Cổng Brandenburg
Vào ngày 13.6.1987, Tổng Thống Reagan đã nói:
“Ông Tổng Bí thư Gorbachev, nếu ông muốn hòa bình, nếu ông muốn sự phồn thịnh cho Liên Bang Sô Viết và Đông Âu - Nếu ông muốn được Tự do, ông hãy đến đây, phá bỏ bức tường này”
Lê Văn Ấn
Ngày 9 tháng 11 vừa qua, người ta đã long trọng làm lễ kỷ niệm 20 bức tường Ô Nhục Bá Linh sụp đổ. Người ta vui mừng vì ngày sụp đổ của bức tường Bá Linh là ngày người dân Đông Đức được giải thoát khỏi ách độc tài Cộng Sản. Người ta cho rằng bức tường Bá Linh tượng trưng cho độc tài áp bức, ngăn cấm tự do của con người, và rất nhiều người dân Đông Đức đã hy sinh, đổ máu khi muốn vượt qua bức tường này. Cuối cùng thì người dân Đông Đức không tìm cách vượt qua nữa, mà phá vỡ bức tường đó để đi qua một cách an toàn. Ngày 9 tháng 11 vừa qua, một số các bậc vị vọng của thế giới, cũng phá sập các bức tường giả bằng “móp” và vượt qua lằn ranh Đông và Tây Bá Linh. Có một sự kiện đầy ý nghĩa trong ngày 9.11.2009 là khi những nhân vật quan trọng “vượt” bức tường Bá Linh bằng móp thì phải đi dưới mưa tầm tã, âu đó cũng là biểu tượng cái gian nan đau đớn của người dân Đông Đức khi vượt qua bức tường này.
Tại sao bức tường Bá Linh lại được dựng nên? Ông Mikhail Pervukhin, đại sứ Liên Sô tại Đông Đức tức Cộng Hòa Dân Chủ Đức thời đó đã trả lời câu hỏi này: "Nếu không có bức tường người dân sẽ thấy được sự yếu kém của phía Đông so với phía Tây”. Khi nói câu này, vị Đại Sứ toàn quyền Liên Sô tại Đông Đức có lẽ chỉ nhắm vào những vật chất, sự phồn thịnh của Tây Bá Linh chứ không nghĩ rằng cái mà người dân Đông Đức nói chung, Đông Bá Linh nói riêng nhìn thấy trong tâm trí là TỰ DO.
Kể từ ngày xây nên bức tường (tháng 6/1961) đến ngày sụp đổ (9.11.1989), có khoảng 5 ngàn người vượt tường này và thành công, đến đất tự do dân chủ, và hơn 200 người đã phải nằm lại phía Đông bức tường vì bị lính Cộng Sản Đông Đức bắn hạ. Ngày nay, mỗi năm người ta kỷ niệm ngày bức tường bị sụp đổ với những nghi thức trang trọng, những yến tiệc linh đình, nhất là những người đã được tự do khi bức tường sụp đổ. Bức tường sụp đổ cũng là cánh cổng được mở ra cho dân chúng 8 quốc gia khác thoát ách độc tài Cộng Sản và sống tự do dân chủ, đó là các quốc gia: Tiệp Khắc, Slovakia, Hungary, Balan, Latvia, Lithuania, Slovenia, Estonia.
Việt Cộng có dựng nên bức tường nào để ngăn chận dân Việt Nam đi tìm tự do hay không?
Nếu từ năm 1945 đến 1961 dân Đức đã vượt thoát sang Tây Đức 3 triệu rưỡi người, bằng 20% dân số Đông Đức thì tính từ 30.4.1975 đến cuối năm 1988, cũng có hơn 3 triệu dân Việt Nam vượt thoát nạn độc tài đảng trị của Việt Cộng. Và con số nửa triệu đã bỏ mình khi vượt biên, vượt biển.
Nếu Đông Đức dựng bức tường Bá Linh để ngăn tầm mắt dân Đông Đức không cho họ nhìn thấy tự do dân chủ và phồn thịnh của Tây Đức thì Việt Cộng cũng đã dùng sự bưng bít báo chí truyền thông, tin tức vô tuyến để không cho dân Việt Nam biết đến những gì xảy ra ở bên kia bờ tự do.
