Tuesday, September 30, 2008

Lần Giỗ Thứ 7 Tưởng Niệm TT Nguyễn Văn Thiệu

Lần Giỗ Thứ 7 Tưởng Niệm TT Nguyễn Văn Thiệu
(29.9.2001 - 29.9.2008) tại Falls Church - Virginia

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ & HÌNH ẢNH HOẠT ÐỘNG NHỮNG NĂM LÃNH ÐẠO (1965-1975)

Phạm Phong Dinh

Nước Việt Nam Cộng Hòa chỉ tồn tại được hai mươi năm, trải qua hai nền Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của bốn đời tổng thống: Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương và Dương Văn Minh. Một đất nước nhỏ bé chỉ có mười tám triệu dân đã anh dũng chiến đấu chống lại một đại khối cộng sản mười ba nước với số dân hơn một tỉ người, với đạo quân tiền kích hiếu chiến hiếu sát của chúng là quân đội cộng sản Bắc Việt. Dẫu Bắc Việt đã nhận được sự viện trợ gần như vô giới hạn của khối cộng, đặc biệt Liên Sô và Trung Cộng từ sau ngày Hiệp Ðịnh Ba Lê 27.1.1973, dẫu Việt Nam Cộng Hòa đã bị cái gọi là “đồng minh, bạn” bỏ rơi một cách tàn nhẫn, quân đội Bắc Việt vẫn phải rất khó khăn khi tiến vào ngưỡng cửa Sài Gòn ngày 30.4.1975, và sẽ không hy vọng thắng bằng quân sự, nếu Ðại Tướng Dương Văn Minh quyết định đánh tới cùng. Hai chiến thắng ở Thủ Thừa, Long An, của Sư Ðoàn 7 Bộ Binh với người hào kiệt Ðại Tá Ðặng Phương Thành, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 12 Bộ Binh và người dũng tướng Lê Minh Ðảo, Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh ở Xuân Lộc, đã khẳng định rằng, khi mặt đối mặt trên chiến trường, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chắc chắn chiến thắng.

Quân dân Việt Nam Cộng Hòa trong thế tứ bề thọ địch, phía trước là quân giặc hung hãng, bên cạnh là một người bạn phản trắc, từng nhiều lần giở trò đâm sau lưng, đâm ngang hông và thậm chí ngổ ngáo đâm ngay trước mặt, vẫn ngẩng cao đầu hiên ngang chiến đấu đến giờ thứ hai mươi lăm, thậm chí sang đến những ngày kế tiếp khi cuộc chiến đã tàn. Sau hơn ba mươi năm, sự thật lịch sử được phơi bày qua những hồ sơ đã được giải mật của từ mọi phía tham chiến, bức màn che giấu cái chết bi thảm của QLVNCH và Việt Nam Cộng Hòa đã được vén lên. Cộng sản Hà Nội sẽ hoàn toàn không thắng được quân dân Việt Nam Cộng Hòa, nếu không có sự trực tiếp hỗ trợ vô hạn của khối cộng, sự khiếp nhược và tiếp tay tích cực của điều gọi là “đồng minh”, và sự hèn nhát, thờ ơ và lãnh đạm của cái gọi là “thế giới tự do”. Ðiều gì chờ đón các binh đoàn cộng sản, một khi hàng trăm ngàn tay súng dũng cảm nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn giữ vững từng vị trí và thề tử sinh với giặc.

Ba mươi năm dài đã trôi qua mà niềm uất nhục của từng Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn như những vết thương hãy còn sưng tấy và nưng mủ, khi mỗi lần nhớ lại khoảnh khắc quá khứ người ta buộc các anh phải buông súng. Cộng sản Hà Nội nên nhớ rõ rằng, Người Lính QLVNCH chỉ buông súng theo lệnh của hàng tướng Minh, chứ không phải chiến bại trên chiến trường. Lịch sử đã ghi nhận rõ ràng điều đó, các thế hệ sau cũng sẽ rõ được uẩn khúc đó. Ngày nay, Trung Cộng đã công khai công bố bản văn bán nước của cộng sản Hà Nội thông qua việc Hồ Chí Minh lệnh cho Phạm Văn Ðồng gởi công hàm ngày 14.9.1958 công nhận lãnh thổ lãnh hải của Trung Cộng, trong đó bao gồm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bản công bố này chắc chắn sẽ được bộ máy tuyên truyền của Trung Cộng phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam và toàn thế giới, để người dân biết được bộ mặt bán nước của cộng sản Hà Nội, và để hợp thức hóa chủ quyền và quyền khai thác tài nguyên trên những quần đảo này của Trung Cộng. Thế giới sẽ đương nhiên được an toàn khi ký kết những công trình khai thác dầu và khí ở đó. Nhân dân Việt Nam sẽ quăng vào mặt cộng sản Hà Nội kèm theo những bãi nước bọt bản văn bán nước nhục nhã này, chúng còn gì để rêu rao và để bào chữa nữa.


Ðất nước và nhân dân Việt Nam bất hạnh, Miền Nam dũng cảm kiêu hùng cũng bất hạnh. Bất hạnh không phải vì không đánh đuổi được giặc cộng, mà là vì chiến đấu trong nỗi cơ đơn cay đắng và cơ cực. Những người lãnh đạo của hai nền Cộng Hòa đã gồng gánh trên vai sức nặng của cuộc chiến đối đầu với quân địch đã đành, mà còn còng lưng dưới sức nặng phi lý và không cần thiết của những sự thiếu hiểu biết, kiêu ngạo với đồng minh nhưng khiếp nhược trước kẻ thù của người Mỹ. Chính những tướng lãnh và sử gia Hoa Kỳ đã khẳng định sự thật đó. Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị giết chết, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị buộc phải từ chức, đều phản ảnh nỗi bất hạnh của quân dân Việt Nam Cộng Hòa.

Trong lần tưởng niệm Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nhân ngày Giỗ Thứ Bảy của ông, chúng ta cùng ngậm ngùi lật lại vài trang sử cũ có liên quan đến đời binh nghiệp và những năm lãnh đạo đất nước của ông. Một người lãnh đạo trong tư thế đối đầu với mọi thế lực bạn lẫn thù, một cá nhân nhỏ bé mà phải đương cự với hầu hết những tay lãnh đạo sừng sỏ nhất của thế giới, một con phượng hoàng ở giữa bầy hổ lang: Mao Trạch Ðông, Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh, Lê Ðức Thọ, Breznev, Kossygyn, Nixon, Kissinger. Và còn nhiều nữa, chưa kể đến nội thù mang đủ mọi màu áo tôn giáo và chính kiến. Thế mà ông đứng vững được đến tám năm, mà có lúc đã đem đến cho Miền Nam một nền kinh tế thịnh vượng trong bối cảnh tàn phá của chiến tranh. Tưởng công nghiệp ấy không phải người lãnh đạo nào cũng có thể làm được. Trong thời gian qua, chúng tôi may mắn tìm thấy được một vài tài liệu về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đặc biệt phần lược sử chính thức về ông do Bộ Thông Tin Việt Nam Cộng Hòa biên soạn và phát hành năm 1971. Chúng tôi xin lược dịch toàn bộ văn bản này. Ðồng thời chúng tôi cố gắng sắp xếp và bổ sung thêm một ít hình ảnh theo thứ tự những năm chấp chánh của Tổng Thống Thiệu, cùng chia sẻ với độc giả, huynh trưởng quân đội và chiến hữu, để gọi là thay thế cho những nén hương hoài niệm về những cống hiến của ông cho dân tộc và tổ quốc.

“Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là vị Tổng Thống thứ hai của Việt Nam Cộng Hòa và cũng là vị Tổng Thống thứ nhứt của của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa sau Hiến Pháp ngày 1.4.1967.

Ông Nguyễn Văn Thiệu sinh ngày 5.4.1923 tại làng Trị Thủy, tỉnh Ninh Thuận, thuộc phía Nam miền Trung. Ông Thiệu xuất thân từ một gia đình nông dân có một cuộc sống trung lưu nhờ vào sự cần mẫn trong công việc đồng áng. Ông bà thân sinh của ông Thiệu luôn chăm chỉ làm lụng để nuôi dưỡng đàn con năm người, ba trai và hai gái. Nhưng người anh chị em này cũng đã luôn giúp đỡ lẫn nhau trong sự sinh sống. Những năm niên thiếu, ngoài việc cắp sách đến trường cho đến khi vào trung học, ông Thiệu đã giúp hai người chị gái trong công việc buôn bán.

Trong những năm cuối của Ðệ Nhị Thế Chiến, từ 1945-1946, như hầu hết những người trai trẻ trong thời chiến, chàng thanh niên Nguyễn Văn Thiệu tạm xếp bút nghiên theo tiếng gọi đất nước, tham gia vào những nhóm thanh niên yêu nước trong phong trào có danh xưng là Tái Kiến Thiết Quốc Gia (National Reconstruction), một tổ chức trá hình của Việt Minh. Tuy nhiên, chàng thanh niên Thiệu đã sớm nhận ra rằng trong thời hỗn mang ấy, cộng sản đã lợi dụng lòng yêu nước của những người Quốc Gia để áp đặt lên nhân dân Việt Nam một chủ nghĩa xa lạ, ngoại lai. Ông Thiệu quyết định từ bỏ hàng ngũ Việt Minh để theo đuổi lý tưởng của riêng ông. Ðó là lý tưởng Quốc gia chân chính.

Năm 1948, Trường Võ Bị Quốc Gia được thành lập. Khóa học thứ nhứt của Trường Võ Bị được khai giảng tại Huế để đào tạo sĩ quan chỉ huy cho Quân Ðội Quốc Gia. Trước khi vào Trường Võ Bị, ông Thiệu cũng đã tốt nghiệp Trường Hàng Hải Thương Thuyền, nhưng ông đã nhận thức rằng chỉ là ở Quân Ðội ông mới có cơ hội thực sự chiến đấu chống giặc cộng sản. Năm 1949, chàng sĩ quan trẻ Nguyễn Văn Thiệu tốt nghiệp Khóa I Võ Bị Quốc Gia với cấp bậc Thiếu Úy.

Suốt cuộc chiến tranh 1949-1954, từ chức vụ Trung Ðội Trưởng lên đến Trung Tá Trung Ðoàn Trưởng, rồi Tiểu Khu Trưởng, bước chân của ông Thiệu đã từng đặt lên mọi miền đất nước từ Nam, Trung và Bắc. Từ đồng bằng Miền Tây đến Hưng Yên, Phủ Lý ở Miền Bắc, trở vào Miền Trung trong chiến dịch năm 1954. Trong khoảng thời gian chỉ huy trên nhiều mặt trận đó, là một người lính chiến đúng nghĩa nhất, ông Thiệu đã góp vào những trang chiến sử những chiến thắng lừng lẫy. Ông được chiến sĩ và quân đội biết đến như là một người lính dũng cảm và chân chính, với tài lãnh đạo đơn vị và chỉ huy trên chiến trường. Ông còn chứng tỏ tài năng trong lãnh vực tham mưu quân đội.

Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu được đề cử đi tham dự nhiều khóa học ở ngoại quốc, như ở Trường Bộ Binh tại Coetquidan, Pháp quốc năm 1949. Tám năm sau, ông được củ đi học khóa Chỉ Huy Và Tham Mưu cao cấp ở Hoa Kỳ tại Trường Leavenworth, rồi năm 1960 tại trường Forth Bliss. Ngoài ra, Trung Tá Thiệu đã tham dự một khóa học ở Okinawa năm 1959.

Với những kinh nghiệm già dặn ở cả hai lãnh vực quân sự và lãnh đạo chỉ huy trong chức vụ Tư Lệnh Phó Quân Khu II và Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, Trung Tá Thiệu được cất nhắc làm Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Ðà Lạt năm 1956. Trung Tá Thiệu đã góp công đào tạo hàng ngàn cấp chỉ huy hiện dịch ưu tú cho Quân Ðội trong bốn năm trách nhiệm. Với những thành quả to tát đó, ông xứng đáng được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm vinh thăng lên Ðại Tá, rồi được bổ nhiệm làm Tham Mưu Phó Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa, Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Liên Quân trong năm 1960. Sang năm 1961, Ðại Tá Thiệu được đề cử trông coi Sư Ðoàn 1 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 11 Chiến Thuật, chịu trách nhiệm giữ yên bình cho toàn khu vực gọi là Khu Phi Quân Sự (Demilitarized Zone) bao gồm luôn phần lãnh thổ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Tháng 12.1962. Ðại Tá Thiệu từ giã Sư Ðoàn 1 Bộ Binh trở về Miền Nam trông coi Sư Ðoàn 5 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 32 Chiến Thuật bao gồm phần lãnh thổ của 9 tỉnh thuộc khu vực Miền Ðông.

Sau cuộc đảo chánh 1.11.1963, Ðại Tá Nguyễn Văn Thiệu được Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng tín nhiệm trong chức vụ Tham Mưu Trưởng Lục Quân, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, kiêm Tổng Thư Ký Hội Ðồng Quân Lực (The Armed Forces Council). Cuộc đời binh nghiệp của Thiếu Tướng Thiệu vẫn xoay chuyển không ngừng, với chiều hướng đi lên, khi ông được đề bạt lên làm Tư Lệnh Vùng IV Chiến Thuật. Khi từ giã Miền Tây, ông lại được đề cử làm Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng.

Tháng 6.1965, khi chính phủ dân sự của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu chuyển giao quyền lãnh đạo đất nước cho Quân Ðội, Hội Ðồng Quân Lực với 10 ủy viên đã bỏ phiếu kín bầu Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu trong cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, một chức vụ hành xử như Quốc Trưởng của Việt Nam Cộng Hòa. Tiếp nối truyền thống dân chủ của nền Ðệ Nhứt Cộng Hòa, Trung Tướng Thiệu đã đắc cử Tổng Thống trong lần bầu cử ngày 3.9.1967, với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó Tổng Thống. Tổng Thống Thiệu tuyên thệ nhậm chức, tuyên thệ trung thành với dân tộc và tổ quốc ngày 31.10.1967, mở đầu cho một trang sử mới và là bước đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa.

Là một vị tướng chiến trường xuất sắc, Trung Tướng Thiệu đã được trao gắn rất nhiều huy chương Quân Ðội như sau:

- Ðệ Nhị Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương

- Ðệ Nhất Ðẳng Lục Quân Huân Chương

- Ðệ Nhất Ðẳng Không Quân Huân Chương

- Ðệ Nhất Ðẳng Hải Quân Huân Chương

- 11 huy chương các loại

- Lãnh Ðạo Bội Tinh, v.v..

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cùng bà Ðệ Nhứt phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh, người sinh quán ở Mỹ Tho, tỉnh Ðịnh Tường, có hai người con (ở thời điểm 1971) là Nguyễn Thị Tuấn Anh, 17 tuổi và Nguyễn Quang Lộc, 10 tuổi. Bà Thiệu là đương kim Chủ Tịch Hội Bảo Trợ Gia Ðình Binh Sĩ QLVNCH (National Association for the Protection of Military Dependents). Bà còn là Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Phụng Sự Xã Hội Việt Nam (Vietnamese Women-In Service to the Society Association), đã khởi công xây dựng Bệnh Viện Vì Dân, là bệnh viện tân tiến nhất của Việt Nam”.

Từ năm 1971-1975, Tổng Thống Thiệu tiếp tục cương vị Tổng Thống nhiệm kỳ 2 với cụ Trần Văn Hương làm Phó Tổng Thống. Sau chiến thắng ngoại biên Kampuchea của cả ba Quân Ðoàn II, III và IV từ tháng 4.1970, quân cộng chạy trối chết ẩn náu sâu trong nội địa đất Miên, Tổng Thống Thiệu và nội các chánh phủ đã có được chút thời gian để phát triển kinh tế quốc gia. Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa được hồi sinh, doanh gia bắt đầu mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, nền kinh tế sáng sủa và có nhiều thành quả lớn. Hãng Citreon Pháp thiết lập lập cơ xưởng ráp xe ở Sài Gòn, Quân Ðội xúc tiến việc thiết kế sản xuất xe “Jeep Citreon” thay thế cho lại xe Jeep chính cống của Mỹ. Những cơ xưởng kỹ nghệ điện tử, truyền thanh truyền hình phát triển mạnh. Nền tài chánh Việt Nam gặt hái nhiều tiến bộ đáng kể với việc thành lập nhiều ngân hàng tư thu hút tiền vốn từ quần chúng. Nhưng đặc biệt và nhiều ý nghĩa hơn hết phải là việc ban hành Luật Người Cày Có Ruộng (Land for Tillers) được Tổng Thống Thiệu long trọng ban hành ngày 26.3.1970 tại Cần Thơ, thủ phủ Miền Tây, trong đó mỗi nông dân chưa có ruộng riêng được cấp phát 3 mẫu ruộng (mỗi mẫu rộng 10.000 thước vuông, 100mx100m) miễn phí. Thuế viên trạch hàng năm chỉ đóng vài trăm đồng Việt Nam tượng trưng, tất cả số huê lợi từ ruộng rẫy, nông dân hoàn toàn sử dụng, không phải giao nộp chánh phủ một hột lúa hay một củ khoai nào. Các cửa hàng doanh thương mua bán nhỏ, thí dụ như những tiệm chạp phô, tiệm may, quán ăn, v.v... cũng chỉ đóng thuế môn bài vài trăm đồng cho một năm. Chúng ta cũng nhớ lại rằng, lương tháng một công chức hay một giáo sư trung học lúc đó trong khoảng 20 đến 25 ngàn đồng, hoặc lương một anh binh nhì khoảng 18.000 đồng, thiếu úy chừng 21.000 đồng, thì thuế nông nghiệp và doanh nghiệp hằng niên chỉ có khoảng 200 ố 300 đồng, là một con số thật nhỏ bé.

Với sự giúp đỡ tích cực của đoàn chuyên gia nông nghiệp Ðài Loan, Viện Lúa Gạo IRRI ở Phi Luật Tân phổ biến các loại lúa mới Thần Nông 5, Thần Nông 8, sản lượng lúa của VNCH tăng vùn vụt. Các kinh tế gia thế giới và Việt Nam đã nhìn thấy triển vọng gần, rằng Việt Nam không còn nhập cảng gạo nữa, chẳng những thế mà trong tương lai còn có thể xuất cảng ra nước ngoài để lấy ngoại tệ về. Tổng Thống Thiệu và nội các của ông đã đưa đất nước lên mức phồn thịnh trong vòng hai năm 1970 và 1971, các chuyên gia đã thiết kế những kế hoạch ngũ niên phát triển nông, công, thương, khai hoang. Giáo sư Vũ Quốc Thúc được mời cầm đầu một nhóm chuyên gia nghiên cứu kế hoạch tái thiết và phát triển quốc gia.

Có thể nói rằng, hình ảnh những vị nguyên thủ quốc gia Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu bận rộn đi khắp mọi miền đất nước thường rất được thường xuyên nhìn thấy trên báo chí, truyền hình và phim thời sự. Hai vị Tổng Thống siêng năng đi thăm viếng những nơi chốn hẻo lánh nhất. Có khi là một chiếc cầu nhỏ của một toán tiền đồn Nghĩa Quân, một cái đồn lẻ loi giữa ruộng đồng của các anh Ðịa Phương Quân. Có lúc Tổng Thống Thiệu đến ăn Tết cùng các chiến sĩ ở trên một vùng cao nguyên đèo heo hút gió, hay ra tận miền hỏa tuyến để chia sẻ nắng bụi mưa bùn với những người lính ngày đêm trực diện với quân thù ở biên thùy, hoặc về những vùng sình lầy Cà Mau, Chương Thiện trao gắn huy chương cho những chiến sĩ lập kỳ công. Tổng Thống Thiệu còn là một người lính can đảm phi thường. Mặt trận Kontum tháng 6.1972 hãy còn nghi ngút khói than chưa tàn lụi mấy, mà ông đã cùng Trung Tướng Toàn đáp trực thăng xuống vinh thăng cấp bậc cho những chiến sĩ Kontum Kiêu Hùng, trong lúc pháo địch còn nổ ùng oàng chỉ cách mấy trăm thước.

