Sunday, November 29, 2009

Chuyện phải viết !!



Alexandre Solzenitsym

Nhà văn Alexandre Solzenitsym: "Khi thấy thằng cộng sản nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo. Nếu ta không có can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi không ở lại nghe nó nói láo. Nếu ta không can đảm bỏ đi mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ không nói lại những lời nó nói láo với người khác".

Thảm sát Mậu Thân, Huế 1968

Hôm qua đọc báo biết nhà văn Alexandre Solzenitsym qua đời, tôi buồn vì tiếc cho thế giới mất đi một nhà văn kiệt xuất. Ngoài ra, tôi bồi hồi thương cảm cho số phận của đất nước tôi vô cùng!!

Đất nước tôi còn bất hạnh, có lẻ bởi vì số đông những người Việt Nam lưu vong trên những xứ sở tự do, sống bằng cây bút, sống với văn học nghệ thuật còn thiếu một nhân cách can đảm như ông Alexandre Solzenitsym. Một nhân cách bất chấp mọi nguy hiểm để nói lên sự thật, nói lên cái sai trái, cái độc tài, cái giảo quyệt của chế độ Cộng sản. Một nhân cách bất chấp mọi quyền lực bè phái, dám bất bình vạch trần sự thật trước dư luận về một số người lưu vong hèn hạ vô ơn với ‘cái chính thể’ đã nuôi dưỡng họ được sống còn cho đến ngày hôm nay. Một nhân cách biết đau xót trước những khủng bố tù đày của những người đấu tranh không mệt mỏi cho một Việt Nam tự do dân chủ và nhân quyền.

Trước năm 1975, ông Mai thảo, một trong những nhà văn lớn trên đất nước tôi, một người suốt đời sống bằng chữ nghĩa. Chữ nghĩa của ông sặc mùi rượu mạnh đêm đêm phòng trà, chữ nghĩa của ông trau chuốt óng ả sống thời thượng nhảy đầm trên những xác chết của vô số người lính ngoài trận. Nửa đời còn lại, ông tiếp tục sống ngất ngưởng phong lưu tỵ nạn, chữ nghĩa của ông bây giờ nói lên khát vọng tự tôn: "Ta thấy hình ta những miếu đền ... Đời ta sử chép cả nghìn chương ...."

Đọc những lời thơ thần thánh hóa một cách bệnh hoạn của một nhà văn già một đời nát rượu này, tôi thấy thương cho ông. Tôi tôn trọng những gì gọi là văn học, nhưng ca tụng những dòng thơ huyễn tưởng của ông thì không. Thế mà một số người lưu vong sống bằng chữ nghĩa, họ lãng quên rồi những người Việt Nam Cộng Hòa anh hùng đã chết thật anh hùng cho đất nước. Họ dấy động chữ nghĩa tâng bốc thơ ông là những dòng trác tuyệt, ông là bậc vĩ nhân, ông là cây đại thụ, là Nguyễn Du thời đại. Tôi ngán ngẫm vô cùng, mường tượng thấy trước mắt mình đang diễn lại hoạt cảnh điếu đóm xưng tụng, tự chia nhau chiếu trên chiếu dưới, tự phong mỗi người thống lãnh mỗi cõi Thái Sơn Bắc Đẩu như ngày xưa ở văn đàn nước tôi.

Giải khăn sô cho Huế

Có người cho ông Trịnh Công Sơn dùng chữ dễ dàng như lấy từ trong túi áo. Vâng đúng vậy, không ai phủ nhận điều này. Chữ nghĩa của ông đẹp lắm, vì những chữ nghĩa đó được cưu mang, được thấm đẫm bởi máu, nước mắt và mồ hôi của hàng triệu người đã cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước để bảo vệ hai chữ Tự Do.

Sau năm 1975, ông sống hèn hơn tôi tưởng. Chữ nghĩa đẹp của ông sợ hãi ngó lơ trước hàng hàng lớp lớp xác người trôi dạt khắp biển Đông. Chữ nghĩa đẹp của ông sợ hãi ngó lơ trước hàng hàng lớp lớp những trại tập trung cải tạo. Chữ nghĩa đẹp của ông sợ hãi ngó lơ trước hàng hàng lớp lớp những thân phận tù đày khổ sai trên khắp cùng rừng núi. Mỗi ngày TCS nhâm nhi rượu Tây rượu Mỹ, TCS đem những chữ nghĩa đẹp của ông để ngất ngây say đắm ca ngợi cái xã hội ông đang sống mà mỗi ngày chung quanh TCS có hàng triệu người đói cơm thiếu mặc. TCS đem những chữ nghĩa đẹp của ông để thiết tha ca tụng cái xã hội ông đang sống mà mỗi ngày chung quanh TCS có hàng triệu người bị đòn thù bách hại.

Ông chết, bạn bè ông trong nước, người nặn tượng, kẻ vẽ tranh sùng bái ông (tôi cũng vẽ một bức, vẽ chính con người của ông: mặt mày lơ láo, tóc tay dựng đứng. Bức vẽ này tôi gởi về địa chỉ nhà ông).

Nực cười thay, tại hải ngoại có một số cây bút mà ngày trước họ đã sợ hãi trốn chạy chế độ phi nhân phi lý phi pháp qua đây sống kiếp lưu vong. Nghe TCS chết, họ vội vã vấy động chữ nghĩa khóc ông ...!? (tôi nghe ra những lời thống thiết trơ trẽn đó có khác gì với cái trơ trẽn của Tố Hữu khóc Stalin). Nước mắt tôi không đổ cho loại người như TCS, loại người có tấm lòng chỉ để ... gió thổi bay đi. Không bao giờ.

Tài hoa, họa sĩ bậc thầy mà sống vô hậu như các ông Đinh Cường và ông Trịnh Cung ... Ngày xưa, các ông ấy cùng với bọn Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường thâm giao vô cùng trên mấy ngàn xác chết của dân Huế bị bọn Việt Cộng sát hại. Ngày nay, các ông ấy tiếp tục thản nhiên đàn đúm, làm ngơ trước những dòng nước mắt và trên những giải khăn tang của vô số đồng bào. Các ông ấy tiếp tục làm ngơ trước những nỗi gieo neo tận cùng nghèo khổ của hàng triệu dân lành.

Họ nghèo khổ tới nỗi những thanh niên thiếu nữ phải chấp nhận bán đi nhân phẩm của mình cho bọn cầm quyền để được đem qua những xứ sở lân cận để làm những nghề thật tủi nhục. Các ông ấy lặng thinh trước một xã hội suy đồi đạo đức một cách ghê sợ mà lịch sử nước nhà trước đây chưa hề xảy ra. Các ông lặng thinh trước một xã hội đầy rẫy bất công trong một chế độ độc tài tham nhũng thối nát, giàu nghèo vô cùng chênh lệch và biết bao tội ác thì có khác gì với đồng lõa. Các ông ơi, chiêm ngưỡng những ngòi bút cây cọ thui chột của các ông? Không có tôi đâu.

Những kẻ vô lại như bọn Phạm Duy như bọn Nguyễn Cao Kỳ gần đây nữa là Bùi Duy Tâm …..

Đất nước Việt Nam của chúng ta. Một giải đất thật nhỏ bé thật thân thương mà các tiền nhân, những vị anh hùng của chúng ta suốt mấy ngàn năm nay đã đổ biết bao xương da máu thịt trong lửa đạn để bảo vệ giữ gìn. Giờ đây bọn CS Việt Nam cắt từng miếng đất, dâng từng hòn đảo cho ngoại bang. Sơn hà đang lâm nguy. Nước nhà đang nguy biến. Những người sống bằng chữ nghĩa lưu vong trên những mảnh đất tự do đâu hả? Họ sợ gì sao không dấy động chữ nghĩa lên chiến đấu bằng ngòi bút của mình? Dấy động chữ nghĩa lên kêu gọi lương tâm nhân loại. Dấy động chữ nghĩa lên đánh thức lòng yêu nước của người Việt Nam sống khắp nơi trên thế giới? Chữ nghĩa của họ đâu rồi? Có phải chữ nghĩa của họ bây giờ chỉ dùng để kêu gào cổ súy cõng rắn vô nhà? Có phải chữ nghĩa của họ bây giờ dùng để khích bác một cách ác độc ngu xuẩn làm thương tổn đến niềm tin về tôn giáo cao cả của mỗi người trong Cộng đồng? Có phải thái độ sống của họ là một thái độ không làm người tử tế? Có phải thái độ viết của họ là thái độ thiếu trung thực, gây rối, khiếp nhược, ích kỷ?

Tôi ước gì ở hải ngoại này có được thêm vài ông Nguyễn Hữu Nghĩa, Duyên Anh, Bùi Bảo Trúc, . v..v… Chắc chắn cộng đồng sẽ bớt những kẻ sống bằng chữ nghĩa, thiếu lòng tự trọng quên bước đi bằng hai chân để được sự ân sủng của bọn Cộng Sản Việt Nam cho phép rao bán thơ văn của mình. Bớt những loại sâu bọ lên làm người còn giấu mặt. Bớt những kẻ vô lại như bọn Phạm Duy như bọn Nguyễn Cao Kỳ ... Bùi duy Tâm.

Trong số các nhà văn nhà thơ, được mấy người có nhân cách đẹp không thèm tiếp Nguyễn Tuân như bà Nhã Ca? Nhưng có rất nhiều người như bà Mộng Tuyết.

Những người Việt Nam lưu vong sống bằng chữ nghĩa nhân cách lương tâm kiệt xuất? Có, nhưng hiếm. Những người lưu vong Việt Nam sống bằng chữ nghĩa lương tâm công chính? Có, ít lắm. Còn lại, một số họ sống cố tình lú lẩn quên rồi những oan nghiệt lầm than do hai chữ Cộng sản, hoặc không thể làm bộ si khờ, thì họ sống chúi đầu xuống đất. Có người, họ sống thật khéo, thật bảnh bao mũ ni che tai, sống cả nể, sống phất phơ như loài cỏ dại, tâm tư quan điểm của họ trôi nổi như lục bình. Có số, họ còn tự cho mình là cao cả, là phi chính trị, là đứng trên những thị phi, văn chương thơ phú của họ là châu là ngọc trau chuốt thật tròn trịa đổi màu lấp lánh vái lạy tôn tụng nhau, để tự choàng cho nhau những vòng nguyệt quế thối rữa.

Tôi mơ ước cái chết của nhà văn Nga vừa qua sẽ đánh động lương tri và sự chân thật của những người Việt Nam lưu vong sống bằng ngòi bút.



Theo voi ăn bã mía - Trương Vĩnh Khôi



Phó tưởng thú vật việt gian CSVN Trương Vĩnh Trọng cùng đoàn chuột nhắt cao cấp của Việt Cộng thăm bác sĩ Bùi Duy Tâm (nhân vật mặc khăn đóng áo dài, đang đứng chắp tay lạy các quan chuột CSVN

Trương Vĩnh Khôi


Người ta bảo có nhiều tên khoa bảng đã làm ô danh cho giới tri thức hải ngoại. Quả là không sai. Ông B/S Bùi Duy Tâm đã ăn biết bao cơm gạo miền Nam để lớn lên và thành đạt dưới chế độ VNCH. Ông đã từng giữ nhiều chức vụ cao cấp của VNCH như Khoa trưởng trường ĐH Minh Đức và Khoa Trưởng trường ĐH Huế. Như vậy kể ra ông đã được “ăn trên ngồi trốc”, đã hưởng “lương cao bổng hậu” của VNCH hơn nửa đời người. Và VNCH cũng không hề ngược đãi ông !

Nay VNCH đã sụp đổ thì ông “đón gió rở cờ”, quay sang cong lưng, uốn lưỡi nịnh nọt kẻ thù. Một người khoa bảng mà hành động như vậy thì bị mắng “danh xú vạn niên” cũng không phải là quá đáng. Người ta tự hỏi không biết ông muốn mưu cầu gì ở giai đoạn quá tuổi thất thập cổ lai hy này.?

Chuyện Phó Thủ Tướng Trương Vĩnh Trọng dắt một đám đàn em tới nhà thăm ông chỉ là một hành động có tính cách chính trị, tuyên truyền của bọn chúng cho chương trình “Gặp gỡ VN”. Chúng phải dùng ông, vì chúng không thể tìm ra một ai khác, mặc dầu ông không có gì là sáng gíá ở trong cộng đồng hải ngoại này. Chúng cần một bài phóng sự, một vài tấm hình để trương lên mặt báo, trên truyền thanh, truyền hình nhằm tạo ấn tượng lãnh đạo được đón tiếp trân trọng bởi trí thức hải ngoại, dù chúng từng coi trí thức là thành phần phải trấn áp kỹ luỡng

BDT đã quá u mê khi tự ý viết bài diễn tả cuộc viếng thăm và một tấm hình chụp để gửi ra ngoài với mở đầu: “gửi các bạn”. Mục đích để khoe niềm kiêu hãnh của ông. Ông đã uốn lưỡi nói những câu nhục nhã “Ngày nay, với phương châm “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” của chủ tịch Hồ Chí Minh, thì dân tộc VN đã “thành công, thành công, đại thành công.” Và: “”tôi mong muốn PTT Trương Vĩnh Trọng và đoàn đại biểu VN đón nhận từ cá nhân tôi, cùng gia đình, và bạn hữu của tôi lòng trân trọng và khâm phục.”

Nghe thế thì nếu ai đã chót coi ông là bạn ắt phải hết muốn là bằng hữu của ông, và quả là như thế nếu xét theo phản ứng trong các thư điện tử trao đổi trong y giới. Người ta nhắc lại chuyện ông về VN trước đây và bị giữ lại, lúc thả ra nhờ con ông chạy vạy ngoài này, phải có xe lăn vào đón ông tận cửa phi cơ vì ông không đi nổi sau khi được nhà nước chiếu cố. Nhân chuyện này thì tự hỏi rằng phải chăng có người mắng ông là “chó “ trên internet là vì nghĩ đến hình ảnh con chó bị chủ đánh mà vẫn cụp đuôi ve vẩy lại gần phủ phục làm lành, nhẫn nhịn?

Cũng nhân chuyện này, có người nhắc lại rằng khi VC mới mở cửa, ông đã là một trong những người về VN du lịch đầu tiên. Lúc trở về Mỹ, ông huênh hoang kể lại cho báo chí nghe về chuyến hồi hương, và tệ hại nhất là chuyện đi thuyền tay đôi với nhà văn Dương Thu Hương vào một đêm trên sông Hương. Cứ ngỡ rằng xa xôi cách trở, ông diển tả nửa úp nửa mở, hư hư thực thực để người nghe có cảm tưởng rằng ông là một người hào hoa phong nhã, đã chinh phục được trái tim của “người đẹp”. Ai ngờ, “vách có tai”, không hiểu tại sao mà Dương Thu Hương ở xa nửa vòng trái đất lại nghe được những lời khoác lác của ông. Vì thế cái nhà văn gái vốn có tiếng là nói năng bạo tợn bất chấp trong hội nhà văn Hà nội nổi trận lôi đình, rống giọng chửi rủa, thóa mạ ông bằng những lời lẽ miệt thị nặng nề. Thế là ông câm miệng hến từ đó.

Ngày xưa ở thời VNCH, người ta nói ông không có tài cán hơn người là bao. Ông leo lên được những chức vụ cao nhờ miệng mềm, lưỡi dẻo , cong lưng, cúi đầu trước kẻ có quyền. Đã có người gọi ông là “con thò lò 6 mặt”, hay kẻ “hoạt đầu”. Ngày nay, ở lứa tuổi 80 rồi, ông nịnh nọt một cách vô liêm sỉ những hạng như Trương Vĩnh Trọng để làm gì nữa đây? Có người nói là ông tính đi theo voi ăn bã mía. Nhưng mà Trương Vĩnh Trọng nào phải là voi, khi chấp nhận lời ông mời tiếp tân tại nhà thay vì tại một khách sạn trung trung mà tốn phí thì cũng không là bao nả. Sức ông và các con cháu ông mà báo nhà nước ca tụng là thành đạt cao tại Mỹ, đem chập lại mà không làm được như thế thì ông Tâm ạ, khó mà gọi là có bã miá cho ông sơi sau khi TVT và mấy tùy tùng ra đi. Dùng chữ theo kiểu nhà nước ta là “đầu vào” không có bao nhiêu thì “đầu ra” sao mà có thể còn gì để mút mát chút đỉnh?

