Thursday, August 7, 2008

Trung Quốc có đáng sợ không?


Trần Nhu

Trung Quốc có đáng sợ không? Trước hết là đối với người Việt Nam chúng ta.

Vấn đề đầu tiên được đặt ra là “ý chí” có dám tranh đấu khi đất nước bị xâm lăng và uy hiếp hay không? Việt Nam không phải chỉ thời nay mới bị Trung Quốc uy hiếp và xâm lăng mà trong suốt quá trình từ khi lập quốc trải qua mấy ngàn năm đến nay, thời nào người Trung Quốc cũng muốn xâm lăng và uy hiếp Việt Nam, nhưng ông cha chúng ta không bao giờ sợ người Trung Quốc. Cả nam, nữ, già, trẻ: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, bà Bùi Thị Xuân... các bô lão thời Trần chẳng có ai sợ người Trung Quốc, mặc dù họ là một nước lớn, đông dân nhất thế giới. Chính cái “ý chí” dám tranh đấu vì quyền lợi dân tộc, vì sự sống còn của Tổ Quốc với cái tâm lý không sợ nên nhân dân Việt Nam đã đánh bại Trung Quốc ít nhất là 15 lần.

Tôi lại nêu lên một thí dụ điển hình nữa về “ý chí” quyết đấu tranh khi đất nước bị xâm lăng. Trong lịch sử nhân loại có đế quốc nào hùng mạnh hơn Thành Cát Tư Hãn ở thế kỷ thứ XIII. Thế mà ông cha ta đâu có sợ và đã 3 lần đánh bại quân Mông Cổ. Sứ Nguyên đến nước ta nếu tỏ thái độ kiêu ngạo hống hách là lập tức bị quân quan Ðại Việt trói lại tống ngục. Lịch sử thế giới thời đó có nước nào cả gan từ chối tiếp sứ Nguyên, chứ chưa nói đến giám trói sứ.

Ông cha ta như thế đấy. Chỉ có những người lãnh đạo ÐCSVN ngày nay là nhu nhược hèn yếu và mang nặng tâm lý khiếp sợ Bắc Triều. Chính thái độ khiếp nhược của ban lãnh đạo ÐCSVN đã khuyến khích Bắc Kinh ngày càng lấn lướt. Bắc Kinh gây sức ép, Hà Nội lùi từng bước, nhưng Việt Nam lùi chừng nào Trung Quốc tiến chừng đó.

Nhìn lại một chuỗi diễn biến từ các hiệp định biên giới do ban lãnh đạo ÐCSVN ký với Bắc Kinh năm 1999 – 2000 và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm trên đất liền mất mấy chục nghìn Km2, và những gì họ chiếm được không bao giờ nhả ra. Bắc Kinh còn đang lấn chiếm các tỉnh phía Bắc nước ta, vùng biển bị Trung Quốc tiếp tục bành chướng xuống biển Nam Hải mà không gặp sự kháng cự đáng kể nào của Hà Nội. Ban lãnh đạo ÐCSVN còn dấu nhẹm không cho nhân dân biết các hiệp định ký với Trung Quốc khi sự việc Trường Sa, Hoàng Sa bùng lên, thậm chí họ còn không cho dân chúng phản đối Trung Quốc trong rất nhiều vụ biểu tình chống Trung Quốc đã bị đàn áp.

Hải Quân Trung Quốc năm 2006 vô cớ nổ súng giết chết 9 ngư phủ Việt Nam. Từ đó đến nay, năm nào hải quân Trung Quốc cũng bắn và bắt ngư phủ Việt Nam đánh cá trên vùng biển của mình. Hà Nội nín thinh, gần đây 2 người Trung Quốc đánh chết một công dân Việt Nam ngay tại Thủ Ðô, Hà Nội. Công an tòa án Việt Nam không dám động đến công dân thiên triều, đành phải giao tên tội phạm lại cho Trung Quốc.

Nhu nhược đến thế là cùng! Sự khiếp sợ Bắc Triều như một bệnh dịch lan truyền từ cấp lãnh đạo cao nhất của đất nước đến các tướng lãnh binh sĩ không còn ai dám tranh đấu cho quyền lợi của đất nước. Ðài Loan chỉ có 20 triệu dân, từ nửa thế kỷ nay, thường xuyên bị Trung Quốc đe dọa thôn tính. Nhiều khi tưởng như họ ăn tươi nuốt sống hòn đảo bé nhỏ này, thế mà lãnh đạo và dân chúng Ðài Loan đâu có khiếp sợ, đối với giới lãnh đạo Bắc Kinh “mềm nắn, rắn buông”. Nên vấn đề sống còn của đất nước được đặt ra vẫn là ý chí dám tranh đấu cho quyền lợi dân tộc thì Trung Quốc dù có bao nhiêu triệu quân với những võ khí tối tân họ cũng chẳng làm gì được.

Nước Tầu khổng lồ chỉ có thể ám ảnh giới lãnh đạo ÐCSVN. Nhìn lại quá khứ và cả lịch sử cận đại trên thực tế lịch sử đã chứng minh người khổng lồ Trung Hoa thường bị các bộ tộc thiểu số nhỏ cai trị nhiều lần, mặc dù người Tầu có (Binh Thư tuyệt tác của Tôn Tử). Nhưng các tướng Hán đánh một trăm trận thua chín mươi chín trận. Xin dẫn ra đây một số trường hợp để bạn đọc suy ngẫm:

Lịch sử nước Tầu có chép: Ba triều đại Liêu, Kim, Nguyên (Mông Cổ) là bộ phận tổ thành quan trọng nhất trong lịch sử Trung Hoa là các đế quốc mạnh thống nhất được Trung Hoa và cường thịnh một thời lại do các dân tộc thiểu số tạo lập nên ở vùng phía Bắc Trung Hoa.

Ba triều đại Liêu, Kim, Nguyên đều đóng đô ở Bắc Kinh. Nước Liêu dòng Khiết Ðan lập nên gọi Bắc Kinh là Nam Kinh, là một trong bốn kinh đô của nước Liêu, nước Kim thuộc dòng Nữ Chân của Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả kiến lập gọi Bắc Kinh là Trung Ðô. Triều Nguyên do người Mông Cổ xây dựng định đô tại Bắc Kinh gọi là Ðại Ðô.

