Sunday, August 17, 2008

Việt Nam Và Bài Học Ba Lan


Q. Hương

Một thảm kịch xảy ra vào những ngày cuối cùng của năm 2006 và những ngày đầu năm 2007 ở Ba Lan đã ảnh hưởng rất nhiều đến thanh danh của giáo hội Công giáo quốc gia này, một giáo hội kiên trì và dũng cảm trong việc chống lại chủ nghĩa và chế độ cộng sản, và đã đóng góp rất nhiều cho sự sụp đổ của Đế Quốc Cộng Sản Đệ Tam. Những gì xảy ra nơi giáo hội công giáo Ba Lan có thể hé lộ một trường hợp tương tự cho các giáo hội ở các quốc gia cộng sản khác, trước đây và hiện nay, đặc biệt là ở Việt Nam không?

DIỄN BIẾN CỦA THẢM KỊCH

Giám Mục Stanislaw Wielgus

Chúa Nhật 07-01-2007, ngày chánh thức nhậm chức Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Warsaw, thủ đô Ba Lan, của tân Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus, đã trở thành ngày ông từ chức khỏi trách vụ này. Trước đó, Wielgus làm giáo sư, viện trưởng đại học công giáo Lublin và giám mục giáo phận Plock. Ngày 6-12-2006, Đức Giáo Hoàng Bernedict XVI bổ nhiệm Giám Mục Wielgus làm Tổng Giám Mục Warsaw thay thế Hồng Y Jozef Glemp về hưu. Mọi việc tiến hành trôi chảy cho đến ngày 20-12-2006, khi tờ báo hàng tuần Gazeta Polska ở Warsaw yêu cầu TGM Wielgus từ chức vì đã cộng tác làm điềm chỉ viên cho cơ quan mật vụ Ba Lan trong hơn 20 năm dưới thời cộng sản.

Phản ứng đầu tiên của Tổng Giám Mục Wielgus là bác bỏ những cáo buộc đó. Hội Đồng Giám Mục Ba Lan, cả Hồng Y Jozef Glemp, và các linh mục làm việc với Giám Mục Wielgus ở giáo phận Plock trước đây cũng lên tiếng bênh vực, cho những lời cáo buộc của báo Gazeta Polska là “vô căn cứ,” một âm mưu phá hoại nhằm tấn công giáo hội của … tàn dư cộng sản Ba Lan!

Nhưng trước cao trào chống đối càng ngày càng gia tăng của tín hữu Ba Lan và những tài liệu mật từ Viện Trữ Tài Liệu Lịch Sử được công bố, ngày 05-01-2007, Wielgus thú nhận đã cộng tác với Mật Vụ Ba Lan trong thập niên 60, 70 và chánh thức ký giấy ưng chịu làm điềm chỉ viên năm 1978 để được nhà nước cộng sản Ba Lan cho phép đi du học ở Tây Đức. Tuy nhiên, Tổng Giám Mục Weilgus nhấn mạnh là ông đã không báo cáo bất cứ ai và đã không gây tổn hại cho người nào. Wielgus tỏ dấu hối hận vì đã có những tiếp xúc với cơ quan mật vụ và đã không thú nhận việc làm này ngay từ đầu: “Vì chuyện vướng mắc này, tôi đã làm thiệt hại Giáo Hội, và sẽ vâng theo quyết định của Đức Giáo Hoàng.”

Chỉ một ngày sau, 08-01-2007, đức ông Janusz Bielanski, chánh xứ nhà thờ lịch sử cổ kính và quan trọng ở tổng giáo phận Krakow cũng xin từ chức vì đã từng cộng tác, làm điềm chỉ viên cho mật vụ Ba Lan.

Ngày 12-01-2007, Hội Đồng Giám Mục Ba Lan (HĐGMBL) đã nhóm phiên họp bất thường để cứu xét tình hình giáo hội, quyết định thành lập các Ủy Ban duyệt xét quá khứ hàng giáo sĩ (gồm cả giám mục) ở các giáo phận trong thời cộng sản. HĐGMBL khuyến khích mọi thành phần tín hữu thành khẩn xét mình để nhận và xưng thú lỗi lầm nếu đã làm điều gì thương tổn đến quốc gia, giáo hội.

Theo ước tính, có khoảng 10 -15 phần trăm giáo sĩ ở Ba Lan làm chỉ điểm cho mật vụ cộng sản Ba Lan trước đây. Hơn 95 phần trăm dân số Ba Lan là công giáo.