Cũng trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm đó, khó ai có thể tiên đoán được điều gì sẽ xảy ra, khi ngày 7.7.1972, chiếc trực thăng của Tổng Thống Thiệu bất ngờ đáp xuống giữa lòng thành phố An Lộc đổ nát, trong lúc pháo địch nhểu xuống cách ông có 400 thước. Ông còn gọi điện về bảo bà Thiệu: “Bà ăn cơm trước đi, đừng chờ tôi. Tôi ở đây với chiến sĩ An Lộc”. Những người lính Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, mà ký ức về vị Tư Lệnh thân mến của các anh còn chưa phai mờ mấy, đã hân hoan công kênh Trung Tướng Thiệu lên trong những tiếng reo hò chiến thắng vang dội. Tổng Thống Thiệu đã vinh danh tất cả những người lính, bất kể quân binh chủng nào đã đóng góp vào cuộc vinh quang, là Những Người Lính Của Bình Long Anh Dũng.

Ngày 28.6.1972, đại quân Việt Nam Cộng Hòa, với Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân, Kỵ Binh, Pháo Binh, Công Binh, Không Quân, Hải Quân, cùng tất cả các binh chủng yểm trợ tiếp vận xuất phát từ chiến tuyến Mỹ Chánh, dưới quyền tổng chỉ huy của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn I & Quân Khu I ngồi trên một chiếc thiết vận xa M113 đốc thúc và quan sát, hùng hậu xuất phát. Mấy ngày sau, Tổng Thống Thiệu cùng nhiều yếu nhân quân đội, chánh quyền, quốc hội, ngoại giao đoàn đã ra đến tận bờ sông Mỹ Chánh khích lệ tinh thần binh sĩ. Là một vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao, Trung Tướng Thiệu không cần thiết và không nên lặn lội ra đến chỗ đầu sóng ngọn gió, nơi lửa đạn hiểm nghèo. Nhưng là một người lính từng dầm sương trải gió ngoài chiến trường, và cái cá tính can đảm, năng động, Trung Tướng Thiệu biết rằng sự hiện diện của ông bên chiến hào, ở tận tiền tuyến, là một việc phải làm, thế nào cũng phải làm. Nó nói lên được rất nhiều điều rất ý nghĩa hơn muôn vạn lần những lời động viên suông ở hậu phương. Ông cũng không quên đến Huế lần thứ nhì thăm đồng bào và xem người ta tái thiết chợ Ðông Ba như thế nào sau cơn hỏa hoạn đầu tháng 5.1972 (Chợ Ðông Ba cháy là do Việt cộng mặc quân phục VNCH phóng hỏa, rồi chúng la làng lên, rằng người lính của chúng ta làm chuyện ấy. Ðó là sự vu cáo bỉ ổi của bầy âm binh ngạ quỷ, với những tội ác kinh thiên mà chỉ có những loài quỷ cộng mới có thể làm được. Trong tác phẩm Biến Ðộng Miền Trung của ông Liên Thành, nguyên Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên, kể lại lời khai của tên Trung Tá Việt cộng Hoàng Kim Loan khi ông thẩm vấn nó. Hoàng Kim Loan xác nhận hỏa hoạn tại chợ Ðông Ba là do Việt cộng nằm vùng ở Huế đốt, rồi vu cáo người lính VNCH). Ðồng thời, người Tư Lệnh ngày xưa cũng dành thì giờ đến thăm Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, mà giờ đây ông rất yên tâm phú thác sư đoàn cho vị dũng tướng Phạm Văn Phú.

Sau Hiệp Ðịnh Ba Lê ngày 27.1.1973, đồng minh Hoa Kỳ đã có kế hoạch rút bỏ khỏi Miền Nam, điều khoản quy định về việc tiếp tục yểm trợ chiến cụ cho QLVNCH đã dần dần bị quên lãng. Việc Một Ðổi Một những vũ khí và dụng cụ chiến đấu hư cũ hay mất mát không còn được thực hiện, đi dần đến cắt giảm hoàn toàn. Hai trăm ngàn binh đội miền Bắc được văn kiện Hiệp Ðịnh hầu như hợp thức hóa sự hiện diện ở Miền Nam, cộng thêm người và chiến cụ bổ sung rùng tuôn vào Nam theo con đường Hồ Chí Minh, giờ đã được rộng mở thênh thang mà không bị một sự trừng phạt nào từ phía Hoa Kỳ, thể theo quy định của Hiệp Ðịnh Ba Lê. Sự thất thủ Phước Long tháng 1.1975, rồi đến Ban Mê Thuột tháng 3.1975, cuộc trắc nghiệm thái độ của Hoa Kỳ đã được xác định: người Mỹ đã thực sự bỏ rơi đồng minh. Cộng sản Hà Nội khởi động cuộc tổng tấn công quyết định chiếm toàn bộ Miền Nam, đưa đến quyết định rút bỏ các Quân Khu II và Quân Khu I trong tháng 3.1975 của Tổng Thống Thiệu. Hai Quân Ðoàn II và I bị thiệt hại nặng, quân số sụt giảm nghiêm trọng, nhiều sư đoàn và đơn vị chiến đấu bị tan rã một cách bi thảm. Những yếu tố đó buộc người ta phải nghĩ đến giải pháp thay thế Tổng Thống Thiệu, bởi ngại ông vẫn cứ lệnh cho QLVNCH tiếp tục chiến đấu. Ông Thiệu phải ra đi để nhường sân khấu chính trị lại cho một nhân vật nào đó mà phía cộng sản có thể “chấp nhận” nói chuyện được. Cái ảo tưởng đó đến ngày 30.4.1975, Hà Nội sẽ chứng minh nó hoàn toàn là điên rồ, vì chúng chỉ muốn chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa đầu hàng vô điều kiện.

Ngày 21.4.1975, Tổng Thống Thiệu lên đài truyền hình quốc gia đọc diễn văn từ giã dân chúng và Quân Ðội. Ông cay đắng nói nhiều lời trách cứ Hoa Kỳ tàn nhẫn bỏ rơi đồng minh. Chức vụ Tổng Thống được trao lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Tổng Thống Hương làm việc chỉ được một tuần lễ, ông là một chiến sĩ quốc gia có tinh thần chống cộng cứng rắn. Người ta lại phải áp lực cụ trao quyền Tổng Thống cho một nhân vật mềm dẻo và biết điều hơn. Trước mọi sức ép, Tổng Thống Hương đành bàn giao Dinh Ðộc Lập cho Ðại Tướng Dương Văn Minh ngày 28.4.1975. Ba ngày sau, vị Tổng Thống thứ tư của Việt Nam Cộng Hòa đọc lời đầu hàng trên hệ thống truyền thanh quốc gia buộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng ngừng chiến đấu. Lúc đó là 10 giờ sáng ngày 30.4.1975.

Sống đời lưu vong ở xứ người, thoạt tiên Tổng Thống Thiệu tạm cư ở Ðài Loan, thời gian sau ông sang cư trú ở Anh quốc, rồi cuối cùng sang định cư hẳn ở Hoa Kỳ, thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts. Mang mển trong lòng nhiều uẩn khúc và bí mật quốc gia, ông Thiệu lặng thinh cam chịu sự trách cứ của đồng bào và chiến hữu, về những thất bại và hậu quả ông đã gây ra cho đất nước. Thời gian dần trôi, ba mươi năm hơn, nhiều bí mật đã được phơi bày cho thấy còn rất nhiều yếu tố đóng góp vào sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Ðiều mà chúng ta có thể thấy được là, trong cương vị Tổng Thống của một nước nhược tiểu, Tổng Thống Thiệu đã làm tất cả những gì có thể để cứu vãn đại cuộc. Ông đã từng từ chối thẳng vào mặt Kissinger không chịu ký Hiệp Ðịnh Ba Lê ngày 31.10.1972, bất chấp sự bực tức điên người của ông Nixon, lúc đó đã sắp vào ngày bầu cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ hai của ông. Tổng Thống Thiệu còn quyết tâm không ký Hiệp Ðịnh Ba Lê ngày 27.1.1973, tỏ rõ chủ quyền quốc gia. Nixon buộc phải gởi một bức thư với lời lẽ rất cứng rắn và hằn học: “Nếu chánh phủ ngài không chịu ký vào văn bản ngừng bắn, thì chúng tôi buộc phải tiến hành ký đơn phương. Ngoài ra, chúng tôi sẽ thông báo với thế giới rằng chánh phủ của ngài ngăn trở hòa bình. Vì lý do đó, chúng tôi buộc phải cắt đứt viện trợ quân sự và kinh tế cho Miền Nam Việt Nam ngay tức khắc”.

Bức thư của Tổng Thống Nixon đã có thể trả lời cho những trách cứ đổ lên sự câm nín của Tổng Thống Thiệu. Dù ông Nixon có cắt hay không viện trợ, thì số phận của Việt Nam Cộng Hòa đã được quốc hội Hoa Kỳ với đảng Dân Chủ chiếm đa số quyết định trong những tháng cuối cùng: “Không một xu nào nữa cho chánh phủ ông Thiệu”. Ngày nay, cũng đảng Dân Chủ đang rục rịch muốn bỏ chạy ra khỏi vũng lầy Iraq và có thể cả Afghnistan, nếu họ thắng được cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11.2008 tới đây. Lịch sử như một chiếc bánh xe luôn lăn tiến về trước, nhưng có lúc nó cũng trở về khởi điểm ban đầu. Một cường quốc giàu có như thế, một quân đội hùng mạnh nhất thế giới như thế, chỉ đáng tiếc không có được những vị tổng tư lệnh đúng nghĩa, có tài thao lược bình định thiên hạ, có hùng tâm tráng chí đạt đến vinh quang, mà chỉ luôn nghĩ đến việc bỏ chạy trước địch quân. Một lần bỏ chạy ra khỏi Việt Nam là đã đủ. Nếu chạy nữa, không khéo thiên hạ sẽ đặt cho quân đội ấy, tổng tư lệnh ấy cái biệt danh “tướng chạy và quân đội chạy bậc nhất thế giới”.

Tổng Thống Thiệu mang những nỗi niềm u ẩn và nhiều bí mật ấy vào thế giới bên kia ngày 29.9.2001. Nhưng hẳn rằng, thời gian càng trôi qua thêm, thì các sử gia nghiên cứu về cuộc chiến tranh Việt Nam, cũng như cuộc đời của Tổng Thống Thiệu sẽ còn khám phá ra được nhiều điều còn chưa sáng tỏ nữa.

Phạm Phong Dinh


Tác giả thi tập "Vô Đê" đã chửi thẳng vào mặt Bác và Đảng

    Tác giả thi tập "Vô Đề" đã chửi thẳng vào mặt Bác và Đảng, là hai thần tượng úy kỵ của csvn, bằng những lời thơ tuyệt độc, làm sao còn được sống sót sau ngày 17-07-1987!? Vậy, Nguyễn Chí Thiện nào ở hải ngoại, nếu không tá danh cũng nhận vơ tác phẩm
Đăng Văn Nhâm

Có lẽ đây là một trường hợp hãn hữu trong giới sinh hoạt văn học hải ngoại: Một thi phẩm ra đời không mang một cái tên, ngay cả hàng mấy trăm bài thơ tuyệt tác của thi nhân cũng chẳng được tác giả đặt tên sau khi thai nghén. Mặc dù đó là đứa con tinh thần yêu dấu, cưng quí nhất đời cuả thi nhân. Ông đã thai nghén đứa con tinh thần độc nhất vô nhị ấy lâu dài suốt bao nhiêu năm trời trong nhà tù, dưới gông cùm xiềng xích dã man của bọn quỉ đỏ đội lốt người ở miền Bắc VN.

Tập thơ ”Vô Đề” của Nguyễn Chí Thiện gớm 377 bài, đủ thể loại, đã do tác giả ném vội vào sứ quán Anh tại Hà Nội ngày 16.7.1979. Riêng theo lời giới thiệu tập Ngục Ca của VV Ái, có đoạn nguyên văn: ”... Tối 02.04.1979 anh (NG.C.Thiện) nhờ người bạn khâu vào ve áo một viên thuốc độc, rồi cắp tập thơ ” HOA ĐỊA NGỤC” (tên này do Ái tự đặt cho tác phẩm), một mình lấy tàu lên Hà Nội ...”

Theo tôi,việc khâu vào ve áo viên thuốc độc là việc sinh tử tuyệt mật trong xã hội CS tai vách mạch rừng đầy rẫy, huống chi lại không phải là chuyện khó đến nỗi một người đàn ông không tự làm được, phải nhờ tới một người bạn. Sau này lại còn đẻ thêm ra một nhân chứng Trần Nhu tự nhận đã ”tháp tùng” theo Ng. Chí Thiện đến tòa đại sứ Anh. Nhưng chỉ một mình Ng. Chí Thiện bị bắt ngay sau đó. Tại đây, một câu hỏi cần đặt ra: Tại sao công an đã không bắt luôn Trần Nhu? Sao Ng. Chí Thiện đã không dùng đến viên thuốc độc ấy khi bị công an bắt rồi lại cùm thêm một thời gian nữa khi chính tác giả đang bị bệnh lao hành hạ đến thời kỳ thứ 3, khạc ra máu trong hoàn cảnh không có thuốc men và thiếu hẳn mọi phương tiện dinh dưỡng vệ sinh ...?

Từ đó hiển nhiên không một ai ngoài đời biết được số phận của tác giả ”Vô Đề” ra sao , ngoại trừ bàn tay đẫm máu hận thù của đảng CS. Còn tác phẩm Vô Đề thì đã được nhân viên sứ quán Anh trao lại cho một tạp chí VN ở hải ngoại. Vì thế thân phận của tác phẩm này cũng chẳng khác nào một đứa con rơi, vô thừa nhận ngay từ lúc mới mở mắt chào đời. Nó đã được truyền qua tay nhiều người. Trong số văn nhân, thi sĩ cũng có, con buôn chữ nghĩa và bọn lưu manh ăn cắp tác phẩm cũng chen vào để mong kiếm chác chút đỉnh tiền bạc! Vì thế, tác phẩm đặc biệt này đã bị những bàn tay ấy đặt cho nhiều tên khác nhau.Như: Hoa Địa Ngục (nhà XB Quê Mẹ), Quê hương Tù Ngục (Phong trào thanh niên hành động xã hội), Bản chúc thư của một người VN (nhà XB Tú Quỳnh)... Ngoài ra còn có bản NGỤC CA phổ nhạc của Phạm Duy, do nhà XB Quê Mẹ ấn hành.

Theo lời giới thiệu nhạc phẩm Nhục Ca của nhà XB/ QM thì tác giả Nguyễn Chí Thiện sinh vào tháng 6 năm 1933, tại phố hàng Bột ở Hà Nội. Riêng trong tác phẩm gốc, Ng. Chí Thiện cho biết ông ra đời năm ngày 27.02.1939. Điều nào đúng điều nào sai?

Hiển nhiên và hợp lý nhất mọi người đều phải tin vào lời của Ng. Chí Thiện và gạt bỏ ngay lời suy đoán hay nghe hơi nồi chõ của VV Ái!

Nhưng đáng kể nhất, vì từ hồi nào đến giờ không thấy một ai nêu lên điểm then chốt này. Hoặc giả vì không biết, hoặc có người biết mà không cho là quan trọng?

Đó là tin: NHÀ THƠ NGUYỄN CHÍ THIỆN ĐÃ CHẾT TRONG NGỤC TÙ C.S., THÁNG 7.1987.

Tin này do Ủy Ban Văn Nghệ Sĩ bị Cầm Tù thuộc Văn Bút Quốc Tế (PEN CLUB INTERNATIONAL) đã thông tri nghiêm chỉnh đến các hội viên. Nên biết UBVNSBCT (anh ngữ viết tắt là: WIPC) do bà Leedom Arckeman làm chủ tịch và sưu tầm viên của WIPC là cô Sarah Whyatt. Bây giờ , thời gian trôi qua đã lâu, có lẽ những người khác đã được bầu thay thế vào 2 chức vụ đó. Nhưng,nếu muốn truy tầm tin tức người ta vẫn có thể liên hệ với Ủy Ban WIPC/ PEN Club Inter ....!

Đến bây giờ nghi vấn ”NG. Chí Thiện thật hay giả” bỗng nhiên lại được vài người nêu lên trên các diễn đàn diện tử khiến dư luận lại trở nên sôi nổi.Nhưng nhìn chung, từ đầu, dư luận đã chia thành 2 khuynh hướng rõ rệt. Một bên sáng suốt, cấp tiến, gồm một số nhà văn, nhà thơ quen thuộc đưa ra những nghi vấn có phần cụ thể, song vẫn chưa đủ chứng liệu cụ thể để minh thị: con người bằng xương bằng thịt gọi là Ng. Chí Thiện hiện nay ở Mỹ chỉ là Ng. Chí Thiện giả, hoặc chỉ là người soán đoạt thi phẩm ”Vô Đề” của một tác giả vô danh nào đó đã bị CSVN thủ tiêu ngay sau khi vừa ném được đứa con tinh thần của mình vào tòa đại sứ Anh như một tiếng kêu uất hận đầy tuyệt vọng để lại cho đồng bào và hậu thế!

Ngược lại, vẫn còn một số người tâm hồn đơn giản, chất phác cứ chấp nhận bừa ... cho xong chuyện!

Theo tôi, vấn đề này , bây giờ mới được đặt trở lại trước công luận cả trong lẫn ngoài nước vẫn chưa trễ lắm. Vì con người mang tên Ng. Chí Thiện (thật hay giả chưa biết) vẫn hãy còn đang sống sờ sờ. Bắt buộc ông ta phải tái chứng minh thân thế của mình trước pháp luật và công luận. Trong khi chờ đợi chuyện điều tra và tự minh xác nguồn gốc của ông Ng. Chí Thiện hiện hữu, kể cả khảo sát và trắc nghiệm trình độ Pháp ngữ của đương sự, thiết tưởng, chúng ta cần trăn trở tư tưởng chung quanh 2 luận điểm sau đây:

1. Giả thiết: tác phẩm VÔ ĐỀ vốn dĩ của một tác giả vô danh. Sau khi đã ném được đứa con tinh thần của mình vào tòa đại sứ Anh rồi, tác giả liền bị CACS bắt và thủ tiêu luôn. Nhưng CSVN sợ sẽ bị các cơ quan Quốc Tế Nhân Quyền, hội Ân Xá Quốc Tế, các hiệp hội Văn Hóa trên thế giới, như PEN INTERNATIONAL, UNESCO ... lên tiếng, đòi hỏi được tiếp xúc với tác giả hay can thiệp cho tác giả v.v... Trong khi đó tác giả Vô Đề (thiệt) đã bị CACS thủ tiêu mất rồi, thì thực là rắc rối to! Đó là một hành động giết người cực kỳ vô nhân đạo. Có thể bị dư luận thế giới kết án nặng nề!