Các ông vua của ba triều đại Liêu, Kim, Nguyên đều sinh ra và lớn lên ở vùng hoang mạc mênh mông, thích cỡi ngựa, săn bắn và chơi bời hưởng lạc vô độ. Họ đã bắt các hoàng đế Trung Hoa phải quỳ gối khuất phục. Sự khiếp nhược và bất lực của nhiều triều đại Trung Quốc trước những người láng giềng nhỏ bé nhưng được trang bị bằng tinh thần thượng võ. Với ý chí quyết thắng ngay cả những đối thủ tý hon như Hung Nô, Ðột Quyết, Tây Hạ và Mãn Thanh cũng đã cai trị cả nước Trung Hoa vĩ đại. Ðối với Việt Nam, ông cha ta chưa bao giờ chiến đấu trong một trận ngang sức. Ngô Quyền, Lê Ðại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ. Tiền nhân ta đã thắng kẻ thù lớn mạnh gấp nhiều lần. Trong Bình Ngô Ðại Cáo, Nguyễn Trãi đã từng viết: “Ðánh một trận sạch không kinh ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông.”

Ta thấy khi quân Mông Cổ bao vây Long An. Triều đình Nam Tống các quan văn võ bỏ chạy hết, chỉ còn lại sáu người. Thái Hoàng Hậu triệu tập đại thần làm việc. Các quan đã chạy hết. Trần Nghị Trùng một mực xin giảng hòa (xin hàng). Lương Mông Viễn thấy thế không lợi. Ông tướng này đã lén chạy khỏi Lâm An đến đầu hàng quân Mông Cổ. Thái Hậu cử Trần Nghi Trung đến trại Bá Nhạn cầu hòa và nộp tiền, nhưng Bá Nhạn không nghe. Chỉ quy định thời gian cuối cùng để xin hàng. Thế là tất cả triều đình bá quan văn võ đều nhất trí xin hàng. Tục ngữ Việt có câu: “Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh” hay “Cha nào, con nấy”, hoặc “Giỏ nhà ai, quai nhà ấy” cái giống người Hán thâm độc và chịu nhục thì không giống người nào bằng. Nhưng trận mạc thì lại rất dở. Trong thực tế, chiến thắng bao giờ cũng do đào luyện quân sĩ, quân sĩ thì cũng tùy ở giống. Người Tầu từ dân đến tướng lãnh, binh lính mấy ngàn năm nay chẳng thay đổi gì, chậm chạp, nặng nề, không có sáng kiến trong trận mạc, không có óc tự tin, dễ hoảng hốt trước những chuyện bất ngờ. Xem các trận đánh với các bộ tộc thiểu số trận nào họ cũng thua đậm. Ðến đời nhà Tống bọn tướng sĩ Hán nhát như chuột. Nghe tiếng quân Mông Cổ sợ hết hồn hết vía, run cầm cập còn đánh chác gì! Bọn tướng Tầu, thời Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông lẫn quân lính cũng vậy, cứ nghe thấy tiếng quân Nhật là bỏ chạy thục mạng. Cho đến khi Nhật hàng đồng minh rồi vẫn còn hoảng sợ.

(Ðồng minh giao cho quân Tầu nhiệm vụ tước khí giới quân Nhật. Không dám đến gần, phải có quân Mỹ đi bên cạnh mới chịu đi.)

Bất cứ ai nghiên cứu lịch sử Trung Hoa từ thời Cổ Đại, còn được gọi là thời kỳ Tiền Sử, cách đây khoảng 5000 năm, tới thời kỳ Trung Cổ rồi lịch sử Cận Đại. Theo quan điểm chung hiện nay cho rằng lịch sử Cận Đại bắt đầu từ Cách Mạng Tư Sản Anh, năm 1640 và kết thúc vào đầu thế kỷ 20. Đến thời kỳ Hiện Đại được nhiều sử gia thống nhất mà tính từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay. Trong khoảng thời gian trên một trăm năm lại có thể chia thời kỳ hiện đại thành hai giai đoạn từ đầu thế kỷ 20 đến khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ II. Suốt trên một trăm năm những trận đánh trên đất Tầu, xét trên tổng thể trận nào người Tầu cũng thua đậm, và buộc phải ký những hiệp ước hết sức nhục nhã. Tác giả tạm kể những trận đánh chính yếu dưới đây:

Sự khởi đầu “Lịch sử Trung Quốc hiện đại” là chiến tranh thuốc phiện năm (1839) Anh đã đánh bại Trung Quốc, trong giai đoạn này Trung Quốc có trên 400 triệu dân. Anh chỉ có 10 triệu... Và cái yêu sách tiếp theo đối với triều đình nhà Thanh mỗi lúc càng nặng nề. Xin tóm lược những cuộc hành quân của quân Anh như sau:

Năm 1840, Hạm đội Anh do Ðô đốc George Elliot chỉ huy đến Quảng Châu (tháng 6) hải cảng và Ðảo Châu Sơn bị quân Anh chiếm (tháng 7)

Năm 1841, Ðặc mệnh toàn quyền Anh Henry Pottinger (1789-1856) chỉ huy hải quân Anh tiến dọc vùng duyên hải Trung Quốc, chiếm hầu hết những thành phố quan trọng như Thượng Hải bị chiếm tháng 6-1842, và sau đó là Thẩm Dương v.v.... Triều đình Trung Hoa phải cầu hòa (xin hàng) và chịu thất bại quân sự lớn nhất thời đó.

Ngày 29/8/1942 Hiệp Ước Nam Kinh được hai bên ký kết trên Tầu Cornvallis của hải quân Anh. Hồng Kông phải nhượng cho Anh vốn đã bị chiếm từ tháng (1/1841) mở cửa thương mại ở 5 cảng lớn Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba và Thượng Hải.

Ngày 26/6/1858, ký hiệp ước Thiên Tân giữa Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ và Nga, buộc Trung Quốc phải mở thêm 11 cảng nữa và các nước thành lập Tòa Ðại Sứ ở Bắc Kinh. Các nước có quyền thương mại và truyền đạo Thiên Chúa giáo ở nội địa. Thuế xuất và quy định mậu dịch thiết lập hải quan thanh tra nước ngoài (Horatio N. Laij) hợp pháp hóa việc nhập khẩu thuốc phiện.

