003-2007 và xét lại chương trình ABM. Tóm lại người Mỹ cần hệ thống phòng thủ Quốc Gia.
* NMD (HỆ THỐNG PHÒNG THỦ TỪ TRÊN XUỐNG DƯỚI: Là kết quả cuối cùng sau những lần thử nghiệm thất bại của Mỹ qua những dự án hỗ trợ đánh chặn,chống hỏa tiễn đạn đạo (Bambi) từ năm 1957, dự án Sentinel hay còn gọi là Safeguard ra đời năm 1964. Năm 1984, Tổng Thống Ronald Reagan lại đưa ra kế hoạch chiến tranh trên các vì sao (IDS), rồi thì dự án bảo vệ toàn diện chống tấn công (GPALS) của Tổng Thống G.Bush, nhưng tất cả đều bị dẹp bỏ khi Clinton đắc cử Tổng Thống. Theo Philip Coyle,người phụ trách chương trình phát triển vũ khí nguyên tử của Mỹ, thì vào tháng 2.2000, qua áp lực mạnh mẽ của đa số Nghị Sĩ của hai Ðảng tại Quốc Hội nên Clinton mới phê chuẩn tiếp tục các cuộc thử nghiệm chương trình trên. Theo tuyên bố của Tổng Thống W.Bush ngay khi vừa nhậm chức, thì các cam kết giữa Nga và Mỹ qua các hiệp ước vừa ký kết, nay đã lỗi thời, vì vậy cần phải thực hiện kế hoạch phòng thủ mới, cho hợp với giai đoạn hiện tại. Theo Nga, Pháp, các nước mới có vũ khí nguyên tử nhất là Trung cộng, thì nếu Mỹ thành công trong kế hoạch phi đạn chống phi đạn thì công trình phát triển vũ khí hạt nhân thế giới trong 50 năm qua coi như bị đảo lộn hoàn toàn. Nhưng người Mỹ vẫn giữ vững lập trường và tuyên bố phải có hệ thống phòng thủ NMD để đề phòng các nước thù nghịch hiện đã có vũ khí nguyên tử như Iran, Iraq, Libye, Bắc Hàn, Hồi Quốc, dĩ nhiên trong đó có Trung cộng.
Sở dĩ người Mỹ phải quyết tâm thực hiện cho được kế hoạch trên vì các nước nhỏ đã chế được loại hỏa tiễn liên lục địa (ICBM). Tháng 8.1998,Bắc Hàn chế tạo thành công loại hỏa tiễn ba tầng (TAEPO-DONG 1), có thể mang một quả bom nguyên tử nặng 1000 kg và phóng xa tới 2.500 km, hoặc một loại bom loại sinh hóa học phóng xạ tới 3.100 km. Hiện Bắc Hàn sắp hoàn thành DONG 2, có khả năng phóng xa tới 6.000 km. Riêng Nga và Trung cộng cũng đang ráo riết tìm các loại vũ khí mới để đối đầu với Mỹ. Theo nguyên tắc, kế hoạch hỏa tiễn của Mỹ có khả năng tiêu diệt tất cả các vũ khí của nước ngoài phóng từ không gia vào,sau khi rút tỉa kinh nghiệm từ thất bại của hỏa tiễn Patriot không ngăn được hỏa tiễn Scud của Iraq trong cuộc chiến vùng vịnh vào năm 1991. Ngoài ra, người Mỹ cũng đã tìm ra được ba khuyết điểm của hệ thống phòng thủ như:
- Những viên đạn nhỏ.
- Chim mồi.
- Những quả bong bóng không màu.Tìm được tất cả trở ngại trên,hiện Hoa Kỳ ráo riết nghiên cứu phương cách khắc phục. Ngoài ra đề phòng sự trục trặc, Hoa Kỳ còn phát triển thêm hệ thống phòng thủ ngoại biên do Lực Lượng Hải và Không Quân đảm trách.Tóm lại với một bộ máy chiến tranh đồ sộ như thế, bảo sao Trung cộng không nhượng bộ.
4. Trung cộng cấm Mỹ xen vào nội bộ nước Tàu
Năm 2001, Ủy Ban Tổ Chức Thế Vận Hội lại nhận được đơn của các nước xin tổ chức Thế Vận Hội Mùa Hè năm 2008. Thế nhưng Quốc Hội Mỹ đã họp và quyết định xin Ủy Ban không cho Trung cộng được tổ chức vì nước này đã không chịu thi hành nghiêm chỉnh Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, luôn luôn vi phạm nhân quyền, đàn áp Tôn Giáo, ngăn cấm tự do của người trong nước. Sự kiện trên làm cho Tàu cộng đến điên cuồng lên vì coi đó là sự xâm phạm vào nội bộ của họ. Thật ra người Mỹ do Clinton cầm quyền cũng đâu có tốt gì, nếu ta nhớ lại những năm về trước, khi vụ Thiên An Môn xảy ra năm 1989, đã khiến cho hầu hết thế giới ngẩn ngơ, và đồng loạt lên án hành động dã thú, bất nhân của bọn cộng sản,thì ngay tại nước Mỹ, trong thời gian đó, cái gọi là chương trình Nightline của Ðài truyền hình ABC lại bày tỏ thái độ hoài nghi về sự kiện Thiên An Môn, trong lúc đài có hàng trăm phóng viên tại chỗ. Chưa hết, Tổng Thống Clinton, thay vì có biện pháp mạnh để ngăn chặn kẻ gian ác, ngược lại vẫn hồ hởi ký cho phép Trung cộng được gia hạn thời gian tối huệ quốc. Ðể biện giải hành động phi đạo đức trên,Bill Clinton và đảng Dân Chủ nói người Mỹ phải đặt quyền lợi của họ trên hết.
Hỡi ôi! Ðời như thế còn gì để mà nói? Dân chủ và Dân quyền dưới chế độ dân chủ của Clinton là một sỉ nhục quốc thể. Nhiều chính trị gia trên thế giới hiện nay, trước sự kiện lộng hành và côn đồ của Trung cộng đã không ngần ngại quy trách nhiệm cho Ðảng Dân Chủ của Hoa Kỳ là kẻ nuôi ong tay áo, nuôi dưỡng Tàu cộng từ một quốc gia nghèo đói, lạc hậu thành một siêu cường quân sự, chẳng những gây hại cho nhân loại mà Mỹ cũng phải coi chừng hậu quả. Dĩ nhiên không phải ai cũng hèn như Clinton cho nên đã có rất nhiều người bất chấp hiểm nguy, như Tổ Chức Human Right Watch. Ðã len lỏi vào tận nước Tàu, thu thập tin tức và đúc kết thành bản cáo trạng 7 điểm, tố cáo hành vi ngược đãi đồng bào mình và trên hết là giã tâm tiêu diệt các Dân Tộc bị trị như Mãn Châu, Mông Cổ, Hồi và Tây Tạng. Chính cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ là Waren Christopher cũng phải công nhận là Trung cộng rất cứng đầu chẳng bao giờ chịu thi hành Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Do tình trạng trên, Trung cộng chỉ mang bộ mặt phồn vinh giả tạo ở Ðô Thị, còn khắp nơi trong nước thì gần như hỗn loạn với trăm ngàn tệ đoan xã hội do chính chế độ độc tài gây ra, mà nhức nhối nhất, gây mất ăn mất ngủ cho cấp lãnh đạo trung ương vẫn là môn phái Pháp Luân Công.
PHÁP LUÂN CÔNG:
Như ta biết, suốt dòng lịch sử Trung Hoa, mỗi lần các giáo phái xuất hiện là có đại họa cho nhà cầm quyền, chẳng hạn như vào Thế Kỷ 18, Vương Phát Sinh (Vương Luân), lãnh đạo Bạch Liên Giáo, chống lại Nhà Thanh gần 100 năm. Tiếp theo là cuộc nổi dậy của Hồng Tú Toàn (Thái Bình Thiên Quốc), đã gây nên một cuộc nội chiến tàn khốc, làm cho Ðài Loan có cơ hội tuyên bố độc lập như ngày nay. Pháp Luân Công cũng là một giáo phái vừa mới thành hình tại Trung cộng vào những năm cuối cùng của Thế Kỷ 20, mà Giáo Chủ là một người Hoa phương Bắc tên là Lý Hồng Chí. Giáo đồ của Pháp Luân Công cho biết họ không làm chính trị, mà chỉ theo sư phụ triển khai một chủ thuyết thực tiễn, dung hòa từ các Tôn Giáo Ðông Phương như Phật, Hồi và Thiên Chúa, để giải thoát con người đang trong thời mạt pháp, hỗn loạn với các tội ác đầy rẫy như buôn người, mãi dâm, ma túy. Từ năm 1992 đến nay, Pháp Luân Công bành trướng không ngừng, hiện có trên 60 triệu tín đồ mà hầu hết đều là những người nghèo khổ, thất nghiệp, bị đảng cộng sản vắt chanh bỏ vỏ. Giáo phái có 39 trung tâm huấn luyện,1800 chi nhánh khắp nước mà Ban Chỉ Huy đầu não chính là Hội Nghiên Cứu Pháp Luân Công tại Bắc Kinh, dù Lý Giáo Chủ đang phải tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ và bị chính quyền cộng sản truy nã như một tội phạm quốc tế. Theo các Nhà phân tích thời cuộc thì Pháp Luân Công hiện nay là một tổ chức đối đầu nguy hiểm tại Trung cộng, vì giáo phái này có khả năng huy động cùng một lúc nhiều cuộc biểu tình bao vây các trụ sở đảng, theo lệnh Giáo Chủ bằng điện thoại di động và mạng lưới Internet. Ngoài ra, khắp nơi ở Trung cộng nay đầy rẫy những Ban Hội từ nông thôn cho tới Thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Nam Kinh, Tế Nam, Thành Ðô, Tây An, Quảng Châu ... đến nỗi Nhậm kiệm Tân, viện trưởng tòa án tối cao Trung cộng phải lên tiếng báo động đỏ, còn bộ công an thì ra lệnh thẳng tay tiêu diệt. Trong lúc tuyệt đại dân chúng Tàu lầm than, đói rách thì bọn cán bộ đảng lớn nhỏ thi nhau ăn chơi trác táng. Theo thống kê của nhà nước thì từ năm 1992 tới nay, tỷ lệ viên chức nhà nước phạm pháp lên tới 12% với các tội danh tham nhũng, hối lộ ,ăn cắp của công, hợp tác với các băng đảng thuộc xã hội đen buôn người, ma túy.