Bởi vậy, để bưng bít hành vi dã man phi nhân tính, CSVN đành phải đẻ ra một Ng. Chí Thiện giả mạo, rồi cho ra ngoại quốc luôn. Thủ đoạn này là một tuyệt chiêu chỉ có đảng CSVN mới dám thực hiện, để che mắt nhân loại trên thế giới . Như vậy, một mặt, CS đã dùng Ng. Chí Thiện giả , để giấu nhẹm vụ án thủ tiêu tác giả Vô Đề. Không ai còn lý do gì để bới đống tro tàn ấy làm chi. Mặt khác,với trò ”linh miêu tráo chúa”, đảng CS còn dùng Ng. Chí Thiện giả này làm một nhân chứng sống, tuyên truyền cho Việt Kiều hải ngoại và toàn thể thế giới tự do thấy rằng đảng CSVN nhân đạo vô cùng và đã xử rất khoan hồng đối với một nhà thơ ”cực kỳ phản động” dám làm thơ lôi đích danh đảng CSVN và Bác Hồ muôn vàn kính yêu của người CS ra chửi rủa thậm tệ. Đó vốn là 2 thứ TABOUS (sujets tabous) tuyệt đối cấm kỵ của CSVN. Tuyệt đối không một ai được phép động chạm đến, dù chỉ bằng lời nói bóng gió xa xôi. Nếu kẻ nào vô tình ”phạm húy” lập tức bị bọn CACS vồ ngay và đem đi cùm liền đến mút mùa Giao chỉ luôn.

Để chứng minh điều trên đây là sự thực, có cơ sở kiểm chứng và lý luận hẳn hoi, tôi xin mạn phép trưng dẫn 2 thí dụ điển hình sau đây để bạn đọc bốn phương thế giới có dịp đối chiếu giữa những lời thơ chửi đảng, chửi bác của tác giả tập thơ Vô Đề rất nặng nề, đau đớn đến mức bất khả dung tha, với một câu chuyện ”tiếu lâm” mà bọn CSVN gọi là: ”khôi hài đen” rất nhẹ nhàng của danh ca Anh Ngọc.

Trong 377 bài thơ của thi phẩm Vô Đề, tác giả đã chửi đảng CS như thế nào? Đây mời bạn hãy nghe:

Đảng dìu dắt thiếu nhi thành trộm cướp,
Giải phóng đàn bà thành đĩ, thành trâu,
Giúp người già bằng bắt bớ rể, dâu,
Và cải tiến dânh sinh thành xác mướp,
Đảng thực chất chỉ là đảng cướp,
Dựng triều đình mông mọi giưã văn minh
Sống tạm thời nhờ thủ đoạn yêu tinh,
Nhờ súng đạn Tàu, Nga, bắt bớ,
Đảng tắt thở cuộc đời mới thở,
Đảng còn kia bát phở hóa thành mơ ...

Về Tabou bác Hồ muôn vàn kính yêu của CS, tác giả Vô Đề đã lôi cáo Hồ ra chửi bới như thế nào? Xin mời bạn đọc thưởng thức:

Hôm nay 19.5.
Tôi nằm
Toan làm thơ chửi bác
Vần thơ mới hơi phang phác
Thì tôi thôi
Tôi nghĩ bác
Chính trị gia sọt rác
Không đáng giá để tôi
Đổ mồ hôi
Làm thơ
Dù là thơ chửi bác
Đến thằng Mác
Tổ sư bác
Cũng chưa được tôi nguệch ngoạc vài câu
Thôi hơi đâu
Mặc thây bọn văn sĩ cô đầu
Vuốt râu , xoa đầu, mơn trớn bác
Thế rồi tôi đi làm việc khác
Kệ Cha bác!

Trên đây là 2 bài thơ của tác giả Vô Đề đả chửi đảng CSVN và Bác Hồ hết sức tàn bạo. Nếu đem so với câu chuyện khôi hài đen sau đây của Anh Ngọc, hồi còn kẹt trong nước, bạn sẽ nghĩ thế nào về trường hợp Nguyễn Chí Thiện tự nhận tác giả thi phẩm Vô Đề mà vẫn còn sống nhăn và béo tốt hồng hào qua Mỹ rong chơi ?

Một hôm ngồi quán cà phê Anh Ngọc đã vui miệng kể chuyện tiếu lâm cho mấy người bạn thân nghe. Anh Ngọc kể:

- Trong một cuộc tham quan miền Nam, một vị tổng bí thư muốn tỏ ra thân dân, bèn hỏi một người lao động:

- Đời sống lúc này như thế nào?

- Dạ, thưa ngài tổng bí thư ... như đi xe buýt ạ! Một người lái cả đám ngất ngư!

Sau khi Anh Ngọc vừa dứt lời tên CA bàn kế bên liền bước đến trước mặt Anh Ngọc, chĩa súng mời về đồn CA làm việc ngay. Sau đó Anh Ngọc đã bị cùm trong trai giam suốt 3 năm.

Khi được tha, anh ra khỏi nhà tù với tấm giấy chứng nhận được trả tự do vì tội đã kể chuyện ... khôi hài đen! Đơn giản và dễ như chơi vậy thôi!

· Ghi chú: Khi Anh Ngọc qua Mỹ, nhân một dịp gặp lại nhau ở Santa Ana, Cal, tại báo quán Người Việt, Anh Ngọc đã kể lý do đi tù CS này với tôi và đã chụp chung với tôi một tấm hình kỷ niệm!

Tóm lại, chỉ vì câu chuyện tiếu lâm nhẹ nhàng, bóng gió kể trên mà Anh Ngọc đã phải trả giá đến 3 năm ngục tù cùm kẹp. Vậy, nếu đem so với tác phẩm Vô Đề, thì cái giá tác giả phải bị thủ tiêu ngay là điều dễ hiểu và rất thường diễn ra cả ngày lẫn đêm dưới chế độ CS.

Tất nhiên, từ đó ta suy ra, sau ngày 020.4.1979, tác giả tập thơ không thể nào còn sống sót, nhất là người ấy đã bị bịnh lao phổi đến thời kỳ thứ 3, đã khạc ra máu trong tù không thuốc men và vệ sinh, dinh dưỡng.

Trên căn bản sự kiện này ta có thể kết luận ngay mà không sợ bị sai lầm bao nhiêu: Nguyễn Chí Thiện hiện hữu hoàn toàn không phải là tác giả thi tập Vô Đề!

2. Ngược lại, giả thiết, nếu Nguyễn Chí Thiện ngày nay ở hải ngoại là Ng. Chí Thiện thật, thì ông ta vẫn không thể là tác giả thi phẩm Vô Đề. Bởi tìm hiểu trong tác phẩm ”Vô Đề”, trước hết ta thấy rất nhiều mâu thuẫn trầm trọng về tuổi tác, về thời gian bối cảnh lịch sử cùng với vô số nghi vấn nghịch đảo, mù mờ về sự việc. Sau đó nếu đem so sánh với những chi tiết lý lịch và những hoạt động chính trị hiện hữu của Nguyễn Chí Thiện trong đảng Việt Tân, con đẻ của tổ chức kháng chiến bịp Hoàng Cơ Minh, ai cũng thấy Nguyễn Chí Thiện bằng xương bằng thịt ngày nay ở hải ngoại chẳng giống với tác giả Vô Đề chút nào. Sao kỳ cục vậy? Vải thưa bưng mắt thánh được sao?

Chú ý: Bạn đọc nào muốn tìm hiểu thêm những chi tiết chính xác về những mâu thuẫn này ,xin tìm đọc bài: NHỮNG KHÁC BIỆT VỀ QUAN ĐIỂM VÀ THÂN THẾ GIỮA TÁC GIẢ TẬP THƠ VÔ ĐỀ VÀ NHÀ THƠ NGUYỄN CHÍ THIỆN. [Bài của THẾ HUY, 1997] hoặc vào xem trang nhà đang loan tải: www.dangvannham.com

Tóm lại, để khỏi phí thì giờ với chuyện Ng. Chí Thiện thật/ giả, nhất là để tránh thói quen đã trở thành cố tật của đa số người Việt là ” đánh trống bỏ dùi”, sau vài hôm tranh luận rùm beng rồi tắt lịm luôn, hơn thế , tránh khỏi bị Ng. Chí Thiện và phe nhóm cười vào lỗ mũi những người nêu vấn đề lên trước công luận, tôi mạn phép đề nghị những ai có nhiệt tâm đối với vấn đề này xin cùng nhau lập tức lập ra một ủy ban điều nghiên về tác giả thi tập Vô Đề. Vấn đề này phải lồng nó trong khuôn khổ văn hóa và chính trị, diệt CS nằm vùng ở hải ngoại thì mới kêu gọi được nhiều người hưởng ứng.

Đặng Văn Nhâm


Gởi “học giả” Nguyễn ngọc Bích


TamBaDang

Đọc “cái gọi là” bức thư của Nguyễn Ngọc Bích gởi cho TamBaDang và ông tieudietcs nào đó, đọc giả trên các web thấy anh Bích đã mất bình tĩnh rõ ràng, nếu không muốn nói Bích sợ mất phần ăn nên phát Điên chăng? Bích nói: “HAI ÐỨA CÙNG MỘT DUỘC VỚI TRIỆU LAN, nghĩa là một trong ba tên ngồi đáy giếng ở Luân Ðôn...”. Rõ ràng là Bích vì sợ mất ăn nên Điên. Ông tieudietcs nào đó ở đâu không ai rõ, ông/bà Triệu Lan đang ở Luân Đôn, riêng TamBadang hiện nay đang ở Á Châu, mà lại đang ở trong khu Gia Binh thì làm sao mà “CÙNG DUỘC” với mấy người kia hả anh Bích? anh Bích cũng là loại thầy Mò nên anh mới mò sảng và nói sảng. Anh Bích tự cho mình là “học giả”, mà anh Bích “nghiên Kíu” kiểu này thì hỏng to, chứng tỏ là anh Bích đếch có đọc những gì trước đây TamBaDang thách đố anh “nhà văng” Chu tất Tiến, khi Tiến tính “vinh danh” tên gian tà Hoàng Minh Chính mấy tháng trước đây. Dân bình thường thì làm sao có thể trú ngụ trong khu Gia binh phải không anh Bích? Bích đúng là một thằng Điên. Không tin anh Bích làm ơn “Nghiên Kíu” trong quân đội xem có ai tên TamBadang không? Tìm thử mới tin chứ anh Bích.

Anh Bích là người dịch tập thơ Vô Đề ra tiếng Anh! Đúng. Nhưng anh Bích chỉ nên là sở hữu của phần Anh ngữ của tập thơ mà thôi. Chuyện này anh Bích nên viết ra giấy trắng mực đen cho rõ ràng là: “Nguyễn Ngọc Bích Chỉ Làm Chủ bản Quyền của Phần Anh Ngữ tập thơ Vô Đề”, chứ anh Bích đừng nói khơi khơi là: tập thơ Vô Đề “Hoa Địa Ngục copyright by Nguyen Ngoc Bích”, thì cái này kỳ lắm, chôm chỉa đấy anh Bích ạ. Anh Bích lập lờ kiểu này mai mốt hay vài chục năm nửa mấy đứa nhỏ chúng không hiểu thì chúng sẽ cho rằng: “anh Bích là tác giả tập thơ Vô Đề (Hoa Địa Ngục) cả bản Việt ngữ cùng Anh ngữ” thì bỏ mẹ. Cả một quyển sách “Hoa Địa Ngục” dầy hơn 500 trang chỉ có mỗi câu Hoa Địa Ngục “copyright by Nguyen Ngoc Bích” vậy là sao?. Anh Bích nên ra chiêu khác đi, chiêu này xưa rồi anh Bích.

10 điều do anh Bích đưa ra thì chả có dính gì tới tác giả tập thơ Vô Đề, nhưng sao anh Bích lại hỏi TamBaDang. Anh Bích đã mất bình tĩnh nên anh hỏi sảng chăng? Chưa hiểu người mình đang gửi thư kia là ai thì đã anh Bích đã phán rằng: “Gửi hai tên Công An hạng bét TamBa Dang va tieudietcs” Bích đúng là một tên hồ đồ. “Giáo sư, học giả” kiểu của anh Bích thì làm sao anh dạy người khác đây. Nếu bình tĩnh thì anh Bích nên tìm xem 4 lá thư tay của anh Thiện do báo Saigon nhỏ đăng lên, để anh Bích xem chỉ có 4 trang giấy do NCT viết thì đã có mấy dòng chữ khác nhau. Tại sao lạ vậy? Cái xạo của NCT đã hé lộ từ ngày đầu anh Thiện bước chân đến Mỹ kia, chưa hết cả một miền Bắc từ năm 1954 đến 1995 duy nhất chỉ có 1 mình anh Thiện được đi qua Mỹ theo diện HO là sao?

Đọc báo Saigon nhỏ thấy anh Thiện kể về cách anh quăng tập thơ Vô Đề vào sứ quán Anh vào năm 1979 mà bật cười. Anh Thiện còn dám dựng chuyện “cởi quần móc ra.... tập thơ Vô Đề.... làm “cô gái ng: Anh sợ quá há hóc mồm”. Anh “láo sĩ” Thiện chỉ có thể “cởi quần móc ra...” con gà để quăng vào mặt của Nguyễn Ngọc Bích. Chứ cô gái “ng: Anh” nếu cô “sợ” khi thấy Thiện “móc ra...” con gà thì cô cũng móc ra “chó lửa” chứ làm sao cô phải “há mồm đánh rơi cả lược” ngay trong sứ quán Anh. Mấy em làm trong sứ quán và nhất là sứ quán trong các nước cộng sản, nếu không là “ram bong” thì cũng là “jane bong” cứ làm gì có kiểu sợ để “há mồm”. Đúng là cả một đám bịp kiểu tam đại bần cố nông.

Bằng chứng về anh Thiện nhiều người đã viết ra ràng ràng như vậy mà mấy anh gà mờ không chịu hiểu, chứ đem chuyện Thiện thiệt, Thiện giả, Thiện ở tù ra và làm loạn trên các web-site. Anh Thiện bằng xương bằng thịt đang sống ở vùng Nam Cali là anh Thiện Thật, nhưng anh Thiện Thật có ở tù thì ăn nhậu gì đến anh Thiện không phải là tác giả của tập thơ Vô Đề?! Anh Thiện ở tù với người này người kia thì cũng đâu có đồng nghĩa anh Thiện là tác giả của tập thơ Vô Đề?! Rồi lại đi thử DNA hay lấy dấu tay của anh Thiện thì có dính dáng gì đến anh Thiện không phải là tác giả của tập thơ nói trên?! Từ đây về sau xin các ông gà mờ đừng nên nêu lên vấn đề Thiện Thật hay Thiện Giả nửa. Mà nên hỏi rằng: Nguyễn chí Thiện có phải là tác giả của tập thơ Vô Đề hay không? Thế thôi. Vậy ra công chúng chứnh minh như báo Saigon nhỏ yêu cầu kia?!

Thuộc lòng thơ trong bụng thì ai chẳng thuộc được, bằng chứng TambaDang này thuộc lòng bài thơ “Giai Nhân Và Tráng Sĩ” của Hoàng Cung Khanh hơn mấy mươi năm nay. Bài thơ này rất dài tựa như bài Đồng Lầy trong tập thơ Vô Đề vậy, bây giờ đọc ra không sai một chữ thì sao đây? Vậy bài thơ này của Hoàng Cung Khanh hay là của TamBadang? Ông cụ Đàm Quang Thiện thuộc làu làu, đọc ngược đọc xuôi Truyện Kiều thì chẳng lẽ Truyện Kiều của ông ấy viết ra chắc!. Cho nên người học thuộc lòng thơ khác với tác giả của bài thơ hay tập thơ chứ. Các bạn đọc nên nhận thức ra điều này để đừng lầm lẫn, rồi cứ mãi Thiện Thật, Thiện Giả. Vậy các bạn nên chấm dứt vấn đề đặt câu hỏi Thiện Thật, Thiện giả. Vì bọn Cộng nằm vùng sẽ đem vấn đề Thiện Thật, Thiện Giả để lái chúng ta sang mục tiêu khác, hơn là tìm ra tác giả đích thực của tập thơ Vô Đề.

Nếu Bố ông Bích còn sống anh em chúng tôi thừa tang chứng để đem Bố ông ra tòa, và phát động một cuộc truy tố cho tất cả những tên Cộng sản đã nhúng tay vào tội ác tương tự, bọn này chúng đang sống nhở nhơ trên các xứ tự do. Nhưng chúng tôi không muốn làm như thế, vì đời sống mỗi nạn nhân đó dính liền với sự thăng trầm của đất nước họ, những đau khổ của cá nhân rồi cũng sẽ vơi đi, nhưng chính chúng tôi là những người tha thứ các tên Việt Gian đã tàn sát người thân của chúng tôi và chính chúng tôi quên đi tội ác của chúng, chứ không phải các tên gây nên tội lỗi chỉ viết vài ba câu xạo xạo cãi chầy cãi cối mà buộc chúng tôi quên đi tội ác của chúng được. Ông Bích nếu thách đố, thì anh em chúng tôi sẽ đưa ra ánh sáng tội ác này cho ông xem, ông Bích dám thách đố không?!. Chuyện bức tranh Monalisa trăm năm sau người ta còn tìm ra được bằng chứng kia mà, huống hồ tội ác đây có nhiều nhân chứng đang còn sống chẳng lẽ lại không tìm ra sao?! Ông Bích nếu biết lỗi thì ông nên câm cái mồm ông lại đi và đừng gây thêm tội. Quá đủ rồi ông Bích. Bố ông gây tội ác với những người cách mạng yêu nước, thì tại sao ông không làm những điều tốt để linh hồn của ông cụ của ông được thanh thản, mà ông lại tiếp tục đi trên con đường gian trá, lập bè kết đảng với những tên tội phạm Việt Gian?

Ông có nghĩ rằng hơn 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ chết bên Việt Nam có phải là đồng đội của những người Việt Nam hiện đang phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ bây giờ không? ông hiểu được những người lính này họ nghĩ gì về tụi Cộng sản hiện nay không? ông chưa đi lính ngày nào thì làm sao các ông hiểu được tình “huynh đệ chi binh” trong quân đội?.

Sẳn đây tôi cho ông biết luôn Bà Cụ của tôi sinh năm 1914 năm nay 2008 vẫn còn sống khoẻ mạnh và còn rất minh mẫn, người chị lớn của tôi sinh năm 1931 cũng còn đang sống khỏe mạnh, ông tưởng những người của thế hệ trước họ đã chết cả rồi sao, ông nhầm rồi còn nhiều người nửa ông Bích ạ. Những người này họ đang sống bên Mỹ và họ sống không xa ông bao nhiêu.

TamBaDang

T.B “học giả” Nguyễn ngọc Bích dịch cụm từ: “A Voice from the Hanoi Underground” ra thành (Một tiếng nói chui từ Hà Nội) - trang số 9 hoa địa ngục. Dịch như vậy là số dzách rồi còn gì đúng hông anh Bích. Đúng là học ... giả.

Tập Thơ Vô Đề và Khuyết Danh

Duy Xuyên

Tôi muốn dùng chữ Vô Đề, Khuyết Danh đúng như ý nguyện của tác giả ẩn danh gởi từ trong nước ra hải ngoại vào năm 1979, vì tôi tôn trọng Danh Chính Ngôn Thuận đó là lối cư xử kính lễ của người cầm bút với Bậc Vĩ Nhân Thượng Trí mà đời đã có mấy ai mắt xanh nhìn thấu qua những hỏa mù của bọn Cộng phỉ, qua những bản đồng ca của loài ễnh ương tay sai lặn ngụp dưới lớp bùn dơ hôi tanh vì hai chữ lợi danh.