Hiệp Ước Ái Huy, do Di Sơn và Nicholas Muraview năm 1891 ký kết buộc Trung Quốc, phải nhượng cho Nga Hoàng vùng đất tả ngạn sông Amur rộng mênh mông.

Hiệp ước Bắc Kinh (24/10 với Anh 25/10/1891) với Pháp tăng tiền bồi thường chiến phí. Pháp dành quyền sở hữu đất đai các đoàn truyền giáo Thiên Chúa giáo, được tự do truyền đạo, còn sứ thần Nga, thì buộc nhà Thanh phải nhượng khu vực từ miền Ðông USSURI (Cô-Tê-Lý-Giang) cho tới bờ biển. Nghĩa là 4 nước đè người khổng lồ ra làm thịt tơi bời lại tiếp đến Nhật:

Ngày 23/7/1894 - 17/4/1895 chiến tranh Trung Nhật diễn ra sau 10 ngày về vấn đề Triều Tiên. Vì cuộc khởi nghĩa của Hội Ðông Học ở Nam Triều Tiên tạo cớ cho Nhật nhảy vào bắt Nữ Hoàng Triều Tiên và chỉ định một nhiếp chính trung thành với Nhật. Ngày 21/7 Tầu của Kowshing của Anh chở quân Tầu đến Triều Tiên can thiệp, bị quân Nhật đánh chìm nghỉm, ngày 25/7 nhiếp chính Triều Tiên tuyên chiến với Trung Quốc. Trung Quốc và Nhật cũng tuyên chiến với nhau. Nhật dành toàn thắng trên bộ và cả trên biển tại Bingyang ngày 16/9 ngoài khơi sông Áp Lục gần cảng Lư Thuận, ngày 21/11 và tại Uy Hải Vệ (21/2/1895).

Ngày 17 tháng 4 năm 1895 Trung Quốc phải chấp nhận tất cả điều khoản của hiệp ước Mã Quan. Triều đình nước Tầu buộc phải công nhận nền độc lập của Triều Tiên và nhượng đảo Ðài Loan, Bành Hồ và cả bán đảo Liêu Ðông ở Mãn Châu cho Nhật. Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh 200 triệu lạng Bạc, và mở thêm 4 cảng cho ngoại thương của Nhật. 1896, Nhật được quyền lãnh tài phán ở Trung Quốc (bạn đọc lưu ý: Sở dĩ tôi đề cập đến vấn đề này để nhắc chúng ta rằng những hiệp định và biên giới giữa VC với Bắc Kinh không có giá trị pháp lý).

21 tháng 7 . Hiệp ước thương mại với Nhật, được coi là một phần của giải pháp hòa bình, trao cho Nhật qui chế tối huệ quốc và bảo đảm các nước ký hiệp định có quyền vận hành các cơ sở công nghiệp ở các cảng được qui định trong hiệp ước.

14/11/1897. Ðức chiếm vịnh Giao Châu với Thanh Ðảo sau vụ sát hại hai nhà truyền giáo ở Sơn Ðông. Từ lâu người Ðức coi việc này là chuỗi logic của sự can thiệp ba bên (1895). Việc này thúc đẩy “hàng loạt nhượng bộ” trong năm sau, trong đó hầu hết các nước phương Tây đều tham gia.

Tháng 2/1898. Anh đạt được hiệp định mở cửa đường thủy nội địa đối với Tầu nước ngoài, không bán đồng bằng sông Dương Tử cho nước khác, và sử dụng tổng thanh tra người Anh đối với hải quan khi thương mại Anh còn có vai trò chủ đạo trong các lãnh vực này.

6 tháng 3. Ðức đạt được hiệp ước thuê vịnh Giao Châu trong 99 năm, với các quyền xây dựng đường sắt và khai thác các mỏ ở Sơn Ðông (đường sắt Thanh Ðảo - Tế Nam khánh thành năm 1904). Khoản vay thứ hai từ Anh và Ðức gồm 16 triệu bảng trong 40 năm với lãi suất 4,5%.

27 tháng 3, 7 tháng 5. Nga buộc Trung Quốc cho thuê phía Nam bán đảo Liêu Ðông trong 25 năm, kể cả Ðại Liên và Lữ Thuận, được quyền xây dựng đường sắt từ Cáp Nhĩ Tân ở phía Bắc đến các cảng mới thuê.

10 tháng 4. Pháp ký hợp đồng thuê vùng Quảng Châu Loan và miền phụ cận trong vòng 99 năm, được quyền mở rộng đường sắt đến Vân Nam (hoàn thành năm 1910) và cam kết không bán cho nước khác các phần dọc biên giới Việt Nam.

26 tháng 4. Nhật nhận được cam kết của Trung Quốc không bán phần đất ở Phúc Kiến.

9 tháng 6. Anh ký hợp đồng thuê Cửu Long đối diện Hồng Kông trong 99 năm, và (1/7) thuê Uy Hải Vệ khi Nga thuê Lữ Thuận.

Hiệp ước Ái Huy, do Di Sơn (c.1878) và Nicholas Muraviev (k.1809 – 1891) ký kết, nhượng tả ngạn sông Amur cho Nga.

1859. Nhà Thanh từ chối yêu cầu của Anh về việc cho phép các nhà ngoại giao nước ngoài vào Bắc Kinh. Anh tấn công chiến lũy Ðại Cổ (25/6) nhưng bị đẩy lùi.

12/10/1860. Bắc Kinh bị 17.000 quân Anh và Pháp chiếm đóng. Cung điện Mùa Hè (Viên Minh viên) bị đốt cháy thành bình địa (18/10) để trừng phạt triều đình bắt giữ phái đoàn Anh. Hoàng đế rời khỏi kinh đô chạy lên phía Bắc, em của hoàng đế “đàm phán” Hiệp ước Bắc Kinh (24/10 với Anh, 25/10 với Pháp), tăng bồi thường chiến phí, Pháp giành quyền sở hữu đất đai cho các đoàn truyền đạo Thiên Chúa. Sứ thần Nga Muraviev buộc nhà Thanh nhượng khu vực từ miền Ðông Ussuri (Ô Tê Lý Giang) cho tới bờ biển (14/11). Vào thời điểm này, Anh trở thành đồng minh mạnh nhất của triều đình nhà Thanh chống lại các cuộc khởi nghĩa địa phương.