Nhiều tên cán bộ cao cấp của đảng tại trung ương cũng như địa phương đã bị tử hình cũng như kết án nặng nề. Khắp nơi những băng hoại xảy ra hàng ngày như nước lũ, có nguy cơ cuốn phăng đảng theo. Việc xấu chưa giải quyết xong thì nửa đêm ngày 18.6.2000, Nhân Viên Cảng Dove (Anh), trong lúc khám xét xe hàng đông lạnh từ Hòa Lan sang, đã vô tình phát hiện được 34 xác đàn ông và 4 xác đàn bà, nằm chết cóng trên xe, giữa các thùng cà chua,chỉ còn 2 người đàn ông thoi thóp chờ chết. Tất cả nạn nhân đều là người Hoa, nhập cư lậu vào Âu Châu. Sự kiện trên làm cho thế giới kinh hoàng, nhất là các nước Âu, Mỹ phải họp khẩn cấp để tìm cách ngăn chận, nhưng còn lâu vì người Tàu cộng sản có trăm ngàn phương kế để lường gạt thiên hạ. Sự kiện lời qua tiếng lại giữa Mỹ và Trung cộng trong lúc đụng máy bay trên bầu trời ngoài khơi Ðảo Hải Nam, khiến cho người ta nhớ lại tình trạng ba nước Liên xô, Trung cộng và Hoa Kỳ, trong thời chiến tranh lạnh. Cũng nhờ có Henry Kissinger, Ngoại Trưởng thời Tổng Thống Nixon, tiết lộ các bí mật giữa ba nước trên trong tác phẩm The Kissinger Transcrips. Bằng chứng trên cho thấy cuộc đối đầu tay ba chẳng bao giờ chấm dứt. Ngày trước, Mỹ muốn hạ bệ Liên xô, đã không ngần ngại bán đứng đồng minh của mình. Nay bánh xe lịch sử lại quay tròn, ba kẻ thù cũ lại gặp nhau và lần này, không biết ai bán đứng ai? Nhưng rõ ràng trước mắt, hiện nay nước nào cũng căm ghét Trung cộng ra mặt, nhất là vùng Ðông Nam Á, kể luôn việt cộng. Trung cộng biết rõ mọi điều, kể cả tiềm năng quân sự của mình so với đối phương cộng với tình trạng rối ren trong nước. Ðó là kết luận của các hãng thông tấn ngoại quốc khi viết rằng: Tất cả cũng chỉ là trận đấu võ mồm thế thôi. Nhưng những ai có hiểu biết sẽ nhận ra tương lai sẽ có nhiều biến chuyển, mà kẻ bại trận sẽ là Trung cộng vì chế độ độc tài gian ác sẽ bị trời đất trừng phạt.
Đài Loan: Vết dao trí mạng sẽ làm vụn vỡ Trung Cộng trong tương lai gần.
Lục địa Trung Hoa đất rộng người đông, nhưng lãnh thổ phần lớn đều cưỡng chiếm của thiên hạ nên sự tranh chấp cứ triền miên tiếp diễn bao đời và hiện nay vẫn đang sôi sục giữa Trung cộng và các Quốc Gia bị vong quốc như Mãn Châu, Mông Cổ, Tân Cương, Miêu Tộc trong các Tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây, Tứ Xuyên. Hải Nam và gây cấn nhất vẫn là Tây Tạng vì nước này đã có Chính phủ lưu vong do Ðức Ðạt Lai Lạt Ma Ðời thứ 14 lãnh đạo, được thế giới công nhận. Qua lịch sử, ngày nay ta mới biết được, chính các Dân Tộc ngoại lai như Liêu-Tạng, Hồi-Miêu, Mông và gần nhất là người Mãn Thanh đã làm dùm cái việc thống nhất Trung quốc cho người Tàu, khi Họ vào làm chủ Trung Nguyên, chứ không phải người Hán, qua các thời kỳ Nam-Bắc Triều, Nguyên-Mông và Ðại Thanh. Tóm lại, người Hán ăn sò còn các Dân Tộc kia thì đổ vỏ hay nói một cách văn hóa thì Hán Tộc bị ngoại nhân khuất phục bằng quân sự ngược lại các Dân Tộc chiến thắng lại bị kẻ bại trận đồng hóa, khiến phải mất chì lẫn chài mà ôm mối hận lớn nhất vẫn là người Mãn Châu.
Ðó là thực trạng của Liên bang tạp chủng Trung Hoa ngày nay,giống như Liên bang Xô viết trước năm 1991, xa xa với nhìn thì thấy vững mạnh như Núi Thái Sơn nhưng khi được rờ mó, mới biết mặt thật chẳng qua cũng chỉ là những lâu đài được xây bằng các tảng băng tuyết chờ rã riệu. Xét cho cùng cái danh dự Thiên Triều trong quá khứ hay đại cường Trung cộng ngày nay, qua cái chính sách xâm lược cố hữu luôn vẫn là sự khoe khoang rung cây nhát khỉ các xứ yếu kém quanh vùng, hoặc giả đã cùng nhau đồng thuận để cùng chia nhau lợi lộc như mối tình Hoa-Việt (cộng sản) ngày nay.
Tuy nhiên không phải ai cũng để cho Trung cộng bá đạo, muốn làm gì thì làm, đó là vấn đề Ðài Loan từ năm 1949 tới nay, luôn công khai đối đầu với kẻ thù có dân số trên một tỷ người, đã hoài công trong việc với tay và được tháp tay bởi bọn tài phiện da trắng, chỉ biết có lợi nhuận, bất chấp đạo đức và lương tâm, qua trăm phương ngàn kế để chiếm lại cho được Ðảo Quốc nhỏ bé nhưng giàu mạnh này, như họ đã lấy lại các nhượng địa Hồng Kông và Ma Cao từ tay Anh và Bồ mà không phải tốn một viên đạn. Nói như Andrew Tully trong tác phẩm Central Intellingence Agency, thì từ năm 1949 tới nay, cho dù ai làm lãnh tụ tại Ðài Loan, cái mục tiêu và ý chí của Họ vẫn không thay đổi: ''quyết tâm tiêu diệt chế độ cộng sản,thống nhất Hoa Lục từ Ðài Loan và trên hết tìm đủ mọi phương kế đẩy Hoa Kỳ vào vòng chiến với Trung cộng...''
Do trên qua nhiều đời Tổng Thống Mỹ như Truman, Eisenhower, Kennedy và sau này là Nixon. Luôn xếp Thống Chế Tưởng Giới Thạch giống như Tướng Franco của Tây Ban Nha là biểu tượng của sự nguy hại. Năm 1972, Hoa Kỳ bắt tay với Mao-Chu, hợp tác chiến lược liên minh bao vây Liên xô. Tất cả những mưu mô trong canh bài bịp do Kissinger thao túng đạo diễn, kể luôn sự bán đứng Việt Nam Cộng Hòa và Ðài Loan cho khối cộng sản quốc tế, ngay từ thời điểm đó, mới đây đã được các Chuyên Gia thuộc Trung Tân Nghiên Cứu tại Ðại Học G. Washington, vận động Quốc Hội Mỹ giải cấm những tài liệu quá hạn giữa Hoa-Trung, rồi soạn thành một tài liệu lịch sử, gọi là Bí lục Kissinger, nói toạc móng heo tất cả mọi thủ thuật mà Hoa Kỳ đã làm để bảo vệ quyền lợi riêng tư của mình. Ngày 30.4.1975, Việt Nam Cộng Hòa bị tan rã vì nghèo và trên hết là do bọn phản tặc đội trăm lớp tại miền Nam bán đứng và đâm sau lưng, nhưng Ðài Loan thì không hề hấn gì, tuy rằng bị Mỹ-Anh-Pháp toa rập đuổi ra khỏi Liên Hiệp Quốc, để rước Trung cộng vào thay thế chỗ đứng mà Trung Hoa Dân Quốc đã chính thức hiện diện từ lâu đời. Cũng kể từ đó, Ðài Loan đã sáng mắt trước những người bạn đồng minh sinh tử và Họ đã quyết tâm tự lực, tự cường nên sớm trở thành một cường quốc đúng nghĩa tại Thái Bình Dương, khiến cho cả Mỹ-Nhật cũng phải nể nang huống gì là Trung cộng. Tất cả cũng chỉ vì Ðài Loan quá giàu và dĩ nhiên có tiền mua tiên cũng được. Ðó cũng là cái lý do mà từ Tổng Thống Lý Ðăng Huy cho tới Trần Thủy Biển luôn quyết liệt tuyên bố rằng MỖI BÊN EO BIỂN là một nước độc lập, mặc cho Trung cộng gào dọa. Trước tình trạng trên, nhiều nhà chính trị quốc tế đã dí dõm tuyên bố:
Ðây mới chính là con dao trí mạng, không biết bao giờ nó sẽ cắt miếng da beo Trung Hoa thành những mảng như thực trạng trước khi Khang Hy, Càng Long của Ðại Thanh cưỡng chiếm lãnh thổ của các Quốc Gia Ðộc Lập quanh vùng.