Trương Vĩnh Khôi
----------------
Bài thơ ỡm ờ về Bùi Duy Tâm, Dương Thu Hương, Lê Huy Thiệp, Dương Thông
    CHUYỆN TÌNH TRÊN SÔNG ĐÀ

    Ai đâu vả miệng, tự dưng khui
    Ăn vụng mà sao chẳng chịu chùi
    HUY THIỆP dường ma cô dẫn mối
    THU HƯƠNG rõ gái gọi đi chui
    Sông Đà ân ái vừa khai vị
    Núi Tản du dương chửa nếm mùi
    Thằng điếm DƯƠNG THÔNG dòm lỗ khóa
    Quả tang tại trận bắt TÂM BÙI

    22.11.2009
    HỒ CÔNG TÂM
------------------------
    VỀ BÙI DUY TÂM
Trên Diễn Đàn Thảo Luận 9, vi hữu, VietDzung, ký tên RAU, có đưa một bài về Bác sĩ Bùi Duy Tâm ở Chicago, Hoa kỳ (message số 54377). Về nhân vật Bùi Duy Tâm này đã một thời làm trò hề cho cộng đồng người Việt tỵ nạn việt-gian-cộng-sản. Hắn đã về Việt Nam móc nối với tên Trung tướng an ninh việt-gian-cộng-sản là Dương Thông, để buôn bán kho vũ khí ở Long Bình. Qua tiết lộ của Dương Thu Hương ( tác-giả Thiên Ðường Mù ) thì Bùi Duy Tâm khoe với Hương rằng hắn là người của Mỹ về để Hòa-Giải với việt-gian-cộng-sản, và có thể trở thành nguyên thủ của Việt-Nam. Rối hắn lả lơi tán tỉnh DT Hương rằng DT Hương cặp với hắn thì sẽ thành đệ-nhất phu-nhân của VN.

Tất cả những điều nói dóc trên còn chưa khô nước miếng trên miệng Bùi Duy Tâm, thì Dương Thông ngã ngựa và phe Bùi thiện Ngộ (Bộ trưởng công an ngụy quyền Hà nội) đã cho BD Tâm vào tù. Ở trong tù hắn đã hèn hạ như thế nào, làm đơn xin khoan hồng. Hắn đã được thả, bởi lý do chỉ là một con buôn cả tiền, cả tình, cả chính trị; tất nhiên là cái thứ chính trị có lợi cho tập đoàn việt-gian-cộng-sản. Cho nên kể từ đó, gần như năm nào BD Tâm cũng cùng vợ về VN. Con người của hắn, là một kẻ "điếc không sợ súng", đã được DT Hương gửi thư chửi cho một trận về tội khoác lác rằng đã "làm tình" với DT Hương cả trên cạn lẫn dưới nước ... (chắc là giống loài lưỡng thê như cóc nhái vậy).

DT Hương đã kết luận hai câu thật chính xác về con người BD Tâm. Ðó là:

1. BD Tâm có bộ mặt, cách ăn nói giống như tên việt-gian Dương Thông và mặt của hai đứa bị DT Hương tả giống như "bộ phận sinh dục của con ngựa cái";

2. BD Tâm là một kẻ mà DT Hương nhận xét "yêu nước kiểu chủ nghĩa khăn đóng" (có nghĩa là chỉ cần đội khăn đóng, mặc áo dài như thế là yêu nước rồi!!!).

Nhân dịp "Meet VietNam" vừa xong tại Chicago, Hoa kỳ, bè lũ việt-gian do tên Thủ tướng viêt-gian Trương vĩnh Trọng và một vài Thứ, Bộ trưởng của chúng đã đến thăm BD Tâm. BD Tâm lại giở trò yêu nước theo kiểu khăn đóng khúm núm trước lũ việt-gian. BD Tâm đã nói gì, xin quý bạn đọc theo dõi bản tin bên dưới.

Bùi Duy Tâm đã từng là hiệu trưởng của trường Ðại Học tư thục Minh Ðức, chứ hắn chưa bao giờ là hiệu trưởng trường Ðại học Y-khoa Sài-gòn hay Ðại học Y-khoa Huế.

Lễ tưởng niệm Trần Văn Bá




“VÌ LÝ DO SỨC KHỎE” - Lm Nguyễn Hữu Lễ

Lm Nguyễn Hữu Lễ

Lm Nguyễn Hữu Lễ

Trong thời gian gần đây, tin Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt xin từ chức Tổng Giám mục Hà Nội “vì lý do sức khỏe” được nhiều người bàn tán và câu chuyện còn đang diễn tiến chưa ai có thể biết được đoạn kết sẽ ra sao. Nói cách khác Đức Tổng Giám mục (TGM) Ngô Quang Kiệt sẽ còn ở lại tiếp tục chăn dắt đàn chiên trong Tổng Giáo phận Hà Nội hay sẽ ra đi. Có nhiều người đã lên tiếng bày tỏ ý kiến, đặt vấn đề, phê phán sự kiện này công khai trên các diễn đàn, trên báo chí, cũng như riêng tư với bạn bè. Vì chưa phải là nguồn tin chính thức nên tôi viết bài này với sự dè dặt thường lệ bằng lời mở đầu: “Nếu tin trên đúng sự thật”.

Năm chữ “vì lý do sức khỏe” được hiểu cách đơn giản là một người không còn đủ khả năng về tinh thần hay thể lý để tiếp tục đãm nhận chức vụ mình đang nắm giữ. Trong thực tế, một câu chỉ có năm chữ “vì lý do sức khỏe” lại có nghĩa dài vô tận. Ngoài nghĩa đen nói trên, nó còn được coi là “năm chữ vàng” dùng để nói về một người rời khỏi chức vụ với lý do không cần phải giải thích, hoặc không thuận tiện để nói ra thì “5 chữ vàng” kia được dùng thay thế. Hối lộ tham nhũng bị sa thải và nhốt tù cũng “vì lý do sức khỏe”. Trong đảng cách chức thanh trừng nhau, triệt hạ nhau cũng “vì lý do sức khỏe”. Loại bỏ được một đối thủ có uy tín làm chướng ngại vật cũng “vì lý do sức khỏe”. Đối thủ bị sát hại đang nằm trong lòng đất lạnh cũng “vì lý do sức khỏe”. Các giáo sĩ bị tai tiếng phải rút lui hay bị chuyển đi nơi khác cũng “vì lý do sức khỏe” … và còn thiên hình vạn trạng trường hợp “vì lý do sức khỏe” khác nữa.

Trong khi đó tin TGM Ngô Quang Kiệt làm đơn xin từ chức Tổng Giám Mục Hà Nội cũng vì “lý do sức khỏe”! Điều này đã làm cho nhiều người ngạc nhiên, trong đó có người viết bài này. Khách quan mà nhận xét, tôi không thấy TGM Ngô Quang Kiệt có “trouble” gì về sức khỏe, cả về tinh thần lẫn thể chất. Tuy nhiên tôi có chút e ngại là không biết gần đây Ngài có bị cúm heo hay không, nhưng nếu có thì Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội đã thông báo để giáo dân cầu nguyện cho Ngài. Như vậy phải hiểu làm sao? Cuối cùng tôi hiểu ra rằng, TGM Ngô Quang Kiệt nếu có làm đơn xin từ chức không phải vì Ngài bị yếu kém về sức khoẻ mà ngược lại vì Ngài quá khoẻ trong tinh thần. Đó là lý do Ngài phải xin từ chức.

TGM Ngô Quang Kiệt

Hiện nay, trong hàng giáo phẩm của Giáo hội Công giáo Việt Nam, TGM Ngô Quang Kiệt là người được giáo dân và đồng bào trong và ngoài nước quý mến và kính trọng nhất. Người ta quý mến và kính trọng Ngài không những vì đức độ và tính tình hoà nhã của một vị Tổng Giám Mục tuổi trẻ tài cao, mà còn vì tinh thần kiên cường bất khuất của một vị chủ chăn nêu tấm gương can đảm làm chứng nhân cho SỰ THẬT cho đàn chiên noi theo.

Những ai đã theo dõi những trường hợp TGM Ngô Quang Kiệt đã đương đầu một cách khôn ngoan và kiên cường với các viên chức Việt cộng trong những lần “làm việc” mới thấy rõ được tầm vóc của vị Tổng Giám mục trẻ tuổi này.

Những ai nhìn thấy cảnh TGM Ngô Quang Kiệt, tay cầm cây gậy chủ chăn, dẫn đầu đàn chiên đang bước theo chân Ngài, miệng họ hô to đòi chế độ Việt cộng phải trả lại tài sản của Giáo hội bị chế độ tướt đoạt. Đoàn người bước đi một cách hiên ngang trước mắt bầy lang sói vươn dài nanh vuốt đang nhe răng gầm gừ, mới thấy rỏ được hình ảnh vị chăn chiên nhân lành nhưng kiên cường bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng liều mạng sống mình vì đàn chiên.

Có thể nói TGM Ngô Quang Kiệt là người Chúa sai đến trong giai đoạn lịch sử này của Giáo hội Việt Nam để làm chứng nhân cho SỰ THẬT, tranh đấu cho SỰ THẬT và sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả, kể cả tù đày vì SỰ THẬT. Vai trò của Ngài trong giai đoạn này cũng để bổ túc và tạo nên một thế quân bình cho sự phát triển trong Giáo Hội dưới chế độ vô thần cộng sản.

Phát triển bộ mặt của Giáo Hội


Sau khi trên quê hương Việt Nam im tiếng súng, Giáo hội Công giáo Việt Nam có nhu cầu khôi phục lại các cơ sở tôn giáo, một số bị chiến tranh tàn phá, số khác bị nhà nước cướp bóc sau ngày đánh chiếm được miền Nam. Việc xây dựng lại nhà thờ và các cơ sở tôn giáo gặp nhiều khó khăn trong những năm đầu, nhưng từ khi chế độ Việt cộng mở cửa cho phép người dân xuất ngoại, các giáo sĩ và tu sĩ bắt đầu ra hải ngoại vận động tài chánh mang về, từ đó phong trào khôi phục lại các cơ sở tôn giáo thuận lợi hơn. Trong một thời gian ngắn, nhiều nhà thờ và cơ sở tôn giáo được xây lên, không những có thể thay vào số đã bị chế độ Việt cộng cướp đoạt, mà còn mọc lên thêm nhiều cơ sở mới.

Có những chức sắc cao cấp và một số linh mục, tu sĩ đã chịu khó bôn ba hải ngoại kiếm tiền về xây dựng Giáo Hội quê nhà. Các vị đó có công đóng góp cho sự phát triển bộ mặt của Giáo hội ngay trong lòng chế độ cộng sản vô thần. Ngày nay sự phát triển của Giáo hội Việt Nam rất khởi sắc trong chiều hướng “tốt đạo đẹp đời” với những sinh hoạt tôn giáo đầy màu sắc trong những ngôi thánh đường khang trang, những trung tâm hành hương bề thế. Có thể nói, chưa có thời nào Giáo hội Công giáo Việt Nam có bộ mặt đẹp và tươi mát như dưới chế độ vô thần cộng sản, một chế độ độc tài với bản chất lưu manh lừa đảo và đặt căn bản trên sự gian dối.

Người ngoại quốc nhìn vào sẽ trầm trồ khen ngợi sức sống của Giáo hội Công giáo Việt nam. Người Công giáo tất nhiên phải hài lòng và hãnh diện về sự phát triển của Giáo hội mình. Dù vậy, tôi vẫn cảm thấy có cái gì lấn cấn trong lòng và điều này làm tôi không yên tâm. Càng có dịp đi lại nhiều, tiếp xúc và lắng nghe nhiều, sự bất an này trong lòng tôi càng dâng cao, tôi phải nói lên, mặc dù biết rằng những gì tôi nói đây có thể không vừa lỗ tai một số người. Tôi không hiểu được trong khi những người Công giáo Việt Nam vui mừng hớn hở trước sự thăng hoa của tôn giáo mình thì những đồng bào ngoài Công giáo sẽ nghĩ gì về Giáo hội Công giáo? Nên nhớ rằng người Công giáo chỉ chiếm trên dưới 10% dân số, vậy đại đa số đồng bào còn lại mà phần đông là những người bị chế độ áp bức và nghèo khổ, có cái nhìn như thế nào về bộ mặt đẹp của Giáo hội Công giáo Việt nam? Đặc biệt là tín đồ thuộc các tôn giáo khác có cái nhìn như thế nào đối với những người Công giáo? Đừng quên rằng chế độ Việt cộng là bậc thầy trong việc dàn dựng và kích bác gây chia rẽ, nhất là chia rẽ giữa các tôn giáo để chúng hưởng lợi. Có lẽ đã đến lúc mỗi người Công giáo phải thành thật với lòng mình để trả lời câu hỏi này: Giáo hội Công giáo Việt Nam có hoà mình với số phận Dân tộc bị chế độ áp bức, có đồng hành với Dân tộc trong cuộc chiến loại bỏ chế độ gian tà, để Dân tộc Việt Nam được vươn lên với cộng đồng nhân loại không?

Ngoài ra tôi cũng có phần lo âu về các cơ sở của Giáo hội đã và đang được phát triển nhiều nơi. Không biết rồi đây chế độ Việt cộng có giở lại thói lưu manh cố hữu ra lệnh “xung công” hết các tài sản của các tôn giáo như chúng đã ăn cướp trắng trợn vào năm 1975 không? Có gì có thể bảo đảm là chúng không giở lại trò lưu manh cũ. Hiện nay nhiều giáo phận và dòng tu còn đang nhì nhằng “xin lại” cơ sở, đất đai và tài sản bị chế độ tịch thu từ 1975. Điển hình là Đức Giám mục Nguyễn Văn Nhơn ở Đà Lạt, Đức Giám mục Nguyễn Văn Tân ở Vĩnh Long đang giằng co với kẻ cướp về cơ sở Giáo Hoàng Học Viện ở Đà Lạt, về Đại chủng viện cùng với nhà dòng Thánh Phaolô ở Vĩnh Long . Có những nơi người dân đã bày tỏ thái độ phản kháng cách công khai và quyết liệt như vụ Tòa Khâm Sứ ở Hà Nội, vụ Thái Hà, vụ Tam Tòa…nhưng rồi kết quả vẫn là “con kiến đi kiện củ khoai!”

Phát triển tinh thần của dân Chúa

Hình thể nước Việt nam có thể sánh như một cái quang gánh, với hai cái thúng ở hai đầu và đòn gánh là dãy Trường Sơn. Giáo Hội Công giáo cũng dựa theo hình thể đó và thiết lập 3 Tổng Giáo Phận vào năm 1960. Tổng Giáo Phận Hà Nội ở miền Bắc, Tổng Giáo Phận Huế ở miền Trung và Tổng Giáo Phận Sài Gòn tại miền Nam .

Một điều đáng buồn và rất nhục nhã cho dân chúng miền Nam là sau khi Việt cộng đánh cướp được miền Nam năm 1975, chúng đã ngang nhiên cướp đi tên Sài Gòn thân yêu của dân tộc và đổi thành cái tên quái đản là Thành Phố Hồ Chí Minh vào ngày 2 tháng 7 năm 1976. Mấy tháng sau đó, vào ngày 23 tháng 11 năm 1976, tới phiên tên Tổng Giáo Phận Sài Gòn cũng biến mất để thay vào đó bằng cái tên dị hợm dài ngoằn ngoèo và sặc mùi chính trị, vừa nghe qua đã thấy lợm giọng đó là cái tên “Tổng-Giáo-Phận-Thành -Phố-Hồ-Chí-Minh”. Sự việc này gây bất mãn cho nhiều người. Ngày 23 tháng 11 năm 2005 có một Thư Thỉnh Nguyện, kèm theo nhiều chục ngàn chữ ký gởi Toà Thánh xin phục hồi lại tên Tổng Giáo Phận Sài Gòn. Chi tiết về cuộc vận động này còn lưu trữ trong: http://www.tonggiao phansaigon. org.