1855-1873. Sau nhiều năm xung đột với người Hán địa phương và bị triều đình đánh thuế quá nặng, người Hồi Giáo (Panthays) ở Vân Nam nổi dậy, thành lập nhà nước độc lập, “Vương quốc Nam Thái Bình” ở Dali, thuộc kinh đô cố Nam Chiếu. Ngoài ra còn có cuộc nổi dậy của người Hồi Giáo ở Tây Bắc (Giang Tây và Cam Túc, 1862-), sau đó bị Tả Tôn Ðường dập tắt.

1855-1881. Bộ tộc H’mong ở Quí Châu khởi nghĩa.

8/10/1856. Sau nhiều năm Anh, Pháp, và Mỹ nỗ lực nhằm giành các quyền và ưu tiên mới thông qua sự chỉnh lý hiệp ước. Sự kiện Tầu Arrow ở Quảng Châu tạo cớ cho Anh ép buộc người Trung Hoa bằng quân sự. Tuyên bố tầu Arrow đã đăng ký ở Hồng Kông và bị quan chức nhà Thanh khám xét bất hợp pháp, Anh chuyển quân và chiếm Quảng Châu (12/1857). Sau đó các tầu Anh bắt đầu hướng ra phía Bắc để buộc triều đình đầu hàng.

Ðến thời cận đại (1789-1914) và đương đại 1945 với Anh, Pháp, Nga và Nhật ta sẽ thấy sự khiếp nhược bất lực của các chính quyền Trung Hoa, từ vua chúa tướng lãnh, kể cả Ðảng Cộng Sản như thế nào! Dưới đây là đối chiếu các chiều kích giữa Trung Quốc và các nước tham chiến một cách sơ lược.

Ngày 18/1/1915, Nhật giao cho Trung Quốc bản yêu sách 25 điểm Chính Phủ của Viên Thế Khải chấp thuận ngay bốn khoản đầu (815): (1) Nhật kế thừa các quyền của Ðức ở Sơn Ðông; (2) triển hạn thuế đất đai ở Mãn Châu tới 99 năm. Kiều dân Nhật được tự do buôn bán tại đây; (3) Nhật nắm phần nửa lợi nhuận ở công ty Hanyeping là công ty điều hành các nhà máy thép tại Hán Giang, mỏ sắt Daye và than ở Bình Sơn; (4) không miền duyên hải nào của Trung Quốc được cho thuê hoặc nhượng cho nước khác mà không được sự đồng ý của Nhật (...) Mặc dù các anh hùng hảo hán của nước Tầu chịu nhượng bộ gần hết cả tổ quốc nhưng Nhật vẫn không tha.

Năm 1937-1945 các cuộc tấn công của Nhật vào Trung Quốc và Nhật khởi đầu, chiến tranh thế giới II ở Ðông Á cũng ở đây, 1931 Nhật chiếm Mãn Châu. Ðạo quân Quan Ðông của Nhật trong đêm diễn tập ở Thẩm Ðương (1819) đã làm nổ tung đoạn đường sắt gần đó rồi vu khống cho Trung Quốc. Ðây gọi là biến cố Mãn Châu, lấy cớ đó quân Nhật chiếm kho đạn An Ðông, Giang Khẩu và Trường Xuân,. Thống chế Tưởng Giới Thạch vội cho đoàn quân chạy trốn. Kế đó cả ba tỉnh miền Ðông bị chiếm. Ngày 19 quân Nhật đổ bộ lên Thượng Hải đánh đuổi Bát Lộ Quân 19 của Trung Quốc chạy khỏi Tô Giới quốc tế như chuột. Nhật chiếm Bắc Kinh ngày 28 và Thiên Tân ngày 29 như ăn gỏi. Ðây là cuộc tấn công đại quy mô mở ra ở Bắc Trung Quốc vào đến tận sào huyệt của các danh tướng người Hán. Họ ở cả thủ đô. Không gặp một sự kháng cự nào.

Người Tầu chẳng có ý chí gì từ tướng lãnh đến quân lính đông như kiến cỏ mà cứ thi nhau bỏ chạy chốn một khi nghĩ đến quân Nhật là hồn vía lên mây, kế đó Nhật chiếm Tô Châu (20/11 và tiến đến vùng sông Dương Tử. Ngày 21 quân Nhật chiếm Quảng Châu, cũng không gặp sự kháng cự nào. Thừa thắng Nhật chiếm luôn Kalgan, ở mặt trận khác 3/9 Nhật chiếm Bảo Ðịnh, ngày 2/4, Thạch Gia Trang. Sau biến cố ngày 18/9/1931 quân Nhật chiếm đóng thành phố Thẩm Dương. Từ đó làm chủ cả một vùng đất đai rộng lớn ở Ðông Bắc Trung Quốc. Ðảng CS Trung Quốc với Bát Lộ quân chẳng làm gì, ngoài việc hô hào dân Tầu chống Nhật, trong khi đó họ lại lẩn chốn. Cuộc Vạn lý Trường Chinh, được coi như là cuộc di tản chiến thuật, và được coi như là sự kiện oai hùng nhất của ÐCSTQ. Hai đạo quân trong cuộc tháo chạy nhục nhã này là quân đoàn 1 do Lâm Bửu (1908-1971) chỉ huy, và quân đoàn III dưới sự chỉ huy của Bành Ðức Hoài (1898-1974). Tổng số quân là 80.000 nhưng có lẽ chưa tới 16% số binh lính trên thoát chết khi đến được Thiểm Tây một năm sau đó (20/10/1935) họ đã chạy trốn quân Nhật với quãng đường dài gần 6.000 dặm qua rất nhiều miền đất hoang vu nguy hiểm ...