Tập thơ chính danh Vô Đề được các nhà xuất bản, dịch giả vẽ rắn thêm chân thành ra: Tiếng Vọng Từ Đáy Vực, Bản Chúc Thư Của Một Người Việt Nam, Hoa Địa Ngục, v.v... Sự tự ý đặt tên làm buồn lòng không biết bao nhiêu người. Còn Khuyết Danh là dụng ý của tác giả, một số người tự động đổi thành Hữu Danh gán cho ông Nguyễn Chí Thiện nào đó sau 15 năm thai nghén (1980-1995) vừa mới xuất hiện tại Mỹ quốc gần đây? Theo như các ông Minh Thi, Trần Nhu, Bùi Duy Tâm, ông nào cũng vỗ ngực tự nhận thân quen với Nguyễn Chí Thiện, nhưng mỗi ông cho Nguyễn Chí Thiện được thai sinh vào các năm khác nhau, thêm vào đó những năm sinh khác biệt của Hội Ân Xá Quốc Tế của Bà Sagan, Văn Nghệ Tiền Phong và cuối cùng chính đương sự, Nguyễn Chí Thiện sinh năm 1932, 1933, 1935, 1936, 1937, 1938 và cuối cùng 1939! Như vậy ai biết mô tê mà rờ!

Xưa kia Tôn Hành Giả theo thầy Tam Tạng đi thỉnh kinh, lúc gặp nguy biến, ông bứt một nắm lông bỏ vào mồm nhai rồi phun ra hóa thành hàng trăm Tôn Hành Giả đi làm rối loạn đối phương chẳng biết ai thật ai giả; thì nay nhà đạo diễn phù thủy nào bứt lông gì mà nhai để phun ra được đến 7 ông Nguyễn Chí Thiện? Một người dân thường ít học trước 7 ông Tôn Hành Giả Thiện này cũng đặt một nghi vấn?

Tạm thời ta tin ông Tôn Hành Giả Thiện này với năm sinh như ông nói là 1939, tức đến năm 1945 ông mới 6 tuổi, đến năm 1954 (Việt Cộng về Hà Nội ông đã đỗ tú tài Pháp chưa kể những năm di cư, sự học bị đứt đoạn, thời xưa đỗ Tú Tài Pháp khó lắm, mấy vị lớn tuổi Tây học ai cũng rõ điều đó), ông ở tù 27 năm, lao phổi thời kỳ thứ ba, thổ huyết không biết bao nhiêu lần thế mà ông không chết, sang Mỹ gần đây sức khỏe tốt, ông tuyên bố không bị bệnh phổi, chỉ bị bệnh thần kinh mà thôi! Bệnh thần kinh đâu chỉ riêng ông mắc phải mà hơn 70 triệu đồng bào ta tại quê nhà đều mang phải, trừ một thiểu số Cộng nô và tay sai.

Tiểu sử Nguyễn Chí Thiện cũ: cha mẹ chết, chỉ còn một vài chị ruột ở Hải Phòng, nay lại lòi ra một ông anh ruột tại Hoa Thịnh Đốn, thêm một ông Tôn Hành Giả anh nữa, chao ôi là rắc rối! Nếu là anh ruột thật, tập thơ Vô Đề gán cho ông Thiện được in ra đã 15 năm, không thấy ông anh lên tiếng đòi bản quyền?

Còn một điều tủi nhục nữa, theo ông Minh Thi kể năm 1980 anh em quyên góp một số tiền gởi giúp ông Thiện, ông mở một động mãi dâm nuôi gái rất phát tài, đời sống đầy đủ: sáng trà, chiều rượu, tối thịt (?). Ông không làm thơ chống chế độ nữa, thế là ông thành bọn chứa thổ đổ hồ loại cặn bả của xã hội!!!

Ai đã đọc tập thơ Vô Đề, là lời Hịch truyền trao, lời văn khí khái hùng hồn, dám hy sinh cả thân mình cho một lý tưởng cao đẹp: diệt Cộng, cứu dân, xây dựng một xã hội an vui trăm họ (tôi không dám lạm bàn về tập thơ này vì có biết bao nhiêu vị tên tuổi đã nghiên cứu một cách nghiêm minh từ lâu rồi, tôi chỉ muốn nói những cái nghịch lý của vấn đề).

Thử đặt câu hỏi: Ông Nguyễn Chí Thiện chứa điếm là tác giả tập thơ Vô Đề tuyệt tác bất khuất đầy tình tự dân tộc này? Hay nhân vật Khuyết Danh nào đó ẩn núp tại quê nhà (mà nhiều người xác quyết là lãnh tụ Lý Đông A) là tác giả thật sự? Chỉ cần một nhất điểm lương tri nào đó thôi ta cũng đủ thừa tìm ra câu trả lời này.

Xưa những vị anh hùng chưa gặp thời, thất thời vẫn chọn một nghề khiêm tốn để độ nhật. Ông Phạm Ngũ Lão đan giỏ, có người đốn củi, có kẻ cầy ruộng đốt than để độ nhật vì vậy mới có câu:

Chim khuyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than.

Điển hình trước mắt, sau 1975 đổi đời tại miền Nam, trí thức đẩy xe ba gác, đạp xích lô độ nhật, miền Bắc anh hùng chiến sĩ Điện Biên thất sủng về lao động:

Đầu hè đại tá vá xe
Cuối hè thiếu tá bán chè đậu đen.

Chớ có thấy ông nào làm cái nghề ti tiện chứa thổ đổ hồ đâu?

Xin những ai lưu tâm đến tập thơ Vô Đề mà tôi gọi: "Một Áng Văn Của Muôn Đời Mong Đợi" xin đọc đi đọc lại, càng nhiều lần càng tốt. mới thấu triệt được vấn đề đem ra so với Đạo Trường Ngâm, Huyết Hoa của Cụ Lý Đông A, thì ta sẽ có ngay chìa khóa để biết sự thật.

Xin lạm bàn:

Tuổi hai mươi tuổi bước vào đời
Hồn lộng cao gió thổi chơi vơi
..........

Ôi tiếc thương bao mùa lúa vun trồng
Một mùa Thu nước lũ
(ngày nổi dậy 19/8/1945 của bọn Việt Minh)
(Đồng Lầy - 1972)

Ông Nguyễn Chí Thiện sinh năm 1939 (1939 đến 1945), ông mới có 6 tuổi, sao lại gọi tuổi hai mươi? Phi lý và nghịch lý.

Ai cũng biết sống dưới chế độ Cộng Sản, động đến Lãnh Tụ là tội tầy trời:

– Nhà văn Phan Khôi chỉ gọi bóng gió ông Hồ Chí Minh là Ông Bình Vôi, thế mà bị trù ẻo bao vây không ai dám tới lui, ông chết trong nhục nhằn, bệnh tật đói lạnh!

– Ông Nguyễn Hữu Đang, một nhân vật trí thức Bắc Hà người được Hồ Chí Minh quí nể giao cho trọng trách thiết kế và ra mắt chính phủ Cộng Sản tại Ba Đình Hà Nội ngày 2/9/1945, thế mà sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm năm 1956, ông bị đầy ải, tù lao, hạ nhục nay trên 80 tuổi về quê ở nhờ vỉa hè của trường làng, bắt ếch nhái, cóc rắn để có chút lương thực sống qua ngày, khủng khiếp quá!

Nguyễn Tuân lúc già sắp chết mới dám thố lộ với anh em văn sĩ trẻ: "Ta sống được đến ngày nay nhờ biết sợ" chỉ vào cái bóng đen trên tường: mật vụ Cộng Sản!

– Thi sĩ Chế Lan Viên cúc cung tận tụy với Đảng, lúc chết vợ con tìm được trong ngăn kéo bài thơ (tôi quên tên bài thơ):

Tôi cầm nó biết là bánh vẽ
Nhưng phải bỏ vào mồm
Nếu nói thật là bánh vẽ
tức là chống lại Đảng lại Đoàn!
Chết rồi mới dám nói sự thật!

Tập thơ Vô Đề, Khuyết Danh chửi Đảng, chửi Lãnh Tụ Vĩ Đại, xin bình tâm đọc và suy luận:

Đảng thực chất chỉ là đảng cướp
Dựng triều đình mông muội giữa văn minh
..........

Đảng còn kia bác phở hóa thành mơ!

Chửi Hồ Chí Minh, đây là lời của một vị Lãnh Tụ chửi tên hạ dân nên dùng chữ "Nó":

Không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do
Tôi biết nó thằng nói câu nói đó
Việc nó làm tội nó phạm ra sao
Nó gọi Tầu Nga là cha anh nó
Và tình nguyện làm con chó nhỏ
Xông xáo, giữ nhà gác ngõ cho cha anh
..........

Nó là tên trùm đao phủ năm nào
Hồi cải cách đã đem tù, đem bắn
Độ nưœa triệu nông dân, rồi bảo là nhầm lẫn
Đường nó đi trùng điệp bất nhân
..........

Ngoài đói khổ rùng mình
Thời đại Hồ Chí Minh (gọi đích danh cáo Hồ)
Xuất hiện dưới hai hình
Mả tù và mả lính

Chửi cán bộ cộng sản:

Là quỷ, là ma, là thú dữ?
..........

Để gọi chúng tiếng người không đủ chữ
..........

Chửi Mác, chửi Mao, chửi Staline mà Tố Hữu là trùm văn hóa đề cao:

Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình có một thương ông thương mười

Chửi Mao mà Hồ Chí Minh coi là bậc thầy, ông Hồ tuyên bố Mao chủ tịch viết triết thuyết đầy đủ quá rồi, vì vậy có còn gì nữa để ông (Hồ) viết thêm. Nghe tác giả Khuyết Danh chửi Mao:

Bác Mao cân nặng tạ hai
Thịt ùn lên mặt, mặt hai ba cằm
Người dân Trung quốc thì thầm
Nó là Đổng Trác nhưng dâm hơn nhiều

Chửi Lãnh Tụ cao cấp:

Tôi không nhớ hết tên bọn nó
Duẫn, Giáp, Hồ Hề, Chinh Xu gì đó
(Chinh Xu là Trường Chinh Đặng Xuân Khu. Xuân + Khu = Xu, và cũng là đồng chinh đồng xu).

Một người mà dám chửi Đảng Cộng sản, chửi Mác, chửi Mao, chửi Hồ Chí Minh, và đảng viên cao cấp: Đảng cướp, Mác ác, Mao dâm, gọi Hồ Chí Minh là "Nó", tay sai Nga Tầu, con chó giữ nhà cho đầu sỏ Mác xít ngoại bang. Thế mà Trung Ương Đảng Cộng Sản làm ngơ, Nga Tầu không phản ứng, Hồ, Đồng, Giáp, Duẫn im lìm, Tố Hữu là tên chó săn văn nghệ miền Bắc không sủa lên báo động, mật vụ công an bỏ qua để ông Nguyễn Chí Thiện được sống an nhàn trên chục năm nay tại Hải Phòng và mặc đồ lớn, xách samsonite đi sang Mỹ và thế giới tự do gặp đồng bào tị nạn cộng sản, như vậy Việt Nam bây giờ dân chủ hơn Âu Mỹ, tự do hơn thế giới tự do sao? Hỏi tức là trả lời. Chửi như vậy tội nhẹ nhất đối với Cộng Sản là Tru Di Tam Tộc đấy.

Ở Việt Nam hiện nay, ai động đến cái lông chân ông Hồ cũng bị tử hình, khi viết về ông Hồ, chữ "Người" không viết hoa cũng ở tù mục xương. Ôi! tại sao có cái chuyện phi lý như vậy, khi nào thấy chó mọc sừng, lợn biết nói, thì tôi mới tin Cộng Sản Việt Nam đối xử với ông Nguyễn Chí Thiện (tự nhận là tác giả tập thơ Vô Đề nầy) tử tế nhân ái đến như vậy! Chính miệng ông Thiện nói: "Cộng Sản nó thả ông ra không phải vì nhân đạo, chúng làm điều gì cũng có lợi cho chúng", mong quý vị hiểu chữ "lợi" nầy!!!

Từ trước đến nay Cộng Sản tung nhiều chiêu thức, khổ nỗi Cộng Sản và tay sai là hữu tình (tức cố ý), đồng bào thường vô tình nên dễ bị mắc mưu, khi rõ trắng đen chỉ còn kêu Trời, nhưng Trời cao quá đâu có nghe thấu!

Xin kể một vài chuyện điển hình vừa qua:

– Năm 1990, Hiện Tượng Bùi Tín sang Pháp, rồi sau đó sang Mỹ, cả một số triều đình đi đón: Thiệu, Kỳ, Tướng Tá, Bộ Trưởng .v.v... để sau đó Bùi Tín vỗ ngực vẫn là đảng viên Cộng Sản, rồi còn vênh vang viết sách Hoa Xuyên Tuyết, Mặt Thật, tốt hơn nên sửa lại Hoa Cứt Lợn, Mặt Giả mới đúng với tư cách ông Bùi Tín, năm năm trôi qua, giờ đây Bùi Tín hai chữ còn lại vỏn vẹn một chữ "Bùi" buồn hiu!

– Hiện Tượng Anh Hùng Võ Đại Tôn năm 1992, tại Houston cờ xí linh đình đón rước, vạn tuế muôn năm, quyên góp tiền bạc, tam nhật tiệc yến, thất nhật đại yến, nhưng không đầy hai tuần, họ lại đả đảo chửi bới ông ta, nay ông chỉ còn cái bóng mờ, đi không ai đón, về không ai mong!

– Còn nữ tặc Dương Thu Hương, biết bao người mặc áo thụng vái, tôn xưng nhà văn phản kháng, đùng một cái Dương Thu Hương chửi vào mặt người Quốc Gia là lũ Việt gian, quân đội Cộng Hòa là phường đánh thuê, hiếp dâm trộm cướp, đau quá đi thôi! Cộng Sản là bọn đầu trâu mặt ngựa, không tim không óc, cái gì lợi là làm dầu có đạp lên luân thường đạo lý, điển hình là Hồ Chí Minh:

- Thập niên 1920 tại Mạc Tư Khoa, Hồ đã cầm nhầm Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của đồng chí Lê Hồng Phong!

- Thập niên 1930, Hồ cầm nhầm tác phẩm Ngục Trung Nhật Ký mà tác giả là người Trung Hoa bạn đồng tù với ông, thế mà đảng Cộng sản ca tụng tác phẩm Ngục Trung Nhật Ký của Bác Hồ vĩ đại, mãi sau nầy Học Giả Lê Hữu Mục vạch trần, tố cáo với những chứng liệu không thể chối cãi, nếu không có ông Lê Hữu Mục đưa ra ánh sáng, thì "Trung Hoa Ngục Trung Nhật Ký" là của riêng ông Hồ! Đạo tình, đạo văn là cái sở trường của Cộng sản Việt Nam! UNESCO là tổ chức văn hóa quốc tế đã lầm tưởng đề nghị năm 1990 ông Hồ là vĩ nhân quốc tế, rất may nhờ người Việt Quốc Gia vạch trần sự thật nên Hồ Chí Minh biến thành Hồ Ly!

Chúng ta là những người có ăn học, có liêm sỉ, chúng ta phải tìm ra sự thật ai là tác giả tập thơ Vô Đề, để trả lại César cái nào thuộc về César, nó không đơn giản như chúng ta tưởng đâu, nhưng sự thật rồi cũng phải phơi bày, đã đến lúc ông Tôn Hành Giả Thiện phải ra trước quần chúng giảng giải những gì ông gọi là của ông, mong rằng một tổ chức nào có một tầm vóc, nhất là vô tư, tổ chức cho ông Thiện trình bày về 376 bài thơ ngắn dài và trả lời những câu hỏi, thắc mắc, nghi ngờ, ý thơ, lời văn, v.v... như vậy mới sáng tỏ được vấn đề, vì Văn Học là cái gì Tinh Hoa Cao Đẹp, đừng vì tham vọng, tục hèn mà làm hoen ố đi rất có tội với hậu thế, và cũng xin ai kia đừng chửi bới những người có đầy nhiệt tâm đặt câu hỏi: "Nghi Án Văn Chương", tự xưng cầm bút mà chửi người có nhiệt tâm đặt vấn đề với những từ ngữ thô tục thì chỉ có bọn điếm Văn Nghệ mới thường dùng, và cầm đầu điếm Văn Nghệ không ai qua Tố Hữu, tên đao phủ miền Bắc Việt Nam.

Không viết thì mang tiếng với bạn bè, là "mũ ni che tai", vô tích sự loại "Ông Bình Vôi". Còn viết thì thế nào cũng có một số người không ưa, nhưng biết làm sao hơn! Chưa viết thì băn khoăn, viết xong thấy lòng thanh thản như đêm Thu trăng sáng.

Duy Xuyên
Thu 1995

Monday, September 29, 2008

Taste Vietnam - Gởi các bạn du sinh Việt Nam


Hoàng Nguyên


Các bạn du sinh thân mến,

Trong vài ngày tới một số trong các bạn có thể gặp bất lợi, tôi viết thư này để thông báo hầu các bạn có thể tránh được sự bất lợi này.

Được biết, vào đầu năm nay, một số du sinh từ VN đã tổ chức buổi triển lãm Taste Vietnam để quảng bá cho CSVN, tại đại học Standford, Hoa Kỳ. Trong ngày thứ Sáu, 03 tháng 10 sắp tới đây, một buổi Taste Vietnam tương tự sẽ được tổ chức tại Queensland, Úc Châu. Một nguồn tin cho biết buổi triển lãm được sự tài trợ của tòa đại sứ CSVN. Việc chủ đề "Taste Vietnam" được tổ chức tại hai nơi như vậy cũng chứng tỏ rằng đây không phải là một sinh hoạt tự phát mà là một công tác tuyên truyền có hệ thống của CSVN.

Trong khi đồng bào ở VN không có quyền tự do, đặc biệt là quyền tự do ngôn luận, trong khi các cô gái Việt còn phải bán trôn cho đàn ông ngoại quốc để nuôi miệng và nuôi gia đình, trong khi CSVN còn bám víu thế độc tài độc đảng và dân Việt Nam còn lầm than, đồng hương tị nạn CS ở hải ngoại không chấp nhận sự tuyên truyền của nhà nước Việt Cộng. Mọi hình thức tiếp tay với các tổ chức tuyên truyền ở hải ngoại sẽ bị cộng đồng người Việt tị nạn chống đối và bẻ gãy.

Riêng với các bạn du sinh, nhiều bạn ra hải ngoại vừa học, vừa làm việc kiếm thêm tiền. Có lẽ các bạn cũng biết visa của các bạn không phải là visa để sang Úc làm việc. Chúng tôi được biết một nhóm đồng hương quyết tâm ghi nhận rõ các khuôn mặt du sinh tham dự, đặc biệt là các bạn có trong việc tổ chức của Taste Vietnam và sẽ tố cáo với chính quyền Úc nếu các bạn có làm việc kiếm tiền ở Úc. Nếu có xem chương trình "Border Security" trên truyền hình thì các bạn cũng biết những người vi phạm luật di trú như có visa du học mả làm việc kiếm tiền sẽ bị trục xuất khỏi nước Úc. Những người chủ mướn các bạn làm việc cũng bị liên đới trách nhiệm.

Biết được các bạn vừa học vừa làm đang có nguy cơ bị tố cáo, trục xuất, tôi xin thông báo rộng rãi để các bạn tránh tình huống xấu có thể xảy ra đối với bản thân các bạn. Rất mong các bạn suy nghĩ lại xem có nên tiếp tay với Taste Vietnam để chấp nhận nguy hiểm này hay không. Chủ đích của nhóm đồng hương được đề cập bên trên là bẻ gãy hoạt động tuyên truyền của nhà nước CSVN, không phải để hãm hại các bạn. Song le, nếu các bạn cố tình tiếp tay với nhà nước CSVN thì khó trách được người Việt tị nạn có biện pháp thích đáng.