ÐẢO QUỐC ÐÀI LOAN:
Qua các văn kiện tìm thấy trong cổ sử Trung Hoa từ các đời Hạ, Thương, Châu, Tần, Hán, Tam Quốc, Tùy, Tống cho tới nhà Thanh, mỗi triều đại đều gọi Ðài Loan bằng những tên khác nhau. Chỉ riêng thời nhà Minh, Ðài Loan đã được gọi bằng nhiều tên như Tiểu Lưu Cầu, Tiểu Ðông, Ðạm Thủy, Ðông Phan, Bắc Cảng, Ðài Viên, Ðông Ðô. Còn cái tên Ðài Loan chỉ mới xuất hiện từ đời nhà Thanh. Cuối đời Minh, người Hòa Lan chiếm Ðảo này và gọi là Formosa, có nghĩa là miền đất trân quý, thơ mộng. Về cư dân nguyên thủy trên Ðảo đã được các Nhà nhân chủng học xếp vào nhóm BÁCH VIỆT, vì từ chủng tộc, cách ăn mặc, cho tới phong tục tập quán ... không khác bao nhiêu so với nhóm Việt Tộc trong đất liền, trên Ðảo Hải Nam và tại Việt Nam ngày nay. Tóm lại người Ðài Loan hiện nay là một tập thể gồm chín Sắc Tộc Thượng và nhóm Hán Tộc di cư từ đất liền ra đảo, mà tài liệu cho biết là đã tới cư ngụ ở đây vào thời nhà Tống, đa số thuộc các Tỉnh ven biển nhưng nhiều nhất là Phúc Kiến và Quảng Ðông. Năm 1660, Tướng nhà Minh là Trịnh Thành Công đã dành lại Ðài Loan trong tay người Hòa Lan, sau 38 năm bị đô hộ. Năm 1683, đời Vua Khang Hy thứ 22, nhà Thanh chính thức chiếm Ðài Loan.Năm 1874 đời Vua Ðồng Trị, Ðài Loan coi như một tiền đồn chống Nhật. Vào thời Quang Tự thứ 11 Ðài Loan trở thành một Tỉnh của Thanh Triều, được Tỉnh Trưởng Lưu Minh Truyền thực tâm kiến thiết và xây dựng các cơ sở hạ tầng, mở màn cho sự văn minh tiến bộ của Ðảo Quốc sau này. Từ năm 1895-1945, Ðài Loan bị Nhật Bản đô hộ theo tinh thần hiệp ước Mã Quan. Năm 1945, Nhật bại trận nên trao trả Ðài Loan lại cho Trung Hoa Dân Quốc và từ năm 1949 tới nay, Ðài Loan coi như là một Quốc Gia độc lập, đã trải qua bốn đời Tổng Thống đều anh minh, đó là Tưởng Giới Thạch, Tưởng Kính Quốc, Lý Ðăng Huy, Trần Thủy Biển. Thời kỳ 1949-1988 được coi là thời kỳ chiến tranh do Trung Hoa Quốc Dân Ðảng lãnh đạo. Từ năm 1988, Tổng Thống Lý Ðăng Huy hủy bỏ lệnh giới nghiêm, chính thức tuyên bố chấp nhận đảng cộng sản như là một thể chế chính trị, cho phép dân chúng Ðài Loan có quyền lựa chọn. Từ năm 1996 người dân trực tiếp đi bầu. Ðây là một đòn sát thủ mà chính quyền Ðài Loan dùng để đối phó với cường lực của Trung cộng cũng như áp lực quốc tế chèn ép Ðảo Quốc phải quay về một nước Trung Hoa cộng sản. Còn một lý do khác mà Ðài Loan thường nêu ra biện minh cho nền độc lập của mình, đó là việc có bao giờ Trung quốc coi Ðài Loan như là núm ruột của mình? Chỉ tới khi Trịnh Thành Công cùng đường mới chịu tới Ðảo hoang, giống như Tưởng Giới Thạch năm 1949, vậy Ðài Loan và Trung quốc liên hệ gì? Còn vấn đề có một số người Hoa sinh sống tại đây, như vậy tất cả những nơi nào có người Hoa sinh sống đều là lãnh thổ của Trung cộng? Thật ra Ðài Loan chỉ là một vùng đất hẹp. Dân số lại đông đảo, còn tài nguyên thì hầu như không có gì đáng kể, gồm có một Ðảo lớn và 79 hòn Ðảo nhỏ, nằm giữa Ðông Hải và cách bờ biển Phúc Kiến chừng 193 km. Riêng Ðảo lớn Ðài Loan có hình dạng giống như một củ khoai lang, có chiều dài chừng 400 km, chiều ngang 200 km, diện tích toàn vùng là 13.971 sq.ml hay là 36.185 km2 với dân số theo World Atlas năm 2000, chừng 23 triệu người. Khắp Ðảo, núi non chiếm hơn 3/4 diện tích cả nước, có tới 62 ngọn núi cao trên 3000 mét nhưng ngọn cao nhất là Tân Cao Sơn (3997m). Ðài Loan có mực độ dân cư cao nhất thế giới (558 người/1km2),82% dân số tập trung sống tại các Thành Phố lớn như Ðài Bắc (Thủ Ðô trên 3 triệu dân), Cao Hùng, Ðài Trung, Ðài Nam, Cơ Long. Ngoài ra ở Ðài Loan thường bị thiên tai như động đất, bão tố, lụt lội và hạn hán. Hiện nay Ðài Loan được coi như một cường quốc kinh tế của Á Châu, có ngoại tệ thặng dư trên 80 tỷ mỹ kim,lợi tức trung bình là 13.000 mỹ kim/1 năm.
ĐÀI LOAN NGÀY NAY:
Tôn Dật Tiên là người đã khai sinh ra Trung Hoa Dân Quốc, sau khi đã lật đổ được nhà Mãn Thanh trong cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911. Ông cũng là người đã khai sinh ra tam dân chủ nghĩa (Dân Tộc, Dân Quyền và Dân Sinh), mà Quốc Gia Ðài Loan đã dựa vào đó để thiết lập hệ thống Chính Phủ, Hiến Pháp, cũng là một triết lý sống chẳng những cho người Ðài Loan mà cả Hoa Kiều trên khắp thế giới, không chấp nhận chủ nghĩa vô thần đang bá đạo tại Hoa Lục và một vài phần đất còn sót lại trên thế giới như việt cộng, Bắc Cao và Cuba. Chính vì sự khác biệt rõ rệt giữa hai thể chế chính trị và mức sống của dân chúng hai nước quá chên lệch, cộng thêm cái gương mới sống chung hòa bình giữa Trung cộng-Hồng Kông-Ma Cao, khiến cho Ðài Loan nẩy sinh ý tưởng MUỐN Ðộc lập thật sự, dù rằng dân chúng trong nước vẫn có các lập trường chính trị khác biệt như chỉ muốn thống nhất khi có điều kiện hợp lý. Duy trì tình trạng cũ và đám đông muốn độc lập.
Ngoài ra trên vấn đề ngôn ngữ cũng là một phức tạp, tuy rằng cả hai nước, đều lấy tiếng Quan Thoại làm Quốc Ngữ nhưng cách kết cấu, mỗi nơi mỗi khác, trong lúc người Hồng Kông-Ðài Loan dùng Quan Thoại-Phồn Thể, thì Trung cộng sử dụng Quan Thoại-Giản Thể, đó là chưa kể tới các dị biệt phong thổ từ Ðịa phương. Trong thập niên cuối cùng của Thế Kỷ 20, Ðài Loan đứng đầu trong 4 con rồng kinh tế Á Châu dù rằng Ðảo Quốc đã bị Trung cộng cô lập trên trường ngoại giao, nhưng sự thành công quá mức của Ðài Loan, làm cho Âu Mỹ và Nhật lúc đó đã phản trắc bỏ rơi Họ, cũng đã phải muối mặt quay lại cầu cạnh trong sự giao dịch mua bán và tự nguyện bảo vệ ngấm ngầm Ðài Loan trước sự xâm lăng võ lực, bởi vì có quá nhiều quyền lợi ở đây. Ðể phá giải thế gọng kìm chiến lược của Tàu đỏ, Ðài Loan trong vòng 15 năm qua, đã tung tiền rất nhiều để đấu tư vào các nước quanh vùng như Việt Nam, Phi Luật Tân, Thái Lan và Mã Lai.