Trong 3 Tổng Giáo Phận thì Hà Nội và Sài Gòn ở vị thế địa dư quan trọng hơn Huế, và Tổng Giáo Phận Sài Gòn là nơi có nhiều điều đáng nói nhất. Sau khi Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình qua đời ngày 1 tháng 7 năm 1995, Toà Thánh bổ nhiệm Đức Cha Nicôla Huỳnh Văn Nghi thay thế, nhưng nhà cầm quyền Việt cộng không công nhận nên Đức Cha Nghi phải ra đi. Từ đó Tổng Giáo Phận Sài Gòn bị trống ngôi trong 3 năm, cho tới ngày 1 tháng 3 năm 1998, Toà Thánh chọn được một Giám mục phó chưa ai biết tên tuổi của Giáo phận Mỹ Tho là giáo phận nhỏ nhất ở miền Nam, đó là Đức Giám Mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, đặt vào vị trí Tổng Giám Mục của cái gọi là “Tổng-Giáo-Phận-Thành-Phố- Hồ-Chí-Minh.” Ngày 21 tháng 10 năm 2003 TGM Phạm Minh Mẫn được ban tước vị Hồng y. Hiện nay Hồng y Phạm Minh Mẫn đang còn phụ trách Tổng Giáo Phận và bên cạnh Ngài lúc nào cũng có Linh mục Tổng Đại Diện Huỳnh Công Minh sống chung một mái nhà để giúp đỡ. Với khả năng đặc biệt trong việc vận động tài chánh ở hải ngoại, Hồng Y Phạm Minh Mẫn là vị chủ chăn có công đóng góp lớn lao nhất cho sự phát triển bộ mặt của Giáo Hội Việt Nam .

Về phía Tổng Giáo Phận Hà Nội, sau khi Đức Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng về hưu, Toà Thánh bổ nhiệm Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, nguyên là Giám mục Lạng Sơn, về làm Tổng Giám Mục Hà Nội vào ngày 19 tháng 3 năm 2005. Vị Tổng Giám Mục trẻ trung mới 53 tuổi đời, trên môi lúc nào cũng nở nụ cười tươi, đã mang làn gió mới vào Tổng Giáo Phận Hà Nội vì các vị tiền nhiệm của Ngài trước đây đều già nua và hay yếu bệnh.

Những ai theo dõi về sứ mệnh mục vụ của TGM Ngô Quang Kiệt đều thấy rằng Ngài là một vị chủ chăn rất nhiệt tình trong việc chăm sóc đàn chiên và xây dựng sự phát triển của Giáo Hội. Nhưng khác với Hồng y Phạm Minh Mẫn ở miền Nam và nhiều Giám mục khác, vị chủ chăn của Tổng Giáo Phận Hà Nội không chú ý nhiều đến sự phát triển bộ mặt của Giáo Hội, nhưng chú tâm vào phát triển về đời sống tinh thần cho giáo dân. Ngài hiểu được nguyện vọng thiết tha của đồng bào công giáo trong việc tranh đấu cho công bằng và SỰ THẬT và Ngài đã can đảm hoà chung nguyện vọng và tiếng nói của mình với những người thấp cổ bé miệng đang gào thét đòi công lý trong một chế độ gian manh và những kẻ cầm quyền không hề biết công lý là gì và không bao giờ dám đối diện với SỰ THẬT.

Có lẽ TGM Ngô Quang Kiệt, sau những năm là Giám mục Lạng Sơn, một giáo phận hoang tàn cả về cơ sở vật chất lẫn về nhân sự sau mấy chục năm dưới chế độ cộng sản, Ngài đã hiểu được rằng, sức sống thực sự của Giáo hội không phải nằm trong các nhà thờ bằng gạch đá, trong các cơ sở tôn giáo khang trang, mà nằm trong tinh thần và đức tin của dân Chúa. Bằng chứng cụ thể là các cơ sở của Giáo hội miền Bắc đã bị tàn phá gần như bình địa, nhưng tinh thần và đức tin của người công giáo vẫn mạnh mẽ kiên cường. Rất nhiều nhà thờ và cơ sở của Giáo Hội ở miền Bắc bị tịch thu làm vựa lúa, làm chuồng gia súc, làm hợp tác xã. Có những ngôi nhà thờ đẹp đẽ trước kia bây giờ “chẳng còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào”! Về nhân sự thì các giám mục bị quản chế, các linh mục, tu sĩ và các vị trong hội đồng giáo xứ bị bắt bớ cầm tù, các chủng viện bị giải tán, các dòng tu bị đóng cửa, việc làm lễ bị cấm đoán. Nói tóm lại cộng sản vô thần đã phá sạch bộ mặt của giáo hội miền Bắc, nhưng họ không thể nào tiêu diệt được đức tin trong lòng con cái Chúa.

Đức tin như hạt giống bị vùi sâu trong đất, khi có mưa xuống là sẽ mọc lên, cho dù là mọc lên giữa đống tro tàn. Đức tin chỉ có thể phát triển và sinh hoa trái trong môi trường SỰ THẬT, hạt giống đức tin không thể nẩy mầm được trong một dung dịch pha trộn sự gian dối và giả hình. Trong sự hiểu biết đó TGM Ngô Quang Kiệt đã sống và hành động để trở nên biểu tượng của niềm tin và là chứng chân của SỰ THẬT trước mặt đàn chiên của mình. Tôi tin rằng cách nói “tốt đời đẹp đạo” mà một số chức sắc công giáo thường rêu rao như là một lối sống đạo hợp thời dưới chế độ cộng sản, không có trong tự điển mục vụ của TGM Ngô Quang Kiệt và chắc chắn là chẳng bao giờ Ngài có được loại “huân chương cao quý!” mà Chủ Tịch Nước đã ưu ái ban cho Giám mục Nguyễn Văn Sang và một vài chức sắc của Giáo hội.

Cái gai trong mắt

Với thái độ kiên cường bất khuất trong vai trò chứng nhân cho SỰ THẬT đó, TGM Ngô Quang Kiệt đã trở thành cái gai trước mắt chế độ Việt cộng. Ngài cũng trở thành một cung đàn lạc điệu giữa các đồng nghiệp. Những kẻ cầm quyền cộng sản không cần che giấu quyết tâm muốn “bứng” TGM Ngô Quang Kiệt ra khỏi Hà Nội. Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch UBND Thành Phố Hà Nội đã nói công khai kết án TGM là xách động giáo dân và muốn “ông Kiệt” đi nơi khác! Ai cũng hiểu rằng một khi họ đã nói như thế, họ sẽ tìm hết mọi cách, đi hết mọi ngã, vận động hết mọi thế lực để thực hiện cho bằng được ý định này. Có thể đây là nguyên nhân chính để TGM Ngô Quang Kiệt phải làm đơn xin từ chức “vì lý do sức quá khỏe” của Ngài.

Một lý do khác là gần đây có nguồn tin nói rằng Toà Thánh Vatican có thể thiết lập bang giao với chế độ Việt cộng trong một thời gian không xa. Căn cứ vào các hiện tượng có tính cách dọn đường như việc đi lại khá thường xuyên giữa các giới chức cao cấp Việt Nam và phái đoàn Toà Thánh. Đặc biệt là trong dịp các Giám mục Việt Nam qua Rôma để chầu Giáo hoàng theo quy định (Ad limina) vừa rồi, Đức cha Nguyễn Văn Nhơn, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, bày tỏ ước mong có sự bang giao giữa Vatican và chế độ Việt cộng. Nếu thực sự có toan tính này thì vai trò của TGM Ngô Quang Kiệt tại Hà Nội sẽ là một trở ngại. Theo chỗ tôi được biết, việc Toà Thánh bang giao với chế độ Việt cộng là một vấn đề đang được rất nhiều người Việt Nam quan tâm.

Kết luận

Trong quá khứ đã có bài học cho thấy, dưới chế độ Việt cộng gian manh, những ai dám can đảm nói lên SỰ THẬT đều phải ra đi bằng nhiều hình thức khác nhau. Trường hợp điển hình là Đức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền vì dám nói SỰ THẬT đã phải “ra đi vĩnh viễn” vào năm 1988. Những người khác như Linh mục Nguyễn Văn Lý, Luật sư Lê Thị Công Nhân, Luật sư Nguyễn Văn Đài vì dám nói lên SỰ THẬT đã phải ra đi để vào tù. Có thể còn nhiều người khác cũng vì làm chứng cho SỰ THẬT mà đã bị ra đi về bên kia thế giới một cách âm thầm không ai hay biết. Trong tâm trí tôi, họ là những anh hùng của thời đại.

Có nhiều người bày tỏ nổi lo âu, sợ rằng TGM Ngô Quang Kiệt sẽ bị ra đi. Tôi cho rằng dù TGM Ngô Quang Kiệt có ra đi thì Ngài cũng đã hoàn thành sứ mệnh là chứng nhân cho SỰ THẬT. Ngài đi vào vị trí đẹp trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam và đi thẳng vào tâm hồn những người yêu chuộng SỰ THẬT. Tên tuổi ngài được ghi bằng nét son. Vấn đề không phải là TGM Ngô Quang Kiệt ở hay đi, điều quan trọng là những gì sẻ xảy ra sau khi TGM Ngô Quang Kiệt ra đi khỏi Tổng Giáo Phận Hà Nội.

Đầu Mùa Vọng năm 2009
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

Saturday, November 28, 2009

"Meet Việt Nam" (Gặp Gỡ Việt Nam) - Lê Văn Ấn



Người Việt Tự Do biểu tình ngay nơi tổ chức Meet Vietnam
trước City Hall TP San Francisco

Lê Văn Ấn

Theo báo Tuổi Trẻ của Việt Cộng thì cuộc gặp gỡ Việt Nam được tổ chức tại San Francisco 2 ngày 15 và 16 tháng 11 năm 2009 là Việt Cộng “muốn thông qua Meet Vietnam đưa ra nhưng hình ảnh khách quan trung thực đến với bà con. Chúng tôi muốn chuyển tải đến bà con thông điệp đất nước ta đang chuyển mình, đang hội nhập để phát triển, mong bà con đồng hành cùng quê hương đất nước, góp phần xây dựng quê hương giàu mạnh”. Lê Quốc Hùng, Tổng Lãnh Sự Việt Cộng tại San Francisco, nghĩa là đã ở Hoa Kỳ một thời gian, đã nghe biết những gì xảy ra ở đây, biết được những đòi hỏi của người Việt tị nạn Cộng Sản, biết trình độ người Việt ở đây ra sao, thế mà qua câu nói trích dẫn trên, khiến người ta nghĩ hắn đang ở giữa rừng Mán, Mọi.

Với trình độ hiểu biết của người Việt ở đây, mà Lê Quốc Hùng dám nói rằng cuộc gặp gỡ này hắn ta muốn đưa ra những hình ảnh khách quan và trung thực thì … hết thuốc chữa. Những hình ảnh mà Việt Cộng đưa ra trong cái gọi là Meet Vietnam có phản ảnh những gì đang có, đang xảy ra ở Việt Nam hay không? Chắc chắn là không. Vậy nếu muốn tuyên truyền cho chế độ của hắn, ít ra hắn cũng tránh những từ ngữ “chọc giận kiều bào”, những từ ngữ khách quan, trung thực không bao giờ có trong ngôn ngữ của Đảng VC, nói cách khác khi người ngoài nghe những từ ngữ này, người ta hiểu đó là những chữ bịp bợm, không bao giờ có trên thực tế trong xã hội Việt Cộng. Đừng trách tại sao người Việt tỵ nạn Cộng Sản cứ biểu tình chống đối mỗi khi chúng xuất hiện. Cái nhục mà người Việt hải ngoại phải chịu đựng đó là “nước quý vị do những kẻ không có lý trí cầm quyền”, một người ngoại quốc đã nói với người Việt như vậy sau một chuyến “đi thực tế Việt Nam’ trở về. Hoặc là Lê Quốc Hùng chỉ muốn nói cho đồng bào trong nước nghe, cho họ đọc chứ không nói cho người Việt hải ngoại? Đành rằng Việt Cộng sống nhờ tuyên truyền, bưng bít, và đàn áp, nhưng nói với người Việt sinh sống tại nước ngoài thì người trong nước có thể không nghe; chứ nói với người trong nước thì “Việt kiều” nghe và biết được rất rõ. Càng nghe càng thất vọng, càng nghe càng xấu hổ nhục nhã với người ngoại quốc đúng như lời Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt nói, ngoại quốc khinh bỉ người Việt vì buôn lậu, ăn cắp khi ra nước ngoài. Vậy thì làm sao mà meet cho được? Làm sao mà mong “khúc ruột ngàn dặm” thông cảm? Làm sao mà người việt hải ngoại dám xưng “bà con” với những tên tuyên truyèn cổ lổ sĩ như vậy được? Ngôn ngữ đã “lạc vận” như vậy, làm sao mà có văn hóa của người Việt Nam mà đem ra triển lãm?

Đất nước Việt Nam có thực sự đang chuyển mình, đang hội nhập để phát triển không? Và phát triển theo hướng nào? Quả thực, Việt Nam đã và đang chuyển hướng, đang hội nhập để phát triển. Nhưng chuyển mình và hội nhập chính trị thì phát triển độc đài toàn trị. Kính tế xã hội thì phát triển dịch vụ buôn người ra ngoại quốc, phát triển mãi dâm ngày càng “phổ biến”, chuyển mình là đàn áp các tôn giáo, tận lực cướp bóc đất của dân, của các tôn giáo, buôn lậu v.v… Bộ mặt Việt Nam kéo dài, trải khắp trên các quốc gia. Diển hình nhất là ngành Hàng Không đã có thành tích buôn lậu, ăn cắp trên phi cơ và khách sạn, làm cho cả thế giới mỗi khi thấy phi cơ Việt Nam lên xuống phải chú ý với con mắt đề phòng như đề phòng kẻ trộm, xa lánh như xa lánh người mắc bệnh truyèn nhiễm. Thực là nhục nhã. Đấy! Việt Nam đang chuyển mình và phát triẻn theo chiều hướng băng hoại xã hội như vậy đó. Meet Vietnam chỉ phơi bày chuyển tả được những ngành nghề trộm đạo.

Một ngành nghề khác không phải đang chuyển mình mà đã phát triển đến “quá độ”, đó là tham nhũng. Tham nhũng khắp nơi, tham nhũng trở thành một bệnh ung thư tới giai đoạn chót. Hai quốc gia “thấm đòn tham nhũng” gần đây là Nhựt Bản và Úc Châu. Người ta nói “làm đĩ mười phương cũng chừa một phương để lấy chồng” chứ bọn Việt Cộng thì chẳng chừa phương nào. Ngang nhiên đòi hối lộ cả với ngoại quốc thử hỏi đối với dân chúng trong nước tham nhũng phải “đánh giá cao” tới mức độ nào?

Chưa hết, Meet Vietnam còn có một khoảng gọi là “Không gian văn hóa” để triển lãm những tác phẩm nghệ thuật, hình ảnh, nhạc cụ cổ truyền v.v… Những “cái này” có dính dáng gì đến cái gọi là “văn hóa Chủ Nghĩa Xã Hội, Văn Hóa Vô Sản” không? Cộng Sản nói chung, Việt Cộng nói riêng, chưa bao giờ triển lãm bất cứ một “tác phẩm nào tượng trưng cho văn hóa Cộng Sản. Tại sao? Vì chủ trương của Cộng Sản là “tiêu diệt văn hóa”. Những du khách đến Trung Cộng, khi hỏi về thành tích của “cách mạng văn hóa” Tàu Cộng, người ta được nghe những tiếng phàn nàn, nguyền rủa vì “bọn cách mạng văn hóa” đã đập bể, phá hoại hầu hết di sản văn hóa cổ của Tàu! Cơ ngơi của Lê Khả Phiêu bị chụp hình, cho chúng ta thấy Phiêu đã hốt cổ vật của các viện bảo tàng đem về nhà hắn ta. Khi những tấm hình cơ ngơi của Phiêu được đưa lên mạng, có một ông già đã phát biểu: Lê Khả Phiêu quả là một người “sản xuất văn hóa”. Văn hóa ăn cắp và ăn cướp. Nhiều người đặt câu hỏi “văn hóa Cộng Sản” ra sao? Sản phẩm của nó thế nào? Những “sản phẩm văn hóa Cộng Sản” có lẽ chỉ được những người chống cộng triển lãm. Đó là những “cảnh đấu tố dã man” chưa từng có trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, những “hố chôn người tập thể” dịp Tết Mậu Thân tại Huế, hay “cảnh một đồi sọ người” ở Campuchia! Trong ngày thứ hai của “Meet Vietnam” gồm các mục hội thảo về công nghệ thông tin, du lịch, giáo dục được tổ chức tại khách sạn InterContinental trên đường Howard, San Francisco. Người Việt hải ngoại chắc chưa ai quên câu chào hàng bất hủ của ông “Chủ Tịch Nước” Nguyễn Minh Triết: “con gái Việt Nam đẹp lắm”. Không biết trước khi làm chủ tịch nước, Nguyễn Minh Triết có làm ma cô hay không, nhưng nhìn cái nheo mắt với nụ cười cầu tài của Triết, ai cũng cho là một tên siêu ma cô. Công nghệ thông tin gồm những gì? Bức tường lửa ngăn chận mạng lưới toàn cầu? Hay kỹ thuật siêu đẳng làm cho dây cáp điện thoại “mục nát trong 30 giây” mỗi khi cần cắt đứt liên lạc giữa những người đấu tranh cho tự do dân chủ trong nước?