TRƯỜNG HỢP BA LAN

Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus, đức ông Janusz Bielanski … hay bất cứ giáo sĩ Ba Lan nào đã làm cộng tác viên cho cơ quan mật vụ Ba Lan có thể chỉ là nạn nhân, bị áp lực, bắt ép, gài bẫy (mỹ nhân kế) rồi sa ngã trong những phút yếu lòng, hoặc để được ưu đãi xuất ngoại, hưởng quyền lợi vật chất, cũng như với ý tốt lành để … công việc mục vụ được dễ dàng, không bị ngăn cấm! Có hàng chục lý do tốt cũng như xấu để biện minh cho hành động. Tùy món hàng trao đổi và vai trò, cấp bực của giáo sĩ mà công tác giao phó quan trọng hay không, làm việc chánh thức (ký giấy ưng chịu) hay không chánh thức. Trường hợp linh mục Wielgus, ông ký giấy chịu làm điềm chỉ viên để được cộng sản Ba Lan cho phép đi du học ở Tây Đức.

Trước năm 1990, người dân Đông Âu sống dưới các chế độ cộng sản chẳng bao giờ dám mơ ước thấy ngày Đế Quốc Cộng Sản Đệ Tam tan rã. Hồng quân Liên Sô đã đàn áp dã man các cuộc nổi dậy của dân tộc Hung Gia Lợi (1956), Ba Lan (1956), và Tiệp Khắc (1968). Trong tâm trạng đó, những người bị ép buộc hay tình nguyện làm việc với mật vụ đều nghĩ rằng vai trò “cộng tác viên” của mình sẽ không bao giờ bị phô bày trước công luận cho mọi người biết. Chính điều này đã giúp cho họ có sự “bình an” giả tạo để… sống nương theo chiều gió và hy vọng không ai biết.

Cũng có người nghĩ rằng cứ hứa liều, ký đại cho được việc, sau đó không làm hoặc nếu có làm, chỉ làm tượng trưng, cung cấp những tin tức vô thưởng vô phạt. Cái chết là ở chỗ đó. Điều này không thể xảy ra dưới chế độ cộng sản bất cứ đâu. Sinh mạng, giá trị con người ở các chế độ cộng sản trước nay không bằng con trâu, con bò, máy cày, máy kéo.

Với chủ trương giết lầm hơn tha lầm, người cộng sản, không bao giờ dung tha kẻ đã gạt mình! Bao nhiêu lãnh tụ, đảng phái quốc gia trước đây với thế lực và hậu thuẫn quần chúng vững mạnh, tưởng mình có thể lấn át được Cộng Sản Việt Minh, rốt cuộc bị Hồ Chí Minh phỉnh gạt và cướp công một cách thảm hại!

Có thể một hai lần đầu, điềm chỉ viên chỉ cung cấp những tin tức loại xe cán chó, mèo bắt chuột, nhưng cộng sản không ngu dại đến độ không biết điều đó. Nếu dùng biện pháp nhu, thuyết phục không đựợc, người cộng sản sẽ dùng biện pháp cương, gài bẫy để bắt nạn nhân phải làm theo ý mình.

Sau khi chiếm được lục địa Trung Hoa, những năm đầu thập niên 50, cộng sản Trung Hoa đã triệt hạ các nhà lãnh đạo tôn giáo, tinh thần, nhất là giới giáo sĩ công giáo ở Trung Hoa bằng cách chích hoặc cho uống thuốc khích dâm, sau đó cho cán bộ gái ăn mặc hở hang đi bẹo hình bẹo dạng qua lại. Đến lúc người tu sĩ nạn nhân không thể chịu đựng được sự thôi thúc, đòi hỏi của thân xác phải chạy đến lột quần, lột áo của cán bộ gái.

Những cảnh đó đã được ghi vào máy thu hình và sau đó cho nạn nhân xem để … mặc cả. Phương pháp này thật hữu hiệu. Nạn nhân nào can cường không chịu làm điềm chỉ viên nhưng muốn sống, phải chấp nhận làm chó câm ngậm miệng, chuyện đời gác bỏ ngoài tai. Yếu bóng vía hơn thì ký giấy làm cộng tác viên, gia nhập “Giáo Hội Yêu Nước” của giáo chủ … Mao Trạch Đông, cắt đứt mọi liên lạc với Tòa Thánh Vatican. Có nạn nhân không thể sống với sự nhục nhã đã tự tử.

Một điểm quan trọng khác đáng lưu ý trong trường hợp Ba Lan là những chứng từ thỏa thuận hợp tác làm điềm chỉ viên cho mật vụ của nhiều giáo sĩ còn được lưu trữ ở Viện Lưu Trữ Tài Liệu Lịch Sử. Đây là điều mà các nạn nhân không bao giờ nghĩ tới. Chế độ cộng sản ở Ba Lan đã sụp đổ từ 1989. Gần 18 năm qua, tình trạng có vẻ như “biển lặng sóng yên,” cứt trâu đã hoá bùn, không ai để ý tới nữa. Chính trong tâm trạng này mà Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus và những người ủng hộ ông đã vội vàng bác bỏ những lời tố cáo cho đến khi bằng chứng giấy trắng mực đen đem phơi bày, không thể chối cãi được nữa.