Vài hàng báo cùng các bạn.

Trân trọng,

Hoàng Nguyên

(Kính nhờ quý vị nhận được thư này phổ biến rộng rãi, trước là để các bạn du sinh ở Qld thận trọng, không hợp tác tuyên truyền cho VC, sau là để góp thêm ý đối phó với các buổi tuyên truyền Taste Vietnam, có thể được du sinh nơi khác tổ chức sau này).


Cuốn Sổ Thông Hành


Mai Ly

Đang khi giáo dân Thái Hà trải qua một cuộc bách hại lên cao đến mức khốc liệt nhất thì Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt bị nhà nước CSVN kết án nặng nề vì câu tuyên bố rằng:” Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam (khi đi ra nước ngoài)”. Đây là một đoạn trong cuộc tiếp xúc với Ủy Ban Nhân Dân Hà Nội ngày 20/9/2008. Vì câu nói này, vì thái độ cương quyết không nhượng bộ trước sự độc ác của “đảng cướp” CSVN (tức danh xưng theo linh mục Đinh Xuân Minh tại Đức), Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đang là mục tiêu tấn công của CSVN trong trận chiến một mất một còn giữa lãnh đạo CSVN và người dân Việt Nam.

Vào tháng Tư năm nay, khi đứng xếp hàng để được kiểm soát sổ thông hành trước khi được ra khỏi phi trường đi thăm thành phố Phuket – Thái Lan - vì du khách đông quá nên Tâm có thì giờ quan sát chung quanh.

Những người mũi lõ tóc xanh chẳng làm Tâm mảy may để ý, vì việc đi du lịch, hay đi nước ngoài, của họ là một chuyện quá tầm thường. Chẳng phải kỳ thị gì, nhưng tự động Tâm chỉ quan sát những người mũi tẹt da vàng giống...mình!!. Đây, một nhóm bạn trẻ người Nhật. Họ tung tăng cười nói, vui vẻ, mặt mày sáng sủa, đầy vẻ tự tin. Qua ánh mắt họ, Tâm nhìn được niềm hãnh diện là người dân xứ Phù Tang tân tiến. Kìa, một nhóm cao niên, họ xi xa xi xô tiếng Tàu, thật to giữa đám đông chỉ nói năng rù rì nhỏ nhẹ. À, họ phải là người Tàu, từ Đài Loan hay từ Trung Quốc. Cũng dễ nhận ra thôi, người Tàu ở đâu cũng vậy, hễ ráp vào nhau ở những nơi đông người thường hay tưởng chỉ có .....mình mình nên tha hồ nói lớn. Một cặp tình nhân người Đại Hàn âu yếm, lặng lẽ. Tâm nhìn họ mà thấy cả một tương lai tràn ngập yêu thương, hạnh phúc, cho một gia đình sắp thành tựu với những đứa con đầy đủ sự chăm sóc từ cha mẹ, từ xã hội và từ nhà nước của họ.

Nhìn quanh, từ gần đến xa, Tâm chẳng thấy người Việt đâu cả. Chẳng lạ gì. Người Việt ở nước ngoài thì hay đi chơi các nước Âu Mỹ hơn là cái xứ Thái Lan này. Người Việt trong nước thì có mấy ai có tiền mà đi du lịch sang Thái Lan? Nhưng mà, à, kia rồi, cách Tâm 1 hàng, vừa có một cặp vợ chồng khoảng gần 40 tuổi trông giống giống người Việt vừa mới đến xếp hàng. Đúng rồi! Hai đứa con họ khoảng 4-5 tuổi chạy tới chạy lui chơi đùa và nói tiếng Việt. Tâm dự trù rằng khi được kiểm sổ thông hành của mình xong, được qua bên kia rồi, thì Tâm sẽ chờ hai vợ chồng và hai cháu bé để được ... nói tiếng Việt, bởi vì từ ba tuần nay, đi khắp hai miền Nam Bắc Thái Lan, Tâm chưa thấy một người Việt nào cả. Tâm là dân “ba lô”, sống tại Úc đã hai mươi năm, đang nghỉ phép thường niên, và đang đi xem xem cái nước Thái Lan này nó tiến đến đâu. Tâm nghe ba mẹ kể, Tâm đọc báo chí, xem vi tính, thì thấy mức tiến bộ của Thái Lan hồi 1975 ngang ngửa với Việt Nam Cộng Hòa chứ không tiến một trời một vực như bây giờ nên Tâm cũng muốn biết xem Thái Lan nó tiến đến đâu, và cái tỉnh Phuket này nó vực dậy tới đâu sau trận cuồng phong Tsunami đã cuốn đi hàng trăm ngàn người trong vòng vài giây.

Tới phiên Tâm được xét sổ thông hành, một thủ tục bình thường để nhập cảnh. Ông Thái Lan nhìn sổ thông hành Úc của Tâm rồi nhìn Tâm, vẻ mặt là lạ. Ông hỏi: ”Người Úc hả?” Tâm vui vẻ trả lời: ”Người Úc gốc Việt.” Và ông gật đầu vui vẻ mời Tâm... qua phà, một cách kính cẩn, pha chút trìu mến. Thế là xong.

Sau này, Tâm la cà hỏi những nhân viên trong phi trường và những người dân Thái về ánh mắt là lạ của ông Thái Lan kiểm soát sổ thông hành của Tâm. Họ đều bảo là vì người cầm sổ thông hành Úc thường là người da trắng, tóc vàng tóc nâu chứ đâu có tóc đen mũi tẹt, bởi vì những người Âu Mỹ hay qua Phuket lắm, còn người Á châu mà đến từ Úc thì ... hơi lạ! Nhưng khi được trả lời là: “Người Úc gốc Việt” thì người nhân viên Thái Lan hiểu ngay vì họ biết, họ khâm phục và thèm thuồng được làm người đó.

Họ biết người Việt tại Úc bởi vì: trước đây, hồi cuối thập niên 70 rồi 80, Thái Lan từng là nơi dừng chân của người tỵ nạn Việt Nam, người Thái Lan hiểu rằng trong phần thuế họ đóng, trong các tiền viện trợ mà họ nhận từ nước ngoài, có phần dành cho người tỵ nạn cộng sản đến từ Việt Nam. Người Thái Lan cũng đau lòng vì bọn cướp biển – cũng là những người dân Thái - đã gây bao nhiêu nỗi oan khiên cho người tỵ nạn Việt Nam.

Họ khâm phục người Việt tại Úc là vì những người này đã trải qua bao nhiêu sóng gió trong cuộc đời mà nay họ thành công và đóng góp rất nhiều cho cộng đồng thế giới về đủ mọi mặt. Có người nhân viên Thái còn theo dõi kỹ đến mức nhớ rằng, người Việt tại Úc đã đóng góp nhiều nhất so với các sắc tộc khác tại Úc để giúp đỡ nạn nhân Tsunami. Tâm chẳng xa lạ gì điều này vì lúc đó, bà con Việt Nam tại Úc “bỏ nhỏ” với nhau rằng: Hồi trước người Thái Lan đã giúp mình trên bước đường tỵ nạn, thì nay mình nên trả cái nghĩa nàỵ Thế là bà con Việt Nam ùn ùn đóng góp. Đối với người Thái, điều đó chứng tỏ người Việt tại Úc rất giàu lòng từ tâm và sống rất đạo nghĩa, có trước có sau.

Còn việc có nhiều người Thái thèm được là người Việt tại Úc thì đó là vì họ mong được sống ở Úc, nơi có cuộc sống thoải mái hơn, ít những xáo trộn chính trị, bầu bán đáng tin cậy hơn, nói chung, nền dân chủ ở Úc vững mạnh hơn nên cuộc sống yên ổn hơn ở Thái Lan.

Cuốn sổ thông hành Úc mà Tâm cầm trên tay được người kiểm soát tin tưởng bởi vì từ Úc đến thì chẳng có gì đáng ngại. Sổ thông hành Úc mà lại là người Việt Nam, tức là người Việt định cư tại Úc, thì lại còn làm cho người kiểm soát quý mến hơn, có lẽ vì gần gũi do cái mã dù sao cũng là Á châu cả!!!!

Tâm ngoái cổ lại nhìn cặp vợ chồng người Việt và ngoắc tay họ. Chắc họ chẳng hiểu tai sao cái cậu này lại “dở hơi”, đã “qua phà” rồi còn không đi đi, đứng đó chờ “bọn mình” làm gì. Tâm đoán họ là người từ miền Bắc Việt Nam , qua giọng nói của các em, con họ. Hình như họ đang gặp rắc rối ở cửa ải xét sổ thông hành. Người chồng đang phân bua gì đó với nhân viên, người vợ thì hậm hực. Sau 10 phút vặn vẹo, rốt cuộc thì họ cũng “qua phà”.

Tâm chào họ và bắt chuyện: “Dạ, hai anh chị từ Việt Nam qua hả?”. Anh chồng trả lời: “Vâng, rõ bực với cái bọn này, làm mất bao nhiêu thì giờ!” Chị vợ hùa theo: “Cái lũ này chẳng văn minh tị nào. Ai đời rõ ràng cái hộ chiếu ghi là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mà cứ như là chúng nó không biết đọc không bằng, cứ xoay tới xoay lui, nhìn bọn tôi, hỏi những câu vớ vẩn.” Câu chuyện tiếp nối với chị vợ cứ chửi đổng và anh chồng cứ càm ràm chỉ vì ... mình là người đến từ Việt Nam , cầm sổ thông hành Việt Nam nên bị chận lại.

Sau này, tiếp xúc với những người Thái và những người từ nước ngoài đến Thái Lan, Tâm khám phá ra rằng, sở dĩ có “phân biệt đối xử” đối với người mang sổ thông hành Việt Nam là vì nhiều lý do.

Trước hết Việt Nam là một ổ bệnh tật, nay Sarrs, mai cúm gà, mốt tai xanh tai đỏ, liệu người Việt có mang những bệnh tật này vào nước người ta không.

Người mang sổ thông hành Việt Nam bao nhiêu phen đã bị khám phá ra rằng họ có mang những đồ quốc cấm, từ xì ke ma túy đến giấu diếm tiền bạc để còn mang ra rửa tiền ở nước ngoài.

Người Việt Nam đi từ trong nước ra, cầm sổ thông hành Việt Nam, trừ một số khiêm nhường thuộc diện “người tử tê’ “ còn đa số thuộc những “diện” sau:

- Hoặc là cán bộ nhà nước, tức là những kẻ gian ác, hối lộ, ăn trên ngồi chốc nên mới có tiền đi ra nước ngoài .

- Hoặc là những người có dây mơ rễ má gì với nhà nước nên mới được đi. Mà nhà nước VN thì nổi tiếng tham nhũng, hại dân. Vậy thì người đang cầm sổ thông hành của nước đó có đáng tin cậy không?

- Hoặc là những người ăn nên làm ra trên xương máu của chính đồng bào họ .

- Hoặc là những người được nhà nước cho đi để làm lợi cho nhà nước họ, hay cho cá nhân họ một cách mập mờ đánh lận con đen.

Đối với người nước ngoài, những người cầm sổ thông hành Việt Nam không “bình thường” như những du khách khác thoải mái đi chơi hay đi nghỉ ngơi sau khi đã để dành tiền trong một quá trình làm việc.

Tóm lại, người cầm sổ thông hành Việt Nam , dưới con mắt người kiểm sổ thông hành, cũng như các du khách đang xếp hàng chờ đợi, là một dấu hỏi to lớn cho sự an toàn của người đối diện. Người cầm sổ thông hành Việt Nam đem lại cho người ta sự nghi ngờ, nếu không muốn nói là “khi dể.”

Tại sao? Tại sao? Có phải tại “tự quốc tịch Việt Nam ?” hay tại cái nhà nước cấp sổ thông hành đó, đã đem cái nhục đến cho dân tộc Việt?

Thường thường, người cầm một sổ thông hành thường hãnh diện về cái nước cấp sổ thông hành đó cho họ. Trong dẫy hàng đứng chờ, họ hỏi han nhau từ đâu tới, và đó là đầu câu chuyện để nói về những cái hay cái đẹp của nước mình. Tuy nhiên người cầm sổ thông hành từ Việt Nam không được cái hãnh diện đó. Ngược lại, còn xấu hổ vô cùng.

Nước người ta thì giàu có hiên ngang, nước mình thì nghèo nàn nhược tiểu, cả từ hơn 30 năm hết chiến tranh rồi mà vẫn lẹt đẹt nghèo đói, bệnh tật.

Nước người ta thì tương lai sáng lạn. Nước mình thì tương lai là cả một bầu trời u ám.

Nước người ta thì tiến bộ, nước mình thì ngày càng tụt lùi. Chưa bao giờ người mình thê thảm đến độ bán con đi làm những nghề mất nhân phẩm. Chưa bao giờ một nhà nước lại đi dâng nước dâng biển cho ngoại bang.

Xoè sổ thông hành, người ta thường hãnh diện vì nhà nước của họ biết lo cho dân. Đau yếu thì nơi này có Medicare, nơi khác có giảm tiền thuốc v.v..., còn Việt Nam , nếu không có tiền thì chỉ còn chờ chết.

Chính vì những cái xấu hổ đó, người Việt ra đi từ Việt Nam thường không tham gia những câu chuyện tầm phào bắt đầu từ sổ thông hành.

Cầm sổ thông hành Việt Nam mà cảm thấy buồn tủi.

Cái huy hiệu Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trên sổ thông hành Việt Nam biểu hiệu cho sự “gian manh, lừa gạt.” Người nước ngoài bình thường cảm thấy không thoải mái hay xem nhẹ, mỗi lúc tiếp xúc với người cầm sổ thông hành Việt Nam .

May ra có những người có tâm hồn vị tha, chia sẻ, thì có thể nhìn với cặp mắt khác. Đó là cặp mắt ái ngại, thương cho người Việt Nam đang bị đắm chìm trong sự kềm kẹp của một nhà nước tham nhũng, độc tài, đảng trị.

Câu nói nguyên văn của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt là:

Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng.

Thế nhưng chúng ta không phải chỉ có tình cảm mong muốn là được mà phải có lý luận xây dựng thật là vững chắc trên nền tảng pháp lý.

Một người ở vị trí lãnh đạo một tôn giáo đã can đảm nói như vậy. Lẽ ra nhà nước CSVN phải ghi nhận sự thật này mà làm cho người dân bớt hổ thẹn khi cầm cuốn sổ thông hành Việt Nam chứ. Đằng này nhà nước VN lại còn cố tình cắt xén câu phát biểu của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, làm lệch đi ý câu, từ đó tạo điều kiện cho các báo chí quốc doanh tha hồ bôi nhọ, dọa nạt, lên án Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt. Không những thế, đảng còn chỉ đạo cho bọn côn đồ, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, công an, hành hung, phỉ báng các linh mục và giáo dân.

Hai đứa bé của anh chị cán bộ chơi loanh quanh, chúng hát những câu vè ca ngợi .... bác Hồ!

Tâm thốt lên: Trời ơi, tới giờ này mà trẻ thơ (và người lớn) trong nước vẫn còn bị ru ngủ bởi tên Hitler Việt Nam , tên đồ tể đã gieo bao tai họa cho người Việt Nam cho đến ngày nay sao? Chẳng lẽ đến giờ này mà người dân Việt Nam còn ca ngợi cái đảng cướp đang làm cuộc đời mình khốn đốn sao? Không, trăm lần không, triệu lần không. Người dân Việt Nam đang hận nhà nước CSVN đến ngút ngàn, đang ớn nhà nước CSVN tới tận cổ !!!

Tâm nhìn sổ thông hành Úc của mình, so sánh cách đối xử mà người nước ngoài dành cho mình và cho hai anh chị cán bộ, mà đau lòng. Làm sao để cho người cầm sổ thông hành Việt Nam cũng được tiếp đón vui vẻ như người cầm sổ thông hành Úc, như Tâm?

Chỉ có một cách để hãnh diện khi cầm sổ thông hành Việt Nam, đó là khi trên sổ thông hành đó không có huy hiệu của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nữa, mà chỉ là nổi bật hai chữ “Việt Nam” không mà thôi, hai chữ "Việt Nam" đầy tình nghĩa, không còn dính líu gì đến cái nhà nước, cái đảng đang cầm quyền mà người dân gọi là đảng cướp.

Mai Ly
(28/09/2008)


Ai là tác giả của tác phẩm "Vô Đề"?


Trần Thanh-

Trong thời gian qua đã có nhiều tranh luận về vấn đề Nguyễn Chí Thiện "thật hay giả". Theo ý tôi, những cuộc tranh luận này đã bị lèo lái sang một hướng khác, theo đúng sự mong muốn của bọn việt gian cộng sản và Việt Tân. Nói một cách nôm na, ví von, mục tiêu mà chúng ta nhắm bắn là trái tim của chế độ việt gian cộng sản, nếu bắn trúng, dù chỉ một phát đạn thôi là bọn chúng sẽ chết ngay tức khắc. Thế nhưng vì vô tình hay vụng về, chúng ta đã để cho bọn tay sai việt cộng lái tầm ngắm của chúng ta VÀO BÀN CHÂN CỦA KẺ THÙ MÀ BẮN! Do đó, trong bài viết này, tôi xin phép được xác định lại một cách dứt khoát vấn đề sau đây, cần làm sáng tỏ để đưa những kẻ gian ra trước pháp luật và công luận phán xét:

AI LÀ TÁC GIẢ CỦA TÁC PHẨM VÔ ĐỀ???

Có hai đối tượng có thể trả lời được vấn đề này một cách chính xác, đó là:

1. Bản thân ông Nguyễn Chí Thiện

2. Bọn việt gian cộng sản, hay nói cho cụ thể hơn: sở tình báo của việt cộng ở Hà Nội

Từ khi có nhiều nghi vấn nêu lên về những sự mờ ám bao quanh tập thơ "Vô Đề", ông Thiện đã tảng lờ không trả lời (hay không dám trả lời) Có một vài lần ông đã lên tiếng thách thức cộng đồng rằng: - ông chính là "thứ thiệt" 100%, nếu cần thì đi thử DNA, giữa ông với người anh ruột. Nếu ông ta thắng thì bên thua phải chi trả một trăm ngàn đô la và ông sẽ dùng số tiền này vào việc .... thiện (như cái tên Thiện của ông!)

Tuy nhiên ông Thiện đã đánh trống lãng. Cái mà cộng đồng chúng ta quan tâm nhất chính là nghi vấn: AI LÀ TÁC GIẢ CỦA TÁC PHẨM "VÔ ĐỀ", chớ không phải ông Nguyễn Chí Thiện là người thật hay người giả!

Xin nhắc lại nghi vấn: AI LÀ TÁC GIẢ CỦA TÁC PHẨM "VÔ ĐỀ"??? Đây là điều quan trọng nhất, là điểm mấu chốt, tựa như cái nền nhà. Nếu giải quyết được vấn đề này thì những vấn đề khác sẽ tự động được sáng tỏ.
  • ĐIỂM VỤNG VỀ CỦA CHÚNG TA:
Khi nêu nghi vấn, chúng ta thường nói "ông Nguyễn Chí Thiện này là giả mạo" Ý chúng ta muốn nói rằng ông Thiện không phải là tác giả của tập thơ "Vô Đề" Thế là phe bênh vực cho ông Thiện đã bám vào chuyện này để lái cuộc tranh luận sang một hướng khác có lợi cho họ: "Ông Thiện là con người thật hay giả"! Và họ đã lôi ra một lô một lốc những chứng cứ rất "hùng hồn" như:

- Nhà văn Phan Nhật Nam và một số các nhân vật A,B,C gì gì đó đã từng ở tù chung với ông Thiện, và những người này sẵn sàng ra làm nhân chứng sống! (có nhân chứng sống là thấy có đường tương chao .... "thắng" rồi!)