Nếu sau một thời gian e ngại Đông Đức sẽ không còn dân, Cộng Sản phải dựng bức tường Bá Linh thì VC cũng đã dựng nên bức tường lửa, ngăn cấm dân Việt Nam không dùng được internet để biết những gì đang xảy ra ở thế giới tự do.
Tại sao dân Việt Nam đến hôm nay vẫn chưa thoát được ách Cộng Sản như dân Đông Đức?
Phải chăng ngày nay Việt Cộng đã xây một bức tường kiên cố hơn bức tường Bá Linh nên đã ngăn chận được dân tộc Việt Nam, không cho tự do dân chủ?
Câu trả lời là ĐÚNG NHƯ VẬY. Việt Cộng đã xây trong lòng người dân Việt một bức tường kiên cố, tuy vô hình nhưng rất công hiệu: đó là cái mồi phú quý giả tạo. Cái mồi hèn nhát không thắng được chính mình.
- Giới thứ nhất bị xây bức tường trong lòng là người Việt tỵ nạn Cộng Sản. Họ đã quên khi di tản bị Việt Cộng gọi là bọn đĩ điếm, làm biếng, chạy theo bơ thừa sữa cặn của Mỹ.
- Họ đã quên đồng bào và người thân của họ đã chết trên biển cả, trong rừng sâu khi đi tìm tự do. Họ đã quên vợ và con gái họ bị hải tặc hãm hiếp trước mắt họ, chồng con họ bị hải tặc giết trong khi họ bị hãm hiếp. Họ quên những ngày tháng tù đày trong lao tù VC mà thân mạng của họ thua xa những loài vật. Và họ đã trở về nước với cảnh “áo gấm về làng”, hưởng thụ, phung phí tiền bạc trên thân xác phụ nữ đáng tuổi con em họ. Họ đã giúp Việt Cộng phá hoại cộng đồng hải ngoại để nhận những đồng tiền máu của Việt Cộng. Họ đã được tự do no ấm, nay họ muốn có một chút “danh” của Việt Cộng, được đăng báo, được gọi là “Việt kiều yêu nước” được lãnh huy chương. Họ đã xây trong lòng họ một bức tường kiên cố, ngăn chận đồng bào trong nước đến với tự do dân chủ.
- Giới thứ hai là những kẻ ở trong nước, tiếp tay cho Việt Cộng trong những vụ khai thác thân xác phụ nữ, từ những quán ôm đến dịch vụ “lấy chồng ngoại quốc”, đến vụ xuất cảng phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài làm nô lệ tình dục đến những vụ giúp VC lấy đất, lấy nhà của dân chúng để cho ngoại quốc đầu tư kiếm lời, đẩy những kẻ khốn cùng rời khỏi nhà, khỏi vườn ruộng của họ. Bức tường này cũng rất kiên cố, ngăn chận tự do dân chủ của người Việt Nam.
- Giới thứ ba là tu sĩ, tăng giới: họ có những bức tường xuất ngoại kiên cố, những bức tường quyên góp tiền bạc của tín đồ về xây nhà thờ, xây chùa, mua xe hơi, uống rượu mạnh của ngoại quốc, và những xa xỉ khác mà cuộc sống tu hành không cho phép. Đổi lại, họ phải nhắm mắt trước những sự tàn bạo của Việt Cộng đối với dân chúng cũng như tín đồ của họ, họ phải bưng tai trước những tiếng thét đau đớn của những kẻ bị tra tấn đánh đập ngay ở giữa phố phường hay trong làng mạc. Họ gia giảm những giới luật của đạo giáo để bản thân họ được phúc lợi. Những bức tường này ngăn chận hữu hiệu nhất, không cho dân Việt Nam được tự do dân chủ.
- Giới tiếp theo là những “bộ đội nhân dân”. Hạng người này đã vì những quyền lợi mà quên đi họ đã bị Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản lường gạt họ, đem thân ra chiến trận để củng cố độc tài toàn trị, ngày nay họ được hưởng một vài ân huệ khiến họ quên những đồng đội đã hy sinh một cách oan nghiệt, họ trở lại binh VC và đem bạo lực đàn áp có khi tàn sát anh em bà con họ.