Trong mấy tuần qua, nhiều đảng viên cộng sản Ba Lan trước đây, nay mất chức, mất quyền, cũng như những kẻ thời cơ đã tìm cách làm tiền một số giám mục và linh mục, bằng cách dọa trưng ra chứng cớ “cộng tác viên.”

NHÌN LẠI VIỆT NAM

Ba Lan là một quốc gia công giáo (nhưng công giáo không phải là “quốc giáo!”). Dân tộc và giáo hội Ba Lan anh hùng, đã đứng lên chống lại chế độ Cộng Sản và bị đàn áp thẳng tay. Ba Lan là quốc gia đầu tiên thoát khỏi nanh vuốt của Cộng Sản Đệ Tam năm 1989, và từ đó làm sụp đổ đế quốc Liên Sô và Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế.

Việt Nam là quốc gia anh hùng, có 8 triệu người công giáo tức khoảng 10 phần trăm dân số. Việt Nam có cuộc khởi nghĩa Quỳnh Lưu, Nghệ An, chống Cộng Sản Việt Nam năm 1956. Giáo Hội Việt Nam có 117 thánh tử vì đạo, nhiều hơn Ba Lan. Chế độ cộng sản đang ngự trị ở Việt Nam, một trong bốn quốc gia còn sót lại theo chủ nghĩa Cộng sản.

Một điểm khác biệt đáng lưu ý giữa trường hợp Ba Lan và Việt Nam là trong suốt thời gian Ba Lan sống dưới chế độ cộng sản, đế quốc Liên Sô và Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế hùng mạnh, ngay cả trong thập niên 80. Người dân các nước cộng sản bị bưng bít, không biết tình hình thế giới bên ngoài. Nhưng từ năm 1991, đế quốc Liên Sô và Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế đã giải thể, hiện nay chỉ còn bốn quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản. Thời gian hơn 20 năm qua là thời đại của tin học, không gì có thể bưng bít đuợc. Một biến cố chính trị xảy ra ở gốc bể chân trời, chỉ một vài giờ sau cả thế giới đều biết. Nói khác, giáo hội công giáo Việt Nam có hoàn cảnh khách quan thuận lợi hơn giáo hội Ba Lan trong việc giải trừ áp lực của cộng sản.

Dư luận nói chung thường cho rằng đảng cộng sản Việt Nam chỉ sao cóp đuờng lối cộng sản ở các nước đàn anh, đặc biệt là Trung Cộng, rồi áp dụng cho Việt Nam như chánh sách cải cách ruộng đất 1953-1956, “trăm hoa đua nở” dụ địch lộ diện rồi tóm trọn, tổ chức các hội đoàn, tôn giáo yêu nước, chính sách kinh tế hiện nay. Chỉ có một việc cộng sản Việt Nam chưa làm được đối với công giáo Việt Nam là dựng lập một “Giáo Hội Công Giáo Yêu Nước” theo kiểu Trung Hoa Cộng Sản.

Điểm khác biệt rất quan trọng giữa đảng CSVN và đảng cộng sản ở các quốc gia khác là ở cá nhân người sáng lập. Cứ xét về trình độ học vấn của bất cứ kỳ người sáng lập đảng cộng sản nào trên thế giới, trừ Việt Nam, như Lenin, Mao Trạch Đông, Fidel Castro, ngay cả Souphana Nouvong của Pathet Lào…, họ là những người có học, có căn bản kiến thức để phán đoán đúng sai, biết tầm ảnh hưởng tốt xấu của việc mình làm.

Nói như vậy không có nghĩa là có học vấn cao, biết nhiều là có hành động tốt, xứng đáng, bằng chứng là không có lãnh tụ cộng sản quốc gia nào trên thế giới là tốt lành cả, ngay cả bản thân Lê-nin cũng đi chơi gái điếm và mắc bịnh lậu khi còn học ở Pháp. Ít ra học vấn giúp cho người quyết định chính sách, đường lối trị nước thấy rõ tầm mức hậu quả của việc mình làm, rồi cân nhắc trước khi hành động.

Học thuyết Marx-Engels là học thuyết “khó nuốt,” ngay cả đối với các sinh vên đại học chuyên ngành triết học, kinh tế. Và hẳn nhiên học thuyết này không phải để cho cậu bé 13 tuổi thích học trường bụi hơn trường lớp say mê.