- Ông Thiện có người anh ruột là cựu trung tá quân lực VNCH đang sống tại Mỹ, sẵn sàng thử DNA với ông Thiện để chứng minh ông Thiện là người em ruột và xác nhận ông Thiện đúng là .... em ruột của mình, đã từng chung sống dưới một mái nhà từ thuở bé!
  • ĐÁNH TRỐNG LÃNG:
Giả sử trong một căn phòng của một công ty, có năm sáu người đang ngồi làm việc với máy điện toán Bỗng nhiên có một mùi hôi thối khủng khiếp xông lên. Mọi người trong phòng ai cũng bịt mũi nhao nhao lên hỏi:

- ĐM, thằng nào địt thúi quá vậy bay?

Và đồng thời mọi cặp mắt lẫn sự nghi ngờ của mọi người đều hướng về một anh chàng tên là X, đang ngồi tại góc phòng. Sở dĩ mọi người nghi ngờ anh này vì mùi thối phát xuất từ hướng đó và thêm nữa anh này lại ngồi im như phỗng, không dám lên tiếng than phiền gì! Những người bạn của anh X bèn chất vấn:

- Ê, thằng X, có phải mày địt thúi không?

Anh chàng X tái mặt nhưng anh ta đã lanh trí đánh trống lãng:

- À, tối nay chương trình ti vi có phim gì hay?

Những người bạn của anh ta tức giận, lập lại câu hỏi:

- Tụi tao đang hỏi mày: có phải mày vừa địt thúi không?

Anh chàng X lại vờ vịt bị "lãng tai" và tiếp tục đánh trống lãng:

- À, có phải tụi mày muốn đề cập đến truyện ngắn "Tiếng địch véo von" của nhà văn Khái Hưng phải không?

Đến lúc này thì những người trong phòng bực bội quá, bèn xúm lại, xắn tay áo, chuẩn bị tẩn cho anh chàng X một trận. Anh này sợ quá, quỳ xuống lạy, nhận "tội" chính anh ta đã .... lỡ dại thả "bom" hơi ngạt!

Đây là chuyện vui nhưng cũng làm cho chúng ta liên tưởng đến ông Nguyễn Chí Thiện. Mùi thối đã xuất phát từ con người của ông ta và bay mùi nồng nặc, do đó cộng đồng chúng ta mới nghi ngờ và nêu nghi vấn. Bản thân ông ta đã đánh trống lãng và những con chó đang bảo vệ ông ta cứ nằng nặc đòi thử DNA hoặc đem những tên tuổi như Phan Nhật Nam, linh mục Nguyễn Hữu Lễ (ở tù chung) ra để làm tấm bình phong, bảo kê và che đậy cho con chồn chín đuôi, sau 14 năm được cộng đồng bơm thổi, nuôi dưỡng, nay đã biến thành yêu tinh!!! Những con chó mực, chó vàng còn nói rằng chủ của chúng nó (ông Thiện) coi khinh những người nêu nghi vấn. Những người này không xứng đáng là đối tượng để ông Thiện đối thoại!

Những con chó mực chó vàng đang bảo vệ cho thằng chủ "thi sỡi" nên nhớ rằng: một mai khi lá bài Nguyễn Chí Thiện bị phơi ra ánh sáng thì lúc đó đảng việt gian cộng sản cũng sẽ bắt mấy con chó để .... làm thịt! Điểu tận cung tàn, hết xôi rồi việc. Đến lúc đó thì nhất mực, nhì vàng, tam khoang, tứ đốm. Mấy con chó sẽ bị lần lượt đem đánh tiết canh, làm chả chìa, rựa mận. Thân phận của mấy con chó săn là như vậy!

Việc chúng ta đang cần biết và yêu cầu ông Nguyễn Chí Thiện trả lời là: AI LÀ TÁC GIẢ CỦA TẬP THƠ "VÔ ĐỀ"?

Đừng có cố ý đánh trống lãng, cứ đem cái bình phong ông anh ruột trung tá ra để làm tấm khiên bảo kê, che chắn. Và cũng đừng có đem mấy ông bạn tù ra để xác nhận mình là Nguyễn Chí Thiện .... thật! Hết đem những bạn tù ra xác nhận thì lại đem ông .... hàng xóm ra xác nhận! Có ông một Hùng nào đó 77 tuổi, là "hàng xóm" của ông Thiện, xác nhận đúng ông Thiện là "thứ thiệt"! Rồi để cho sự xác nhận thêm phần long trọng và nặng ký, ông Hùng này tự nhận mình là "bạn" của nhà báo nổi tiếng Đỗ Tiến Đức! Tất cả những điều nói trên đều chỉ là trò hề bởi vì nó không hề ăn nhậu, không có dính líu gì đến tập thơ "Vô Đề" hết! Điều mà chúng ta cần biết thì không trả lời mà cứ đi nói vòng vo!

Chúng ta không cần quan tâm đến sự việc cách đây khoảng 70 năm, có một đứa bé khóc oa oa chào đời và cha mẹ thằng bé đã đặt tên cho nó là Nguyễn Chí Thiện, với mong muốn là khi lớn lên, nó sẽ là người lương thiện, không đạo văn, đạo thơ, đạo nhạc hay đạo chích! Rồi đứa bé ấy lớn lên, bị đi tù và trở thành .... thi sĩ! Đứa bé ấy là có thật. Nó đang tồn tại dưới ánh sáng mặt trời, cũng như những điều mà nó đang cố tìm cách che dấu cũng đang tồn tại dưới ánh sáng mặt trời. Ngạn ngữ Tây phương có nói rằng "Không có gì có thể che dấu được dưới ánh sáng mặt trời" Cây kim ở trong bọc có ngày sẽ phải lòi ra.

Nếu như ông Thiện dám ưỡn ngực nói công khai trước công luận rằng: - Toàn dân nghe đây,tôi, Nguyễn Chí Thiện, hôm nay ngày ... tháng ... năm ... lúc mấy giờ mấy phút mấy giây, long trọng tuyên bố cùng toàn thể người Việt trong và ngoài nước và cả thế giới rằng: Chính TÔI là tác giả của tác phẩm "Vô Đề". Chính tôi đã sáng tác ra tác phẩm đó đấy! Nếu ai không đồng ý thì tôi sẵn sàng mở diễn đàn tranh luận như ông Trần Mạnh Quỳnh mở diễn đàn vừa rồi! Ai dám đối luận hay tranh luận với tôi???

Nếu như vậy thì có lẽ vấn đề sẽ được giải quyết nhanh gọn!
  • ĐEM KIẾNG CHIẾU YÊU SOI CON CHỒN TINH:
Từ năm 1945 đến nay, chúng ta đã bị việt cộng lừa bịp quá nhiều. Ở ngoài bắc thì có các vụ án văn học như :

- Nhật ký trong tù (Hồ tặc ăn cắp thơ của người khác)
- Kể chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch (tác giả là Trần Dân Tiên)
- Vừa đi đường vừa kể chuyện (tác giả là T. Lan)

Ba vụ án văn học trên đã bị đồng bào ta phá vỡ. Thủ phạm chính là tên Hồ tặc đã ăn cắp thơ của người khác và dùng ống đu đủ để thổi cho chính mình, qua hai bút hiệu là Trần Dân Tiên và T. Lan.

Riêng trong miền Nam, từ năm 1954 đến 1975, chúng ta cũng bị việt cộng lừa bịp nhiều vố đau. Nhiều tên điệp viên của việt cộng đã chui sâu, luồn cao lên tới chính quyền trung ương của chính phủ VNCH, làm tới chức cố vấn chính trị cho tổng thống! Ví dụ như:

- Tên Phạm Xuân Ẩn, với lớp vỏ bọc phóng viên của tờ báo Time, chuyên cung cấp những tin tình báo cho việt cộng.
- Tên Vũ Ngọc Nhạ, làm cố vấn chính trị cho Phủ tổng thống, dưới thời đệ nhất và đệ nhị cộng hòa.
- Tên chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, giữ chức Tổng tham mưu trưởng lúc Dương Văn Minh lên làm tổng thống được hai ngày!
- Và các tên điệp viên nổi tiếng khác trong đường giây của Vũ Ngọc Nhạ như: - Huỳnh văn Trọng, Lê Hữu Thúy, Nguyễn Xuân Hòe, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Đồng, bà Cả Nhiễm. Tuy nhiên, những tên này cùng Vũ Ngọc Nhạ đã bị CIA và tình báo của VNCH khám phá, bị bắt và đưa ra tòa hồi tháng 11 năm 1969. Toàn bộ bọn chúng bị đày đi Côn Đảo. Sau năm 1975, con cháu của những tên điệp viên việt cộng này đã di tản hoặc vượt biên sang Mỹ. Hiện nay, nối nghiệp cha, thế hệ việt cộng con này đang tiếp tục hoạt động trong các cộng đồng của người Việt tại hải ngoại!

Trong vòng vài chục năm trở lại đây, một nghi án văn học có thể được xem như lớn nhất từ trước đến nay, đó là nghi án về tập thơ "Vô Đề" Theo sự nghi vấn, tên ăn cắp vẫn đang sống một cách ung dung, nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, vừa có tiếng vừa có miếng, lại vừa là "thầy" của một số kẻ ngu dốt đang đội hắn trên đầu để thờ!!! Trong khi đó thì người thi sĩ anh hùng, một người Việt Nam yêu nước hết sức nhiệt thành và bằng cả trái tim, người đã đem hết tinh huyết của mình để dệt nên những vần thơ tuyệt tác, đã bị việt cộng giết chết một cách oan ức, tức tưởi, thân xác đã bị vùi ở một nơi nào đó trong lòng đất lạnh, không quan tài, không huyệt mộ!

Nếu như ở hải ngoại, hàng chục ngàn người đã biểu tình để bày tỏ sự hiệp thông với các giáo dân thuộc giáo xứ Thái Hà để ĐÒI CÔNG LÝ thì chúng ta cũng nên ĐÒI CÔNG LÝ CHO NGHI ÁN TẬP THƠ VÔ ĐỀ VÀ ĐÒI CÔNG LÝ CHO TÁC GIẢ VÔ DANH ĐÃ BỊ VIỆT CỘNG GIẾT CHẾT!

Nghi án này chính là DANH DỰ CỦA CẢ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT CHỐNG CỘNG Ở TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC. Nhất định chúng ta phải làm sáng tỏ nghi án này. Không thể chấp nhận một thằng việt cộng đang ngồi trên đầu chúng ta, làm "thầy" chúng ta, khuyên chúng ta nên chống cộng theo kiểu này, kiểu nọ! (Toàn là những lời khuyên bố láo, ví dụ như hắn đã khuyên chúng ta nên kiên nhẫn ngồi chờ một ông Goóc Ba Chớp Việt Nam xuất hiện để thực hiện một cuộc cách mạng nhung! Đây chính là thế võ "câu giờ" và trò đánh lạc hướng của bọn việt gian cộng sản!) Việt cộng chúng nó lại tiếp tục "play game", chơi cái trò "vũ-ngọc-nhạ, phạm-xuân-ẩn! Vẫn bổn cũ soạn lại, thấy cái trò hồi trước năm 1975 bọn chúng đã đánh lừa được cả hai chế độ VNCH thì bây giờ bọn chúng lại áp dụng để đánh lừa cộng đồng người Việt tại hải ngoại!

Riêng trong bài viết này - nghi án văn học và chính trị liên quan đến Nguyễn Chí Thiện- tôi chỉ nêu ra một điểm quan trọng mà theo tôi đó là lý do vì sao tôi tin rằng:

* Ông Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả của tập thơ "Vô Đề" ===> Người anh hùng Vô Danh, tác giả thật sự của "Vô Đề" đã bị việt cộng giết chết.

Bây giờ tôi xin đi vào vấn đề:

* Ông Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả của tập thơ "Vô Đề"

Điểm này có ba phần:

A. Lời tuyên bố "không làm thơ nữa, chuyển sang viết văn"
B. Viết văn dễ hơn làm thơ
C. So sánh một vài đoạn thơ của "Vô Đề" và Hạt Máu Thơ

Những sự kiện:

Khi ông Thiện vừa mới bước chân sang Mỹ năm 1995, thì ông đã được đồng bào công kênh lên, hoan hô vang dội, đội lên đầu ông nhiều vòng nguyệt quế và đủ loại các vòng hoa, xem ông như một vị anh hùng vừa mới trở về từ ngục tù cộng sản. Rất nhiều người đến làm quen, tay bắt mặt mừng với người "thi sĩ" thiên tài. Sở dĩ ông Thiện được đồng bào chào đón quá sức nồng nhiệt là nhờ cái vòng hào quang "Vô Đề" trên đầu ông nó tỏa sáng quá! Nếu không có cái vòng hào quang "Vô Đề" thì bất quá ông Thiện cũng chỉ là một người tù "chính trị" bình thường, bởi lẽ số tù nhân chính trị bị việt cộng giam cầm trên 15 năm không phải là ít, còn số người bị giam từ 10 năm trở lên thì nhiều lắm, hầu như ở cộng đồng nào cũng có vài chục người. Và nếu "vốn liếng" của ông Thiện chỉ là 28 năm ở tù thì cuộc đời của ông sẽ bị chìm vào quên lãng ở hải ngoại một cách buồn tẻ. Ông sẽ phải đi rửa chén và chùi cầu tiêu trong các tiệm phở cho đến chết mà không được một ai ca ngợi ông như ông thánh. Thế nhưng nhờ cái vòng hào quang "Vô Đề" mà ông đã trở thành một vị bồ tát hoặc thánh sống. Ông đã được lãnh nhiều giải thưởng văn học, chẳng hạn như giải Thơ Quốc Tế Rotterdam (Rotterdam International Poetry Prize) hồi năm 1985. Đó là chưa kể nhiều giải thưởng quốc tế khác, biến ông thành con người quốc tế và ông đã đi chu du khắp năm châu mệt nghỉ, chỉ chuyên thuyết trình về "nghệ thuật chống cộng" cho người Việt ở hải ngoại nghe chơi cho biết! Ông không bao giờ phải lo lắng về vấn đề tài chánh vì đã có những kẻ điếu đóm, mượn đỡ cái "hào quang" mà ông đã "làm việc trên 20 năm" ra để kinh doanh chính trị và nghệ thuật!

Đó là chưa kể hồi năm 2001, đã có nhà báo Mỹ tên là Michael Lind viết bài ca ngợi ông Thiện, ví ông như đại văn hào Nga Xô Solzhenitsyn, qua bài viết mang tựa đề "The Solzhenitsyn of VietNam"! Chúng ta ai cũng biết nhà văn Solzhenitsyn là tác giả của tác phẩm lừng danh "Quần Đảo Ngục Tù" (in tại Sài Gòn năm 1974 do Ngọc Thứ Lang dịch) Đấy, cái vòng hào quang "Vô Đề" cộng thêm sự nông nỗi, hấp tấp của cộng đồng và cái đám con buôn, lưu manh chính trị của mặt trận Hoàng Cơ Minh đã thổi và đưa ông Thiện lên tuốt chín tầng mây xanh. Bây giờ, giả sử khi đã khám phá ra sự thật thì việc kéo ông ta xuống không phải là dễ dàng!

Phải chính xác mà nói, tất cả là nhờ cái hào quang "Vô Đề" chớ nếu chỉ xét vào cái tập truyện "Hỏa Lò" và tập "Hạt Máu Thơ" thì còn khuya ông Thiện mới được ca ngợi và xếp ngang hàng với đại văn hào Nga Xô! Không khéo lại bị phản ứng ngược!

Quý vị thử tưởng tượng xem: một người tù đã dám dùng thi ca để chửi thằng Hồ còn hơn chửi chó và đồng thời ông ta còn chửi rủa, mạt sát luôn cả cái chế độ cộng sản vô nhân đạo nhất thế giới, bỗng nhiên sờ sờ xuất hiện bằng xương bằng thịt trước nhiều cộng đồng người Việt tại hải ngoại! Từ trước đến giờ, sau khi đọc xong tập thơ "Vô Đề", ai ai cũng suýt xoa: sao thơ đấu tranh hay thế, nhiều bài, nhiều câu rất thấm thía, xen lẫn sự châm biếm hài hước một cách chua chát. Ai cũng mong ước có một ngày nào mình được diện kiến người thi sĩ tài ba, bằng xương bằng thịt ấy và xin được một chữ ký để làm kỷ niệm thì còn gì quý hóa bằng!

Và thật là "may mắn", bắt mạch được nhu cầu khao khát thần tượng của người Việt tại hải ngoại nên sở tình báo Yết Kiêu của việt cộng đã nặn ra con bài Nguyễn Chí Thiện, sau MƯỜI LĂM NĂM DÀI công phu dàn cảnh, chuẩn bị về mọi mặt.

Cuộc hội ngộ tại Mỹ rất cảm động nhưng đồng thời cũng chứa đựng những oái oăm bởi vì sau nhiều màn chào đón hết sức tưng bừng, rộn rã thì có một vài người hâm mộ thơ của "thi sĩ", đã đến đề nghị với ông Thiện:

- Thưa anh, nhân dịp anh vừa đặt chân đến vùng đất tự do, xin anh sáng tác cho một bài thơ để đánh dấu biến cố lịch sử này. Chúng tôi sẽ cho đăng ngay trên các tờ báo và phổ biến rộng rãi trên truyền thanh, truyền hình và internet.

Nghe nói đến "sáng tác thơ", ông Thiện hơi tái mặt, thế là ông xối luôn một thùng nước lạnh lên đầu những người hâm mộ:

- Cám ơn các anh. Nhờ ơn bác và đảng, à quên, xin lỗi, nhờ sự can thiệp của thế giới mà hôm nay tôi đã đến được vùng đất tự do. Tuy nhiên, xin thưa với các anh như thế này: - tôi đã quyết định ngưng làm thơ! Vì lý do sức khỏe, hơn nữa tuổi tác đã lớn không làm thơ được nữa!

Những người hâm mộ thơ của ông Thiện tỏ vẻ rất sửng sốt và nuối tiếc:

- Ồ, sao thế! Thật tiếc quá! Chúng tôi đang mong ước được thưởng thức tác phẩm mới nhất của thi sĩ! Chúng tôi chờ đợi mòn mỏi đã bao nhiêu năm nay!

Thi sĩ cười nhẹ, an ủi:

- Nói thế thôi, quý vị đừng có lo! Tôi ngưng làm thơ là để chuyển sang viết văn. Làm thơ mình chỉ nói lên vấn đề một cách hạn chế còn viết văn thì chúng ta có thể diễn tả sự việc một cách thoải mái. Tôi đang ấp ủ một đề tài lớn. Có lẽ sắp tới tôi sẽ bay sang Pháp để nhờ .... à quên, để sống ở một nơi yên tĩnh để viết về đề tài "Hỏa Lò"!
  • NHẬN XÉT:
A. Ngưng làm thơ vì không còn hứng, vì sức khỏe và vì tuổi già
B. Viết văn dễ hơn làm thơ
C. So sánh một vài đoạn thơ của "Vô Đề" và Hạt Máu Thơ
  • A. Ngưng làm thơ vì không còn hứng, vì sức khỏe và vì tuổi già
Thi sĩ Vô Danh là một nhà ái quốc. Qua các bài thơ do ông sáng tác, chúng ta thấy toát lên những điểm sau đây rất rõ nét:

- yêu quê hương, dân tộc
- căm thù bọn việt gian cộng sản đến tận xương tủy
- quyết tâm đấu tranh chống cộng đến cùng, nhằm lật đổ chế độ cộng sản, cho dù có phải hy sinh tính mạng và nhất là không bao giờ chịu đầu hàng giặc cộng.