- Còn nhiều nữa, kể không hết. Có nghĩa là những thành phần này đã góp một tay đắc lực để “khi cu ba ngủ thì Việt Nam (VC) canh gác không cho dân chúng tự do dân chủ, khi Việt Nam ngủ thì Cu ba gát ngăn chận tự do dân chủ.
- Giới truyền thông báo chí “đi lề bên phải” để được giàu sang phú quý, quên luôn cả liêm sỉ của người cầm bút, ca ngợi kẻ thù đang giết hại ngư dân, đang âm mưu xích hóa VN. giới cầm bút đã viết những điều hoàn toàn trái sự thật, đã mạt sát những nhà đấu tranh cho tự do dân chủ. Bức tường này được Cộng Sản dựng ngay từ lúc khởi sự và ngày càng tỏ ra đắc dụng đối với VC.
Ai phá vỡ được những bức tường Việt Cộng xây trong lòng những Việt kiều yêu nước, những bậc tu hành bỏ Chúa, bỏ Phật trong lòng họ, bỏ lương tâm con người, bỏ đồng đội đã hy sinh v.v…?
- Dân oan ruộng đất bị trưng dụng tịch thu - Những kẻ có thân nhân bị Việt Cộng đàn áp, bóc lột trắng trợn, thân nhân những nhà đấu tranh cho tự do dân chủ v.v...
- Hầu hết dân chúng Việt Nam hôm nay là nạn nhân của Việt Cộng
- Người Việt hải ngoại trung kiên với phẩm giá con người, đưa tiếng nói của tự do dân chủ về nước và đánh động thế giới những thảm trạng tại VN, giúp những nhà đấu tranh trong nước v.v…
Khi viếng thăm “bức tường Bá Linh” vào ngày 13.6.1987, Tổng Thống Reagan đã nói: “Ông Tổng Bí thư Gorbachev, nếu ông muốn hòa bình, nếu ông muốn sự phồn thịnh cho Liên Bang Sô Viết và Đông Âu - Nếu ông muốn được Tự do, ông hãy đến đây, phá bỏ bức tường này”. Hai năm sau, Gorbachev đã giúp dân Đông Đức phá bỏ bức tường thật. Ngày nay, không có Reagan, không có Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ Đệ Nhị, không có các nhà đấu tranh trong Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan v.v… nhưng người Việt Nam có một giòng máu chống ngoại xâm được mấy ngàn năm un đúc, có một nền văn hóa tuyệt vời, đi trước cả Thiên Chúa giáo và Phật giáo là đạo thờ trời. Nói cách khác, nếu toàn dân biết nhìn lại giá trị của mình, biết tự phá bỏ bức tường trong LÒNG MÌNH mà đứng lên như dân Đông Đức và Đông Âu đã đứng lên, Việt Nam sẽ có tự do dân chủ.
Tại sao bức tường Bá Linh lại được dựng nên? Ông Mikhail Pervukhin, đại sứ Liên Sô tại Đông Đức tức Cộng Hòa Dân Chủ Đức thời đó đã trả lời câu hỏi này: "Nếu không có bức tường người dân sẽ thấy được sự yếu kém của phía Đông so với phía Tây”. Khi nói câu này, vị Đại Sứ toàn quyền Liên Sô tại Đông Đức có lẽ chỉ nhắm vào những vật chất, sự phồn thịnh của Tây Bá Linh chứ không nghĩ rằng cái mà người dân Đông Đức nói chung, Đông Bá Linh nói riêng nhìn thấy trong tâm trí là TỰ DO.
Kể từ ngày xây nên bức tường (tháng 6/1961) đến ngày sụp đổ (9.11.1989), có khoảng 5 ngàn người vượt tường này và thành công, đến đất tự do dân chủ, và hơn 200 người đã phải nằm lại phía Đông bức tường vì bị lính Cộng Sản Đông Đức bắn hạ. Ngày nay, mỗi năm người ta kỷ niệm ngày bức tường bị sụp đổ với những nghi thức trang trọng, những yến tiệc linh đình, nhất là những người đã được tự do khi bức tường sụp đổ. Bức tường sụp đổ cũng là cánh cổng được mở ra cho dân chúng 8 quốc gia khác thoát ách độc tài Cộng Sản và sống tự do dân chủ, đó là các quốc gia: Tiệp Khắc, Slovakia, Hungary, Balan, Latvia, Lithuania, Slovenia, Estonia.