15 + 18/1/1935. Tại hội nghị Tuần Nghĩa (thuộc tỉnh Quý Châu) những đối thủ của Mao trong ban lãnh đạo DCSTQ bị phê phán nặng nề về việc đã phạm sai lầm Tả khuynh khiến cho sức chiến đấu của Hồng Quân suy yếu, dẫn đến tình thế phải rời căn cứ địa và tiến hành Vạn Lý Trường Chinh:

Nhẽ ra người CS thì phải dấn thân chinh chiến, dấy binh đao. Khôi phục nền độc lập cho Trung Hoa, ấy thế vậy mà hồi Nhật xâm lược Trung Quốc ÐCSTQ đã không dám đánh Nhật. Những người lãnh đạo ÐCSTQ quả thật tài tính sáng suốt, họ biết đánh Nhật, khác gì mang trứng chọi đá, chỉ một trận thì sẽ bị Nhật diệt sạch sành sanh, không còn một mống nắm chắc trăm phần trăm thua, và sẽ mất hết (cả chì lẫn chài) binh quyền. Khẩu hiệu thống nhất chiến tuyến với Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch, mục tiêu của ÐCSTQ là bảo toàn lực lượng để sau đó có cơ hội giết lẫn nhau. Người Tầu đánh nhau với Nhật thì quá dở, nhưng họ giết lẫn nhau thì không ai bằng. Nói cách khác Mao muồn giành lực lượng để sau này đánh nhau với quân Quốc Dân Ðảng. Nhưng muốn sống đến ngày đó chỉ còn cách phải ăn bám và luồn lách vào chính quyền Quốc Dân Ðảng. 25 tháng 12 Tưởng Giới Thạch bị Mao bắt cóc và giam giữ ở Tây An do Trương Học Lương thực hiện theo lệnh của Mao. Và được trả tự do khi ông đồng ý ngừng cuộc nội chiến và hợp tác với ÐCSTQ để chống Nhật. Trên thực tế ÐCSTQ không có chống Nhật, nhưng cần chỗ nương tựa, tuy nhiên, Mao Trạch Ðông và ÐCSTQ vẫn tuyên truyền rằng cuộc Trường Chinh của Hồng Quân là cuộc chiến đấu thần thánh đánh Nhật do Mao chủ tịch lãnh đạo. Chạy dài dài – mà lại là bước ngoặt đưa Trung Quốc đến thắng lợi hoàn toàn, kể cũng lạ? và là sự tuyên truyền quá lố quá trắng trợn. Sự thật Bát Lộ quân chưa đụng Nhật đã hoảng loạn tháo chạy, khẩu hiệu “Bắc Tiến kháng Nhật” là che đậy cho sự thất bại thảm hại của Bát Lộ quân tháng 10-1933 đến tháng 1-1934 ÐCSTQ liên tiếp chịu trận và cuộc tiến công thứ 5 của Quốc Dân Ðảng thì chính quyền trung ương ở nông thôn của ÐCSTQ lần lượt mất hết căn cứ này đến căn cứ khác, Hồng quân của Mao buộc phải tháo chạy trốn. Ðó chính là sự thật lịch sử (cuộc trường chinh), ý đồ là rút quân mở đường máu tháo chạy sang vùng ngoại Mông Cổ để nhờ quân Liên Xô che trở. Như vậy với phía Tây giáp Mông Cổ, nếu không thủ đắc sẽ rút lén tuột về Liên Xô. Ở phía Bắc Hồng Quân chết gần hết trên đường chạy trốn đến khu ngoại Mông. Họ chọn con đường rừng đi qua tỉnh Sơn Tây, và Tuy Viễn. Một mặt có thể nói phét để bịp thiên hạ rằng: Hồng Quân lên phía Bắc để chuẩn bị kháng Nhật (dân Trung Hoa nhiều người ngu tín, tin là Hồng Quân dám cả gan đánh Nhật thật) một mặt vừa an toàn cho các lãnh tụ vì ở đó không có quân Nhật. Bấy giờ quân Nhật chiếm giải Vạn Lý Trường Thành lập thành chiến tuyến. Sau mấy ngàn năm công lao của Tần Thủy Hoàng và tiếp theo nhiều triều đại nước Tầu, không phục vụ cho việc phòng thủ Tổ quốc Trung Hoa, mà lại để cho quân Mông Cổ sử dụng rồi lại phục vụ cho Nhật. Còn Binh Pháp của Tôn Tử tuy rất hay. Nhưng tướng Hán chưa bao giờ mởớ tới. Không biết ông Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Ðông có nghĩ tới chuyện này không? Cũng xin lưu ý Hồng Quân thoát hiểm đến Thiển Bắc thì quân chủ lực giảm xuống từ 800 ngàn xuống còn khoảng 6 ngàn. Nhưng các lãnh tụ thiên tài chạy trốn thì còn sống cả. Thế mà sách ÐCSTQ viết rằng ÐCSTQ và Mao chủ tịch lãnh đạo quân dân Trung Quốc kháng chiến chống Nhật thắng lợi vẻ vang ... không biết thắng ở đâu? mà tìm lục không ra?

Còn một sự thật nữa, cũng cần phải nhắc ở đây là. Khi Nhật đánh Trung Quốc, Quốc Dân đảng của TT Tưởng Giới Thạch có 1/7 triệu quân, được Mỹ, Anh võ trang, trong khi đó tháng 11/1937 kể cả Tân Tứ Quân mới thành lập. Toàn bộ Hồng Quân chỉ có 70 ngàn lính đã thế còn bị chia năm xẻ bẩy vì mưu đồ chính trị nội bộ đảng... là dương cao ngọn cờ kháng Nhật, nhưng bên trong tranh thủ gom góp quân các địa phương và du kích để đó, mặt khác chuyển đại đa số quân binh khỏi chiến tuyến, chứ thực sự ÐCSTQ không có chiến tích nào đáng kể trong cuộc chiến này. Có chăng là Quốc Dân Ðảng. Năm 1939, nhờ sự hà hơi tiếp sức của Mỹ, Anh và Nga quân đội Tưởng Giới Thạch và Mao lấy lại được chút ít tinh thần. Chính phủ của Tưởng Giới Thạch nhận được nhiều viện trợ của Mỹ, Anh, Liên Xô cho chính quyền Quốc Dân Ðảng nhiều khoản tiền lớn và vũ khí ... Quân Mao cũng ăn ké vào đó. 8/3/1942, Anh và Mỹ cung cấp cho Quốc Dân đảng 50 triệu bảng Anh và Mỹ viện trợ 500 triệu dollars.

Nên nhớ rằng: khi Hội Quốc Liên và Hoa Kỳ lên án những hoạt động quân sự của Nhật tại Trung Quốc. Hội nghị các cường quốc ở thủ đô Brussels (15/11) thất bại trong nhiệm vụ trung gian hòa giải.