Thời gian từ 1997-2000, nhờ chính sách kinh tế năng động, góp vốn nên Ðài Loan đã thoát được cuộc khủng hoảng kinh tế kinh khiếp, đã làm cho Nam Dương, Thái Lan, Nam Hàn, Mễ Tây Cơ và Ba Tây gần sập tiệm nếu như không có Quỹ Tiền Tệ Thế Giới tiếp hơi, giúp vốn. Trong lãnh vực thị trường chứng khoáng,nhờ chủ trương tự do hóa, nên mấy năm gần đây đã thu hút được nhiều công ty ngoại quốc tham gia, trở thành liên mạng, chịu sự ảnh hưởng và biến động của các thị trường quốc tế tại Nữ Ước, Ðông Kinh, Luân Ðôn. Ngày 18.3.2000, cuộc bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống với 5 liên danh đã đem lại sinh khí mới cho Ðài Loan. Liên danh thứ 5 của Trần Thủy Biển, Cựu Thị Trưởng Ðài Bắc và Lữ Tú Liên, Nữ Huyện Trưởng Ðào Viên, đại diện cho Ðảng Dân Chủ Tiến Bộ đã trứng cử với 4,4 triệu phiếu, đạt tỷ lệ 39% tổng số cử tri đi bầu. Như vậy, Quốc Dân đảng sau 50 năm cầm quyền đã bị thảm bại trước Ðảng Dân Chủ Tiến Bộ. Ðiều này cho thấy dân chúng Ðài Loan đã quyết tâm ủng hộ cương lĩnh của đảng bằng lá phiếu, để cùng xây dựng một nước Cộng Hòa Ðài Loan chủ quyền, độc lập và tự chủ. Một luồng gió mới đã thổi vào sinh hoạt chính trị, càng khiến cho dân chúng vững tâm hơn trước đe dọa của kẻ thù, lúc nào cũng muốn ăn tươi nuốt sống Họ. Theo nhận xét của Giáo Sư Võ Chấn Tư tại Ðại Học Quốc Gia Ðài Bắc, thì đây là lần đầu tiên, có sự chuyển giao quyền lực một cách êm thắm giữa hai Ðảng chính trị và Ông cũng hy vọng một ngày nào đó, sự tái diễn của lịch sử lại xảy ra tại Hoa Lục, cũng giống như đã xảy ra tại Ðài Loan. Ðể chấm dứt bài diễn văn đầu tiên ngày nhậm chức, Tổng Thống Trần Thủy Biển đã hô to khẩu hiệu ''Tự Do Dân Chủ muôn năm''.
Trong vấn đề này, Liên Hiệp Quốc đã làm một chuyện vô duyên không thể tưởng tượng nổi, đó là dùng áp lực ngoại giao cấm quốc tế liên hệ với Ðài Loan, nên chỉ có 4 trong số 30 Quốc Gia công nhận Ðài Loan, tới tham dự buổi lễ, đó là các nước Thụy Sĩ, Nicaragua, Palau và Nauru. Riêng Mỹ thì Tổng Thống Bill Clinton, cử Laura Andrea Tyson, một Cựu Cố Vấn Tòa Bạch Ốc, tham dự vì hai nước đang liên hệ mua bán vũ khí, quân dụng lên tới hàng tỷ Mỹ kim. Phản ứng đầu tiên của Trung cộng qua bài diễn văn nhậm chức của Tổng Thống Trần Thủy Biển, ngoài sự dự liệu của mọi người, là Bắc Kinh chỉ nhắc tới việc Ðài Loan thiếu thành thực hay cố tình tránh né, để cùng với Trung cộng tiếp nhận, nguyên tắc một nước Trung Hoa. Ngày 12.8.2002 tại Ðài Bắc, Tổng Thống đã lên tiếng tại một cuộc họp của Liên Ðoàn Ðoàn Kết Ðài Loan rằng Ðảo Quốc chẳng bao giờ sợ hãi trước hăm dọa của Trung cộng nhưng để duy trì hòa khí giữa hai nước, ông không nhắc lại với Quốc Hội việc tổ chức trưng cầu dân ý về tương lai của Ðài Loan, cũng như xin lỗi vì phải hủy bỏ chương trình tập trận chống tàu ngầm. Tuy nhiên thái độ của Cựu Tổng Thống Lý Ðăng Huy thì khác, Ông tuyên bố ủng hộ lập trường của Tổng Thống Trần Thủy Biển rằng MỖI BÊN EO BIỂN ÐÀI LOAN là một nước, đó là sự thật trong mối quan hệ đặc biệt giữa Quốc Gia và Quốc Gia. Như lửa chế thêm dầu, ngày 18.8.2002,nhiều Ðồng Minh của Ðài Loan hô hào Liên Hiệp Quốc phải cứu xét để cường quốc kinh tế Ðài Loan được gia nhập Tổ Chức Quốc Tế này vì đó là quyền lợi chính đáng của 23 triệu người. Chắc chắn là đề nghị lại bị bác bỏ nhưng điều trên, ít ra cũng làm Trung cộng nao núng vì uy thế của kẻ có tiền.
Theo tin từ Reuters, sở dĩ Ðài Loan dự định mở cuộc trưng cầu dân ý vì đã thấy rõ dã tâm của họ Giang, qua việc đem mồi bắt bóng bọn thương buôn, trong hứa hẹn là sẽ bổ nhiệm một vài tên kinh doanh đang làm ăn tại Hoa Lục, vào làm cố vấn cho đảng và nhà nước về vấn đề Ðài Loan. Trò này, Giang đã thực hiện một lần thành công trong kế hoạch chia rẽ chính quyền và dân chúng Hồng Kông trước đây, nhưng lần này Giang coi như thất bại, khi Tổng Thống Ðài Loan tuyên bố: '
"Ðài Loan không phải là một phần lãnh thổ của một nước khác, không phải là chính quyền địa phương.Nói thẳng ra,Ðài Loan và Trung cộng,mỗi bên là một nước.Ngoài ra giới làm ăn buôn bán với Trung cộng,không phải là tiếng nói,cũng chẳng là đại diện cho ai cả,mà quyết định là do toàn dân Ðài Loan''.
Đài Loan, vết dao trí mạng trong tim phổi Trung cộng
1. Chiến cuộc năm 1954-1955 tại eo biển Đài LoanNăm 1949 Tưởng Giới Thạch thua chạy ra Ðài Loan nhưng nhờ đã chuẩn bị trước, cũng như đã di chuyển toàn bộ của cải vàng ngọc, bảo vật của Trung Hoa tới Ðảo, đồng thời được Hoa Kỳ viện trợ quân phí thêm 3 tỷ mỹ kim, vì vậy Tưởng Giới Thạch đã nhanh chóng lập lại Quân Ðội hơn 500.000 người, đủ sức phòng thủ Ðảo Quốc, ngoài ra còn nuôi mộng đổ bộ tái chiếm Hoa Lục, lúc đó cũng đang vướng chân vào nhiều vũng lầy tại Bắc Cao, Ðông Dương, Tây Tạng và vùng tam biên Miến-Lào-Vân Nam. Tháng 12.1954, sau khi đã chuẩn bị xong, Tưởng Giới Thạch tuyên bố tái chiếm Hoa Lục, nhiều cuộc đụng độ giữa hai bên bằng hải và không quân rất ác liệt. Thật ra chiến tranh đã chính thức xảy ra vào lúc 1 giờ 45 sáng ngày 3.9.1954 do đại pháo của hồng quân, dưới quyền chỉ huy của Tướng Chu Ðức, Tổng tư lệnh, bắn từ bờ Hạ Môn, Phúc Châu trong Tỉnh Phúc Kiến vào các Ðảo thuộc Trung Hoa Quốc Gia như Bành Hồ, Ðại Trần, Kim Môn và Mã Tổ.
Tại Hoa Kỳ, tình trạng bất đồng ý kiến đã xảy ra giữa Tổng Thống Eisenhower và Tư Lệnh Thái Bình Dương là Ðề Ðốc Radford quanh vụ Mỹ sẽ oanh tạc Hoa Lục để giải cứu Ðài Loan. Cuối cùng cả hai chịu theo phương cách của Ngoại Trưởng Dulles, nhờ Liên Hiệp Quốc kêu gọi hai bên ngưng bắn. Tuy nhiên lúc đó Liên xô và Trung cộng còn cùng phe nên đề nghị của Mỹ bị bác bỏ. Do trên cuộc chiến vẫn tiếp diễn, ngày 18.1.1955, cảm tử quân Trung cộng đổ bộ lên Ðảo Ykian trong nhóm Tachen cách Ðài Loan 350 km về hướng Bắc, nhưng Mỹ đã thuyết phục được Tưởng Giới Thạch bỏ nhóm Ðảo này, sau khi di chuyển hết 35.000 quân dân về Ðài Loan. Cũng kể từ giờ phút này, Mỹ cảnh cáo là nếu hồng quân tiếp tục tấn công các lãnh thổ khác của Trung Hoa Quốc Gia, một cuộc chiến tranh sẽ phải xảy ra và Mỹ phải oanh tạc Hoa Lục để bảo vệ Ðài Loan theo thỏa ước mà hai nước đã ký. Nói là làm,Ðệ Thất Hạm Ðội đã được điều động tới án ngữ kín vùng biển Phúc Kiến, được lệnh phản công khi Trung cộng vượt qua vùng ranh đỏ giới hạn, đồng thời Hoa Kỳ còn nói xa nói gần là sẽ sử dụng nguyên tử nếu Trung cộng dùng biển người như tại Bắc Cao. Và rồi mọi việc đâu cũng vào đó, Trung cộng qua lời cảnh cáo của Liên xô và trên hết là đang hồi tô son trét phấn để tham dự Ðại Hội các nước Á Phi đầu tiên tại Bandoung, Nam Dương, nên ngừng tấn công. Ðài Loan qua áp lực của Hoa Kỳ, cũng rút về các Ðảo Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ và Ðảo Ðài Loan cho tới hôm nay.