Buổi hội thảo về giáo dục là mục hấp dẫn nhất trong cuộc triển làm này. Trong khi Lê Quốc Hùng hô hào “bà con đồng hành cùng quê hương đất nước, góp phần xây dựng quê hương” thì một giáo sư thắc mắc “tại sao các du sinh đi học ở Hoa Kỳ không trở về?” Đây là một câu hỏi “phản động” vì vị giáo sư này thuộc loại “Vịt kiều yêu nước. Chắc chắn ông ta sẽ không được huy chương Xã Hội Chủ Nghĩa. Tuy nhiên, đối với đồng hương hải ngoại thì đây là một vấn đề “hiện thực”. Những tên con cha cháu ông, du học có bằng để: một là trở về Việt Nam thay vào địa vị cha mẹ chúng, hai là rửa tiền hối lộ, tham nhũng của gia đình chúng, ba là học theo sách của Nguyễn Tấn Dũng cho con lấy chồng lấy vợ người Mỹ gốc Việt để rửa tiền, để bảo lãnh cha mẹ, khi cần đã có passport “vọt” qua Mỹ.

Không biết cuộc hội thảo có đưa vấn đề nữ sinh viên muốn tốt nghiệp phải cho giáo sư “cái đáng giá ngàn vàng” của con gái hay không? Có tìm cách phát triển bằng cấp giả trong nước lẫn ngoại quốc không? Vì kỹ nghệ làm bằng giả hiện đang chuyển hướng, hội nhập để phát triển vượt bực, vì nay mai, toàn thể cán bộ Hà Nội đều tốt nghiệp đại học tiến sĩ!

“Meet Vietnam ”, những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Những tên Việt gian, tay sai Việt Cộng quảng cáo Meet Vietnam cho Việt Cộng có thấy xấu hổ không, chứ người Việt Nam nghe Meet Vietnam thấy tủi cho đất nước, nhục cho quốc thể.

“Meet Vietnam đã thành công?”. Đúng! Nhưng là thành công đối với người Việt tị nạn Cộng Sản. Một là đã phơi bày được tội ác của Việt Cộng, hai là đã dạy cho VC một bài học: không dám để mọi người tự do vào cửa mà chỉ những thành phần “có giấy mời” tham dự.

Đem chuông đi đánh nước người kiểu này thì còn nhục nào hơn?

Lê Văn Ấn

Sao Anh Nỡ Đành Quên? - Nguyễn Phúc Bảo Ân



Lăng Tự Đức, Huế

Nguyễn Phúc Bảo Ân


Mậu Thân 1968
Từ thuở hồng hoang, khi con người còn ăn lông ở lỗ, loài chó đã trở thành một trong những người bạn thân thiết. Ban đầu loài chó hoang chỉ mon men đến gần nơi trú ngụ của loài người, để ban ngày thì ăn mót những mẫu thịt thừa, xương cặn, tối đến thì được sưởi ấm từ những bếp than hồng mà con người dùng để giữ lửa, để ngăn thú dữ, và cũng để giữ ấm cho “ngôi nhà”,…. Dần dà các thế hệ chó mẹ đẻ chó con rồi hậu duệ của đàn chó hoang thuở nào trở nên quấn quýt với loài người khi được loài người cho ăn no ngủ ấm, để đáp lại ân nghĩa của con người. Loài chó cũng tận sức tận lực giúp con người trong việc tìm kiếm nguồn thức ăn qua công việc săn bắt thú rừng cũng như báo động cho con người biết, mỗi khi có thú dữ.

Đối với người Việt, một dân tộc phát tích, tồn tại cho đến ngày nay từ nền văn minh lúa nước, ngoài “con trâu là đầu cơ nghiệp” ra thì loài chó cũng gắn bó với người Việt bao đời nay, ngoài công việc săn bắt thú rừng, chó còn trông nhà giữ cửa khi chủ nhà đi vắng, và thêm một “thiên chức” cao cả khác là làm công tác vệ sinh mỗi khi con cái chủ nhà bị tháo dạ. Người Việt, yêu mến loài chó không những bởi tính mẫn cán này của loài chó, bởi thịt chó là món khoái khẩu với nhiều người, “sống trên đời ăn miếng giồi chó, biết khi chết rồi còn có hay không”, và bởi theo người Việt thì loài chó vốn giàu tình cảm, trung thành và có trí nhớ tốt. Chẵng thế mà người Việt đã đúc kết một kinh nghiệm đã ba đời truyền tử lưu tôn rằng: “Lạc đàng nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu”. Tất nhiên ông cha chúng ta chỉ tích lũy được những kinh nghiệm đó bằng những gì họ được thấy, được nghe, chứ không phải từ một công trình nghiên cứu nào về đời sống và tập tính của loài chó để hiểu rằng tất cả những biểu hiện, những hành vi của loài chó mà người Việt chúng ta cho là “lòng trung thành” hay “trí nhớ tốt” thực ra chỉ là tập tính, là bản năng, chứ không phải là trí tuệ.


Cải cách ruộng đất
Xứ Huế của tôi có thể xem là xứ sở của Đạo Phật bởi mỗi phi tần của triều Nguyễn sau khi Tiên đế qua đời, thì đều phải xuất cung về các làng xã liên cận với Hoàng Thành, xây dựng cho mình một ngôi chùa và tu tập cho đến ngày quy tiên chứ đã là cung phi mỹ nữ rồi, thì không được phép tái giá, chính vì vậy mà ở Huế quê tôi dù đất hẹp người thưa, nhưng hiện có trên 3000 ngôi Chùa và Niệm Phật Đường lớn nhỏ, và dù có làm phép quy y hay không, những hễ thờ cúng ông bà thì người dân Huế tự cho mình là đạo hữu, là phật tử. Vì vậy mà ở Huế thật hiếm có người ăn thịt chó, hiếm có những quán “cầy tơ” như ở đất Bắc, hay ngoài xứ Nghệ, và ở xư Huế quê tôi, những người từng ăn thịt chó thường bị cư dân địa phương xem như là một thành phần hạ tiện trong xã hội, và dẫu người đó là một quan quyền hay một chức sắc thì dân chúng cũng không dành cho bất cứ một sự trọng thị nào như phong tục của người dân xứ kinh kỳ. Nếu có một ai nào đó làm thịt chó thì sẽ gây xôn xao từ làng trên đến xóm dưới, già trẻ gái trai xúm lại xem người ta làm thịt chó, như thể đi xem phường trò, và nhiều câu chuyện được thêu dệt chung quanh loài chó và việc giết thịt chó. Câu chuyện được truyền tụng nhiều lần hơn cả là chuyện một chàng trai xứ Nghệ đi bộ đội vào đóng quân ở Huế, rồi phải lòng một cô gái địa phương vậy là chàng đào ngũ để “xây dựng” với cô gái Huế, anh ta nuôi khá nhiều chó để mỗi khi có họ mạc ở quê nhà vào thăm, thì giết thịt và đãi khách quê hương bằng của hiếm hoi của chốn kinh kỳ. Một lần nọ, có khách từ xứ Nghệ vào thăm, anh ta cũng giết thịt chú chó nhà để đãi khách như bao lần. Với chiếc chày vồ trong tay, anh ta giáng một đòn chí tử vào đầu con chó khiến đôi mắt phòi ra, nhưng con chó vẫn còn kịp chui xuống gầm giường kêu la thảm thiết. Không thể chui vào gầm giường để kết liễu đời con chó, anh bộ đội nắm bàn tay lại như thể đang cầm nắm xôi, hết gọi tắc tắc lại chu mồm huýt sáo. Nghe tiếng chủ gọi, dù đôi mắt đã lọt hẳn ra ngoài, không còn nhìn thấy gì nữa, nhưng nghe tiếng gọi của chủ nhà, chú chó đáng thương cũng định hướng được vị trí của chủ nhà, vừa rên ư ử, vừa cố chút sức tàn trườn đến, vẫy tít chiếc đuôi như cố báo hiệu với “ông chủ” là tôi đây, tôi đây. Và lần này, không để mất cơ hội lần nào nữa, với chiếc chày vồ vụt tới tấp lên đầu lên gáy chú chó ự lên mấy tiếng thương đau rồi trút hơi thở cuối cùng, và không lâu sau đó khách và chủ vui say với những chén tạc, chén thù với món thịt cầy bảy món …


Đại lộ kinh hoàng
Nhưng người dân quê tôi mục thị cảnh này, kẻ thì nguyền rủa anh chủ nhà gian ác, người thì khen ngợi chú chó trung thành, dù vừa mới bị chủ giáng cho một chiếc chày vồ lên đầu đến thừa chết thiếu sống, vậy mà khi thấy chủ vờ cho một vắt xôi và cất tiếng gọi thì đã ngoáy tít chiếc đuôi và trườn đến với chủ. Riêng tôi lúc bấy giờ thực sự không hiểu nổi chú chó này vì quá mức trung thành với chủ hay vì có tính mau quên để phải vong thân như vậy?

Sự việc trên đã xảy ra non 3 thập kỷ rồi, bỗng nhiên mọi chi tiết lại hiện về mồn một trong ký ức của tôi khi gần đây từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 11 vừa qua một đại hội thật “hoành tráng” của 1000 người Việt ở nước ngoài vừa diễn ra tại Hà nội, bởi dù quý đại biểu Việt kiều dù là người Nam hay người Bắc cũng đều đã phải bỏ nước ra đi vì một lý do rất chung bởi họ đều là nạn nhân của chế độ cộng sản. Nếu xuất thân từ đất Bắc hẳn họ biết quá rõ về những chiếc chày vồ trí mạng mà đảng và nhà nước cộng sản đã giáng lên đầu thân nhân và đồng bào của họ qua chính sách tiêu thổ kháng chiến khiến, rồi những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất từ 1953 cho đến 1956 khiến hàng trăm ngàn nông dân miền Bắc phải thiệt mạng chỉ vì ông cha của họ đã lưu truyền cho gia đình họ hơn 5 sào ruộng. Chắc họ biết rõ hơn 1 triệu đồng bào miền Bắc đã vì kinh hoàng với những tội ác của cộng sản mà phải rời bỏ bờ tre gốc lúa, quê hương bản quán ở đất Bắc để di cư vào nam vào năm 1954, và hơn 3 triệu đồng bào khác cũng đã bị đe dọa, bị ngăn chặn khi trên đường di cư, rồi phải ở lại đất Bắc để chịu đựng những năm tháng đọa đày nơi địa ngục trần gian ấy bởi họ đã trót mang tư tưởng di cư vào nam để “âm mưu chống lại Bác và Đảng”.

Vâng, dẫu họ vẫn còn sống sót để có cơ hội trở thành “khúc ruột ngàn dặm”, nhưng chắc họ vẫn còn nhớ với chủ trương “giết lầm hơn bỏ sót” với khẩu hiệu “TRÍ PHÚ ĐỊA HÀO ĐÀO TẤT GỐC, TRỐC TẬN NGỌN” hàng ngàn, hàng ngàn sỹ phu Bắc Hà cùng các tiểu thương, các công chức ở đàng ngoài đã bị hành hình hoặc hạ phóng. Còn nếu những đại biểu Việt kiều là những người sinh ra và lớn lên từ bên nay bờ Bến Hải thì chắc họ vẫn chưa thể quên biến cố tết Mậu thân với hơn 7,000 đồng bào vô tội ở Huế bị thảm sát bằng hình thức đập đầu hoặc chôn sống! Chắc họ vẫn còn nhớ mùa hè đỏ lửa 1972 với hơn 15.000 đồng bào Quảng Trị đã bị đã bị đại pháo của cộng quân nghiền nát như thịt bằm trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” dài non 10km! Dù các đại biểu Việt kiều đến được bến bờ tự do bằng đường biển, đường bộ thì chắc họ vẫn còn nhớ những ngày hãi hung đối mặt với bão tố phong ba hay hải tặc giữa đại dương, với nhiều thuyền nhân phải ăn thịt người để sống, với những thuyền nhân đã bị cướp, bị hãm hiếp, những thuyền nhân phải tự thiêu, phải treo cổ tự sát ngay sau khi bị Cao Ủy Tỵ Nạn từ chối tư cách tỵ nạn và cả với hơn 70 % những thuyền vượt biên không đến được bến bờ, để một số trở thành tù nhân trong các trại lao cải vì tội “phản quốc”, nữ tù vượt biên đã bị cán bộ quản giáo hãm hiếp, và nhiều, rất nhiều triệu thuyền nhân đã phải vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển lạnh!
    “Quân tâm khả cảm uyên biên ngộ
    Ký tế thời hồi, vị tế ưu”
Vâng, phàm đã đăng quang ngôi vua, cũng phải luôn canh cánh trong lòng những nổi lo âu khi khi chưa giành đựơc ngôi báu. Phàm đã qua được bên kia sông rồi vẫn phải luôn nhớ đến những nổi lo sợ, hãi hùng khi thuyền đang tròng trành giữa dòng sóng nước!
    Vâng, thưa quý vị đại biểu Việt kiều,
    “Chưa đi đảng gọi Việt gian
    Đi rồi đảng lại chuyển sang Việt Kiều
    Chưa đi, phản động trăm điều
    Đi rồi, khúc ruột đáng yêu nghìn trùng”…
Từ sau đại hội người Việt nam định cư ở nước ngoài lần thư nhất đó, đã có nhiều bài báo viết về những “dự mưu” của đảng và nhà nước cộng sản Việt nam về việc tổ chức “Hội Nghị Việt kiều yêu nước” này. Là một thần dân của nước CHXHCN Việt nam, hàng ngày vẫn phải đọc, phải nghe những chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước về chiến lược nhằm “đối phó với âm mưu diễn biến hòa bình của đế quốc Mỹ là bè lũ người Việt phản động lưu vong ở nước ngoài”, người viết chỉ qua bài viết này để bày tổ nổi băn khoăn của mình rằng tội ác của cộng sản vẫn còn nguyên đó, mà sao anh nỡ đành quên?

Huế, Mùa Vọng Thứ Nhất, năm 2009
Nguyễn Phúc Bảo Ân


Lời chúc mừng -- NGUYỄN XUÂN VINH & PHIẾN ĐAN -- trên Con Ong Việt

CHÚC MỪNG


Nhận được tin trễ, Nguyệt Hạ Lão Nhân vừa lấy sợi xích thằng cột chặt đôi uyên ương vào nhau:

- Phi-Công, Nhà-Văn, Giáo-Sư, Khoa Học Gia, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Diện Tập Thể Chiến Sĩ VNCH/ Hải Ngoại, Cụ Ông "niên trưởng" NGUYỄN XUÂN VINH
    Với
- Cháu, “Hậu Duệ”, Chiến hữu PHIẾN ĐAN.

Nhóm Con Ong Việt và Báo Con Ong Việt thành thật chúc mừng đôi tân hôn:

- Trăm năm hạnh phúc - Bách niên giai lão - Phục nhì túng hỏi - Sẩu pì nạm sán - Phúc như Đông hải - Thọ tỷ Nam Sơn - Cúng hỉ phát sồi - Đa tử đa tôn đa phú quý.