20 tháng 11. Chính phủ Tưởng Giới Thạch từ Nam Kinh chuyển đến Trùng Khánh, nhưng hành chánh công quyền đặt ở Hán Khẩu. Tưởng đến đây ngày 8/12.

12 tháng 12. Biến cố Panay. Máy bay Nhật oanh kích tầu Anh và Mỹ đang thả neo ngoài khơi gần Nam Kinh. Sự việc này tạo căng thẳng giữa các cường quốc. Rốt cuộc, chính phủ Mỹ chấp thuận lời giải thích của Nhật về vụ việc trên. Tuy nhiên, chính quyền Nhật tiếp tục chính sách cao tay ấn đối với tài sản và quyền lợi của các nước khác ở Trung Quốc, bất chấp những chống đối từ phía Mỹ, Anh và Pháp. Tình hình khốc liệt tại Châu Âu cho phép Nhật có thể theo đuổi ý đồ của mình mà không phải lo đối phó với sự can thiệp từ nước khác.

13 tháng 12. Nam Kinh thất thủ. Nhật oanh kích Trân Châu Cảng khiến Mỹ tham chiến chống Nhật mở ra mặt trận thứ hai ở Thái Bình Dương. Mỹ dành cho Trung Quốc khoản viện trợ 630 triệu USD dưới hình thức quân trang, quân dụng, vũ khí, và khoản tiền vay 500 triệu USD, tất cả đều được trao cho chính phủ Trùng Khánh.

8/3/1942. Anh và Mỹ khắc phục nạn lạm phát trầm trọng tại Trung Quốc, cung cấp khoản tín dụng 50 triệu bảng Anh và 500 triệu USD.

Ngày 8/8/1945 chiến tranh đã chấm dứt tại Châu Âu được vài tháng. Hai ngày sau vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima. Hồng quân Liên Xô tràn vào Mãn Châu trong tuần lễ tiếp đó. Nhật đầu hàng vô điều kiện – Trung Quốc dâng đất cho Liên Xô.

Ngày 14-8 Thay mặt quốc dân đảng. Tổng Tử Văn ký hiệp ước hữu nghị và Liên Minh với cs Liên Xô (qua mặt ÐCSTQ). Ðể đắp lại việc CS Liên Xô công nhận chính quyền Quốc Dân Ðảng là chính quyền trung ương của Trung Quốc. Phe Quốc Dân Ðảng đồng ý về quyền độc lập của Ngoại Mông; Và cho CS Liên Xô quyền sở hữu chung tuyến đươc sắt Nam Mãn Châu và Cảng Ðại Liêu. Họ cũng nhất trí dâng cảng Lư Thuận cho Hải quân Liên Xô.

Chiến tranh đã chấm dứt nhưng Trung Quốc vẫn bị chia rẽ, gầm ghè tranh ăn giữa Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch và Ðảng CS của Mao Trạch Ðông, thành ra chẳng đảng nào, quân đội nào của nước Tầu dám đụng đến Nhật. Có lẽ họ vẫn còn khiếp sợ quân Nhật chăng? Chẳng đặng đừng quân đội Mỹ lại phải nhẩy vào.

Tháng 8 và tháng 9, quân Mỹ chiếm Thượng Hải, Thanh Ðảo, Dagu, Quảng Châu và Pusan (Triều Tiên) rồi tiến vào Bắc Kinh và Thiên Tân. Quân Nhật đã hàng nhưng quân Tầu vẫn không dám đến gần quân đội Nhật. Buộc quân Mỹ phải bồng các lực lượng Quốc Dân Ðảng đến các thành phố này để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật.

Trong khi đó tại Diên An Ðảng CS Trung Quốc tổ chức Ðại Hội lần thứ VII mừng chiến thắng, lúc này họ đã có ½ triệu đảng viên, binh lực gồm 900,000 quân chuẩn bị ăn thua với Quốc Dân Ðảng. Trong khi đó họ hô hào: “Người Trung Quốc không hại người Trung Quốc”. Ðiều này giống hệt giọng điệu Hồ chí Minh năm 1946 cũng hô hào: “đoàn kết, đại đoàn kết.” Trong khi đó thanh toán những người quốc gia. Ðảng CS Trung Quốc cũng vậy. Khi cần lợi dụng Quốc Dân Ðảng, họ kêu gọi: “Sống chung lâu bền” giúp đỡ nhau quản lý, thành thật song phương, vinh nhục có nhau v.v... Nhưng kết quả là gì? Kháng chiến Trung-Nhật vừa kết thúc (nhờ đồng minh). Ðảng CS Trung Quốc gom toàn lực đánh đuổi chính quyền Quốc Dân Ðảng, ở Việt Nam cũng vậy. Sau khi thắng Quốc Dân Ðảng. Họ cứ tuyên truyền ồn ào là Ðảng CS Trung Quốc dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Mao Chủ Tịch. Ở VN từ 1945-1954 Hồ chí Minh được coi như thần thánh. Ở nước Tầu thập niên 50-60 Mao Trạch Ðông được coi như bộ óc vĩ đại nhất của loài người, thanh niên, đảng viên đã quay cuồng về hình ảnh Mao Trạch Ðông (Ðông phương hồng – có Mao Trạch Ðông) nhiều người Phương Tây nhìn Mao như một vị thiên tài xuất chúng. Vị thần tái sinh cứu rỗi loài người: Dưới ảnh hưởng của các vị hiền thánh danh tiếng như Lenin, Stalin, dân chúng nhiều nước say mê rồ dại giết lẫn nhau. Cơn si cuồng nhiệt kéo dài khá lâu, phải có một độ lùi, thoái hóa đáng kể của thời gian các học giả, sử gia phương Tây mới nhìn rõ chân dung thật của Mao Trạch Ðông. Một trong những tên đao phủ kinh tởm nhất lịch sử nhân loại, cũng như sự ngu dốt tối tăm của Hồ chí Minh.

Nhưng đa số người Trung Quốc đến nay vẫn tin Ðảng CS Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Ðông, đã giải thoát cho tổ quốc Trung Hoa.