2. Đài Loan ám sát Chu ân Lai. Trong lúc Mao và Tưởng giao chiến ác liệt tại eo bể Ðài Loan, thì tại hải ngoại, chiến tranh gián điệp của cả hai phía cũng nhảy vọt. Hồng Kông được chọn làm nơi so tài và cuộc thử lửa đầu tiên đã xảy ra vào tháng 4.1955, khi Chu ân Lai Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Ngoại Giao Trung cộng, hướng dẫn một phái đoàn gồm 18 người, tham dự Hội Nghị Á Phi tại Bandoung. Trung cộng thuê một máy bay của Hãng Kashmir-Prinsess của Ấn Ðộ. Máy bay đã nổ trên không nhưng Chu ân Lai vẫn sống và có mặt tại Hội Nghị ngày 11.4.1955. Bí mật vụ nổ được giữ kín mãi 40 năm sau (1995), cả Trung cộng và Ðài Loan mới chịu vén bức màn bí mật. Chính Steve Tsang (Tăng Vũ Sinh), một chuyên viên tại Ðại Học Oxford, về Trung cộng, đã viết trên báo The China Quarterly, một tài liệu giải mật vụ án trên và kết luận thủ phạm là Cơ Quan Ðặc Vụ của Tưởng Giới Thạch nhưng do CIA lãnh đạo.
Theo tài liệu của Trung cộng thì đây là kế hoạch của Cục Bảo Mật Quốc Dân Ðảng giao cho Tổ Tình Báo Hồng Kông thi hành, mà người đứng đầu là Chu Vũ Thành và kẻ thi hành đặt chất nổ trên máy bay là Chu Câu, tức Chu Tân Minh, một công nhân lau máy bay làm việc trong Phi Trường Hồng Kông. Theo tin tức thu nhận, Chu ân Lai và các yếu nhân Trung cộng, trên đường từ Bắc Kinh tới Jakarta, máy bay sẽ ghé Phi Trường Khải Ðức để tiếp nhiên liệu và Chu Câu đã đặt được chất nổ trong thời gian đó. Lúc 12 giờ 15 ngày 11.4.1955, máy bay lại cất cánh và đã nổ gần bờ biển Nam Dương khoảng 100 dặm, vào lúc 6 giờ 30 cùng ngày .Ngoại trừ 3 trong 5 Phi Hành Ðoàn còn sống sót, tất cả hành khách đều chết, trong số này có Hoàng Dương, trưởng ban tân hoa xã tại Hồng Kông. Chu cùng nhiều cán bộ cao cấp thoát chết? Riêng Chu Câu thoát được sang Ðài Loan. Sau này qua những tài liệu từ mọi phía, mới biết được là Trung cộng đã nắm được kế hoạch phá máy bay giết Chu ân Lai, thế nhưng Trung cộng vẫn không thay đổi lộ trình, chịu hy sinh một vài con ngóe để có cớ chống Mỹ-Anh và Ðài Loan, riêng Chu cùng nhân viên cao cấp, lấy cớ bận họp nên phải đi Ngưỡng Quảng rồi mới ghé Nam Dương. Tất cả sự việc vào năm 1994, được Cốc Chính Văn lúc đó đã 85 tuổi, người đã giữ chức Tổ Trưởng Tổ Bảo Mật Cục Tình Báo Quốc Dân Ðảng, xác nhận do Tưởng Giới Thạch ra lệnh và ông cho biết, tin Chu đổi lộ trình, Ðài Loan cũng nắm biết nhưng vì thời giờ cấp bách nên không thể đổi kế hoạch. Riêng chất nổ TNT thuộc loại cao cấp, được đặc chế thành kem đánh răng, do CIA Hồng Kông cung cấp. Chiếc máy bay sau đó được Nam Dương trục vớt và ráp lại, theo nhân chứng còn sống, thì cánh phải phi cơ phát nổ trước và do bộ phận điều khiển bị tháo gỡ, nên phi cơ đã rơi rất nhanh từ cao độ 18.000 mét Anh xuống biển.
3. Trung cộng và Đài Loan chạy đua vũ lực.
Từ sau khi bị thằng đầy tớ phản chủ đá giò lái thua đau trên khắp Ðông Dương, Trung cộng quyết tâm trả thù và thề sẽ dạy cho cộng sản Việt Nam cũng như các nước trong đó có Ðài Loan những bài học. Ngoài vấn đề canh tân hóa quân đội, chế bom nguyên tử, hỏa tiễn, mua sắm tàu chiến, phi cơ để trang bị lên tới tận răng. Tuy nhiên, vấn đề thiết yếu và khiến thế giới lo sợ phập phồng, đó là đạo quân gián điệp đông đảo lên tới 540.200 người, mà Trung cộng đang bủa vây khắp thế giới. Tại Ðài Loan, theo báo cáo của Bộ Trưởng Nội Vụ Bành Hoài Chân, thì Trung cộng hiện có 50.000 gián điệp đang hoạt động trên Ðảo Quốc dưới lốt thương buôn, du lịch ... với mục đích phá hoại và làm lũng đoạt mọi cơ cấu chính quyền bằng đường lối rỉ tai, tuyên truyền. Ngoài ra gián điệp Trung cộng cũng tung hoành khắp nơi, cộng thêm giặc miệng, khiến cho tình trạng an ninh tại Á Châu vốn đã sôi động tại các lò sát sinh Trung Ðông, Vùng Vịnh, Trung Á, nay đang ngùn ngụt bốc khói tại Nam Dương, Phi Luật Tân, Triều Tiên và sôi nổi nhất tại biển Ðông, giữa Trung cộng, Ðài Loan và Việt Nam.
Ngoại trừ việt cộng không thấy nhắc tới, hầu hết như tất cả các Quốc Gia Ðông Nam Á đều chạy đua sắm vũ khí, mà nhiều nhất là các loại tàu chiến, tàu ngầm, phi cơ chiến đấu. Ðây là dấu hiệu cho thấy Thái Bình Dương bắt đầu dậy sóng, đoàn kình ngư năm nào của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ quen hát độc hành trên biển cả, rồi đây sẽ gặp rất là nhiều bạn đồng hành người thù kẻ bạn nhưng điều cần thiết nhất là Trung cộng chắc hẳn cũng đã thấy cái thế mạnh của Hải Quân các nước Ðông Nam Á sau này, đó là chưa kể con đại kình Nhật Bản, Nam Hàn, Ðài Loan. Lúc nào cũng chờ thời cơ xé xác thiên quốc như Hạm Ðội Nhật đã làm trong trận chiến Hoàng Hải năm 1895 và mới đây giữa Hải quân Bắc-Nam Hàn vào tháng 6.2002.
Riêng Trung cộng và Ðài Loan thì khỏi phải nói, nước nào hiện nay cũng đang giàu xụ, cho nên tha hồ vung tiền mua sắm. Mới đây, theo báo cáo của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, thì Trung cộng đã mua thêm của Nga 8 tàu ngầm loại tối tân Kilo Class, trị giá hơn hai tỷ mỹ kim. Số tàu này cộng với 60 chiếc cũ, dùng để phong tỏa Ðài Loan. Nhưng theo các chuyên viên, ngoài số tàu chiến mua của Nga, tàu đóng của Trung cộng tại Lữ Thuận và Sơn Ðông yếu kém về mọi mặt, nên khó lòng đạt được chiến thắng khi thật sự đụng trận vì Trung cộng chưa phải là một cường quốc trên đại dương.
Ðể đối phó, Ðài Loan đã mua của Mỹ 8 tàu ngầm tối tân, trang bị bằng thủy lôi và hỏa tiễn cực mạnh, có tầm hoạt động xa, cho nên đối với các loại chiến cụ này, Trung cộng làm sao bao vây kẻ thù cho nổi. Tuy nhiên Trung cộng cho biết đang có hạm đội tàu ngầm hùng mạnh, khiến cho Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ sẽ né sợ khi có chiến tranh. Hiện nay Ðài Loan đang nhờ Mỹ trang bị dùm cho một Hạm Ðội tàu ngầm tối tân, cộng thêm những Phi Ðội hiện có, toàn các loại máy bay hiện đại nhất của Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Do Thái. Một công ty đầu tư Liên doanh Ðài Loan-Hoa Kỳ tên là One Equity Partmenrs đã mua lại cộng ty chế tàu Ðức HDW 75% cổ phần,qua sự trợ giúp kỹ thuật của Ðức-Do Thái, từ đây Ðài Loan, qua cố vấn Mỹ công khai và tha hồ đóng tàu ngầm, trước sự hù hét không tiếc lời của Trung cộng.
VIỆT NAM - TRUNG CỘNG
Theo nhận xét của các nhà phân tích thời sự, thì dù Trung cộng không đánh với Ðài Loan, Trung cộng vẫn gây chiến với các nước quanh vùng trong đó có Việt Nam vì các mỏ dầu khí to lớn được phát hiện tại Hoàng Sa và Trường Sa. Lần trước trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1945-1975), Trung cộng tốn người, tốn của, rốt cuộc khi chiến tranh kết thúc chỉ có Mỹ, việt cộng và Nga thu lợi, còn Trung cộng thì mất hết kể cả những con bò sữa Hoa Kiều hải ngoại tại Việt Nam, Kampuchia, Lào, Thái. Lần này, Trung cộng lại làm một câu chuyện vô duyên thêm là lớn miệng hăm dọa các nước quanh vùng, khiến họ sợ hãi, phải bỏ tiền mua sắm vũ khí, làm giàu cho bọn da trắng, Do Thái, tạo thêm bất lợi và trên hết là tạo cơ hội và lý do để thế chiến lược bao vây con cọp đói của Hoa Kỳ, Nam Hàn, Nhật Bản, Úc và Tân Tây Lan thành hình. Tóm lại Trung cộng ngày nay đang bốn bề vây hãm ,ngày xưa Kissinger dụ Mao-Chu liên minh chống Liên xô, ngày nay Mỹ cũng đang dụ Putin liên minh để hạ độc thủ Trung cộng như ngày trước, lịch sử thì ra vẫn là sự xoay vần. Có người bảo Ðài Loan hiện đang bỏ ra cả 70 tỷ đô la đầu tư vào Hoa Lục, hai bên đang làm ăn ngon lành,t hì làm sao có chiến tranh được. Chuyện này thật ra đâu có mới mẻ gì vì tuy không ra đời chính thức, khối kinh tế Trung Hoa (C.E.A Chinese Economic Area) cũng đã được thành lập giữa ba nước Trung cộng, Ðài Loan và Hồng Kông vào năm 1978, tức là sau khi Trung cộng mở cửa, đổi mới kinh tế và kêu gọi đầu tư quốc tế. Khối gọi tên là Ðại Trung Hoa hay Ðại Hán vì nó chỉ gồm có ba nước nói tiếng Trung Hoa. Riêng Tân Gia Ba không được vào vì chỉ có 70% gốc Trung Hoa và số dân này không nói tiếng Hán. Ðặc biệt của khối kinh tế này là chỉ nói tới chuyện làm giàu mà thôi, còn về chính trị, lập trường, đường ai ấy đi cho nên Trung cộng và Ðài Loan vẫn giữ nguyên thái độ cứng rắn về Quốc phòng, Lãnh thổ và thể chế chính trị. Tuy nhiên để làm ăn chung cùng kiếm tiền.