Nhóm Con Ong Việt thân tặng tân lang cụ ông "niên trưởng" NGUYỄN XUÂN VINH món quà khiêm nhường, của ít lòng nhiều, món quà giá trị tuy nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa và hữu dụng trong đời sống phu thê cọc cạch, chồng già vợ nhí. Nhóm Con Ong Việt kính tặng tân lang cụ ông "niên trưởng" NGUYỄN XUÂN VINH Minh Mạng Hoàng Đế Toa, toa thuốc nổi danh bôi bổ sinh lực Nhất Dạ Lục Giao Sinh Ngũ Tử được truyền tụng trong nhân gian gần hai trăm năm.
    1. Hồng sâm 1 lượng
    2. Sa sâm 5 chỉ
    3. Câu kỷ tử 2 chỉ
    4. Bạch truật 3 chỉ
    5. Đào nhơn 5 chỉ
    6. Đương quy 3 chỉ
    7. Mộc qua 2 chỉ
    8. Thục địa 5 chỉ
    9. Tục đoạn 2 chỉ
    10. Phồng phong 3 chỉ
    11. Quế chi 2 chỉ
    12. Tần giao 2 chỉ
    13. Hổ cốt 1 chỉ (nếu hông có thì dùng cao hổ cốt 1 hộp nhỏ)
    14. Độc hượt 2 chỉ
    15. Bạch thược 3 chỉ
    16. Trần bì 3 chỉ
    17. Khương hoạt 2 chỉ
    18. Phục linh 3 chỉ
    19. Tiểu hồi 3 chỉ
    20. Cam thảo 3 chỉ
    21. Đại táo 2 chỉ
    22. Xuyên khung 3 chỉ
    23. Đỗ trọng 2 chỉ
    24. Xương truật 2 chỉ
    25. Tang phiêu tiêu 3 chỉ (Ổ vò vò)
    26. Liên tâm 3 chỉ
    27. Hồng hoa 5 chỉ
    28. Tử hà sa (optional)
    29. Lộc nhung 3 chỉ
29 vị thuốc ở trên ngâm với 2 lít rượu đế trong 49 ngày đêm, lọc rượu ra, pha thêm với nữa lít nước đã nấu chín (thêm 3 lạng đường phèn nếu sợ thuốc đắng khó uống) tất cả trộn đều là dùng được

Toa rượu bổ minh mạng này có 5 tác dụng đặc biệt:
    1. Đại bổ khí huyết, tăng cường sinh lực bồi bổ thần kinh
    2. Ngăn ngừa bịnh tật, trị khỏi đau lưng nhức mỏi
    3. Liệt dương, uống từ 1 đến 2 tháng sẽ được hồi phục
    4. Thận yếu lâu, suy thận đi đứng không được, uống vào rất tốt
    5. Không bị táo bón, ngủ ngon giấc
Mỗi tối trước khi đi ngủ, uống 1 chun nhỏ
_________________
    CS/QLVNCH, CÁC ANH NGHĨ SAO ?
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Trước kia,
- Nghe một số niên trưởng nói về thái độ hèn nhát của Trung tá Nguyễn Xuân Vinh ông hồi còn làm Tư Lệnh Không Quân QLVNCH đối với TT Ngô Đình Diệm, tôi không tin,

- Đọc bài viết nói đến tư cách khúm núm bệ rạc của Đại tá Nguyễn Xuân Vinh trước mặt tên Phản Tướng Đỗ Mậu, tôi không tin.

Gần đây,
- Nghe người ta đàm tiếu về việc ông Nguyễn Xuân Vinh bỏ tiền ra in thành sách những bài viết của người khác ca tụng ông và cho không để lấy tiếng, tôi cũng không tin. Tôi biện luận rằng: Còn hào quang nào mà ông Nguyễn Xuân Vinh không đội trên đầu rồi, ông làm thế để làm gì?

Tất cả tôi không tin vì cho rằng ông là một nhân vật hết sức đáng trân trọng trong cộng đồng người Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản của chúng tôi. Ông đã từng là:

- Một vị tư lệnh tuổi trẻ tài cao của một binh chủng đáng hãnh diện của quân đội mà tôi là một thành viên, mặc dầu lúc đó tôi chưa đi lính,

- Một nhà khoa học giỏi với tầm vóc quốc tế, được cả giới khoa học thế giới trọng vọng,

- Một người có được một vị trí và đời sống như ông mà khi về già vẫn còn hy sinh bỏ thì giờ và công sức ra gánh vác việc chung.

Mặc dù có một số bạn lính đã từng nêu ý kiến và gợi ý cho tôi viết để phê phán về các hoạt động của tổ chức Tập Thể Chiến Sĩ và cung cách lãnh đạo của GS Nguyễn Xuân Vinh. Thế nhưng tôi vẫn ngần ngại không viết. Phải thành thực nói là không dám viết, vì dù sao Tập Thể CS/QLVNCH, theo tôi nghĩ, cũng là cái thành trì chống cộng cuối cùng của người Việt tự do tại hải ngoại. Chống cộng mà không có quân đội không thể được, chắc chắn thất bại.

Theo cái nhìn của riêng tôi, rất đáng buồn là thực chất Tập Thể chỉ là một tổ chức có tiếng mà không có miếng, nghĩa là nó mang danh là tập thể, nhưng lại chỉ qui tụ được vài trăm nhân mạng trên tổng số ước lượng ít nhất vài trăm ngàn quân nhân các cấp thuộc các ngành, các đơn vị. Hơn nữa Tập Thể đã chẳng làm được cái trò trống gì trong thời gian 6 năm từ ngày nó ra đời đến nay. Đã thế nó còn bị Việt Tân xâm nhập và lũng đoạn, có khuynh hướng đi theo đường lối của bọn HHHG với CS, làm những việc bất lợi cho cộng đồng.

Riêng GS Nguyễn Xuân Vinh với cương vị lãnh đạo Tập Thể đã phạm những sai lầm nghiêm trọng sau đây:

1. Làm mất niềm tin của giới quân nhân và những đoàn thể quân đội vì thiếu tài lãnh đạo, tham quyền, tự tôn, và độc đoán, thiếu tài lãnh đạo nhưng lại ham lãnh đạo.

2. Hoàn toàn không có sáng kiến trong việc đấu tranh chính trị với CS. Mặc dầu ông dễ dàng vẽ được con đường lên cung trăng, nhưng bảo ông đưa ra đối sách trước một biến cố thì ông chịu thua. Ông chỉ có năng khiếu khoa học mà mù tịt về chính trị.

3. Xài toàn những bọn a dua, nịnh hót, háo danh, và phe đảng. Thí dụ như để cho Bút Vàng là một Người đàn bà ăn nói ba hoa, lỗ mãng tự tung tự tác trong Đại Hội của Tập Thể thì không còn ai hiểu nổi nữa. Bà Bút Vàng sao lại ở trong Tập Thể? Bà ta giữ chức vụ gì trong Tập Thể không ai biết. Cả một Tập Thể không có người hay sao mà lại phải xài đến một người đàn bà không danh phận trong Tập Thể Chiến Sĩ QLVNCH? Bà Phiến Đan nữa, xuất thân như thế nào mà lại là hậu duệ của Tập Thể. Không còn ai có khả năng để làm phát ngôn viên hay sao mà phải dùng đến hậu duệ Phiến Đan để bà gây ra scandal. Có quyền nghi ngờ rằng có một thế lực nào đó cố tình tạo sự kiện để giật sập cái thành trì chống cộng tại hải ngoại là QLVNCH bằng cách hủy diệt niềm tin cuối cùng của mọi người vào quân đội. Do đó ngưòi vô tâm hoặc dễ tính mấy cũng không thể nào còn chấp nhận GS Nguyễn Xuân Vinh trong vai trò lãnh đạo Tập Thể QLVNCH, và bà Phiến Đan trong vai trò phát ngôn của Tập Thể.

Nay trước sự việc GS Nguyễn Xuân Vinh lấy bà Phiến Đan thì bắt buộc tôi phải suy nghĩ lại. Tôi không thể không tin những gì tôi đã nghe và đã đọc về GS Vinh trước đây. Nếu bà Phiến Đan là một thiếu nữ chưa chồng hoặc một người đàn bà góa chồng thì việc làm của ông Vinh là chánh đáng. Nhưng bà này lại là một người đàn bà bỏ chồng, bỏ cả con để đi theo ông Nguyễn Xuân Vinh thì sự việc trở thành quá tồi tệ mất rồi. GS Vinh dù sao cũng mang tiếng là kẻ quyến rũ người đàn bà đã có chồng con, phá nát gia cang của người khác. Đạo đức, phong tục, và lễ giáo của dân tộc không thể nào chấp nhận việc làm của hai người. Nếu là một thứ vô danh tiểu tốt thì ảnh hưởng chẳng lây đến ai, bất quá chỉ một vài người thân cận. Nhưng GS Vinh lại đã từng là niềm hãnh diện của người tỵ nạn đối với thế giới, là lãnh đạo của tập thể chiến sĩ nữa. Vấn đề là ở chỗ đó.

Trưóc sự việc mất mặt này, chúng tôi xin có một vài đề nghị với mọi người, nhất là các anh chị em quân nhân QLVNCH như sau:

Thứ nhất, sự ê chề đã tới mức chót rồi, thùng phân càng quậy lên càng thối hơn thôi. Do đó không nên làm ồn ào lên làm gì nữa mà hãy để cho ông Nguyễn Xuân Vinh tự xử. Chúng tôi nghĩ rằng ông là người học cao, có địa vị chắc ông biết ông nên làm cái gì.

Thứ hai, chỉnh đốn lại công việc của Tập Thể CS/QLVNCH mới là vấn đề quan trọng trong lúc này. Xin đề nghị một việc làm cụ thể sau đây: Các đoàn thể quân đội kể cả các cá nhân đứng ngoài cố gắng tạo cơ hội họp một Hội Nghị Diên Hồng toàn quân. Tốt hơn hết là các hội đoàn quân đội đứng ra làm việc này. Mục đích của Hội Nghị là để:

Xóa đi mọi tỵ hiềm, cách biệt, hiểu lầm, tranh cấp nếu có trong tinh thần Huynh Đệ Chi Binh để tiến tới một lập trường, một đường lối đấu tranh chung, tạo sự đoàn kết và quyết tâm đoàn kết trong QLVNCH, thống nhất ý chí thành một tập thể có kỷ cương, và kỷ luật, hoạch định đường lối, chính sách chung ứng phó mọi vấn đề.

Theo nhận định thô thiển của chúng tôi, Tập thể QLVNCH chúng ta tuy có một số cá nhân thoái hóa, đầu hàng địch, chạy theo các thế lực tiền bạc, tổ chức đấu tranh cuội. Thành phần này không nhiều. Đại đa số vẫn kiên trì lý tưởng, giữ vững tinh thần “cư an tư nguy”. Chỉ tiếc rằng anh em bị lừa bịp quá nhiều nên đành phải chọn lối sống trùm chăn. Luôn luôn có 2 tử điểm mà VGCS và tay sai nhắm đánh vào chúng ta, mà hầu như chúng luôn luôn thắng. Đó là tiền bạc (lem nhem) và cái tôi quá lớn (háo danh). Khiêm tốn nhìn nhận và vượt thắng được hai trở ngại kỳ đà này là điều tiên quyết để thắng CS. Tin đi, chúng ta làm được mà. QLVNCH không thiếu người tài giỏi, không thiếu người dám quên mình và chịu hy sinh, không thiếu người nhiều sáng kiến và giầu mưu lược. Vụ GS Nguyễn Xuân Vinh là điều không may, nhưng biết đâu lại là cơ may Ông Trời cho để QLVNCH thanh lọc và chỉnh đốn hàng ngũ xông vào trận chiến diệt cộng, đuổi xâm lăng dành thắng lợi. Chúng ta há để cho những tên tuổi Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn, Ngụy Văn Thà và nhiều anh hùng liệt nữ vô danh khác phải chìm vào quên lãng? Quân nhân QLVNCH, các anh nghĩ sao?

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Friday, November 27, 2009

TỪ MEET VIỆTNAM Ở SAN FRANCISCO TỚI HỘI NGHỊ VIỆT KIỀU TẠI HÀNỘI - Lý Đại Nguyên

Lý Đại Nguyên

“Meet Việtnam” hay “Gặp gỡ Việtnam” do Tổng Lãnh Sự Việtcông và văn phòng Mậu Dịch Quốc Tế của thành phố San Francisco phối hợp tổ chức tại sảnh đường Tòa Thị Chánh San Francisco vào ngày 15 và 16/11/09, nhằm tuyên truyền cho một nước Việtnam, qua những hình ảnh gọi là “văn hoá” và tiềm năng phát triển dưới thời Cộngsản trị vì. Tuyên bố với báo Tuổi Trẻ hôm 14/11/09, Lê Quốc Hùng tổng lãnh sự Việtcộng ở San Francisco nói: “Chúng tôi muốn thông qua Meet Việtnam đưa những hình ảnh khách quan, trung thực đến với bà con. Chúng tôi muốn chuyển tải đến bà con thông điệp: đất nước ta đang chuyển mình, đang hội nhập và phát triển, mong bà con đồng hành cùng quê hương đất nước góp phần xây dựng quê hương giầu mạnh”.

Trong khi đó, hàng ngày, hàng giờ, người Việtnam ở nước ngoài lại thường xuyên “Meet Việtnam” qua tin tức và hình ảnh từ truyền thông quốc tế về một Việtnam do một đảng cầm quyền độc tài tham nhũng, bóc lột toàn dân, lừa dối đồng bào, khinh rẻ trí thức, đàn áp tôn giáo, khủng bố đối lập, bóp chết tự do, bưng bít thông tin, sập bẫy kiều bào, xuất khẩu nữ nô, bội tín quốc tế, bán nước cho Tầu. Nghĩa là theo đà này, với sự hèn mạt luồn cúi Trungcộng của bọn cầm đầu Việtcộng thì đúng là “đất nước ta đang chuyển mình hội nhập” làm một với Đế Quốc Đại Hán vĩ đại rồi còn gì. Chính vì ý thức được hiểm họa mất nước, mất luôn dân tộc đó, nên đồng bào và thanh niên Việtnam tỵ nạn cộng sản tại California, từ Nam chí Bắc hàng ngàn người kéo về tòa thị chính San Francisco để phản đối và tố cáo trước dư luận quốc tế về trò lừa bịp “Gặp Gỡ Việtnam” của bọn Việtcộng. Khiến cho buổi lễ khai mạc phải rút ngắn mất 3 tiếng đồng hồ.

“Meet Việtnam” tại San Francisco bị chìm lịm dưới “bóng Cờ Vàng” và tiếng hô “Đả đảo Việtcộng bán nước cho Trungcộng” của muôn dân Việt yêu quê hương tại hải ngoại. Còn cái gọi là “Hội Nghị Người Việt Nuớc Ngoài Toàn Thế Giới”, lần đầu tiên, do bộ Ngoại Giao Việtcộng tổ chức tại Hànội từ ngày 21 đến 23/11/09, nhằm thu hút sự trợ giúp của người Việt ở hải ngoại, thì cũng chỉ là hình thức khoa trương, quy tụ những thành phần Việtcộng sinh hoạt ở nước ngoài, những kẻ làm ăn với Việtcộng, bọn theo đóm ăn tàn, đơm đó ngọn tre, cam nhận mình là ‘Việt kiều’. Còn những người Việt tỵ nạn cộng sản là thường trú nhân hay là người Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Úc … gốc Việt, không phải là Việt Kiều trực thuộc quyền quản lý của nhà nước Việtcộng nữa, nên chẳng ai ngu dại cúi mặt tự nhận mình là Việtkiều để cho Việtcộng sai xử.

Những người Việt mang căn cước Tỵ Nạn Cộng Sản có biết nhục không? Khi để cho bọn “vô tổ quốc’ ‘phi dân tộc’ ‘vô văn hoá’ đồng hóa mình vào hàng ngũ Việtkiều rồi nhơn nhơn lên lớp rằng: “Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc trong cộng đồng Người Việt ở hải ngoại. Xây dựng cộng đồng người Việt ở nước ngoài đoàn kết vững mạnh, thành đạt hướng về đất nước. Chuyên gia trí thức kiều bào góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước. Doanh nhân kiều bào đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng xứ sở”. Xứ sở Việtnam là của toàn dân ở trong cũng như ngoài nước, mọi người đều có sứ mệnh thiêng liêng là phải góp phần chấn hưng. Nhưng hiện nay dân tộc bị bất hạnh, đất nước gặp tai ương, toàn dân bị bọn Việtcộng độc tài tham nhũng ngu si toàn trị, chúng chỉ nghe lệnh từ đàn anh ngoại bang, không cần biết tới ý dân, biến dân thành bầy nô lệ, coi người Việt ở nước ngoài và trí thức chân chính trong nước là ‘kẻ nội thù’ thì đóng góp xây dựng xứ sở với chúng sao được.

Chúng lớn tiếng khuyên người Việt hải ngoại giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc. Mà lúc nào bọn Việtcộng cũng bắt toàn dân phải trung thành với chủ nghĩa cộng sản ngoại lai phi nhân tính, phi dân tộc, phi văn hóa: Mác-Lê-Hồ. Thường xuyên phát động chiến dịch học tập gương nô lệ ngoại bang và đạo đức dâm loạn của Hồ Chí Minh. Không phải sao? Đảng đã tuyên dương Hồ Chí Minh là cán bộ kiệt xuất của phong trào cộng sản quốc tế. Còn là nhà tư tưởng và có tinh thần dân tộc thì phải xét lại. Ông Hồ chẳng đã tự thú ông không có tư tưởng gì, tư tưởng là của Mao chủ tịch hết. Ngay trước lúc nhắm mắt lià đời. Nếu là người có tinh thần dân tộc thì ông phải nói: Về gặp tổ tiên mới đúng. Đàng này ông viết trong di chúc là: “Đi gặp ông Mác, ông Lê”, các ông tổ cộng sản.