Sự thực ai nghiên cứu lịch sử cũng biết. Chính đế quốc Mỹ và đồng minh đã giải thoát cho nước Tầu. Chứ cả Quốc Dân Ðảng lẫn Đảng CS Trung Quốc đối với người Nhật họ chẳng có Kg nào. Bây giờ thì Trung Quốc đã dư ăn và có nhiều vũ khí tối tân đấy nhưng cũng đừng có sợ, vũ khí nào thì cũng còn phải do con người chứ? Không phải bây giờ người Tầu mới thiếu dũng khí đâu, tổ tiên, ông cha của họ đã thế rồi.

Cuối thế kỷ thứ 20, đầu thế kỷ 21 khoa học kỹ thuật, kinh tế phát triển... kèm theo sự huỷ hoại môi trường sống với nhiều hậu quả ngày càng rõ rệt! Loài người là một bộ phận của tự nhiên. Sống trong thiên nhiên, không được phép hủy hoại môi trường sống bằng cách phá hoại và xả các độc tố hoá học vào không gian, gây chiến tranh v.v... Nhưng chất độc tinh thần mới là chủ chốt trong các loại chất độc gây thảm hoạ cho nhân loại. Kẻ thù của nhân loại ngày nay càng lộ nguyên hình. Đó là tư tưởng và hành động bành trướng, với chính sách diệt chủng của giới lãnh đạo Bắc Kinh, như ở Tây Tạng, Cao Miên, Miến Điện Darfur v.v... trong các chế độ độc tài diệt chủng hiện nay trên thế giới đều là sản phẩm của Bắc Kinh. Nạn diệt chủng lan toả khắp thế giới!

Trong lúc cục diện toàn cầu đang có xu hướng hoà dịu, giảm dần đối đầu. Nhưng ở khu vực Á Châu, Thái Bình Dương, yếu tố bất ổn và khả năng xung đột khu vực ngày càng tăng do tham vọng quá độ của giới lãnh đạo Bắc Kinh.

Gần đây Trung Quốc xây dựng một căn cứ hải quân hiện đại ở đảo Hải Nam. Một bức ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đã âm thầm xây dựng một hải cảng quân sự có thể chứa hàng chục tầu ngầm hạt nhân, gây quan ngại cho các nước trong khu vực, cũng như Hoa Kỳ. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ ông Robert Gate tuyên bố rằng “Hoa Kỳ sẽ không bao giờ bỏ rơi các nước trong vùng Châu Á.” Còn viên tướng chỉ huy các lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương là Ðô Ðốc Keating cho biết: “Mỹ không có ý định từ bỏ ưu thế quân sự ở Châu Á, sau khi có tin Trung Quốc đang xây dựng một căn cứ hải quân hiện đại ở đảo Hải Nam. Theo tuần san Quốc Phòng Jan’s ở Anh và các nhà phân tích quân sự, căn cứ hải quân ở thành phố Nam Á có khả năng để cho hai hàng không mẫu hạm cập bến và có chỗ trú ẩn cho 20 chiếc tiềm thủy đỉnh hạt nhân. Ðô đốc Keating hối thúc giới lãnh đạo Bắc Kinh chớ dồn các nguồn lực của mình vào những hoạt động như vậy.”

Ðô đốc Keating nói thêm rằng các nhà lãnh đạo ở Trung Nam Hải không nên kỳ vọng là Trung Quốc có khả năng trở thành một cường quốc quân sự có khả năng khống chế Châu Á.

Ông Keating nói: “Có một việc tuyệt đối cần thiết mà chúng tôi phải làm là tiếp tục thực hiện cuộc đối thoại với các nhân vật tương nhiệm của phía Trung Quốc, tiến hành những hoạt động giao lưu, chia sẻ chiến thuật, kỹ thuật và qui trình với mục tiêu chủ yếu là để cho Trung Quốc hiểu được vai trò vượt trội của chúng tôi như một quân lực có khả năng chế ngự ở Thái Bình Dương, để họ hiểu được là chúng tôi kiên quyết duy trì vị thế này, và biết được là chúng tôi hy vọng và tin tưởng là họ không tìm cách đương cự chúng tôi về mặt quân sự.”

Theo Ðôc Ðốc Keating, Trung Quốc chắc chắn sẽ gặp thất bại nếu họ có mưu toan như thế.

Trong những năm gần đây, các giới chức Hoa Kỳ nhiều lần nói rằng việc Trung Quốc gia tăng chi tiêu quân sự tự nó không gây ra một mối đe dọa cho Hoa Kỳ, nếu hành động này không đi kèm với những ý đồ thù nghịch. Ðô Ðốc Keating cho biết ông nghĩ rằng sẽ xẩy ra một cuộc đối đầu quân sự giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc, ít ra là trong tương lai gần.

Ðô Ðốc Keating nói: “Chúng tôi đang làm những gì có thể làm ở Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương – và huy động mọi ban ngành và năng lực của mình, để bảo đảm với Trung Quốc là chúng tôi không muốn gây thiệt hại cho họ, và khu vực Thái Bình Dương có đủ chỗ để hoạt động cho tất cả mọi nước.”

Ðây không phải là những lời nói có tính chất ngoại giao mà là một thông điệp chính thức gửi đến Bắc Kinh.

Sự thể sẽ rất xấu, trước hết là đối với các quốc gia trong vùng cái họa bành trướng của Trung Quốc, và nếu cuộc đối đầu bằng hạt nhân xẩy ra giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ ở khu vực Châu Á. Chắc chắn những tổn hại về nhân mạng và vật chất không thể lường được. Trung Quốc đang tác oai, tác quái trong khu vực, họ cao ngạo, hung hăng xem thường thế giới vào lúc này Trung Quốc giương cao ngọn cờ mới 6 sao (lục tộc cộng hòa) ở Biển Ðông, làm cho các nước Ðông Nam Á hoảng sợ, đồng thời thế giới thấy rõ tham vọng bá quyền bành trướng của Trung Quốc, là sự ngông cuồng đầy thách đố thiên hạ, lại còn công bố bản đồ mới của Trung Quốc 2007 với vùng An Vạn Bắc Biển Ðông rộng 5 triệu Km2, thêm một thách đố khác với Hoa Kỳ và Nhật Bản, Úc. Sách lược bành trướng và hải dương Nam tiến tham vọng nắm đầu thế giới. Bắc Kinh hàm hồ vội vã xây dựng thành phố Tam Sa, tự ý khoanh vạch một vùng rộng 5 triệu Km2 biển Ðông gọi là chủ quyền của Trung Quốc!