Trung cộng đồng ý từ bỏ phần giáo điều của chủ thuyết Mac-Le-Mao trong sinh hoạt kinh tế, để chấp nhận kinh tế thị trường theo tư bản. Ðài Loan qua Quốc Dân đảng cũng chấp nhận từ bỏ độc quyền, cho phép chính phủ và quốc dân có quyền mang vốn để đầu tư vào Hoa Lục kiếm lời.Riêng chính phủ Anh cũng cho phép thương gia Trung cộng và Hồng Kông hợp tác thương mại. Cũng chính nhờ sự hòa giải hợp tác này, mà họ Giang của Trung cộng đã dùng mồi danh lợi khuyến dụ được một số lớn gian thương Hồng Kông phản bội, kết quả người Anh phải bỏ Hồng Kông trong đắng cay. Bây giờ Giang lại bổn cũ soạn lại nhưng đã bị Ðài Loan chặn họng tức khắc, khiến cho Bắc Kinh lại nổi nóng và hăm đánh như đã từng hăm đánh Ðài Loan nhiều lần. Có điều người Ðài Loan du lịch hay thăm bà con, đi thì về chứ không ai xin ở lại Trung cộng tỵ nạn chính trị, điều đó cho thấy đâu mới là thiên đàng xã nghĩa. Một mai khi chiến tranh kết thúc, thiên triều chắc chắn sẽ bại trận, các nước Ðài Loan, Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Qúy Châu, Hải Nam chắc chắn sẽ tách thành các nước độc lập. Không biết lúc đó việt cộng nếu còn, có dám đòi lại biên cương, Hải Ðảo và phần biển đã bán nhượng cho kẻ thù bao năm qua?
Tài liệu tham khảo: Người Hoa tại Việt Nam của Nguyễn Văn Huy. Chân nhung nước Nhật ở Á Châu của Nigel Holloway và Phillip Bowring Bí lục Kissinger của Bill Burr Ðài Loan của Nguyễn Hữu Vinh Ðài Loan tiến trình hóa rồng của Hoàng Gia Thụ C.I.A của Andrew Tully Lịch sử chiến tranh lạnh của André Fontaine Tội ác trên thế giới của Kiêm Thêm Việt Nam và trật tự Trung Hoa của Nguyễn Xuân Nghĩa. Các báo Việt Báo, Người Việt, Diễn Ðàn Phụ Nữ, Tiền Phong, Hồn Việt ...
Trung Cộng cơn ác mộng của nhân loại trong thế kỷ XXI
Tháng 2.1972, Mao trạch Ðông và toàn bộ đảng cộng sản Tàu, trải thảm nhung, mở rèm sắt, chào đón vợ chồng Nixon và Kissinger tới thăm hữu nghị Trung cộng. Sau đó, Mỹ chủ động viện trợ các vũ khí chiến lược kể cả vệ tinh cung cấp tình báo cho kẻ thù, để ly gián tình đồng chí của Liên xô và Trung cộng. Tháng 7.1973, James Lilley, xuất thân là CIA sau trở thành Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Trung cộng, đã được cử làm Trưởng Trạm Tình Báo Hoa Kỳ, dọc theo ranh giới Nga Hoa. Tháng 4.1975, Tổng Thống Carter lại viện trợ cho Trung cộng nhiều thiết bị điện tử hiện đại và các quân trang quân dụng để Tàu cải tổ lại hệ thống quân đội vốn ô hợp và yếu kém. Cũng kể từ đó, mối quan hệ giữa hai nước càng lúc càng tốt đẹp. Tuy ngoài miệng Mỹ lúc nào cũng phản đối Trung cộng về vụ Thiên An Môn và chà đạp nhân quyền, nhưng đột nhiên không khí chiến tranh lạnh giữa hai khối tây phương và cộng sản đã chấm dứt từ năm 1991 khi Liên bang Xô viết và khối Ðông Âu tan rã, lại được hâm nóng hừng hực sự vụ Mỹ thẳng thừng tố cáo Trung cộng đã cho gián điệp là Wen Lee Ho, ăn cắp hồ sơ chế tạo vũ khí hạch nhân tại Trung Tâm Nguyên Tử Los Alamos (Hoa Kỳ). Cũng kể từ ngày 8.3.1999 nước Mỹ xôn xao và báo động về tin tức cực kỳ nghiêm trọng trên và dù Thủ Tướng Trung cộng là Zhu Rongji (Chu dung Cơ) đã đến Mỹ để giải độc ngày 8.4.1999 cũng như Tổng Thống Bill Clinton hết sức trấn an dân chúng nhưng làn sóng chống đối Trung cộng vẫn dữ dội. Nhân loại chưa bước chân vào ngưỡng cửa của Thế Kỷ 21, thì trong năm cuối cùng (1999) đã xảy ra nhiều biến cố đẫm máu tại Iraq, Ấn Ðộ, Nam Dương, Kosovo. Tuy nhiên đây cũng chỉ là những vẫn đề cục bộ, những đám cháy nhỏ có thể lần hồi dập tắt, nếu đem so sánh với dã tâm thôn tính toàn cầu của Trung cộng. Chuyện gì sẽ xảy đến cho các nạn nhân chiến tranh? Như quá khứ Mông Cổ đã làm cỏ từ Á sang Âu vào Thế Kỷ 13, Trung cộng tấn công các lãnh thổ các Quốc Gia độc lập Mãn Châu, Mông Cổ, Tân Cương, Tây Tạng, Việt Nam. Cơn ác mộng của nhân loại đã bắt đầu ló dạng và theo sự ước đoán của Giáo Sư Samuel Huntington, Ðại Học Harvard trong tác phẩm The Clash of Civilisations and The Remarking of World Order, thì khi xảy ra cuộc chiến, Việt Nam sẽ là vùng đất đầu tiên để Trung cộng giương oai, ló vuốt với nhân loại.