Trước hết thi sĩ Vô Danh là một nhà ái quốc. Thứ đến, ông là người có tài năng xuất chúng về thơ. Ông mượn thơ để làm vũ khí sắc bén, thể hiện tấm lòng yêu nước của mình, đấu tranh chống lại kẻ thù. Thơ ví như con thuyền đã chuyên chở những tư tưởng và ý chí của ông đến với toàn dân và vượt biên giới đi ra thế giới bên ngoài, tố cáo tội ác của cộng sản cho toàn thế giới biết.

Thi sĩ Vô Danh làm thơ vì ngọn lửa yêu nước thương nòi luôn luôn bừng cháy, sôi sục trong tim gan ông. Và đã là NHÀ ÁI QUỐC CHÂN CHÍNH thì ngọn lửa ấy sẽ không bao giờ suy tàn, trừ khi giã biệt cõi đời. Một điểm quan trọng khác: thi sĩ là một tài năng thi văn xuất chúng, đã làm được nhiều bài thơ hay, xuất thần, được nhiều người hâm mộ. Như vậy, đang đạt đến đỉnh cao nghệ thuật thì cớ sao lại tuyên bố không làm thơ nữa? (như ông Thiện đã tuyên bố)

Đã là người ái quốc chân chính thì lúc nào cũng cảm thấy yêu nước, muốn đấu tranh cho quê hương được thanh bình, độc lập. Và khi quê hương đã được tự do thì người yêu nước sẽ tiếp tục đấu tranh xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Cũng ví như một người đàn ông nói rằng ông ta rất thương vợ thì cái tình thương ấy phải luôn luôn được duy trì. Không thể yêu nước hay yêu vợ tùy theo "hứng". Nếu yêu nước tùy theo "hứng" thì có khác gì kiểu yêu nước của ông nhạc sĩ Phạm Duy: trước năm 1975, ông ta "hứng yêu nước" nên đã sáng tác nhiều bài hát chống cộng nhưng đến sau năm 2000 thì ông ta "hết hứng", bèn bỏ về Việt Nam đầu hàng việt cộng!!!

Nếu ông Nguyễn Chí Thiện là người yêu nước chân chính thì cho dù đi bất cứ nơi đâu, bất cứ chân trời góc bể nào, tấm lòng của ông vẫn luôn hướng về quê hương, tiếp tục sáng tác những câu thơ rừng rực lửa đấu tranh để góp phần làm sập đổ cái chế độ bạo tàn, hung ác. Đằng này, khi ông vừa mới đặt chân lên đất Mỹ thì tự nhiên cái THI HỨNG = LÒNG ÁI QUỐC của ông nó biến mất. Sao lạ quá? Đó là lý do vì sao nhiều người đã đặt nghi vấn: - có lẽ ông Thiện không biết làm thơ hoặc là thi sĩ dỏm! Khi những người hâm mộ đến xin ông một vài sáng tác mới thì ông đã chối bai bải là không làm thơ nữa! Như vậy thử hỏi thiên hạ không nghi ngờ sao được?

Ông Thiện viện lý do tuổi già và sức khỏe yếu nên không làm thơ nữa thì điều này cũng vô lý. Có thể nói những năng khiếu về nghệ thuật như thi, văn, nhạc, họa, vừa là những món quà của thượng đế và cũng chính là CÁI NGHIỆP đeo đẳng thân phận của người nghệ sĩ, không bao giờ dứt bỏ được. Một người đã sáng tác nổi tiếng, như con tằm nhả tơ thì người đó sẽ tiếp tục sáng tác mãi, cho dù già yếu hay bệnh hoạn. Bởi vì không sáng tác thì nhớ nghệ thuật không chịu được, tựa như người nghệ sĩ nhớ sân khấu. Vậy thì khi ông Thiện đến nước Mỹ năm 1995, ông mới có 56 tuổi, sao có thể gọi đó là tuổi già? Có nhiều thi sĩ ngoài 80 tuổi vẫn còn sáng tác rất hăng say! Còn nếu sức khỏe của ông Thiện yếu thì không thể tin được. Ở lứa tuổi 56, mặc dù đã từng bị ở tù 28 năm(?) nhưng ông vẫn còn rất khỏe mạnh. Điều này chúng ta có thể thấy được qua giọng nói và tướng đi đứng của ông, nhất là ông đã từng diễn thuyết, nói liên tục hơn ba tiếng đồng hồ! Có người còn nói đùa rằng nếu cưới hai bà vợ cùng một lúc, ông cũng thừa sức khỏe để "take care"!

Do đó, mọi người đã nghi vấn rằng:

- Tập thơ "Vô Đề" đã quá nổi tiếng, trình độ nghệ thuật quá cao cho nên ông Thiện, khi sang Mỹ, không dám làm thơ nữa vì sợ bị lộ cái chân tướng .... ăn cắp và thi sĩ dỏm của mình ra! Tác phẩm "Hạt Máu Thơ" của ông nếu đem so với "Vô Đề" thì chẳng khác gì đem con cú ra so sánh với con công!

- Nếu là một người thực sự có tài, hữu xạ tự nhiên hương thì cho dù ở bất cứ không gian, thời gian nào tài năng của họ vẫn tỏa sáng. Nhà văn Kim Dung đã sáng tác hơn mười pho truyện chưởng mà bộ nào cũng hay, cũng xuất sắc, bộ sau hay hơn bộ trước. Nhạc sĩ Lam Phương khi ra hải ngoại vẫn tiếp tục sáng tác và nhạc của ông vẫn hay, vẫn nổi tiếng không thua gì hồi còn ở trong nước.

Thế thì tại sao "nhà thơ" Nguyễn Chí Thiện lại rửa tay gác bút trong khi thi tài đang đi lên đỉnh cao nghệ thuật? Mười bốn năm đã trôi qua, ông không làm được một bài thơ nào cho ra hồn mà chỉ toàn là những rác-thơ! Tại sao???
  • B. Viết văn dễ hơn làm thơ?
Ông Thiện nói rằng không làm thơ nữa mà chuyển sang viết văn để diễn tả được nhiều hơn.

Tôi không đồng ý với quan niệm này. Theo sự nhận xét của tôi thì nghệ thuật của thơ khó hơn viết văn rất nhiều. Cái hay của thơ là ở chỗ:

- Dùng thật ít chữ mà diễn tả được thật nhiều ý tưởng
- Đôi khi một bài thơ còn chuyên chở được cả một tư tưởng nào đó
- Thơ có nhạc điệu, có vần nên dễ nhớ
- Thơ có một số quy tắc nhất định như luật bằng trắc, niêm luật, gieo vần thơ
- Kể cả thơ tự do là nghệ thuật tự do, phóng túng, không bị chi phối bởi luật thơ nhưng nó vẫn có cái hay tự nhiên của nó mà không ai giống ai và nhất là những chữ dùng thường là những sáng tạo độc đáo, sự chắt lọc những tinh hoa của ngôn ngữ.

Ta có thể ví những bài thơ của thi sĩ Vô Danh làm tựa như những con chip điện tử, có sức chứa rất lớn, được thâu gọn lại trong một chiếc máy điện toán lap-top tí hon, có thể bỏ trong túi quần. Tuy nhỏ gọn như vậy nhưng khi ta khai triển những bài thơ đó ra thì nó trở thành một thư viện khổng lồ, tố cáo tội ác của cộng sản và nói lên tấm lòng khát khao tự do của một con chim đại bàng đang bị giam hãm trong ngục tù.

Cái hay của thi sĩ Vô Danh là ở chỗ đó.

Xin đưa ra một ví dụ về bài thơ "VÌ ẤU TRĨ", tác giả sáng tác năm 1975:

Vì ấu trĩ, thờ ơ, u tối
Vì muốn an thân,vì tiếc máu xương
Cả nước đã quay về một mối
Một mối hận thù, một mối đau thương ...

Chỉ vỏn vẹn có 30 chữ gói gọn trong bốn câu thơ mà tác giả đã vẽ lên được một bức tranh tổng thể về tình hình chống cộng sản từ năm 1945, kéo dài cho đến nay vẫn còn đúng. Tác giả đã liệt kê ra những hạng người sau:

- ấu trĩ = khờ dại ---> (ví dụ như đi du lịch Việt Nam)
- thờ ơ = ích kỷ ---> (ví dụ như không yểm trợ các cuộc đấu tranh chống cộng, chỉ lo ăn chơi)
- u tối = ngu dốt --->(ví dụ như đội những thằng giặc như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Hoàng Minh Chính lên đầu, tôn thờ nó là "thầy", đem tiền cúng cho bọn công an đầu trọc và bầy quạ đen mang thánh giá)
- an thân = hèn nhát ---> (vừa chống cộng vừa run, gọi bọn chúng nó là "ngài", ông "chủ tịch, ông "tổng bí thư", ông "thủ tướng"!)
- tiếc máu xương = chống cộng nửa vời, hy sinh có tính toán ---> (chống cộng nhưng không muốn cho cộng sản bị sụp đổ, sợ bị mất "job" chống cộng!)

Nhưng CUỐI CÙNG THÌ TẤT CẢ CÙNG ĐỒNG LÒNG:

. cả nước (80 triệu dân) đã quay về một mối
một mối hận thù một mối đau thương

Theo ý tác giả, cả nước cùng hận thù là để tiêu diệt cái ác, lật đổ chế độ cộng sản chớ không phải hận thù để rồi ngồi trong bóng đêm than khóc, cầu xin thượng đế hoặc lạy van lũ giặc cướp, xin-cho được nới sợi giây thừng đang xiết cổ để người dân được dễ thở hơn một chút!

Hai câu trích khác:

Hạnh phúc, niềm mơ, nhân phẩm, luân thường
Đảng tới là tan nát cả! (14 chữ)

Nếu có một người ngoại quốc nào hỏi chế độ cộng sản Việt Nam là gì thì chúng ta chỉ cần đọc hai câu thơ nói trên là diễn tả đầy đủ cái bản chất của cái chế độ ấy, không cần phải dài dòng văn tự, trích dẫn hàng trăm pho sách hoặc thuyết trình vài chục tiếng đồng hồ! Tội ác của bọn việt gian cộng sản có nói hàng trăm năm cũng không hết!

Ngay cả niềm mơ như nằm mơ được ăn một tô phở cũng không có, đừng có nói gì những thực tế trong cuộc sống!
Nhân phẩm? ---> đã bị biến thành CẨU PHẨN! ("phẩn" chớ không phải là "phẩm")
Luân thường? ---> tự mọi người đã biết quá rõ rồi, không cần nói thêm nữa!

Hai câu trích cuối bài:

Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tan
Ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn!

Khi miền Nam bị mất vào tay giặc, toàn dân miền Nam đau đớn, uất ức nhưng nếu đem so với sự đau đớn, uất ức của đồng bào miền bắc và của thi sĩ Vô Danh thì sự đau đớn ấy phải nhân lên hàng triệu lần!

Sự đau đớn nó đã thấm vào từng tế bào và giằng xé tác giả trong từng giây phút, trong từng hơi thở trong đời sống. (sống TRỌN) Nhiều đồng bào miền Bắc đã đặt hết hy vọng vào cuộc chiến chống cộng của miền Nam, mong rằng một ngày đó bọn cộng sản sẽ bị tiêu diệt để đem lại tự do cho cả nước, nhưng khi miền Nam bị sụp đổ thì họ đã quá tuyệt vọng, nhiều người đã tự sát! Tác giả Vô Danh cũng gần như bị phát điên lên vì sự kiện này!

Như vậy ta thấy rằng thơ là sự chắt lọc ngôn ngữ, rút tỉa những tinh hoa của ngôn ngữ và sắp đặt lại sao cho thành những ý tưởng, tư tưởng, làm rung động tâm hồn người đọc. Đọc một bài thơ mà tâm hồn người đọc bị rung động thì đó là bài thơ thành công. Ngược lại những bài thơ "chợt nghe vần thắng vút lên cao" như của "bác" Hồ thì đúng là một sự lăng nhục tiếng mẹ đẻ!

Nghệ thuật của thơ không cần dài dòng. Chẳng hạn như chỉ cần bốn câu thơ thất ngôn là người ta có thể diễn tả được một cách đầy đủ một tô phở, món ăn quốc hồn quốc túy của người Việt. Trong khi đó, nếu viết văn để diễn tả thì người viết phải mất vài trang giấy mà chưa chắc gì đã diễn tả được hết món phở truyền thống! Đó là chưa kể người làm thơ có thể dùng những nghệ thuật cao hơn, sáng tác một bài thơ với nghĩa đen và nghĩa bóng hoặc thơ đọc xuôi đọc ngược gì nó cũng có ý nghĩa!

Tóm lại, tập thơ Vô Đề đã đạt đến đỉnh cao nghệ thuật thì nếu ông Nguyễn Chí Thiện thật sự là tác giả thì ông phải tiếp tục thăng hoa nghệ thuật chớ tại sao lại chuyển sang một hình thức thấp hơn là viết văn? Ví dụ như một người thường dùng phương tiện máy bay để đi từ Sài Gòn ra Hà Nội thì bỗng nhiên từ bỏ phương tiện máy bay để chuyển sang phương tiện ĐI XE BÒ thì biết chừng nào cho tới? Sao lạ thế??? Thiên hạ nghi ngờ là phải!!!
  • C. SO SÁNH MỘT VÀI ĐOẠN THƠ CỦA "VÔ ĐỀ" và HẠT MÁU THƠ:
Thơ của thi sĩ Vô Danh có nhiều điểm độc đáo. Một trong những điểm độc đáo của ông ta là sự khôi hài, châm biếm. Trong phạm vi bài này tôi chỉ đề cập một điểm này thôi:

* Sự châm biếm cay độc:
...........
Lũ mặt người dạ thú xông ra
Khiến đồng xa nơi mấp mô mồ mả
Các hồn ma cũng hả vong linh
Vì thấy địa ngục của mình
Còn ít nhục hình hơn dương thế!
(Đồng Lầy - 1972)

Theo ý tác giả chẳng thà sống dưới địa ngục còn sướng hơn sống trong cái chế độ của bọn việt gian cộng sản!

Sẵn đây tôi có một nhận xét về bài thơ Đồng Lầy: bài thơ này dài 12 trang rưỡi, in khổ sách 13 x 20 cm, tổng cộng khoảng 500 câu thơ. Tôi tin rằng nếu như bây giờ chúng ta yêu cầu ông Thiện đọc lại bài thơ này, chắc chắn ông ta không thể nào nhớ được hết, cho dù nó chính là "con đẻ" do chính ông sáng tác! Nếu có chép lại bài thơ này, vừa lục trí nhớ vừa chép thì cũng phải mất tối thiểu một ngày. Vậy mà ông Thiện đã kể rằng, chỉ trong ba ngày nằm trên căn gác xép, ông đã NHỚ LẠI và chép lại được 400 bài thơ, kể cả những ghi chú các bài thơ đó được sáng tác từ những năm nào!!!

Nếu những lời nói dóc của ông Thiện là sự thật thì ông ta đúng là một siêu nhân, hơn cả máy tính điện tử, làm việc 24 trên 24, không cần ăn uống, ngủ, đái ỉa, để chép lại 400 bài thơ!!! Hay là thời gian chép lại là BA THÁNG mà ông nói lộn là BA NGÀY? (vừa chép vừa có trà ngon, kẹo ngon, thuốc lá ngon do đảng và nhà nước bồi dưỡng? )

------------------
Cuộc đời tôi có nhiều nhầm lẫn
Lầm nơi, lầm lúc, lầm người
Nhưng cái lầm to, uổng phí cả đời
Là ĐÃ NGỐC NGHE VÀ TIN CỘNG SẢN!
(Mỗi lầm lỡ - 1963)
-------------------

Là quỷ?

Là quỷ? Là ma? Là thú dữ?
Gian manh, tàn ác, đê hèn
Lũ cưỡi đầu, bóp cổ dân đen
Để gọi chúng, TIẾNG NGƯỜI KHÔNG ĐỦ CHỮ!
Và cũng khó tìm trong ngôn ngữ
Chữ gì diễn đạt nguyên si
Kiếp sống lầm than, đầy ải, đen sì
NGOÀI CÁI CHẾT KHÔNG CÒN ĐÂU LỐI THOÁT!
(1969)

-------------------------

Thơ của tôi là những gì kinh khủng
Như Đảng, Đoàn, như lãnh tụ, như trung ương
Thơ của tôi kém phần tưởng tượng
Nó thật như tù, như đói, như đau thương
Thơ của tôi chỉ để đám dân thường
NHÌN THẤU SUỐT TIM ĐEN LOÀI QUỶ ĐỎ
(1975)

Qua bài thơ này ta thấy rằng, tác giả đã nói rất rõ: ông ta mượn thơ làm vũ khí, làm phương tiện để đấu tranh. Ngọn lửa ái quốc của ông ta luôn luôn bừng cháy và nó được thể hiện qua thơ. Do đó, vấn đề làm thơ để giải trí hoặc nói là khi qua Mỹ thì "hết thi hứng" chỉ là sự ngụy biện của những kẻ gian không chính nghĩa!

-------------------------

ĐẢNG

Đảng dìu dắt thiếu nhi thành trộm cướp
Giải phóng đàn bà thành đĩ thành trâu
-------------------
ĐẢNG THỰC CHẤT CHỈ LÀ ĐẢNG CƯỚP
Dựng triều đình mộng muội giữa Văn minh
Sống TẠM THỜI nhờ thủ đoạn yêu tinh
Nhờ súng đạn Tàu Nga bắt bớ
ĐẢNG TẮT THỞ CUỘC ĐỜI MỚI THỞ
ĐẢNG CÒN KIA BÁC PHỞ HÓA THÀNH MƠ!
(1973)

Qua hai câu thơ trên chúng ta thấy ý của tác giả là quyết tâm tranh đấu để xóa bỏ hẳn cái chế độ việt gian cộng sản chớ không phải là canh tân hay hòa hợp, hòa giải! Phải giết chết con ác quỷ thì mới cứu được muôn dân!

Khi nào được gặp lại anh
Sẽ kể anh nghe nhiều về chuyện sắn
----------------
CHẾ ĐỘ TA, KHOAI SẮN MỘT ĐỀ TÀI
CŨNG BẤT DIỆT NHƯ ĐỀ TÀI TRAI GÁI!
( Khi nào được gặp - 1967)

Đọc hai câu thơ nói trên, chúng ta có thể phụ họa thêm:

Chế độ ta ĂN CƯỚP/THAM NHŨNG/CƯỚP ĐẤT một đề tài
Cũng bất diệt như đề tài trai gái!!!

---------------------------

Lý tưởng, quang vinh, mộng tình, lẽ sống
Chuyện trên trời, dưới biển xa xôi!
THÚ THẬT LÀ DÂN ĐÓI CHÚNG TÔI
CHỈ MƠ ƯỚC ĐƯỢC NO BẰNG CON VẬT!
(Lý tưởng - 1971)

Những người nào đã bị sống trong các trại tù của cộng sản, đọc và hiểu liền, thấm thía liền hai câu thơ này!