Nguyễn Tất Thành rời cảng Nhà Rồng ở Sài Gòn năm 13 tuổi, đi tìm đường cứu nước. Tài liệu sử Việt Cộng viết như vậy. Ở hầu hết các quốc gia hiện nay, 13 tuổi là học trò lớp 7. Nhưng bản tính lêu lỏng, giang hồ, thích chơi phá hơn học, chắc chắn cậu ba Paul Thành không có trình độ học vấn của đứa bé lớp 7 thời đó. Ở Sài Gòn khoảng 1945-1951, các lớp học thi bằng Thành Chung, tức bằng Trung Học Đệ I Cấp, lớp đệ tứ hay lớp 9 bây giờ, học trò hầu hết cỡ tuổi 20.

Như vậy, sự hiểu biết của Nguyễn Tất Thành về chủ nghĩa cộng sản, nếu có, là do học lóm, tam sao thất bổn, thấy lợi cho con đường tiến thân của mình thì theo. Theo Tây, Tây không cho (xin học trường hành chánh thuộc địa bị bác vì … dốt) nên theo cộng sản Nga, rồi Tàu. Bù lại cho sự khiếm khuyết quan trọng về học vấn, Hồ Chí Minh có những yếu tố mà các lãnh tụ cộng sản nước khác không có: kinh nghiệm mưu sinh thoát hiểm, bị đời đá lên đạp xuống, vất vả kiếm ăn từng bữa nơi xứ người … đã giúp cho Hồ Chí Minh nhạy bén, có nhiều thủ đoạn khi làm chánh trị và đã thành công:

• Ai không là bạn ta là kẻ thù của ta.
• Ai không đồng ý với ta là kẻ thù của ta (phải luôn luôn “nhất trí” với bác và đảng).
• Đối với kẻ thù, phải thẳng tay trừ diệt.
• Tất cả chỉ là giai đoạn, lùi một bước tiến ba bước (đừng thấy Việt Cộng nới tay mà tưởng bở!).
• Phương tiện nào cũng tốt, miễn đạt được kết quả cho mình.
(Hồ Chí Minh làm chỉ điểm cho Pháp, bán cụ Phan Bội Châu để lấy tiền thưởng).

Có thể gọi những điểm nêu trên là “tư tưởng Hồ Chí Minh”, nếu muốn. Ngay cả đối với các đồng chí có công với đảng, Hồ Chí Minh sẵn sàng hạ độc chiêu nếu cảm thấy nguy hiểm cho vai trò độc tôn của mình. Mặc cảm thất học và bị đời bạc đãi đã khiến cho Hồ Chí Minh lúc còn sống chọn lựa những Tổng Bí Thư đảng có bản tính và trình độ học vấn ngang cỡ như mình hay kém hơn, để được tâng bốc như đỉnh cao của trí tuệ loài người.

Được thuộc cấp tâng bốc chưa đủ thỏa mãn, Hồ Chí Minh phải tự đóng vai ký giả/nhà văn Trần Dân Tiên để ca tụng cá nhân mình là đẹp trai, thông minh, sáng suốt, biết nhìn xa, hy sinh, sống đơn giản, một lòng vì nước vì dân.

Nông Đức Mạnh hiện nay là Tổng Bí Thư cộng đảng Việt Nam đầu tiên có bằng đại học. Các Tổng Bí Thư trước đó là Lê Duẫn nguyên là cặp rằn phu cạo mũ đồn điền cao su của Pháp; Nguyễn văn Linh, thợ; Đỗ Mười là dân lái lợn, thiến heo.

Bởi đó, có thể nói không có đảng cộng sản nào trên thế giới thù ghét giới trí thức hơn đảng CSVN, dù ngoài mặt lúc nào cũng làm ra vẻ chiêu hiền đãi sĩ. Trí thức biết suy nghĩ, không chịu “nhất trí” với chủ trương, đường lối của Hồ Chí Minh và đảng CSVN luôn bị trừng trị thẳng tay, như trường hợp Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm năm 1956 ngoài Bắc.

Còn trí thức nịnh hót, chuyên nghề “mẹ hát con vỗ tay” thì bị đảng khinh khi ra mặt (đương nhiên), dùng theo lối vắt chanh bỏ vỏ. Ngay cả hiện nay, những chức vụ quyết định nồng cốt ở các cấp từ trung ương đến địa phương vẫn nằm trọn trong tay thành phần “trí thức … bổ túc văn hóa,” “người thật bằng cấp giả,” hoặc “bằng cấp thật người giả”.

Về ngón nghề tâng bốc, nâng bi Hồ Chí Minh chắc chắn không ai qua mặt được Tố Hữu, tổ sư của truờng phái thi nô, văn nô của miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa trong hơn ba thập niên.