Ý đồ của họ là đặt tuyến giao thông quốc tế Ðông Tây từ eo biển Malacca đến biển đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc! Vậy các tầu dầu hàng hóa từ Tây qua Ðông đến Ðài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản. Kể cả hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ cũng phải chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc. Họ muốn đóng lại vai trò của Thành Cát Tư Hãn chăng?

Thật là cuồng vọng, hoang tưởng, nếu họ đạt mục đích này. Ngoại trừ Trung Quốc khuất phục được Nhật, đánh bại được Mỹ.

Cái tham lam vô hạn độ của Trung Quốc. Không phải chỉ cần hãm lại, mà cần phải đánh quỵ, trước khi nó hành động gây họa cho nhân loại.

Những chiến lược gia trí tuệ mẫn cảm siêu quần ở hàng đầu, trong sự phát triển lịch sử quân sự Hoa Kỳ ắt phải nhìn xa thấy rộng, trong bối cảnh của thời đại, để đề ra những phương hướng chiến lược hoặc sử dụng lựa chọn phương pháp tối ưu để đối phó với Trung Cộng. Am tường sâu sắc đối phương, tìm hiểu những thực tiễn xã hội và con người Trung Hoa, đến các cấp lãnh đạo của họ là điều không thể thiếu, mà mỗi bước tiến của lịch sử đều có vô vàn mâu thuẫn xã hội, chính trị, đặc biệt độc đáo đòi hỏi con người phải suy nghĩ thăm dò trước khi giải quyết vấn đề.

Ông Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert Gate và Ngài Ðô Ðốc Hải Quân Keating chỉ huy các lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương hẳn là phải từ các trường Ðại Học Quốc Phòng Mỹ mà ra. Tất họ phải nghiên cứu binh pháp của Tôn Tử: “Biết địch biết mình giành thắng lợi không gặp hiểm nguy. Biết thiên thời địa lợi nữa, giành thắng lợi mới thật chắc chắn!”

Huấn lệnh của Tư Lệnh hải quân lục chiến Hoa Kỳ năm 1989 viết: “Tư tưởng tác chiến của Tôn Tử vẫn thích dụng cho ngày hôm nay cũng như 2500 năm trước.” Tương kế tựu kế Mỹ nên dùng Binh Pháp Tôn Tử. Nhà chiến lược nổi tiếng người Anh ông Kaso trong cuốn sách bàn về chiến lược viết: “Chiến lược hoàn mỹ nhất, cũng chính là chiến lược không cần phải qua chiến đấu gay go mà vẫn đạt tới mục đích. Ở Pháp: năm 1772, linh mục P. Amiot đã dịch và xuất bản ở Paris tùng thư: Binh Pháp Tôn Tử. Ðây là bản Binh Pháp Tôn Tử được dịch sớm nhất ở Phương Tây: Lúc đó một tạp chí lý luận quân sự Pháp viết: “Nếu các tướng lãnh chỉ huy quân đội Pháp đều được đọc Binh Pháp Tôn Tử này thì thật là phúc lớn cho nước Pháp”.

Quả thực Binh Pháp Tôn Tử lần đầu tiên đưa ra một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về chiến tranh và quân sự, trình bày một loạt các nguyên tắc chỉ đạo chiến tranh, các ý tưởng mà phần lớn trong đó đã trở thành những danh ngôn có sức sống lâu dài.

Hiện trường Ðại Học Quốc Phòng Mỹ, xếp Binh Pháp Tôn Tử trước cả tác phẩm bàn về chiến tranh của Clausewitz. Binh Pháp Tôn Tử được dịch từ Hán Văn ra Nga năm 1957, ra tiếng Anh 1905, tiếng Pháp từ năm 1772. Ở Ðức 1910 - Ðặc biệt là ở Nhật vào thời Võ Tắc Thiên đời Ðường (684-704, một người Nhật là ông Cát Bi Châu Bi (Kimino Makibi) đã mang binh pháp Tôn Tử về Nhật truyền thụ lại cho giới tướng lãnh Nhật. Từ đó phong trào học tập binh pháp Tôn Tử liên tục diễn ra, giới quân sự cho rằng: “Khổng Phu Tử là Thánh Nho, Tôn Phu Tử là Thánh binh. Những nhà Nho đời sau không thể tìm thấy Ðạo Nho ở đây ngoài Khổng Phu Tử, nhưng binh gia không thể quay lưng lại với Tôn Phu Tử mà tiến theo hướng khác”. Các tướng Nhật thời cận đại đã ứng dụng binh pháp Tôn Tử đánh cho người Khổng Lô Trung Quốc không ngóc đầu dậy được. Ở nước ta Tôn Tử binh pháp đã được truyền bá từ cuối thế kỷ thứ 9, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi, đã hiểu sâu binh pháp Tôn Tử và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, tiến hành thắng lợi, các cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của kẻ thù phương Bắc.

Trong thiên Mưu Công, tác phẩm đã đề xuất nhiều lý lẽ toát lên tinh thần tổng quát là: Phải tìm cách giành thắng lợi tối đa bằng một giá tối thiểu. Danh ngôn: “Người đánh trăm trận thắng cả trăm chưa thể kể là người tài giỏi nhất. Không đánh mà buộc đối phương đầu hàng mới là người giỏi nhất” đã trở thành tiêu chuẩn hướng dẫn hành động của các nhà chiến lược quân sự xưa nay.

Nếu bài học có thể rút ra từ chiến tranh Việt Nam, I-rắc, với Trung Quốc, Hoa Kỳ chỉ cần yểm trợ hậu cần cho những quốc gia láng giềng của Trung Quốc có khả năng chiến đấu như Tây Tạng. Nơi đó chính là mồ chôn vĩnh viễn chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc. (Xin xem bài: “Trung Quốc là kẻ thù của thế giới” để bạn có thể quán triệt được mọi vấn đề sinh tử của Trung Quốc ở Tây Tạng trong các websites chẳng hạn như VietnamExodus, Vietvungvinh, NsVietNam, Doithoai v.v...)

Trần Nhu
Ðầu Mùa Hạ, 2008

No comments:

Post a Comment