Việt Cộng có dựng nên bức tường nào để ngăn chận dân Việt Nam đi tìm tự do hay không?
Nếu từ năm 1945 đến 1961 dân Đức đã vượt thoát sang Tây Đức 3 triệu rưỡi người, bằng 20% dân số Đông Đức thì tính từ 30.4.1975 đến cuối năm 1988, cũng có hơn 3 triệu dân Việt Nam vượt thoát nạn độc tài đảng trị của Việt Cộng. Và con số nửa triệu đã bỏ mình khi vượt biên, vượt biển.
Nếu Đông Đức dựng bức tường Bá Linh để ngăn tầm mắt dân Đông Đức không cho họ nhìn thấy tự do dân chủ và phồn thịnh của Tây Đức thì Việt Cộng cũng đã dùng sự bưng bít báo chí truyền thông, tin tức vô tuyến để không cho dân Việt Nam biết đến những gì xảy ra ở bên kia bờ tự do.
Nếu sau một thời gian e ngại Đông Đức sẽ không còn dân, Cộng Sản phải dựng bức tường Bá Linh thì VC cũng đã dựng nên bức tường lửa, ngăn cấm dân Việt Nam không dùng được internet để biết những gì đang xảy ra ở thế giới tự do.
Tại sao dân Việt Nam đến hôm nay vẫn chưa thoát được ách Cộng Sản như dân Đông Đức?
Phải chăng ngày nay Việt Cộng đã xây một bức tường kiên cố hơn bức tường Bá Linh nên đã ngăn chận được dân tộc Việt Nam, không cho tự do dân chủ?
Câu trả lời là ĐÚNG NHƯ VẬY. Việt Cộng đã xây trong lòng người dân Việt một bức tường kiên cố, tuy vô hình nhưng rất công hiệu: đó là cái mồi phú quý giả tạo. Cái mồi hèn nhát không thắng được chính mình.
- Giới thứ nhất bị xây bức tường trong lòng là người Việt tỵ nạn Cộng Sản. Họ đã quên khi di tản bị Việt Cộng gọi là bọn đĩ điếm, làm biếng, chạy theo bơ thừa sữa cặn của Mỹ.
- Họ đã quên đồng bào và người thân của họ đã chết trên biển cả, trong rừng sâu khi đi tìm tự do. Họ đã quên vợ và con gái họ bị hải tặc hãm hiếp trước mắt họ, chồng con họ bị hải tặc giết trong khi họ bị hãm hiếp. Họ quên những ngày tháng tù đày trong lao tù VC mà thân mạng của họ thua xa những loài vật. Và họ đã trở về nước với cảnh “áo gấm về làng”, hưởng thụ, phung phí tiền bạc trên thân xác phụ nữ đáng tuổi con em họ. Họ đã giúp Việt Cộng phá hoại cộng đồng hải ngoại để nhận những đồng tiền máu của Việt Cộng. Họ đã được tự do no ấm, nay họ muốn có một chút “danh” của Việt Cộng, được đăng báo, được gọi là “Việt kiều yêu nước” được lãnh huy chương. Họ đã xây trong lòng họ một bức tường kiên cố, ngăn chận đồng bào trong nước đến với tự do dân chủ.
- Giới thứ hai là những kẻ ở trong nước, tiếp tay cho Việt Cộng trong những vụ khai thác thân xác phụ nữ, từ những quán ôm đến dịch vụ “lấy chồng ngoại quốc”, đến vụ xuất cảng phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài làm nô lệ tình dục đến những vụ giúp VC lấy đất, lấy nhà của dân chúng để cho ngoại quốc đầu tư kiếm lời, đẩy những kẻ khốn cùng rời khỏi nhà, khỏi vườn ruộng của họ. Bức tường này cũng rất kiên cố, ngăn chận tự do dân chủ của người Việt Nam.