Trong bối cảnh lãnh đạo đảng với thành phần nhân sự như vậy, đảng CSVN không thể có một Đặng Tiểu Bình biết nhìn xa thấy rộng những điều có lợi thật sự cho đất nước. (Đặng Tiểu Bình du học ở Pháp, có bằng cao học).

Những chi tiết trên về người sáng lập đảng CSVN có thể giúp hiểu được hành động trước đây và bây giờ cũng như trong tương lai của nhà nước CSVN đối với giáo hội công giáo Việt Nam, cũng như các tôn giáo khác. Đừng quên rằng thành phần lãnh đạo cộng đảng hiện nay được đào luyện trong môi trường “tư tưởng Hồ Chí Minh”, và luôn luôn trung thành học tập các tư tưởng này (5 điểm nêu trên). Đừng vội cho rằng cộng đảng Việt Nam đã đổi mới từ 15 năm qua. Đúng, nhưng chỉ về mặt kinh tế vì lẽ sống còn của đảng và chế độ, không phải về đường lối lãnh đạo chánh trị.

Giáo Hội Việt Nam có giám mục S. Wielgus, có linh mục J. Bielanski, có giáo sĩ làm chỉ điểm, cộng tác với công an Việt Cộng không? Có lẽ phải chờ đến khi chế độ cộng sản sụp đổ như ở Ba Lan mới biết đích xác được. Tuy nhiên có nhiều dấu chỉ rất đáng lo ngại về một tình trạng tệ hại hơn. Cộng Sản Việt Nam không bao giờ từ bỏ ý đồ cài cán bộ, đảng viên vào hàng ngũ giáo sĩ, tu sĩ các tôn giáo; và khách quan mà nói, họ đã thành công. Riêng đối với giáo hội công giáo Việt Nam:

1. Sau 1975, muốn đi tu làm chủng sinh phải có sự đồng ý của CSVN. Sau thời gian tu học, muốn được tựu chức linh mục, phải có sự chấp thuận, duyệt xét của CSVN. Sau hai cửa ải này, còn bao nhiêu linh mục không theo đường lối, chủ trương của Việt Cộng?
Chưa hết, sau khi được phong chức, phải có phép của nhà nước mới được đi nhận nhiệm sở! Cho nên không lạ gì, linh mục chánh xứ, chủ tế chỉ giảng lung tung ba la trên tòa giảng mà không dám nói đến những điều trái với tín lý công giáo xảy ra hàng ngày ngoài đời sống xã hội.

2. Chủ nghĩa Mác-Lê và tư tuởng Hồ Chí Minh là hai môn học bắt buộc, chủng sinh các đại chủng viện phải học. Đừng nghĩ rằng chỉ học qua loa, cho có là xong với CSVN. Không nhuần nhuyễn thì không thi đậu. Đức Kitô là Người. Hồ Chí Minh cũng là Người (viết hoa), nhưng Người này có đảng cầm quyền và công an, mật vụ. Vậy chủng sinh và giáo sĩ nghe theo Người nào?

Tòa Thánh Vatican bổ nhiệm các giám mục Việt Nam phải có sự chuẩn y của nhà nước cộng sản. Trường hợp cộng đảng không cho đức cha Huỳnh Văn Nghi, giám mục Phan Thiết được Tòa Thánh bổ nhiệm vào làm Tổng Giám Quản Tổng Giáo Phận Sàigòn trong lúc Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình già yếu, đau bịnh trước đây, nhưng sau đó, giám mục phó Mỹ Tho, giám mục Phạm Minh Mẫn, được nhà nước ưng chuẩn cho làm Tổng Giám Mục Giáo Phận Sàigòn trong một danh sách đề cử viên là những bằng chứng rõ rệt. Còn bao nhiêu trường hợp khác nữa.

Tại sao CSVN quan tâm đến chức vụ Giám Mục nhiều như vậy? Như lời một đảng viên cán bộ trong Ban Tôn Giáo nhà nước đã nói: “Nắm được giám mục là nắm được cả giáo phận.” Giám mục không dám hó hé, im mồm giữ miệng thì cả tập thể giáo sĩ và giáo dân của giáo phận chẳng ai dám hành động gì do thói quen truyền thống: chờ lệnh trên. “Nắm” bằng cách nào, như thế nào … thì chỉ các đương sự liên hệ mới biết được. Vậy sự “im lặng” của HĐGMVN đã nói lên điều gì?

Xem ra người cộng sản Việt Nam hiểu rõ giáo hội Việt Nam hơn giáo hội Việt Nam hiểu đảng cộng sản.