Khi sắp được quốc tế chia phần cai trị Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tuân lệnh Mao Trạch Đông, phóng tay phát động phong trào “Cải Cách Ruộng Đất” đấu tố, tiêu diệt Trí, Phú, Điạ, Hào, thủ tiêu truyền thống tự chủ dân tộc qua việc phá bỏ “Hệ Thống Làng Xã Tự Quản” thay vào đó bằng “Chi Bộ Xã” trực thuộc Hệ Thống Trung Ương Tập Quyền Toàn Trị Cộng Sản. Thế là đảng theo Nga, toàn dân phải tuân lệnh chi bộ để theo Nga. Đảng theo Tầu thì toàn đảng, toàn quân, toàn dân phải theo Tầu. Dân Tộc Việtnam mất quyền tự chủ dân tộc, độc lập quốc gia kể từ đó. Nhất là khi Việtcộng chiếm được Miền Nam thì lập tức chúng vất luôn danh nghĩa “Giải Phóng Dân Tộc” vào giỏ rác để vỗ ngực xưng tên “Chủ Nghĩa Cộng Sản Bách Chiến Bách Thắng”. Chúng gọi chính quyền Miền Nam là “ngụy quyền”. Quân đội là “ngụy quân” bắt đi tù. Dân chúng bị xem là “ngụy dân” bắt đi vùng kinh tế mới. Chúng biến Miền Nam giầu có thành bần hàn, khiến hàng triệu người phải liều chết bỏ nước băng rừng, vượt biển bỏ quê hương đất tổ đi tìm tự do.

Nay người Việt tỵ nạn trên toàn thế giới đã vững mạnh, trở thành một lực lượng đáng nể về “cả chất xanh lẫn chất xám”, hàng năm vì tình thương gia đình, dân tộc đã gời hàng mấy tỷ đô la về trong nước. Đáng sợ cho Việtcộng hơn nữa là khối người Việt tỵ nạn cộng sản luôn luôn là hậu phương lớn cho phong trào tranh đòi Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền của toàn dân. Chính vì thế nên Việtcộng tìm mọi cách để gây chia rẽ, mua chuộc, nịnh bợ, lôi kéo người Việt ở nước ngoài về với chúng. Được vậy là chúng hy vọng nắm quyền lâu dài tại Việtnam. Hãy nghe Trần Đình Thiên vụ trưởng kinh tế Việtcộng nói về hội nghị: “Chủ trương thì nằm trong tinh thần hội nhập chung của chiến lược phát triển của Việtnam, nối kết với người Việt ở nước ngoài.. thông qua bà con để Việtnam kết thông với thế giới …”. Có nghĩa là người Việt tỵ nạn phải bỏ rơi dân tộc và toàn dân để làm công cụ cho Việtcộng trên trường quốc tế. Phát biểu trước hội nghị Nguyễn Minh Triết chủ tịch nước Việtcộng tuyên bố: “đây là cơ hội, là diễn đàn rộng rãi để lãnh đạo đảng, nhà nước và chính phủ trực tiếp lắng nghe ý kiến đóng góp, xây dựng của kiều bào hải ngoại”. Nhưng nhiều thành viên tham dự hội nghị “chưa thỏa mãn” về vấn đề Biển Đảo, muốn hỏi thêm, lại không có phần trả lời câu hỏi. Đúng là màn trình diễn rẻ tiền huê dạng, mà tốn của, chẳng lừa gạt được người tỉnh thức.

Lý Đại Nguyên
Little Saigon ngày 24/11/2009


Danh sách “Việt-kiều” về nước dự “Hội Nghị Việt Kiều Hà-nội”

Danh sách “Việt kiều” (VC nằm vùng hải ngoại) được lũ thú cầm quyền Hà Nội phổ biến để vinh danh chúng!

Người đứng đầu và điều khiển danh sách này là: Thái-Thanh-Giản

Ðặc công Tuyên vận VC:
    • Bs. Kiều Quang Chấn- Cali
    • Bs. Nguyễn Ngọc Hương-Springvale
    • Bs. Nguyễn Thị Thu Cúc- Richmond
    • Bs. Trần Thanh Nhơn-Melbourne
    • Bs.Hồng Anh Dũng-Belgium

    • Bs.Quỳnh Kiều-Cali
    • Cao Huy Thuần-Pháp
    • Cao Lương Thiện-Si
    • Cựu Nghị Nguyễn Sang-Melbourne
    • Gs. Tâm Ðàn-Úc

    • Gs. Võ Kim Sơn-Bolsa
    • Gs.Tạ Văn Tài-USA
    • Hồng Nguyên Nhuận-Sydney
    • Huỳnh Tấn Lê-Cali-HHHG
    • Hà Dương Tường-Pháp

    • Họa sĩ Dương Văn Thành- Thụy Ðiển
    • Hồ Lê Khoa, Chồng Bs.Cúc-Clayton
    • Hồ Tú Bảo-Nhựt
    • Hồ Văn Xuân Nhi Jr.-Cali
    • Hồng Quang-USA (Giao Ðiểm)

    • Ks. Ðỗ Anh Thư-San José -USA
    • Lm. Nguyễn Ðình Thi-Pháp
    • Ls. Nguyễn Hữu Liêm-USA
    • Lê Văn Chiêu-Cali
    • Lê Văn Hướng-Sj

    • Lương Cần Liêm-Pháp
    • Nguyễn Cao Kỳ-USA
    • Nguyễn Mỹ Lý-Úc
    • Nguyễn Văn Hiếu-Melbourne
    • Nguyễn Xuân Hồng-Cali

    • Nguyễn Xuân Thu- Melbourne
    • Phan Mạnh Lương-USA
    • Phan Văn Giưỡng-St Albans
    • Phạm Trọng Luật-Pháp
    • Phạm Văn Minh-Sydney

    • Thích Giác Nhiên-Houston
    • Thích Hạnh Tấn-Ðức
    • Thích Minh Tâm-Úc
    • Thích Mãn Giác-USA
    • Thích Nguyên Hạnh-USA

    • Thích Như Ðiển-Ðức
    • Thích Phước HuệVESAK-Sydney
    • Thích Phước Tấn-Melbourne
    • Thích Quảng Ba-Canberra
    • Trung Dung-V.Home Group-USA

    • Trần Bình Nam-Úc
    • Trần Hữu Dũng-Ohio
    • Trần Văn Thọ-Nhựt
    • Ts. Huỳnh Hữu Tuệ-Canada
    • Ts. Lâm Như Tạng-Sydney

    • Ts. Lê Dũng Tráng-Pháp
    • Ts. Lê Quang Bình-USA
    • Ts. Lê Văn Tâm-Ðức
    • Ts. Nguyễn Văn Chuyển-Nhựt
    • Ts. Phạm Gia Thu-Canada

    • Ts. Thái Kim Lan-Germany
    • Ts. Trương Nguyễn Trân-Pháp
    • Ts. Trần Minh Tâm-Thụy Sĩ
    • Ts. Trần Tiễn Khanh-USA
    • Ts. Ðỗ Hữu Tâm-Irvine

    • Vĩnh Hảo-Houston
    • Vũ Quang Việt-LHQ
    • Vũ Ðức Vượng-San Jose
    • Ðồn Thị Thanh Tâm-Úc
    • Ðặng Văn Hiền- Sydney-VESAK
    (Trích: Diễn Đán Công Luận, 24-11-2009)
Trên danh sách này không thấy tên ai ở Hawaii về VN tham dự Hội-Nghị, dù trước khi Hội Nghị của VC thành hình, ở Hawaii có “một nhóm 4 tên xấu” đã ăn phải “Bã” hoặc được VC trả công, đã tung ra danh sách (giả) 58 người mà VC mời về hội-nghị. Trong danh sách này có tên ông Ngô Xuân Tâm, Chủ Tịch Khu Hội CTNCT Hawaii.

Khi nhìn thấy danh sách thì nhiều người nghĩ rằng do VC tung ra, nhắm vào thành phần chống Cộng để triệt hạ uy tín, gây chia rẽ và đánh phá lẫn nhau. Nhưng những người quan tâm đến các sinh hoạt đấu-tranh, thì ai cũng biết danh sách này được cắt-xén, ráp-nối từ danh sách “phản đối nhà cầm quyền CSVN cho Trung Cộng khai thác quặng Bauxit ở Tây Nguyên VN” gồm có hầu hết các cộng đồng; các đảng phái quốc gia; các Hội Đoàn và các nhân vật nổi tiếng tại Hoa Kỳ ký tên yểm trợ, trong đó có tên ông Ngô Xuân Tâm, CT Khu Hội CTNCT/ HI.

Sự việc xẩy ra, ông Ngô Xuân Tâm và nhiều anh em Cựu-Tù đã đích thân truy-cứu và đã tìm ra nơi xuất phát danh sách gỉa trên. Ông Ngô Xuân Tâm đã điện thoại truy hỏi từng người trong đám 4 tên xấu này, nhưng tên thì không dám bắt phone, tên thì chối dài và đổ thừa cho nhau thật là hèn hạ ! (Lời chối tội và đổ thừa cho nhau có băng ghi lại ).

Nhận thấy đám 4 người này ở Hawaii thì chẳng ai lạ gì. Chúng đã bị bà con đồng hương chỉ mặt, điểm tên và chửi bới hàng ngày vì tiếm-danh, ma-mãnh, nhưng chúng cứ trơ mặt ra xưng danh này, chức nọ mà không biết nhục, thì nay có một lần nữa làm cho ra chuyện, đưa tên cầm đầu việc vu-khống và triệt hạ uy tín một người đứng đầu một tổ chức chống Cộng tại Hawaii mà ai cũng biết, thì cũng phí công, chẳng ích lợi gì. Vì thế Khu Hội CTNCT đã bỏ ý định đưa chúng ra trước công luận hoặc tòa án (vì có đủ yếu tố cấu thành tội trạng).

Cũng may cho Khu Hội CTNCT là: “vàng thật không sợ lửa” hoặc “cây ngay không bao giờ chết đứng” vì khi ở Hà-Nội khai mạc “Hội Nghị Việt Kiều” ngày 19-11-2009, thì tại Hawaii, ông Ngô Xuân Tâm đã đứng ra phối hợp thành lập một phái đoàn gồm có ông Chủ Tịch Cộng-Đồng Nguyễn Quang Ngọc, Ông Lê Văn Kỳ (báo Web), Bà Thuỳ Hương (truyền hình), K/sư Lê Việt Quốc (Cựu Chủ Tịch CĐ); Bà Nguyễn Q. Ngọc (Hội AHNVCN), ông Ngô Đăng Tỉnh và ông Ngô Xuân Tâm (Khu Hội CTNCT ) đã đến trường Washington Middle Shool gặp Ban Giám Hiệu, yêu cầu hạ Cờ Đỏ Sao Vàng VC mà trường này đang trưng bày, và xin thay thế bằng Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ, biểu tượng chính nghĩa, tự do của người Việt. Sau khi nghe phái đoàn trình bầy, nhà trường đã đồng ý cho thay thế ngay ngày hôm sau.

Đây là công tác Hạ Cờ Đỏ Sao Vàng lần thứ 3, trong 2 năm gần đây do BĐD Cộng-đồng, ông Chủ Tịch Nguyễn Quang Ngọc phối hợp cùng một số Tổ-chức, một số Phụ-huynh học sinh và Nhân sĩ … đã rất vất vả hoàn thành chức năng của mình. Ngược lại, có những tổ chức mang danh cho lớn, cho kêu, nhưng khi được báo có phái đoàn VC tới hoặc có cờ VC treo thì trốn không dám tham dự biểu tình hoặc tham gia vào công tác triệt hạ cờ Máu VC. Liệu người Việt tỵ nạn Hawaii đánh gía các tổ chức này ra sao !!!

Hawaii- Cuối tháng 11/2009
Ngô Xuân Tâm

Monday, November 23, 2009

GƯƠNG MẶT THẬT CỦA TIẾN SĨ PHẬT TỬ TRẦN KIÊM ĐOÀN - Bằng Phong Đặng văn Âu

Bằng Phong Đặng văn Âu

Cách đây một tuần, có người quen gửi cho tôi cái email (không ghi lời bình luận), chỉ thấy trong “attach file” có bài viết của Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn – một Phật tử – bày tỏ đôi điều với Thiếu tá Liên Thành, tác giả cuốn sách “Biến Động Miền Trung”. Đọc xong, tôi bèn viết một email nói lên vài cảm nghĩ cá nhân về nhà trí thức Trần Kiêm Đoàn cũng để gửi cho những người thân quen đọc chơi. Sau đó, một số người thân quen gửi email trả lời, yêu cầu tôi viết hẳn một bài để đưa lên diễn đàn hầu rộng đường ngôn luận. Do vậy, nay tôi xin khai triển cảm nghĩ của tôi:

Tôi được dịp đọc một số bài viết tả tình, tả cảnh, phiếm về Huế của ông Trần Kiêm Đoàn đăng rải rác trên các trang mạng và đăng trên các đặc san của các trường trung học ở Huế. Vì là người đi học và lớn lên ở Huế, tôi khá thích những gì ông Trần viết về Huế, nhất là cái văn phong nhẹ nhàng bóng bẩy rất nên thơ. Tìm hiểu thêm qua những người Huế, tôi được biết Trần Kiêm Đoàn tốt nghiệp Đại Học Sư phạm Huế, ra trường đi dạy học, sau năm 1975 vượt biển (?) đi tìm tự do, đến Hoa Kỳ làm việc cho cơ quan xã hội và tiếp tục học thêm để đạt bằng Tiến sĩ. Vừa có cảm tình với cái văn phong của tác giả, vừa chuộng con người hiếu học, tôi có viết một email ngợi khen gửi tới tác giả với tư cách là một độc giả. Đa số độc giả người Việt mình thường im lặng khi đọc được một tác phẩm có giá trị. Ngược lại, hễ đọc được một áng văn, thơ hoặc nghe một bài nhạc nào mà mình rung động, tâm đắc thì tôi liền viết thư hoặc điện thoại để cảm tạ công trình tim óc của tác giả. Tôi cho đó là phương cách bày tỏ lòng biết ơn người cung cấp cho mình món ăn tinh thần.

Nhưng kể từ khi đọc bài viết của ông Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn ca ngợi công đức của ông Võ Đình Cường vừa mới từ trần thì những cảm tình tốt đẹp mà tôi dành cho tác giả họ Trần không còn nữa, vì tôi cho rằng ông Đoàn là người thân Cộng. Tại sao? Vì cộng sản là tai họa cho Việt Nam.

Ông Võ Đình Cường, tác giả cuốn Ánh Đạo Vàng và vở kịch Mùa Gặt Ác, là người có ảnh hưởng lớn đối với quần chúng Phật tử tại Huế. Những huynh trưởng trong các Gia đình Phật tử như thầy Văn Đình Hy (Giám Học trường Quốc Học) cô Tịnh Nhơn (Hiệu trưởng Trường Đồng Khánh), anh Châu Tăng (Giáo sư Quốc Học), anh Hồ Viết Lợi (Giáo sư Quốc Học) đều sinh hoạt dưới sự chỉ đạo của ông Võ Đình Cường vì những vị này không biết ông Võ Đình Cường là cán bộ trí vận, tôn giáo vận của cộng sản. Cơ quan phản gián và tình báo Miền Trung đã bắt Võ Đình Cường một hai lần vì tình nghi ông Cường hoạt động cho cộng sản, nhưng ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn can thiệp để thả ông Cường do sự yêu cầu của Thích Trí Quang. Có thể vì mang mặc cảm làm Cố vấn cho ông anh (Tổng thống Ngô Đình Diệm) là người theo đạo Công Giáo, nên ông Cẩn hết sức tỏ ra nhân nhượng Trí Quang để khỏi mang tiếng kỳ thị tôn giáo? Những người dân Huế nào quan tâm đến chính trị đều biết mối giao du thân mật giữa ông Ngô Đình Cẩn và ông Trí Quang. Hầu như mỗi tuần họ đều đến thăm viếng, đàm đạo với nhau.