Trung cộng đánh cắp công thức chế tạo bom trung hòa tử Ngày 24.4.1970, tại bệ phóng Tửu Tuyền, bên dòng Sông Nhược Thủy, Tỉnh Cam Túc gần Sa Mạc Gobi, thuộc miền Tây Bắc nước Tàu. Lần đầu tiên Trung cộng chế tạo thành công hỏa tiễn CZ1 (trường trinh 1), để phóng vào quỹ đạo vệ tinh Ðông Phương Hồng 1. Tính đến nay, Trung cộng đã có 49 vệ tinh được phóng đi từ các căn cứ Tây Xương (Tứ Xuyên), Thái Nguyên (Sơn Tây), Tửu Tuyền (Cam Túc) và Ðảo Hải Nam. Trong các căn cứ trên, Tây Xương được coi như hiện đại nhất, được xây dựng từ năm 1975 và hoàn thành vào ngày 7.4.1990, nằm trên một cao nguyên 1500 m, cách Thành Ðô 500 km về hướng Ðông Nam. Năm 1992, Trung cộng phóng vệ tinh cho Úc Ðại Lợi, có mời Trương Kế Cao, Chủ Bút Dân Sinh (Ðài Loan) và nhiều ký giả Tây Phương đến tận nơi để chiêm ngưỡng. Nhưng lần đó (1992) cũng như sự kiện ngày 15.2.1996 tại Tây Xương hỏa tiễn và vệ tinh vừa phóng ra đã bị tiêu hủy, làm nhiều nước hủy bỏ hợp đồng hợp tác không gian với Trung cộng. Chính những thất bại liên tiếp trên, đã cho Trung cộng phải dùng gián điệp cũng như tiền bạc để đánh cắp các hồ sơ bí mật của Tây Phương và Mỹ, bổ túc lại các nghiên cứu kỹ thuật của họ trong mất chục năm qua. Ngày 18.7.1998, trong khi Trung cộng và Pháp hân hoan chúc mừng vụ phóng vệ tinh thành công tại căn cứ Tây Xương, thì Mỹ phản pháo đầu tiên, tố cáo các thiết bị ở căn cứ không gian Tây Xương, không đạt tiêu chuẩn quốc tế và thiếu sự an toàn, đồng thời ngày 21.5.1998 trước đó, Quốc Hội Mỹ đã ban hành một đạo luật gồm 4 khoản, cấm Hoa Kỳ không được hợp tác ngành không gian với Trung cộng. Ngày 8.3.1999, chánh phủ Mỹ lại lên tiếng cáo buộc Trung cộng đã gài điệp viên Wen Lee Ho vào làm việc tại căn cứ Nguyên Tử Los Alamos.Chính Lee đã lợi dụng chức vụ, cung cấp nhiều tài liệu tuyệt mật cho Trung cộng. Hành động trên đã bị CIA phát hiện và theo dõi từ ba năm qua, cuối cùng Lee bị sa thải để điều tra sự việc đánh cắp bí mật W88, liên quan tới đầu đạn hạt nhân tối tân nhất của Hoa Kỳ hiện nay. Tất cả hồ sơ về Lee cũng như các nghi vấn bị lộ tin ra ngoài, tại các căn cứ Nguyên tử khác ở Sandia (New Mexico), Lawrence Livermore (California) đã được đệ trình Quốc Hội. Nội vụ hiện trong vòng điều tra nhưng chắc tìm được chứng cớ để buộc tội đương sự. Riêng Trung cộng thì bác bỏ cáo buộc này. Thật ra những tài liệu mật tại Căn Cứ Los Alamos, luôn luôn bị tiết lộ ra ngay từ thập niên 1980, thời Tổng Thống Reagan và Bush. Riêng nội vụ sau khi đổ bể, Tổng Thống Bill Clinton đã bị cáo buộc và chỉ trích nặng nề là tắc trách, làm Mỹ bị đánh cắp một số đầu đạn hạch nhân vào năm 1995. Ðầu mối phát hiện được Lee làm gián điệp cho Trung cộng, bắt nguồn từ vụ vợ chồng điệp viên Kurt Stand và Theresa Squillacote, nhân viên cao cấp phục vụ tại Tòa Bạch Ốc, bị bắt và kết tội ngày 22.1.1999.Do sự khai thác trên, FBI và CIA đã phát hiện được sự hoạt động bí mật của Lee. Căn Cứ Thí Nghiệm Nguyên Tử Los Alamos được thành lập vào năm 1943 trong bí mật tuyệt đối với danh xưng là Ngọn Ðồi. Chính quả bom nguyên tử của Mỹ cũng được chế tạo tại Căn Cứ này. Vì tính cách quan trọng, nên căn cứ Los Alamos coi như được phòng thủ cẩn mật nhất nước Mỹ, vì ngoài các hồ sơ còn có Khu Tech 55 tích trữ chất phóng xạ Platonium. Tuy vậy, nhiều vụ phản bội đã xảy ra tại đây liên tục như vụ sáu Khoa Học Gia Mỹ bán tài liệu mật cho Liên xô năm 1940, vụ Khoa Học Gia gốc Ðức Klans Fuchs, hợp tác với nhiều Khoa Học Gia Mỹ như Etkel, Julius Rosenberg, Theodore Hall cung cấp tài liệu chế tạo bom nguyên tử cho Liên xô, nhờ vậy nước này đã chạy đua với Mỹ trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh.
Trung Cộng: Cơn ác mộng của các nước Á Châu Và Thế Giới.
Phân tích tiền lực của quân đội Trung cộng ngày nay, các chiến lược gia và quân sự của Mỹ nhận định rằng: ''Trung cộng hiện nay là một cơn ác mộng đối với các nước Ðông Nam Á, kể cả thế giới vì khả năng dàn quân nhanh chóng tới các vùng chiến sự bất cứ nơi nào". Lực lượng đặc biệt về quân sự này, rõ ràng nói lên quyết tâm làm cỏ nhân loại khi cần như nhảy vó ngựa năm xưa của Hốt Tất Liệt. Ðể đạt được mục tiêu quân sự, Trung cộng đã tăng cường quân số lên đến 2 triệu 300 ngàn người, chia thành 84 sư đoàn bộ binh và 10 sư đoàn thiết giáp, trang bị từ 5.000-8.000 xe thiết giáp đủ loại. Ngoài ra lập thêm các binh chủng thủy quân lục chiến và nhảy dù, sử dụng nhiều tàu chiến và phi cơ chiến đấu. Sự tăng trưởng quân đội khiến cho Trung cộng ngày nay là cái đích để các Quốc Gia trong vùng bất thân thiện và đề phòng. Các mục tiêu có thể bị tấn công không riêng gì Việt Nam, Ðài Loan hay các nước Ðông Nam Á, kể luôn Ấn Ðộ, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Việc lộng hành trên và cũng từ luận điệu muốn đuổi Mỹ ra khỏi Á Châu, để Trung cộng trám chỗ, đủ khiến Mỹ, Nhật có cớ thành lập hiệp định an ninh Mỹ-Nhật ngày 17.8.1997, nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho Nhật, Mỹ ,Ðại Hàn, Ðài Loan và Phi Luật Tân. Từ ngày 14.12 đến 16.12.1997,Thủ Tướng Nhật là Hashimoto đã đại diện Mỹ, đi khắp các nước Ðông Nam Á,vừa mở hầu bao hứa giúp đỡ họ qua cơn khủng hoảng kinh tế, vừa yêu cầu xác nhận lập trường là theo Mỹ-Nhật hay Trung cộng. Dĩ nhiên trước đồng Yên và Ðô La vạn năng, các nước trên đã Okey theo Mỹ-Nhật, dù lúc đó có sự hiện diện của hoàng đế đỏ Giang trạch Dân cũng đang đi kinh lý các nước Ðông Nam Á. Một mặt ve vãn trong khối Asean, mặt khác Trung cộng kết thân với Iraq, hứa mua dầu và đổi lại sẽ cung cấp các vũ khí hiện đại để chống lại Mỹ và Tây Phương. Người Mỹ đã phản ứng lại bằng cách yêu cầu tòa đại sứ Trung cộng rút ngay khỏi Baghdad lập tức, để Liên Quân Anh Mỹ oanh tạc Iraq ngày 17.12.1998 đồng thời còn công khai ra giá cái đầu của Sadam Hussein là 1 triệu đồng, khiến cho Trung cộng tức ói máu nhưng vẫn im lặng. Cuối cùng, để khỏa lấp phần nào những gay cấn vừa xảy ra, Trung cộng mời Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ sang thăm xã giao ngày 17.1.1999 và muốn mua các máy móc siêu điện tử, nhưng bị Cohen thẳng tay từ chối và đến nay, Quốc Hội Mỹ cũng đã ra lệnh ngưng bán các thiết bị trên cho Trung cộng.
Tóm lại dù không có đủ khả năng để chống chọi trực tiếp với Hoa Kỳ, nhưng Trung cộng vẫn thừa sức chơi lén nhân loại với kho vũ khí hiện đại gồm có bom nguyên tử, hạt nhân, hóa học, vi trùng và đạo quân gián điệp với hai nhiệm vụ tình báo và khủng bố tới 540.200 người do Lý Bằng, Giang trạch Dân, Kiều Thạch và Dương thạch Côn chỉ huy ,đang hoạt động khắp nơi trên Thế giới kể cả Hoa Kỳ. Trung cộng dùng chính sách đồng hóa để tiêu diệt các dân tộc bị trị Lãnh thổ nguyên thủy của người Hán được gọi là Trung Nguyên chỉ gồm có 18 Tỉnh là Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Ðông, Sơn Tây, Thiểm Tây ,Cam Túc, An Huy, Giang Tô, Giang Tây, Chiết Giang, Tứ Xuyên, Phúc Kiến, Hồ Bắc, Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Ðông và Quảng Tây. Ðời các Vua Khang Hy và Càn Long, nhà Thanh đem Mãn Châu sát nhập vào Trung Hoa, đồng thời chiếm thêm vùng Nội Mông, Hồi Cương để lập thêm các Tỉnh mới như Thanh Hải, Tây Khang, Tây Hạ, Sát Cáp Nhĩ, Liệc Ninh, Thẩm Dương và Hắc Long Giang. Năm 1949, Trung cộng sau khi đuổi Tưởng Giới Thạch ra khỏi Hoa Lục, xua quân chiếm Quốc Gia Tây Tạng, Ðảo Hải Nam. Riêng Ðảo Ðài Loan đến nay vẫn coi như một Quốc Gia riêng biệt. Hồng Kông đã trả về Trung cộng năm 1997 và Ma Cao vào ngày 31.12.1999. Nhờ xâm lăng đất đai của các Dân Tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Hồi Cương và Tây Tạng nên Trung cộng hiện nay có lãnh thổ đứng thứ ba trên thế giới (sau Nga và Gia Nã Ðại),với diện tích là 9.560.734 km2 và dân số là 1 tỷ 139 triệu người.