- Giới thứ ba là tu sĩ, tăng giới: họ có những bức tường xuất ngoại kiên cố, những bức tường quyên góp tiền bạc của tín đồ về xây nhà thờ, xây chùa, mua xe hơi, uống rượu mạnh của ngoại quốc, và những xa xỉ khác mà cuộc sống tu hành không cho phép. Đổi lại, họ phải nhắm mắt trước những sự tàn bạo của Việt Cộng đối với dân chúng cũng như tín đồ của họ, họ phải bưng tai trước những tiếng thét đau đớn của những kẻ bị tra tấn đánh đập ngay ở giữa phố phường hay trong làng mạc. Họ gia giảm những giới luật của đạo giáo để bản thân họ được phúc lợi. Những bức tường này ngăn chận hữu hiệu nhất, không cho dân Việt Nam được tự do dân chủ.
- Giới tiếp theo là những “bộ đội nhân dân”. Hạng người này đã vì những quyền lợi mà quên đi họ đã bị Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản lường gạt họ, đem thân ra chiến trận để củng cố độc tài toàn trị, ngày nay họ được hưởng một vài ân huệ khiến họ quên những đồng đội đã hy sinh một cách oan nghiệt, họ trở lại binh VC và đem bạo lực đàn áp có khi tàn sát anh em bà con họ.
- Còn nhiều nữa, kể không hết. Có nghĩa là những thành phần này đã góp một tay đắc lực để “khi cu ba ngủ thì Việt Nam (VC) canh gác không cho dân chúng tự do dân chủ, khi Việt Nam ngủ thì Cu ba gát ngăn chận tự do dân chủ.
- Giới truyền thông báo chí “đi lề bên phải” để được giàu sang phú quý, quên luôn cả liêm sỉ của người cầm bút, ca ngợi kẻ thù đang giết hại ngư dân, đang âm mưu xích hóa VN. giới cầm bút đã viết những điều hoàn toàn trái sự thật, đã mạt sát những nhà đấu tranh cho tự do dân chủ. Bức tường này được Cộng Sản dựng ngay từ lúc khởi sự và ngày càng tỏ ra đắc dụng đối với VC.
Ai phá vỡ được những bức tường Việt Cộng xây trong lòng những Việt kiều yêu nước, những bậc tu hành bỏ Chúa, bỏ Phật trong lòng họ, bỏ lương tâm con người, bỏ đồng đội đã hy sinh v.v…?
- Dân oan ruộng đất bị trưng dụng tịch thu - Những kẻ có thân nhân bị Việt Cộng đàn áp, bóc lột trắng trợn, thân nhân những nhà đấu tranh cho tự do dân chủ v.v...
- Hầu hết dân chúng Việt Nam hôm nay là nạn nhân của Việt Cộng
- Người Việt hải ngoại trung kiên với phẩm giá con người, đưa tiếng nói của tự do dân chủ về nước và đánh động thế giới những thảm trạng tại VN, giúp những nhà đấu tranh trong nước v.v…
Khi viếng thăm “bức tường Bá Linh” vào ngày 13.6.1987, Tổng Thống Reagan đã nói: “Ông Tổng Bí thư Gorbachev, nếu ông muốn hòa bình, nếu ông muốn sự phồn thịnh cho Liên Bang Sô Viết và Đông Âu - Nếu ông muốn được Tự do, ông hãy đến đây, phá bỏ bức tường này”. Hai năm sau, Gorbachev đã giúp dân Đông Đức phá bỏ bức tường thật. Ngày nay, không có Reagan, không có Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ Đệ Nhị, không có các nhà đấu tranh trong Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan v.v… nhưng người Việt Nam có một giòng máu chống ngoại xâm được mấy ngàn năm un đúc, có một nền văn hóa tuyệt vời, đi trước cả Thiên Chúa giáo và Phật giáo là đạo thờ trời. Nói cách khác, nếu toàn dân biết nhìn lại giá trị của mình, biết tự phá bỏ bức tường trong LÒNG MÌNH mà đứng lên như dân Đông Đức và Đông Âu đã đứng lên, Việt Nam sẽ có tự do dân chủ.
Lê Văn Ấn
No comments:
Post a Comment