4. Một số linh mục là đảng viên Cộng sản như Huỳnh Công Minh (HCM), Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Vương Đình Bích, Thiện Cẩm… các linh mục thuộc tổ chức “Công Giáo Yêu Nước” và nhóm “Công Giáo và Dân Tộc” công khai hoạt động cho cộng sản, trái với đường lối của giáo hội, mà giám mục liên hệ… ngoảnh mặt làm ngơ. Những linh mục này không làm điềm chỉ viên trong bóng tối, nhưng hoạt động công khai, một thách đố quá lớn cho giáo hội Việt Nam hiện nay, không ai dám đụng tới!!!

Huỳnh Công Minh thường là con bài dùng để mặc cả cho chức Giám mục ở các địa phận khác, hiện tại là nhân vật số 2 ở Tổng Giáo Phận Sàigòn với vai trò Tổng Giám Quản Tổng Giáo Phận, chánh xứ nhà thờ chánh toà lớn nhất ở miền Nam, và giám đốc đại chủng viện Giuse Saigòn.

Phan Khắc Từ, chánh xứ Vườn Xoài, thuộc tổng giáo phận Sàigòn, có vợ là đảng viên cộng sản, có con, ăn mừng sinh nhật con công khai, phạm luật của giáo hội, hằng ngày dâng lễ (phạm tội trọng)… đã giúp cho các linh mục khác trong giáo phận có lý do bào chữa lỗi lầm thiếu thanh khiết của mình! Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Sàigòn bận lo công tác mục vụ hải ngoại không biết tới, để mặc cho đồng chí của Phan Khắc Từ là Huỳnh Công Minh với quyền Tổng Giám Quản xử lý… bình an và cứ tiếp tục.

Theo luật giáo hội, giáo sĩ và tu sĩ nam nữ phải sống đời độc thân, giữ mình thanh khiết Phan Khắc Từ là một thách thức không chỉ cho Giáo Hội Việt Nam mà cho cả Giáo Hội La Mã, nêu “gương can đảm” cho những giáo sĩ muốn được tự do…hưởng hạnh phúc cả đời lẫn đạo dưới sự vỗ tay cỗ vỏ của cộng sản CSVN!

Phan Khắc Từ là một ung nhọt trầm kha của giáo hội công giáo Việt Nam, được CSVN gài vào để phá đạo một cách thâm độc!

5. Năm 1988,Tòa Thánh Vatican phong thánh cho 117 vị tử đạo ở Việt Nam dưới triều các vua nhà Nguyễn. Một giám mục Việt Nam lên tiếng “không đồng ý” với Tòa Thánh về sự phong thánh này và được nhà nước thưởng công cho đi xuất ngoại “chữa bịnh” hàng năm. Lúc đó là thời kỳ thật khó khăn, chưa có sự “đổi mới,” chưa có hiện tượng giáo sĩ, tu sĩ xuất ngoại rộn rịp như thời gian 6, 7 năm qua.

6. Trong khi nhà nước Cộng sản không nương tay, tìm mọi cách diệt các tôn giáo khác như Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài, các hệ phái Tin lành… thì họ lại khuyến khích, cho phép các giám mục, linh mục Việt Nam xuất ngoại như đi chợ, khuyến khích xây cất sửa sang nhà thờ to lớn, tiện nghi, lễ lạc mừng Phục Sinh, Giáng Sinh tưng bừng, để làm công cụ tuyên truyền cho đảng và nhà nước đối với quốc tế. Các giám mục được xuất ngoại luôn luôn tuyên bố … “về mặt tôn giáo có sự cải thiện rõ rệt về phía chánh quyền, rộng rãi hơn, cởi mở hơn …” Có ai vặn hỏi thì tự nguyện làm “Lê Lai cứu Chúa,” ôn tồn đáp “việc gì cũng phải từ từ, cần có thời gian” (phải chờ lúc Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ làm giám mục, tổng giám mục hay hồng y chăng?) Những chuyến xuất ngoại … tự do này, và những lời tuyên bố xuôi chèo mát mái của các giám mục đã giúp nhà nước CSVN không còn nằm trong danh sách “các nước cần được quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo” của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (CPC).

Trong cuộc phỏng vấn ngày 27-01-2007 ở Thái Lan về liên hệ giữa nhà nước cộng sản Việt Nam và Tòa Thánh Vatican dành cho VietCatholic của linh mục Trần Công Nghị, Hồng Y Phạm Minh Mẫn, TGM Sàigòn, phát biểu đại ý như sau: “Nhìn lại quá khứ 30 năm qua, trong hai thập niên đầu, giáo hội Công giáo được coi như một thế lực chống nhà nước Việt Nam. Nhưng từ thập niên thứ ba, từ khi Việt Nam cố thoát ra khỏi thế bị cô lập để hòa nhập vào thế giới toàn cầu hóa thì giáo hội Việt Nam được nhìn như “một cộng tác viên” nhằm phát triển vững bền đất nước, thăng tiến đời sống gia đình và xã hội …”