Thế nhưng sau khi thành công lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Trí Quang đã áp lực Tướng Nguyễn Khánh nhất định không được phép ký lệnh ân xá tử hình Ngô Đình Cẩn, mặc dầu nạn nhân đang bị bại liệt do chứng tiểu đường trầm trọng. Bà chị vợ của anh Phan Quang Đông đích thân đến lạy lục “Thầy” Trí Quang can thiệp cho Phan Quang Đông thoát khỏi án tử hình do Tòa Án Cách Mạng xử thì Trí Quang đã lạnh lùng khước từ, còn giả giọng đạo đức: “Tôi là người tu hành, không dính líu đến chính trị!”. Phan Quang Đông quê quán Nghệ An – cùng quê với tôi – có cha mẹ bị cộng sản đấu tố cho đến chết trong Cải Cách Ruộng Đất, nên nuôi mối thâm thù tận xương tủy đối với cộng sản. Để rửa mối thù cho cha mẹ, anh Phan Quang Đông tình nguyện hợp tác với ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn trong công tác gửi biệt kích xâm nhập Miền Bắc để tổ chức xây dựng hạ tầng cơ sở trong lòng địch. Anh Phan Quang Đông không hề dính líu đến vấn đề an ninh, tình báo ở Miền Nam nên không thể quy cho anh là một phần tử ác ôn (?) đàn áp Phật giáo như sự cáo buộc của các nhà sư tranh đấu ở Huế. Thế nhưng anh Phan Quang Đông đã bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng xử tử hình tại sân vận động Huế do áp lực của “qúy Thầy”. Tướng Đỗ Cao Trí là người biết rõ trách nhiệm công tác của anh Phan Quang Đông, không dính dáng gì đến an ninh nội địa Miền Trung, nhưng vì sợ “Các Thầy” nên không can thiệp, để mặc cho Phan Quang Đông bị xử tử.

Chiếc áo cà sa của “Thầy” Trí Quang đã vấy máu trong cái chết của Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông kể từ đó!

Sau Tháng Tư năm 1975, ông Võ Đình Cường hiện nguyên hình là một cán bộ trí vận cao cấp của cộng sản, gia nhập Đảng từ năm 1943. Thầy Văn Đình Hy, cô Tịnh Nhơn, anh Châu Tăng, anh Hồ Viết Lợi không biết Võ Đình Cường là cộng sản, nên hoạt động trong Gia đình Phật Tử dưới sự chỉ đạo của Võ Đình Cường là điều dễ hiểu. Còn sau năm 75 ông Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn đã biết rõ tung tích của Võ Đình Cường là cộng sản mà vẫn viết bài tán tụng, ca ngợi công đức của Võ Đình Cường, tức thị Trần Kiêm Đoàn phải có xu hướng thân Cộng. Không thân Cộng, tại sao đi tán tụng Cộng? Những tác phẩm nói về giáo lý của Đức Thích Ca trong Ánh Đạo Vàng của Võ Đình Cường chỉ là những viên thuốc bọc đường mê hoặc niềm tin tôn giáo, chứ không phải nhằm mục đích đưa con người về nẻo Từ Bi, Giác Ngộ bởi vì người cộng sản duy vật không tin vào Phật, Chúa, Alla! Và họ coi tôn giáo là thuốc phiện! Đã là kẻ thân Cộng thì dù đang sống dưới vòm trời tự do vẫn cứ phải ra sức bênh vực Cộng, cho nên con người đó không thể vô tư trong nhận định. Ấy là lý do tôi không còn tin vào những gì nhà văn Trần Kiêm Đoàn viết nữa. Một người Phật tử có cấp bằng Tiến sĩ lại đi tán tụng kẻ ác Võ Đình Cường lợi dụng danh nghĩa Phật Giáo là điều đáng tiếc, vì làm ô danh Phật giáo! Nếu ai tự cho mình là đệ tử của Phật, tín đồ của Chúa thì người ấy phải có nghĩa vụ lột mặt nạ những con qủy đội lốt tôn giáo của mình thì mới phải.

Giữa lúc hai kẻ đang đánh nhau chí mạng, lại có người nhân danh Phật, Chúa như Nhất Hạnh, Nguyễn Ngọc Lan đứng ra can gián mà lại ôm chân khóa tay một phía để cho phía khác tha hồ đấm đá túi bụi thì sao dám gọi là vì Công Lý, vì Hòa Bình? Ai đã nghe được từ Phong trào Nhân Dân Cứu Quốc của bác sĩ Lê Khắc Quyến, Phong trào Vì Công Lý, Vì Hòa Bình có một lời lên án Việt Cộng chính là kẻ gây tội ác, nguyên nhân của cuộc chém giết?

Nhất Hạnh đi dự hội nghị Phật giáo Thế giới ở Ấn Độ đã tố giác Miền Nam đủ thứ tội, trong khi ấy ông không hề có một lời buộc tội kẻ đầu nậu xâm lăng Miền Nam. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan đã âm thầm tư thông với Trần Bạch Đằng chạy ra bưng để cùng nhau toan tính kế họach giật sập chế độ “quân phiệt” Thiệu Kỳ. Thử hỏi hạng người mượn chiếc áo cà sa Thầy Chùa, chiếc áo chùng đen Linh Mục đó có phải là những kẻ tu hành lương thiện không? Hay là quân phản trắc lộn sòng giả dạng khoác áo tôn giáo?

Kẻ thực sự yêu chuộng hòa bình, mong tiếng súng sớm chấm dứt chính là những người lính chiến của hai phía đang miệt mài ngoài trận mạc. Dù được Trời Phật che chở, độ trì, hộ mạng mà chiến tranh cứ kéo dài triền miên thì sao tránh khỏi có ngày vong mạng? Thế mhưng bọn tranh đấu nhân danh hòa bình, chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá đã miệt thị những người lính cầm súng gìn giữ an ninh cho họ thì bị họ gọi là bọn lính Ngụy của Thiệu Kỳ! Trong vụ khủng bố xảy ra hồi tháng 9 ngày 11 năm 2001, Nhất Hạnh đã bỏ ra cả trăm ngàn Mỹ kim để đăng một quảng cáo trên tờ nhật báo New York Times tố cáo Hoa Kỳ đã ném bom giết chết ba trăm ngàn (300.000) lương dân vô tội ở tỉnh Kiến Hòa thì nay có chết 3000 ngàn người Mỹ cũng chẳng nghĩa lý gì. Mỗi quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima hay Nagasaki chỉ giết chết 100 ngàn người Nhật, dân số thành phố Kiến Hòa lúc bấy giờ lấy đâu ra 300 ngàn để bị chết vì bom Mỹ? Nhất Hạnh cho rằng tai họa “9/ 11” là luật Nhân Quả mà nhân dân Hoa Kỳ phải lãnh đủ? Đối với một con người bình thường, đứng trước cái chết của bất cứ ai (ngay cả của kẻ thù đi nữa) cũng không thể nhẫn tâm tỏ một thái độ dã man như thế, huống chi là một vị Thiền Sư?! Mới đây, Nhất Hạnh viết một bức thư cho Nguyễn Minh Triết trong vụ Công An Cộng Sản đàn áp, đánh đập tăng thân ở tu viện Bát Nhã thì lại không dùng danh xưng Thiền Sư Nhất Hạnh, lại dùng cái tên Nguyễn Lang! Sao không dùng pháp danh Nhất Hạnh để dựa vào thế tôn giáo như trước kia từng lên án Việt Nam Cộng Hòa? Cái pháp danh Nhất Hạnh – chưởng môn của một giáo phái – dễ nổi đình nổi đám hơn, dễ mượn danh nghĩa tôn giáo hơn như cái hồi đi họp Hội nghị Phật Giáo Thế giới ở Ấn Độ tố gian VNCH , sao không dùng?

Cuốn “Biến Động Miền Trung” của Thiếu tá Liên Thành ra đời chắc chắn gây ra nhiều xôn xao, bởi vì ông tiết lộ nhiều điều bí mật chưa ai biết tới, đã khiến cho một thiểu số người phản đối. Trong nước, có Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan công kích Liên Thành chụp mũ cộng sản cho những Phật tử thuần thành (!); ngoài nước có Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn, thành viên trong phong trào tranh đấu tại Huế, thì biện bạch Đôn Hậu, Trí Quang không phải là cộng sản. Trước đó, luật sư Tạ văn Tài cũng lên tiếng biện hộ cho Trí Quang một cách nhiệt tình. Luật sư Tạ văn Tài là ai? Tôi chỉ biết ông Tài là người anh em đồng hao (cọc chèo) với luật sư Bùi Tường Huân, em trai của ông Bùi Tường Chiểu, một luật sư nổi tiếng của Sài Gòn vào thập niên 60. Hai ông Huân và Chiểu là bạn học của ông anh tôi – Đặng văn Châu – ở Pháp trước khi ông Ngô Đình Diệm được cựu hoàng Bảo Đại mời về nước thành lập Nội Các vào Tháng 7 năm 1954. Do đó, tôi cũng có hân hạnh quen biết hai ông Bùi Tường Chiểu và Bùi Tường Huân ở Sài Gòn. Có thể vì bị ảnh hưởng xu hướng tả khuynh của trí thức Pháp, ông Bùi Tường Huân cũng ngả theo Sư Phật giáo tranh đấu chống Mỹ Diệm và cũng nhờ sự hỗ trợ của các Sư tranh đấu, ông Huân được làm Viện trưởng Viện Đại học Huế, Tổng trưởng Giáo Dục. Ông Huân vừa lớn tuổi, vừa xấu trai nhưng lấy được chị Phương Thảo – một giai nhân có tiếng ở Huế, em gái ca sĩ Hà Thanh – là nhờ có địa vị cao trong chính quyền do sự đề bạt của các ông Sư tranh đấu. Sự ngây thơ của nhà trí thức tả khuynh Bùi Tường Huân đi theo “Các Thầy” đã bị trả giá bằng những năm tù tội trong trại Tập Trung Cộng Sản sau năm 1975. Ông Tạ văn Tài lấy cô Liên Như – em gái của chị Phương Thảo, của ca sĩ Hà Thanh – lên tiếng biện hộ cho Trí Quang không phải là đảng viên cộng sản, theo tôi nghĩ, cũng vì cái tình anh em đồng hao với Bùi Tường Huân, chứ chẳng phải do nhà cầm quyền trong nước thuê mướn làm thầy cãi.

Ông Tạ văn Tài bác bỏ những dữ kiện của Liên Thành tố giác Trí Quang là cộng sản dựa theo lời khai của cán bộ tình báo Hoàng Kim Loan và lời tiết lộ của ông Tố Hữu từng đứng ra nhận lời tuyên thệ của Trí Quang khi gia nhập Đảng Cộng Sản. Cả hai ông Tạ văn Tài và Trần Kiêm Đoàn đều ra đưa ra luận cứ Trí Quang, Đôn Hậu đã từng có hành động phản đối Đảng Công Sản Việt Nam sau năm 75 bắt buộc Phật Giáo Thống Nhất phải sáp nhập vào Phật Giáo Việt Nam (một loại tổ chức Phật Giáo Quốc Doanh) để biện minh rằng Trí Quang, Đôn Hậu không phải là cộng sản. Mặc dầu không phải là luật sư, tôi cho rằng những luận cứ của ông Tài và ông Đoàn không đủ sức thuyết phục, bởi vì ông Nguyễn Hộ từng chống lại việc Đảng CSVN giải thể Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam; Tướng Trần Độ từng chống lại chính sách độc tài toàn trị của Đảng CSVN thì không có nghĩa rằng hai ông Nguyễn Hộ, Trần Độ không phải là đảng viên cộng sản!

Mới đây tôi có xem video cuộc phỏng vấn Đại tướng Nguyễn Khánh cũng nghe ông Khánh mạnh dạn bảo Trí Quang không phải là cộng sản, mà là người của C.I.A. bằng lập luận rằng nếu Trí Quang là cộng sản thì Trí Quang đã được cộng sản “xài” sau năm 1975, chứ không bị quản chế như hiện nay. Tôi e rằng ông Đại tướng lập luận hơi … nông cạn. Cái nòi cộng sản chuyên trị vắt chanh bỏ vỏ, ăn cháo đá bát mà Đại tướng không thấu hiểu hay sao? Chiếu theo lập luận của ông Đại tướng, tôi xin hỏi lại rằng nếu Trí Quang là người của C.I.A. mà cộng sản lại để yên cho Trí Quang an lành ngồi dịch kinh kệ hay sao? Quân cán chính VNCH đâu có phải là người của C.I.A. đều bị đày đọa trong các trại tập trung mà Đại tướng không biết hay sao? Phạm Xuân Ẩn là đảng viên cộng sản làm gián điệp nằm vùng, sau năm 1975, cũng còn bị đi học tập đấy thôi!

Đã có nhiều cán bộ đảng viên cao cấp cộng sản từng tạo thành tích lớn cho Đảng, mà chỉ vì bất bình với Đảng đều bị cho ra rìa hoặc bị tù tội! Sau Tết Mậu thân, có một số Phật tử dù thân nhân bị sát hại cũng có luận điệu bênh vực Đôn Hậu bị Việt Cộng “áp giải” ra Bắc, chứ không phải “Ngài” tự ý. Hãy tạm tin vì bị Việt Cộng dùng vũ lực áp giải, Đôn Hậu phải đành chịu bó tay. Nhưng xin hỏi cái việc Đôn Hậu lên đài phát thanh cộng sản ở Hà Nội kêu gọi binh lính Miền Nam buông súng đầu hàng cũng bị cộng sản bắt buộc phải không? Vậy thì tinh thần “Vô Úy” của Đạo Phật mà Đôn Hậu thường rao giảng cho tín đồ để đâu lại không đem ra dùng khi bị bắt buộc?

Là một người lính Việt Nam Cộng Hòa, thuần túy tác chiến ngoài mặt trận, không phải là sĩ quan chiến tranh tâm lý hoặc tình báo, tôi không có bằng chứng, dữ kiện cụ thể để quy cho Trí Quang là cán bộ cộng sản. Nhưng qua những hành động gây rối liên tục của Trí Quang sau khi đã thành công trong việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm thì rõ ràng Trí Quang muốn dâng Miền Nam cho cộng sản Hà Nội. Chiếc áo cà sa của Trí Quang nguy hiểm và lợi hại hơn Dép Râu, Nón Cối và súng AK, vì được tín đồ và dư luận mù quáng quốc tế hỗ trợ. Cộng sản coi tôn giáo là thuốc phiện, nhưng chúng đã dùng tôn giáo để gây mâu thuẫn, chia rẽ trong hàng ngũ đối phương rất thâm độc. Xin liệt kê một số hành động nguy hại cho Miền Nam của Trí Quang:

– Trí Quang đã cáo buộc tất cả các chính phủ sau năm 1964 đều là chính quyền Diệm không Diệm, liên tục xách động quần chúng Phật tử xuống đường đòi lật đổ. Thậm chí Cụ Trần văn Hương, kỹ sư Phan Khắc Sửu, bác sĩ Phan Huy Quát là những Phật tử, từng chống chế độ Ngô Đình Diệm cũng bị Trí Quang đòi lật đổ. Ngoài tiền tuyến, Cộng Quân gia tăng áp lực quân sự; ở nội thành Trí Quang gia tăng quấy rối, xáo trộn không ngừng, lại thêm gian thương đầu cơ tích trữ khiến cho đòi sống kinh tế của nhân dân thêm khó khăn thì thử hỏi có chính phủ nào đủ khả năng tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để viết Hiến Pháp? Bất cứ ai lãnh đạo Miền Nam sau ngày 1 tháng 11 năm 1963 cũng phải dùng cán bộ được đào tạo dưới chế độ Ngô Đình Diệm để điều hành việc nước. Chỉ có cách sử dụng cán bộ cộng sản thì mới tránh được sự cáo buộc “chính quyền Diệm không Diệm” của Trí Quang.

– Nếu không khoác chiếc áo Cà Sa thì các ông Trí Quang và băng đảng không thể vận động quần chúng Phật tử mang bàn thờ xuống đường để ngăn cản Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa hành quân truy lùng địch và diệt địch hầu mang lại an ninh cho đồng bào. Trí Quang dùng chiêu bài bảo vệ đạo pháp để đưa ra những yêu sách không thể nào chấp nhận, để xách động tín đồ mù quáng làm theo lệnh của Thầy. Thực chất là cố tình gây hấn để dồn chính quyền phải ra tay dẹp bạo loạn, gây đổ máu thì mới có thể hô hoán với thế giới rằng Phât giáo bị đàn áp. Cái yêu sách đòi tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để viết Hiến Pháp, thiết lập chính quyền dân sự để loại bỏ chính quyền quân nhân cũng chỉ là thủ đoạn của Trí Quang mà thôi. Trí Quang không phải là người tha thiết đến vấn đề Tự Do, Dân Chủ nên đã ngậm miệng dưới chế độ độc tài cộng sản. Tại sao Trí Quang không tự thiêu như Bồ Tát Quảng Đức đã tự thiêu để phản đối độc tài Ngô Đình Diệm?