Chính sách đồng hóa để tiêu diệt của các Dân Tộc nhược tiểu là thái độ muôn đời của vua chúa Trung Hoa, mới đây được đem áp dụng tại Nội Mông và Tây Tạng do Chen Kui Yuan, nguyên thái thú tại Nội Mông, sau khi bình định xong vùng đất trên, thuyên chuyển tới Tây Tạng để tiêu diệt Dân Tộc này. Ðể tiến hành chính sách thâm độc trên, Trung cộng cho di dân ào ạt vào lãnh thổ Tây Tạng. Ngoài ra ngăn cấm sự sanh đẻ các dân bản xứ, bằng kế hoạch phá thai và số lớn người Tây Tạng đã chết khi nổi lên chống lại sự xâm lăng của người Tàu. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, vị lãnh đạo tinh thần và thế tục của Dân Tộc Tây Tạng đã được các điệp viên CIA giải thoát cùng với đoàn tùy tùng hơn 100 người, vào một đêm tối 17.3.1959, đưa ngài đến vùng an toàn tại Népal. Hạn chế sinh sản vẫn không làm tiêu diệt hết dân Tây Tạng, Trung cộng lại thi hành thêm chánh sách đàn áp Phật Giáo Tây Tạng, để dân chúng địa phương mất gốc, dễ dàng bị đồng hóa theo người Tàu. Bao nhiêu chùa chiền tại Tây Tạng bị phá bỏ, hơn 1 triệu người phần lớn là tu sĩ bị sát hại. Số dân chúng và tu sĩ còn lại bị cán bộ công an Trung cộng nhồi sọ hàng ngày. Những ai chống lại đều bị trục xuất khỏi Thành Phố, cấm hành nghề. Chữ Tây Tạng được lần hồi thay thế bằng Hán Tự, tại các Viện Ðại Học ở Lhassa. Mặt khác, đối với các tu sĩ sống trong các hang động hẻo lánh, cũng bị Bắc Kinh đánh thuế, ai khước từ sẽ bị đuổi đi nơi khác. Trước sự bạo hành thô bỉ trên, lớp lớp người Tây Tạng nổi lên chống lại Trung cộng bằng đủ mọi hình thức, trong đó chống đối mạnh nhất vẫn là Bộ Tộc Khang Ba được sự yểm trợ quân sự của CIA. Nhiều Tăng lữ và dân chúng đã phải bỏ Quê Hương để lưu vong. Nhiều người đã chết vì đói lạnh, sau khi vượt qua con đường dài hiểm nguy giữa Tây Tạng và Népal để tới Katmandoa. Ngoài Tây Tạng, Hồi Cương, Nội Mông, Mãn Châu.
Trung cộng luôn hướng về Ðông Nam Á và nạn nhân đầu tiên vẫn là Việt Nam, tiền đồn ngăn cản bước chân của Trung cộng xuống miền Nam. Tháng 1.1974, Trung cộng xua quân cưỡng chiếm Ðảo Hoàng Sa của Việt Nam. Tháng 2.1979, một trận ác chiến đã xảy ra giữa việt cộng và Tàu cộng, tàn phá hoàn toàn 5 Tỉnh biên giới của Việt Nam là Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Lào Kay, Tuyên Quang thành bình địa. Năm 1988, Trung cộng vẽ lại bản đồ, nới rộng lãnh hải, tuyên bố chủ quyền 85% trên biển Ðông, rồi dùng vũ lực cưỡng chiếm 7 Ðảo của Việt Nam tại Quần Ðảo Trường Sa. Năm 1991, chiếm thêm 8 Ðảo nữa, gây tình trạng hỗn loạn trong vùng. Hành động bá quyền trên, khiến cho toàn thể các Quốc Gia vùng Ðông Nam Á căm giận .Tất cả các nước trên vội tăng ngân sách quốc phòng, mua sắm thêm nhiều tàu chiến và phi cơ quân sự tối tân của Nga, Mỹ, Anh, Pháp. Riêng Thái Lan đã có một hàng không mẫu hạm. Việt Nam được cho gia nhập khối Asean để làm vật bung xung cản bước tiến của quân đội Trung cộng khi có chiến tranh. Sự phản ứng của những nước trong vùng, sự ra đời của Liên minh Mỹ-Nhật và gần nhất là quyết tâm bảo vệ Ðài Loan của Mỹ, làm chùn bước Trung cộng phần nào nhưng vẫn không từ bỏ ý định xâm lăng các nước lân bang và làm bá chủ thủy đạo Ðông Hải. Quyền lực trên biển Thái Bình Dương của Hải Quân Hoa Kỳ và sự khủng hoảng trên Biển Đông do Trung cộng gây ra. Từ sau Ðệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ loại bỏ Hải Quân Nhật Bản và chiếm địa vị hàng đầu trong vùng Thái Bình Dương. Từ năm 1945, Hoa Kỳ đã tham dự 9 cuộc chiến quan trọng và Lực Lượng Hải Quân vẫn là nồng cốt để đạt chiến thắng, điển hình là Ðệ Lục Hạm Ðội Mỹ, luôn luôn hiện diện ngoài khơi Libye, để kềm chế nước này từ năm 1980 trở về sau, không dám xưng hùng, xưng bá tại Châu Phi và vùng Cận Ðông. Ðể duy trì quyền lực trên biển, Hải Quân Mỹ luôn luôn sẵn có 12 Hàng không mẫu hạm và phi đoàn chiến thuật. Ngoài ra Mỹ cũng thực hiện đóng các Hàng không mẫu hạm thế hệ Nimitz và CVX. Tàu Nimitz chạy bằng năng lượng nguyên tử và có trọng tải 90.000 tấn, dài 335 m. Trên mỗi Hàng không Nimitz đều có trang bị bốn dàn phóng bằng hơi nước, bốn dây cáp giữ máy bay lại khi hạ cánh, chứa một phi đoàn gồm 76 chiến đấu cơ, oanh tạc cơ, thám thính cơ và trực thăng. Từ năm 1995, công ty đóng tàu Newport New Shipbuilding đã chuyển giao cho Hải Quân Mỹ Hàng không mẫu hạm nguyên tử John Stennis, năm 1998 lại giao chiếc Haray Truman, còn lại năm 2003 sẽ hoàn thành chiếc Ronald Reagan (chiếc thứ 9 trong thế hệ tàu nguyên tử Nimitz). Hiện Mỹ đang thử nghiệm các loại tàu CVX để thay dần các loại tàu cũ, hầu hoạt động hữu hiệu trong suốt Thế Kỷ 21.
So sánh lực lượng Hải Quân Mỹ và Trung cộng, ta thấy sự tương quan chênh lệch như đất trời. Nhưng Trung cộng lúc nào cũng tự đắc coi như mình là bá chủ vùng Ðông Hải, giống như thái độ xưa kia của Ming Thành Tổ, vào năm 1405 đem một đoàn thuyền buồn, dưới quyền chỉ huy của Thang Su Ðô Ðốc là Thái Giám Trịnh Hòa, đi thị uy các nước man di và xả thân theo lệnh của Thiên Tử dùng vũ lực khuất phục các nơi chống lại. Mấy lúc gần đây, Trung cộng cũng bắt chước Nhà Minh, đem tàu đi cắm cờ, chiếm Ðảo của các nước Ðông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Cuộc đụng độ trên biển vào tháng 3.1988, kéo dài 28 phút với lời rêu rao của Trung cộng là đã bắn chìm 2 chiến hạm và giết chết 77 thủy thủ. Lời rêu rao cũng là thông điệp báo cho các nước trong vùng là Trung cộng sẵn sàng sử dụng vũ lực để chiếm chủ quyền trên Ðông Hải. Cái quan trọng không phải là khai thác các tiềm năng hứa hẹn sẽ có ở Hoàng Sa hay Trường Sa, mà là sự chế ngự thủy đạo chuyên chở dầu của các Quốc Gia Ðại Hàn, Nhật, Ðài Loan kể cả Mỹ. Sau đại chiến thứ hai, nhiều nước trong vùng như Ðài Loan, Trung cộng, Phi Luật Tân, Brunei và Mã Lai đều tuyên bố chủ quyền trên Quần Ðảo Trường Sa của Việt Nam. Trừ Brunei, tất cả các nước đều có quân đóng trên Ðảo, trong đó Việt Nam chiếm 24 Ðảo. Riêng Trung cộng đã cho xây dựng sân bay và bến tàu trên Ðảo Woody, chiếm được của Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 1.1974. Ðạo luật vừa được Trung cộng ban hành năm 1998, chẳng những xác nhận tất cả các Hải Ðảo, cồn cát, nước, trời, trong vùng Ðông Hải đều thuộc Trung cộng. Ngoài ra hàm ý sâu xa, Trung cộng cấm Hạm Ðội Thứ 7 của Mỹ không được lai vãng tới lãnh địa của họ, nếu không được cho phép. Ðến nay hành động dao to búa lớn trên, chỉ làm thiên hạ ghét để cùng kết bè, chờ dịp hạ độc thủ. Riêng Hoa Kỳ, Nhật Bản kể cả Ðài Loan, Ðại Hàn chẳng thèm để ý tới, dù họ biết đây không phải là lời nói suông của một con thú sắp săn mồi, nhất là con thú đó có thể có khả năng làm liều bằng lực lượng tàu ngầm nguyên tử đứng thứ ba trên Thế giới. Nhưng dù đã rút ra khỏi Vịnh Subic, Hải Quân vẫn là chúa tể trên Thái Bình Dương ít ra thêm vài thập niên nữa. Theo tin tình báo quốc tế, lực lượng hải quân Trung cộng hiện có 93 tàu ngầm trong đó có 1 tàu nguyên tử phóng hỏa tiễn liên lục địa và ba tàu nguyên tử khác có khả năng phóng hỏa tiễn tuần hành quy ước, 56 chiến hạm, 19 khu trục hạm, 58 tàu đổ bộ và một lữ đoàn thủy quân lục chiến 6.000 người. Ngoài ra còn có ba tàu tiếp tế viễn liên, tám tàu yểm trợ cho tiền thủy đỉnh với 894 phi cơ chiến đấu và 55 trực thăng võ trang.Trước đà tăng trưởng của hải quân Trung cộng, các nước Nam Dương, Mã Lai, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân đều mua thêm nhiều tàu chiến và các loại chiến đấu cơ tối tân của Anh, Mỹ, Ðức, Pháp. Trong khi đó cộng sản Việt Nam chỉ có 7 khu trục hạm hạng nhẹ, 62 chiến hạm và chiến đỉnh tuần duyên cùng 27.000 lính Hải quân. Hiện Trung cộng còn e dè chưa dám lộng hành quá đáng, một phần vì nể sợ sự can thiệp của Hoa kỳ, phần khác không dám đụng chạn tới Nhật Bản, vốn coi biển đông như mạch máu và con tim của mình. __
Mường Giang
No comments:
Post a Comment