Một anh bạn sau khi lắng nghe cuộc phỏng vấn này đã nói với người viết: “Không phải chỉ 10 năm qua mà ít ra làm ‘công tác viên’ kể từ khi Đức TGM Nguyễn Kim Điền bị nhà nước cộng sản đầu độc giết chết. Các đấng sợ quá nên phải sống nương theo chiều gió cho mát mặt!” Từ đó, nhiều giám mục chủ trương làm “ngôn sứ câm điếc,” không dám nói điều gì trái ngược với chủ trương của nhà nước như phá thai, buôn người dưới hình thức lấy chồng ngoại quốc, lao nô, cướp tài sản của dân cho tư bản ngoại quốc thuê mướn, đàn áp các tôn giáo bạn, nhân quyền và dân quyền, công bằng xã hội.

GIÁO HỘI VIỆT NAM HỌC ĐƯỢC GÌ ?

Ai cũng thấy thái độ “im lặng khó hiểu” của HĐGMVN trước những nỗi khổ, áp bức, bất công xã hội, thái độ côn đồ du đãng của công an cộng sản đối với người dân bị áp bức, chiếm đoạt tài sản, trước cao trào tranh đấu ôn hòa, bất bạo động đòi quyền tự do, dân chủ của người dân và các tôn giáo bạn. Sự đồng cảm, xót thương Đức Kitô dạy các môn đệ đã cao bay xa chạy. Phải chăng đó là giá phải trả của những người chịu nhận làm “công tác viên” cho các chế độ độc tài toàn trị? Có người còn tự hào nói nhờ “thái độ khôn ngoan” đó mà giáo hội còn tồn tại và phát triển! Lạy Chúa tôi! Chúa có muốn Lời Chúa, Tin Mừng được rao giảng theo cách này không?

WWJD?

Nếu sống ở đất nước Việt Nam hiện nay, Đức KiTô sẽ hành động như thế nào? Im lặng? Làm cộng tác viên để được tư do xuất ngoại quyên góp tiền, xây cất nhà thờ, để được cho phép làm lễ, rao giảng, tiệc mừng linh đình?… Hay lên tiếng bênh vực cho công bằng xã hội, cho người cô thế bị áp bức, cho tự do con người, cho quyền làm người của thai nhi?… Chúa ơi, Chúa sẽ làm gì? What Would Jesus Do?

Hai ngàn năm trước, trong số 12 tông đồ, Phê-rô chối Chúa ba lần vì tính yếu hèn, nhưng sau đó hối hận và vâng theo ý Chúa mà hành động. Ngày nay, không ít môn đệ theo chân Đức Kitô nhưng hành động khác với đường lối của Người, không phải ba lần mà nhiều lần, và không có dấu chỉ biết ăn năn, sám hối quay về con đường của Người.

Chế độ cộng sản ở bất cứ đâu cũng là điều tệ hại nhất cho quốc gia đó. Nhưng chế độ CSVN, tổng hợp những tệ hại của các đảng cộng sản khắp nơi, cộng với tâm địa của người sáng lập đảng, Hồ Chí Minh và các đồng chí thân tín, là chế độ hiểm nguy và độc hại nhất trên thế giới trước nay. Độc tài phát xít Đức còn kém thua xa.

Không có chuyện gì mà lãnh tụ đảng không dám làm, ngay cả đấu tố cha mẹ, giết vợ, bỏ con, giết đồng chí công thần … để thăng tiến hay bảo tồn uy danh cá nhân, che đậy tội ác của mình.

Cuộc hội kiến ngày 25-01-2007 giữa Giáo Hoàng Benedict XVI và Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng Việt Cộng, không ai biết rõ nội dung ra sao, dù bề ngoài hai bên có vẻ rất thân thiện một cách… rất ngoại giao. Biết đâu Nguyễn Tấn Dũng mang sang cả một “danh sách Stanislaw Wielgus và Janusz Bielanki Việt Nam” với đầy đủ chứng cớ và hình ảnh để làm áp lực với Tòa Thánh trong việc bổ nhiệm các giám mục Việt Nam tương lai? Ai biết được. Đừng quên đối với người cộng sản Việt Nam, chuyện gì cũng có thể xảy ra, việc gì cũng dám làm và làm được.