– Vì không thể đương đầu với tình hình khó khăn, hai ông Phan Khắc Sửu và Phan Huy Quát đành phải trao quyền lãnh đạo Đất Nước cho Quân Đội; chứ không phải Quân Đội làm cuộc đảo chánh lật đổ chính quyền dân sự để thoán đoạt quyền bính. Tại sao Trí Quang cứ xách động quần chúng Miền Trung đòi lật đổ tập đoàn “quân phiệt” Thiệu Kỳ? Khi Đại sứ Cabot Lodge hỏi: “Ngài đòi hạ bệ Nguyễn Cao Kỳ xuống thì Ngài sẽ đưa ai lên?”, Trí Quang thản nhiên đáp: “Tôi sẽ đưa Nguyễn Cao Kỳ lên”. Mưu toan gì mà lạ lùng vậy? Hạ bệ Nguyễn Cao Kỳ để chính mình đưa Nguyễn Cao Kỳ lên, phải chăng chỉ nhằm khuấy động cho tình hình nát bấy để dâng Miền Nam cho cộng sản?

– Miền Nam bị Miền Bắc xâm lăng bằng quân sự nên phải dựa vào sức mạnh của Hoa Kỳ để tồn tại. Dù kẻ nào ngu lắm cũng phải biết rõ điều đó. Tại sao các sư tranh đấu dưới sự chỉ đạo của Trí Quang cứ đòi đuổi Mỹ ra khỏi Miền Nam và ngưng chiến, hòa bình bất cứ giá nào mà không hề kêu gọi Miền Bắc rút “Bộ Đội Cụ Hồ” về bên kia vỹ tuyến để Miền Nam tự giải quyết vấn đề nội bộ? Người Mỹ đã bị các phe tranh đấu đòi tống cổ thì không có lý do gì họ phải ở lỳ để tốn người hao của. Họ đâu có cuốn gói bỏ đi ra khỏi các quốc gia đồng minh của họ như Đài Hàn, Nhật Bản?

Đọc bài “Đôi điều …” của ông Trần Kiêm Đoàn, tôi nhận thấy tác giả có luận điệu giống Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan và Việt Cộng Nguyễn Đắc Xuân. Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan chê Liên Thành là một Trưởng ty Cảnh sát tồi, kém khả năng cho nên Miền Nam thua cũng phải! Ông Trần Kiêm Đoàn chê Liên Thành là một Trưởng ty Cảnh sát tỉnh lẻ, là kẻ nói … phách tấu. Việt Cộng Nguyễn Đắc Xuân trong bài “Những bạo hành ở Tu viện Bát Nhã, xin giải thích giùm tôi” lên án chế độ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo (Phật giáo) nên mới có phong trào tranh đấu bảo vệ đạo pháp; còn ông Trần Kiêm Đoàn cho rằng Liên Thành viết cuốn “Biến Động Miền Trung” là do sự hỗ trở mạnh mẽ của nhóm “Phù Ngô Phục Hận” đầy bản lĩnh đang đứng ở hậu trường (?!) Không rõ ông Trần Kiêm Đoàn căn cứ vào đâu để cáo buộc tác giả viết cuốn sách “Biến Động Miền Trung” là do sự chỉ đạo của chân tay Nhà Ngô đứng ở hậu trường?

Những thành phần tranh đấu ở Huế cho đến nay vẫn cương quyết buộc tội anh em nhà Họ Ngô đàn áp Phật Giáo để biện minh cho lý do làm loạn của họ. Vì thời cuộc, vì kém nhận thức, năm 1963 tôi cũng nghĩ chế độ Ngô Đình Diệm chủ trương gia đình trị, chèn ép Phật giáo. Tuy không trực tiếp nhúng tay vào việc lật đổ chế độ, nhưng anh em tôi đã cho ông Trần Quang Thuận “tỵ nạn” trong nhà ở 57 D Tú Xương, Sàigòn sau khi ông Thuận lái xe chở Hòa thượng Quảng Đức ra góc đường Lê văn Duyệt – Phan Đình Phùng tưới xăng châm lửa hỏa thiêu Hòa thượng Quảng Đức, lúc ông Thuận bị nhà cầm quyền săn bắt. Ông Trần Quang Thuận – hiện ở Hoa Kỳ – pháp danh Trí Độ (lâu ngày tôi chẳng biết tôi có nhớ đúng pháp danh không) con rể cụ Tôn Thất Hối và em rể bác sĩ Tôn Thất Niệm, từng nằm cạnh giường tôi ở nhà ông anh tôi trong thời gian trốn tránh công an cảnh sát. Ai cũng có thể kiểm chứng với ông Trần Quang Thuận về chi tiết vừa nêu. Thuật lại điều này để độc giả hiểu rằng tôi là một Phật tử, từng ủng hộ những người chống chế độ Ngô Đình Diệm.

Qua nhiều biến cố xảy ra trên Đất Nước sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tâm tư lắng đọng, có thời giờ nhìn lại giai đoạn lịch sử vừa qua, tôi thật tình hối hận và thương xót cho số phận của nhà ái quốc Ngô Đình Diệm cùng gia đình. Ông Diệm được vua Bảo Đại trao cho trách nhiệm lãnh đạo Miền Nam vào một thời điểm cực kỳ khó khăn, trong khi Miền Bắc đang ca khúc khải hoàn nhờ âm vang chiến thắng Điện Biên Phủ được thế giới – nhất là thế giới thứ ba – khâm phục. Anh em ông Diệm không có cán bộ của riêng mình, họ phải sử dụng viên chức hành chánh, quân sự, công an cảnh sát do thực dân Pháp đào tạo để lại, phần lớn kém khả năng chuyên môn và ý thức “quốc gia – cộng sản” rất mù mờ. Thủ đô Sài Gòn là một xã hội đen do bọn ma cô, tướng cướp của sòng bạc Đại Thế Giới và ổ điếm Bình Khang lộng hành. Ông Diệm cử Tướng Nguyễn văn Hinh – một người có quốc tịch Pháp – làm Tổng Tham mưu trưởng thì ông Hinh đã trả lời một cách hỗn láo: “Tôi không thèm nhận, vì tôi không biết ông là ai”. Trong khi ấy lực lượng giáo phái Bình Xuyên, Hòa Hảo chống anh em ông Diệm bằng vũ trang thì buộc lòng anh em ông Diệm phải ra tay đánh dẹp. Mặt khác, chiếu theo thỏa ước Genève, phe quốc gia phải rút về phía Nam vĩ tuyến 17 và phe cộng sản phải rút về phía Bắc vĩ tuyến 17, nhưng trong thực tế thì cộng sản chôn dấu vũ khí và cài cán bộ của chúng vào các hạ tầng cơ sở để chuẩn gây chiến tranh khuynh đảo. Tất nhiên ông Diệm phải phát động phong trào Tố Cộng để thanh lọc hàng ngũ “Quốc – Cộng”, thì không sao tránh khỏi bị những thuộc cấp xấu lạm dụng quyền thế, gây oan ức, phẫn nộ trong nhân dân. Tiếng ác do bộ máy tuyên truyền của cộng sản cứ gieo vào gia đình ông Diệm khiến cho quần chúng dễ tin vào sự đồn đãi vô tội vạ. Cho nên mới có lời truyền khẩu vô bằng: “Ngô Đình Diệm kéo lê máy chém khắp Miền Nam để chém đầu cộng sản” mà một người từng đặt chân từ Bến Hải đến Cà Mâu như tôi chưa hề thấy hình thù cái máy chém ra sao cả. Chưa hết, đối thủ chính trị (quốc gia và cộng sản) còn đồn đãi ông Diệm thông dâm với cô em dâu lăng loàn là bà Trần thị Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu để triệt hạ uy tín đạo đức của ông Diệm. Bà Trần thị Lệ Xuân sinh năm 1925 trở thành góa phụ lúc mới 38 tuổi tràn đầy nhựa sống, bà đã sống cuộc đời thầm lặng thờ chồng nuôi con cho tới hôm nay, chứ không như bà Jacqueline Kennedy vội lấy ông già tỉ phú Artistotle Onassis (với mục đích moi tiền) mà gần đây có tác giả thân cận dòng họ Kennedy còn tiết lộ mối quan hệ luyến ái của bà Jacqueline Kennedy có với ông em chồng – Robert Kennedy.

Cục diện chính trị xã hội Miền Nam, phe mệnh danh là phe Quốc Gia nát bấy như tương như thế thì làm sao có nhân vật nào đủ khả năng ổn định để thi hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước? Miền Bắc tố cáo ông Diệm vi phạm thỏa ước Genève, mà lại có những phần tử ở Miền Nam phụ họa theo luận điệu kẻ thù là điều vô cùng bất công. Ông Diệm đã tổ chức cuộc di cư vĩ đại thành công, định cư cho một triệu người, vãn hồi an ninh trật tự, xây dựng những đổ nát hoang tàn sau chiến tranh, thiết lập một nền giáo dục nhân bản, khai phóng. Trong khi ở Miền Bắc, Hồ Chí Minh vâng lệnh Trung Cộng thi hành nhiều chính sách tàn bạo dã man chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà.
Có phải chủ trương của chế độ Ngô Đình Diệm là dành đặc quyền cho Công Giáo và triệt hạ các tôn giáo khác? Đức Cha Lê Hữu Từ, người xây dựng khu tự trị Bùi Chu Phát Diệm, sau 1954 vào Nam yêu cầu ông Diệm cho phép giữ lại bộ phận quân sự của Đức Cha thì bị ông Diệm từ chối, vì ông Diệm quan niệm rằng Quân Đội phải được thống nhất, chiến đấu dưới ngọn cờ Quốc Gia duy nhất do một vị Tổng Tư Lệnh chỉ huy. Dưới thời ông Diệm, các chùa chiền được trùng tu, các khuôn hội Phật Giáo và hệ thống trường Bồ Đề được phát triển tự do, không hề bị hạn chế. Giả dụ ông Diệm là một Phật tử, chắc chắn cộng sản sẽ dùng Công Giáo để đánh đổ, bởi vì gây chia rẽ tôn giáo là một thế võ làm cho đối phương khó chống đỡ nhất. Do kinh nghiệm thành công trong cuộc xâm lăng Miền Nam nhờ vận dụng tôn giáo, bọn cộng sản cầm quyền ngày nay cương quyết “nhốt” tất cả các đoàn thể tôn giáo vào Mặt Trận Tổ Quốc (một loại nhà tù trá hình). Dù trong quá khứ Nhất Hạnh đã ra sức làm tay sai cho cộng sản, thì ngày nay tăng thân của Thiền Sư vẫn bị cộng sản hành hạ, đánh đập như thường. Ma vương, qủy sứ không bao giờ chấp nhận tôn giáo. Chúng chỉ dùng tôn giáo cho mục đích gian tà của chúng mà thôi!

Người ta thường nói “Hãy để lịch sử phán xét”. Chế độ Ngô Đình Diệm đã sụp đổ 46 năm rồi. Thời gian trôi qua đã đủ dài để phán xét một cách vô tư, công minh. Tôi nghĩ rằng ông Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc chân chính, luôn luôn đặt chủ quyền Đất Nước lên trên danh vọng, mạng sống của mình. Năm 33 tuổi, ông Diệm được vua Bảo Đại phong làm Thượng thư Bộ Lại (chức Thủ tướng ngày nay), muốn cải tổ đường lối cai trị nhưng bị người Pháp không bằng lòng, ông đã xin phép vua rút lui. Không chấp nhận yêu sách của Hoa Kỳ đưa quân vào nước mình, ông Diệm và hai người em đã bị giết. Trong khi ở Miền Bắc, Hồ Chí Minh cứ cúi đầu thi hành những mệnh lệnh của Quốc tế Cộng sản dù phi nhân, dù thiệt hại quyền lợi xứ sở đến đâu. Bằng chứng rõ ràng nhất còn lưu lại hậu thế là Hồ Chí Minh ra lệnh cho Phạm văn Đồng viết văn thư nhìn nhận Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Cộng.

Ông Ngô Đình Nhu là người mưu trí, đọc nhiều sử sách, chắc chắn ông phải biết Hồ Chí Minh đã từng ký thỏa hiệp với Thực dân Pháp chấp nhận kẻ thù trở lại Đông Dương, nhằm rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia yêu nước, thì ông Nhu cũng có thể khuyên anh mình thỏa hiệp với Hoa Kỳ chấp nhận cho Hoa Kỳ đưa quân vào Việt Nam để rảnh tay tiêu diệt những phần tử đội lốt tôn giáo gây bạo loạn. Nhưng anh em ông Diệm đã không làm, vì sợ ô danh với lịch sử về cái tội nô lệ ngoại bang! Giả sử ông Diệm chấp nhận yêu sách của Hoa Kỳ thì dù có đến mười ông Trí Quang cũng không thể lật đổ chế độ, vì các Tướng không được Hoa Kỳ bỏ tiền ra mua để tạo phản.

Ngày nay Cộng Sản Việt Nam dành mọi đặc quyền cho Trung Cộng khai thác tài sản Đất Nước mà bất cứ người dân nào có lời nói, hành vi chống lại Trung Cộng đều bị đánh đập, cầm tù. Chủ quyền của Đất Nước ta nay đã bị rơi vào tay kẻ thù truyền kiếp! Đó là thành quả tranh đấu của Trí Quang và băng đảng sau bao năm gây rối ở Miền Nam!

Nhắc lại công lao với Đất Nước của Tổng thống Ngô Đình Diệm, mong độc giả đừng nghĩ rằng tôi muốn làm sống lại nền Đệ Nhất Cộng Hòa – một nền Cộng Hòa bị thọ địch tứ bề. Điều tôi muốn nói với thế hệ trẻ rằng quyền lợi Tổ Quốc (chủ quyền Quốc Gia) là trên hết, hãy noi gương người xưa, dù phải hy sinh tính mạng cũng phải gìn giữ cho bằng được, bởi vì không có dân tộc nào, ngoại bang nào yêu thương mình cả! Chỉ có cách duy nhất là đoàn kết với nhau để tồn tại. Tấm gương lịch sử cận đại còn đó. Nguyễn Phúc Ánh nhờ sức mạnh của người Pháp lật đổ nhà Tây Sơn để thống nhất Đất Nước, cuối cùng Đất Nước rơi vào sự đô hộ của Thực dân Pháp. Hồ Chí Minh mượn khí giới Nga Tầu để thống nhất Đất Nước, cuối cùng Đất Nước rơi vào tay Trung Cộng. Công lao thống nhất Đất Nước không bằng cái tội đưa trăm họ vào sự nô lệ ngoại bang. Anh em trong nhà hãy tự giải quyết sự xung đột với nhau, đừng mượn tay người ngoài.

Nhờ đọc bài của ông Trần Kiêm Đoàn ca tụng, tán dương người cán bộ trí vận, tôn giáo vận cộng sản Võ Đình Cường mà tôi mới biết xu hướng thân cộng của tác giả để cảnh giác. Nếu cứ tin vào người có bằng cấp Tiến sĩ thông hiểu giáo lý Phật giáo, có văn tài như ông Đoàn thì một tín đồ Phật giáo như tôi rất dễ rơi vào bến mê bởi vọng ngữ của tác giả. Cuốn sách của Liên Thành sẽ còn gây nhiều tranh cãi, vì đụng đến các Sư tranh đấu, mặc dầu tác giả là cháu của Ngài Tăng thống Tịnh Khiết. Ngay cả Hoàng tộc Nguyễn Phúc cũng khai trừ Liên Thành, nhưng chưa bao giờ lên tiếng khai trừ một người nào trong Hoàng tộc đi theo cộng sản để tạo nên một xã hội tồi tệ như hôm nay. Sùng đạo là một điều qúy hóa, nhưng không nên mù quáng bảo vệ những kẻ đội lốt tôn giáo để cho cộng sản thống trị giống nòi. Vì cộng sản là qủy sứ, là ma vương.

Tôi mong ông Đoàn đừng nối gót Võ Đình Cường từng mượn mầu tôn giáo để cho cộng sản thống trị, vì tình trạng Đất Nước Việt Nam mình ngày hôm nay ra sao thì ông cũng đã thấy rõ rồi! Xin lặp lại một lần nữa: Cộng Sản là tai họa ghê gớm cho dân tộc Việt Nam!

Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 20 tháng 11 năm 2009