Đảng CSVN chơi một ngón đòn thâm độc hơn đảng cộng sản Trung Hoa trong việc chế ngự giáo hội công giáo địa phương. Đâu cần phải tạo dựng một “giáo hội công giáo yêu nước” kiểu Trung Cộng mà vẫn khống chế được giáo hội thuộc Vatican! Cứ để giáo hội trực thuộc Toà Thánh, nhưng muốn bổ nhiệm giám mục, đào tạo linh mục phải có sự đồng ý của đảng. Đảng vẫn có người của đảng kiểm soát việc làm, sinh hoạt của giáo hội. Con đường nào hữu hiệu hơn? Danh chánh, ngôn thuận, lại được tiếng là có tự do tôn giáo!

Đòn hiểm độc khác là CSVN đã tạo được ấn tượng nơi các tôn giáo bạn là giáo hội công giáo Việt Nam bắt tay, cộng tác với nhà nước cộng sản để có lợi cho riêng mình! Đó là điều sỉ nhục cho giáo hội của Đức Kitô, cho 117 thánh tử đạo Việt Nam, cho cả tập thể gần 8 triệu tín hữu Việt Nam!

Những giáo sĩ Việt Nam được nhà nước cộng sản ban ơn, cho phép xuất ngoại, nhất là những người ra đi thường mỗi năm, có phải ký giấy “ưng chịu” như trường hợp TGM Ba Lan S. Wielgus không? Bao nhiêu giáo sĩ vì yếu lòng phạm đức thanh khiết hay bị gài bẫy, bắt chẹt để làm “cộng tác viên” cho công an CSVN? Thời gian sẽ trả lời. Nhưng trước mắt là những Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, những linh mục đảng viên cộng sản … đã và đang công khai hoạt động cho cộng sản Việt Nam từ hơn 30 năm qua để phá đạo, phá đời … Cái giá phải trả để được chọn làm “cộng tác viên”? Quá đắt!

Không ai khắt khe với người lầm đường biết cải hối ăn năn, dù bị áp lực, gài bẫy hay yếu đuối. Chỉ có sự thật mới giải thoát con người khỏi những lo sợ triền miên, không còn bận tâm che dấu và sợ lầm lỗi bị phơi bày. Đừng nghĩ rằng chế độ CSVN sẽ còn đó mãi mãi. Đừng nghĩ rằng khi người phạm lỗi chết rồi là hết, không còn gì để sợ. Lầm, vì điều đó không đúng với CSVN. CSVN không tha cho người sống, cũng không tha người chết.

Những bản giấy ký ưng thuận làm chỉ điểm, nếu có, có thể đã được sao y cất giữ ở nhiều nơi hoặc nằm trong tay nhiều đảng viên cán bộ cấp trung ương và địa phương.

Sau này dù chế độ cộng sản không còn, giấy ký vẫn có thể đuợc dùng để “làm tiền” thân nhân người quá cố và cả những người lãnh đạo giáo hội. Muốn bảo toàn danh tiếng giáo hội, danh tiếng người chết … phải chi hậu hỉ. Hồ Chí Minh dám bán cả cụ Phan Bội Châu, nhà cách mạng lão thành đuợc toàn dân kính yêu, cho thực dân Pháp để lấy tiền và trừ hậu họa cho mình thì các hậu duệ cho Hồ Chí Minh có gì mà không dám làm! Xem cây biết quả.

Những lời nhắn nhủ của HĐGMBL gởi đến các tín hữu Ba Lan trong ngày Chúa Nhật 14-01-2007 đáng để các giáo sĩ Việt Nam suy nghĩ.

    “Chúng tôi kêu gọi mọi thành phần giáo hội, giáo sĩ cũng như giáo dân, duyệt xét lương tâm mình liên quan tới cung cách sống dưới chế độ độc tài. Chúng tôi không muốn xâm phạm đền thờ lương tâm của mỗi người, nhưng chúng tôi khuyến khích làm mọi sự để đối chiếu sự thật của các sự kiện có thể xảy ra, và nếu cần, chấp nhận và xưng thú lỗi lầm một cách thích đáng …”

    “Chúng ta không sợ thú nhận rằng giáo hội là một cộng đoàn gồm những người tội lỗi, nhưng đồng thời giáo hội cũng thánh thiện và được kêu mời sống thánh thiện, vì Chúa Giêsu là Đầu, sống và hoạt động trong giáo hội, là Đấng Thánh trên mọi người thánh. Chúng ta đứng trước mặt Người và xin Chúa thánh Thần giải thoát chúng ta khỏi sự dữ, sợ hãi và hẹp hòi lòng trí.”

    (Trích “Thư Gửi Tín Hữu Toàn Quốc” của HĐGMBL, ngày 14-01-2007, bản dịch Linh Tiến Khải, Radio Vatican ).
Xin Thiên Chúa gìn giữ giáo hội Việt Nam trong những giờ phút khó khăn hiện nay, và soi sáng để các mục tử biết trách nhiệm, có can đảm hành động xứng đáng.

Q. Hương

No comments:

Post a Comment