Miếng thịt lợn

Miếng thịt lợn chao ôi là vĩ đại
Miếng thịt bò lại vĩ đại bằng hai
Chanh, chuối, cam, đường, lạc, đỗ, gạo, khoai
tất cả những gì người có thể nhai
Đảng mó tới tự nhiên thành vĩ đại!
Chuyện có thực mà tưởng như thần thoại
Mà tưởng như ác mộng bi ai!
(1974)

Những cái hết sức tầm thường và tầm thường tới mức ở hải ngoại có nhiều người vào tiệm phở chỉ dám kêu một tô phở "đừng bỏ thịt", đừng "chan nước béo" vì sợ cholesterol! Vậy mà trong chế độ cộng sản Việt Nam, bàn tay của đảng đã hóa phép những miếng thịt heo, thịt bò thành ra VĨ ĐẠI như những ân sủng từ thượng đế!!!
----------------------

Từ vượn lên người mất mấy triệu năm
Từ người xuống vượn mất bao năm
Xin mời thế giới tới thăm
Những trại tập trung núi rừng sâu thẳm!
(Từ vượn lên người - 1967)

Nêu trên là những trích đoạn từ những bài thơ do thi sĩ Vô Danh sáng tác. Sau đây là trích đoạn từ bài "Sự thật về 'láo sĩ' hay thi sĩ Nguyễn Chí Thiện", tác giả Triệu Lan, đã đăng trên báo điện tử Hồn Việt UK :

Hỏa Lò giấy vệ sinh khó có
Nhiều người không dùng như trâu, như chó
Phải có quà, có ngoại giao mới có thể mong xoay
Xoay nó còn gay hơn xoay vé máy bay!
-------------------------------

Nó cho chó nó đẻ
Bánh cuốn thu của dân
Quay lại dọa tù nhân:
thằng nào ăn bỏ mẹ!

(trích từ tập "Hạt Máu Thơ", mục Những ghi chép vụn vặt, đoạn số 7, tác giả sáng tác là Nguyễn Chí Thiện đang sống tại Mỹ)

Đọc qua tám câu "thơ" trên không ai trong chúng ta có thể nghĩ rằng đó là thơ của tác giả Vô Danh của tập thơ Vô Đề!

Nó không phải là thơ mà cũng chẳng phải là vè. Đó là sự lăng nhục chữ nghĩa tiếng Việt, là một đống rác hổ lốn những từ ngữ trộn lại hay có thể nói tệ hơn, nó là đống cứt chó!

Như vậy, người ta không hoài nghi sao được?
  • AI CÓ THỂ TRẢ LỜI ĐƯỢC NGHI VẤN VĂN HỌC NÀY?
Như đã đề cập ngay từ phần mở đầu: chỉ có bản thân ông Nguyễn Chí Thiện và sở tình báo của việt cộng biết rất rõ.

Hiện nay ông Thiện vẫn tiếp tục làm ngơ không trả lời, mà theo những con chó mực và chó vàng thì ông "coi khinh" những người nêu nghi vấn nên không thèm trả lời!

Những con chó bênh vực ông ta còn lên tiếng thách đố: - có giỏi có đủ bằng chứng thì cứ việc đưa ông Thiện ra tòa. Còn nếu không đưa được ông ta ra tòa tức là ông Thiện vẫn đúng!

Những con chó hãy nghe đây: -tụi bay khỏi cần phải thách đố. Bác Hồ của tụi bay dấu kín những việc giết người (cô Nông Thị Xuân) và ăn cắp thơ, văn TRÊN BỐN MƯƠI NĂM, cuối cùng đã bị cộng đồng người Việt hải ngoại phơi bày ra ánh sáng khiến tổ chức Unesco của Liên Hiệp Quốc đã phải rút lại quyết định "vinh danh"! Khi chế độ của bọn việt gian cộng sản bị sụp đổ thì mọi việc sẽ được bạch hóa. Những tài liệu mật của bọn cộng sản chắc chắn vẫn còn lưu trữ ở tại các cơ quan tình báo. Ngoài ra những nhân chứng sống, tức những tên công an, mật vụ, điệp viên của cộng sản cũng vẫn còn đó. Cứ tóm cổ những thằng đó, nện cho một trận là sẽ phải khai ra hết!

Hiện nay ở Mỹ có "sử gia" Trần Nhu mà dư luận đang tình nghi là cán bộ tình báo của cộng sản. Tên này là dân Hải Phòng, vượt biên qua Hồng Kông và được đi định cư "tỵ nạn chính trị" tại Mỹ. Hắn khoe là có 50 năm kinh nghiệm nghiên cứu sử!?? Hắn đã đứng ra làm nhân chứng sống, bênh vực cho Nguyễn Chí Thiện, xác nhận ông Thiện là "thứ thiệt"! Thỉnh thoảng hắn thường có vài bài viết đăng trên VietNam Exodus với những luận điệu giống y hệt như Bùi Tín(bác Hồ vô tội, Lê Duẩn với Lê Đức Thọ mới có tội!)
  • NGHI VẤN VĂN HỌC NGUYỄN CHÍ THIỆN = VỤ THÁI HÀ = NHỮNG VỤ CƯỚP ĐẤT CỦA DÂN OAN
Chúng ta đã từng ủng hộ những cuộc đấu tranh cho giáo xứ Thái Hà và các dân oan thì chúng ta cũng nên góp phần làm sáng tỏ nghi án văn học Nguyễn Chí Thiện. Giáo hội Công Giáo bị cướp đất, dân oan bị cướp đất, cướp nhà, thi sĩ Vô Danh bị cướp mất tài sản trí tuệ. Công trình tim óc mà ông ta đã âm thầm viết ra trong suốt hai mươi năm ròng rã đã bị bọn lưu manh, gian ác toa rập với nhau cướp mất! Khốn nạn hơn nữa là những tên lưu manh, ăn cắp đó còn ngang nhiên công bố "tác quyền" của chúng trên máu tủy của người anh hùng bị sa cơ, thất thế đã chết trong tay giặc! Và bọn lưu manh đó hiện nay vẫn còn đang sống nhởn nhơ, phè phỡn, ngày ngày vẫn chễm chệ ngồi trên bàn thờ, ăn hưởng những hoa thơm cỏ lạ và có khói hương nghi ngút do những kẻ ngu đần tôn bọn chúng lên làm "thánh"!

Thi sĩ Vô Danh đã từng tâm sự:

Tôi không tiếc khi bị đời sa thải (chết)
Thân thể vùi tan rữa hóa bùn đen
Nhưng vần thơ trong đêm tối đê hèn
Cùng rệp muỗi viết ra mà bị mất (bị ăn cướp, bị cạo sửa, bị đạo văn)
Tôi sẽ tiếc, khóc âm thầm trong đất!
(1971)

Tác giả khẳng định không sợ chết. Tác giả chỉ e ngại rằng nếu THƠ CỦA ÔNG MÀ BỊ CƯỚP MẤT thì ông sẽ chết không yên, không nhắm mắt trong lòng đất lạnh! Chắc chắn rằng oan hồn của người thi sĩ Vô Danh hiện nay vẫn còn lẩn khuất đâu đó, không siêu thoát được, với niềm uất hận khôn nguôi vì ước mơ được nhìn thấy quê hương thanh bình, độc lập đã không đến!

Xin cộng đồng mỗi người hãy góp một bàn tay để làm sáng tỏ nghi án văn học Nguyễn Chí Thiện. Hai chữ "chí thiện" có nghĩa là "very honest", rất lương thiện mà tại sao lại ......?????
  • THÁCH ĐỐ ÔNG NGUYỄN CHÍ THIỆN SÁNG TÁC THƠ:
Ông Thiện tự nhận mình là tác giả của tập thơ "Vô Đề". Trong vòng ba năm qua, có BA sự kiện lớn đã xảy ra, đó là:

- Vụ Trung Cộng ngang nhiên công bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
- Các giáo dân công giáo Hà Nội đấu tranh đòi lại tòa Khâm Sứ và đất đai tại giáo xứ Thái Hà
- Các dân oan trên toàn quốc đi khiếu kiện đòi lại đất, đòi lại nhà.

Là người Việt Nam yêu nước, không ai mà không phẫn nộ trước những hành vi bán nước, đê hèn trước ngoại bang và hành vi ăn cướp, hà hiếp người dân trong nước của bọn việt gian cộng sản. Vậy ông Thiện là người có tài làm thơ và là nhà ái quốc, ông hãy thử sáng tác BA BÀI THƠ nói về ba đề tài nói trên xem sao? Ông có làm được không? Chúng tôi cho phép ông được ngồi ở nhà tha hồ uống cà phê, thưởng thức trà ngon và hút thuốc lá Ăng Lê 555 loại sang để giúp ông có thêm cảm hứng để sáng tác. Thời gian sáng tác là ba tuần, tính trung bình một tuần là một bài. Chúng tôi dành thời gian rất rộng rãi cho ông sáng tác, không lẽ một tuần ông không làm được một bài thơ? Trong BA NGÀY mà ông còn chép được bốn trăm bài thơ thì sá gì ba bài thơ?

Ông không thể nói rằng: - con chó nó có nứng thì nó mới giở chứng (fuck), còn tôi không có hứng thì tôi cũng không thể "nứng" (làm) thơ được!

Nếu ông nói như vậy thì ông không phải là người yêu nước! Yêu nước mà cần phải "có hứng" nữa hay sao? Tại sao hồi còn ở Việt Nam thì "hứng" và "nứng" của ông rất nhiều mà bây giờ sang Mỹ thì đi đâu mất hết? Nếu như vậy thì ông đừng có vỗ ngực tự xưng là "nhà đấu tranh dân chủ" nữa nhé. Hết "hứng yêu nước" rồi thì đi về Việt Nam lấy vợ như Phạm Duy cho rồi!

Ông cũng đừng có viện cớ là "già". Nhà văn Pháp Victor Hugo (1802 -1885) bắt đầu viết tác phẩm đồ sộ trên 1000 trang Những Kẻ Khốn Cùng (Les Miserables) lúc ông đã 60 tuổi! Với số tuổi hiện nay của ông khoảng 68 thì chưa phải là quá già đến nỗi không làm được ba bài thơ!

Chúng tôi không dám hy vọng ông có thể sáng tác được những bài tầm cỡ như "đau đớn lắm cái lầm to thế kỷ" nhưng cũng đừng có quá tệ như bài thơ "Hỏa Lò","xoay giấy đi ỉa còn gay hơn xoay vé máy bay"! Hoặc mong ông đừng có bắt chước "bác" Hồ viết mấy câu như "chợt nghe vần thắng vút lên cao"!

Chỉ cần ông sáng tác được BA BÀI THƠ về ba đề tài nói trên, không dám mong quá hay nhưng cũng đừng có quá dở, và ông gởi đăng trên báo SÀI GÒN NHỎ của bà Đào Nương Hoàng Dược Thảo thì tôi tin rằng mọi nghi ngờ về ông sẽ bớt đi nhiều lắm, người ta sẽ bớt công kích ông. Sở dĩ nhiều người nghi vấn ông vì cái hào quang "Vô Đề" mà ông đang đeo nó không tương xứng với cái tài năng và đức độ của ông!

Nếu ông có nhận lời thách đố này thì cũng đừng có hốt hoảng gọi điện thoại sang Pháp hoặc Nga Sô để cầu cứu mấy đại ca của ông ở bên đó. Mấy thằng việt cộng đó cũng sẽ lần lượt bị cộng đồng vạch mặt trong vụ âm mưu, toa rập với nhau dựng lên cái vụ án văn học rất lớn này.
  • KẾT LUẬN:
Đối với tôi,thi sĩ Vô Danh là một anh hùng. Ông ta đã chiến đấu bằng ngòi bút, bằng ý chí sắt thép trong ngục tù. Ông đã tự ví:

Đảng vùi tôi trong đất nâu
Mong tôi hóa bùn đen dưới đó
Tôi hóa thành người thợ mỏ
Và đào lên quặng quý từng kho
Không phải quặng kim cương hay quặng vàng chế đồ nữ trang xinh nhỏ
Mà quặng uranium chế bom nguyên tử ....

Ý tác giả muốn nói quặng uranium để giật sập chế độ việt gian cộng sản!

Không nhất thiết phải xông pha chiến trận, đánh đông dẹp bắc mới là anh hùng. Người anh hùng có thể là người chiến đấu bằng ngòi bút và chiến đấu trong ngục tù mà vẫn làm cho kẻ thù khiếp sợ. Tác giả Vô Danh xứng đáng để cho mọi người ngưỡng mộ. Ý chí chiến đấu của ông ta là bất khuất, cho dù năm 1975 khi người Mỹ đã bỏ chạy, bỏ miền Nam cho cộng sản:

Giữa tù lao, bệnh, hoạn, cơ hàn
Thơ vẫn bắn và thừa dư sức đạn!

Ngay trong tình trạng hết sức bi đát như vậy mà ý chí chiến đấu của ông vẫn rất mãnh liệt, không hề suy giảm!

Tiếc rằng ông đã bị việt cộng sát hại. Cái thằng đang mang vòng hào quang của ông là thằng không xứng đáng, là điệp viên hạng bét của việt cộng, để lộ quá nhiều sơ hở. Nó không bằng một phần trăm của thằng Phạm Xuân Ẩn, đã đánh lừa được cả người Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa và đến năm 1975, khi hắn xuất đầu lộ diện, nhiều người mới tá hỏa!

Nghĩ cho kỹ, lỗi cũng do cộng đồng chúng ta đã quá hấp tấp, nông cạn, vừa thấy "thi sĩ" ở Việt Nam qua là đã vội công kênh, đưa hắn lên bàn thờ rồi nuôi béo hắn còn hơn nuôi con chó cưng ở trong nhà. Bây giờ sau 14 năm tu luyện, con chồn nó đã biến thành hồ ly tinh rồi. Nó còn có cả một bầy cho ngao bảo vệ, kẻ nào mà lơ mơ đụng đến chủ của nó là bị chó ngao xé xác!

Có người tự an ủi rằng: - ừ, thì cứ cho là ông Thiện này là dỏm nhưng tôi thấy từ khi ông ta sang hải ngoại tới bây giờ, ông ta "chống cộng" liên tục. Ông ta đã có công lớn trong việc dẹp bọn giặc cỏ VietWeekly và ông ta đã đi diễn thuyết chống cộng khắp năm châu. Ông ta mở miệng nói mười câu thì hết chín câu rưỡi là "chống cộng" rồi. Vậy đó không phải là có lợi cho chúng ta hay sao?

Xin thưa rằng "chống cộng" cũng có nhiều kiểu nói lắm. Có những kẻ chửi cộng sản rất dữ mà thật ra là khen cộng sản! Chúng ta phải để ý và thận trọng. Ông Nguyễn Chí Thiện trong khi diễn thuyết đã kêu gọi người Việt trong và ngoài nước hãy kiên nhẫn ngồi chờ một vị cứu tinh của dân tộc là ông Goóc Ba Chớp Việt Nam. Ông này sẽ thực hiện một cuộc cách mạng "nhung" không đổ máu! Vấn đề là ngồi chờ bao nhiêu lâu? 20 năm, 50 năm hay 100 năm nữa!!!??? Đây là điều mà bọn việt gian cộng sản rất mừng vì ông Thiện đã nói rất đúng theo bài bản và kế sách do đảng hướng dẫn!

Và nếu tôi nhớ không lầm thì ông Thiện và ông giáo sư Nguyễn Văn Canh đã ủng hộ hai sinh viên việt cộng là Nguyễn Tiến Trung và Hoàng Lan lúc hai tên việt cộng này sang thăm nước Mỹ. Đây là hai tên cò mồi chính trị của bọn việt gian cộng sản.

Phải trả lại công lý cho tác giả Vô Danh. Đây không phải là vấn đề của một cá nhân bị bức hại mà là danh dự của cả cộng động người Việt tại hải ngoại. Bọn việt cộng thấy lừa được chúng ta quá dễ dàng nên bọn chúng rất thích chí, đã tung ra một vài con bài khác như Hoàng Minh Chính và bà Nguyễn Thị Nga "Đóa Hồng Gai".

Nếu chúng ta không cảnh giác thì bà Nga cũng sẽ biến thành "thần tượng" như Nguyễn Chí Thiện và bà cũng sẽ được đưa lên bàn thờ để hưởng chuối, cam, xôi chè cùng tiền cúng dường "tam bảo"!!!

Không, không, chúng ta không ngu như bọn việt cộng tưởng bở!!!

Trần Thanh
Ngày 28 tháng 9 năm 2008


  • PHẦN PHỤ LỤC:

* Những cãi chày cãi cối của bầy chó ngao:

1. Gớm, sao nhiều kẻ xấu cứ đi bới móc đời tư của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện như thế nhỉ. Người ta bị ở tù cộng sản đến 28 năm, đã từng ở tù chung với mấy ông cha, với ông Phan Nhật Nam, vậy mà quý vị vẫn không chịu tin ông Thiện là thứ thiệt hay sao?

Nhận xét:

- Ở tù lâu bao nhiêu năm, có thể một trăm năm chúng tôi cũng không care! Việc ở tù hoàn toàn không có dính líu gì đến việc ông ta là tác giả của tác phẩm "Vô Đề" hết! Đâu có phải hễ ở tù lâu thì tự động biến thành thi sĩ thiên tài? Nếu như vậy thì nước Việt Nam dưới sự cai trị của bọn việt gian cộng sản, ắt hẳn phải có hàng trăm, hàng ngàn thi sĩ Nguyễn Du! Số người bị ở tù trên 20 năm thiếu gì!

Đừng có đem tên tuổi của mấy ông cha và ông Phan Nhật Nam ra làm vật bảo kê cho ông Thiện!

2. Gớm, mấy kẻ xấu cứ nghi ngờ bác Thiện nhà ta là thi sĩ dỏm. Chính mắt tôi đã thấy bác đọc thuộc làu vanh vách mấy bài thơ do bác "sáng tác". Như vậy, đúng bác là tác giả của tập thơ Vô Đề rồi con gì! Thơ của bác Thiện hàng trăm bài, nếu không phải là người sáng tác thì đố ai mà thuộc cho hết!

Nhận xét:

- Các nghệ sĩ cải lương trên sân khấu khi ca sáu câu vọng cổ, họ cũng thuộc vanh vách sáu câu vậy, nhưng họ đâu phải là người sáng tác! Đó là chưa kể các vở tuồng cổ của cải lương Hồ Quảng, có rất nhiều câu "nho chùm" rất khó nhớ , vậy mà các đào kép cải lương vẫn thuộc làu, hát ngọt xớt!

Ở vùng thôn quê ở miền bắc có một số người thuộc làu quyển truyện Kiều và thuộc tới mức họ có thể rủ nhau chơi "kiều lẩy", bói kiều hoặc thi đọc truyện Kiều lộn ngược! Mấy ông thầy bà cô dạy việt văn cũng thuộc làu làu các bài thơ của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương ..v..v.. Tuy nhiên chỉ có một Nguyễn Du, một Nguyễn Công Trứ và một Hồ Xuân Hương mà thôi!

Vậy thì ông Thiện đọc thuộc làu thơ của người khác đâu có gì là lạ. Không thể căn cứ vào cái hiện tượng "đọc thuộc thơ" ở bên ngoài mà kết luận cái bản chất ở bên trong!

Tôi nhớ có một truyện vui như vầy: có một anh nông dân bắt được một con cào cào bị gãy một chân. Anh ta để nó trên bàn rồi hô lớn:"cào cào, nhảy!" nhưng con cào cào cứ xụi lơ, không chịu nhảy. Anh ta tiếp tục hô lớn như vậy hai ba lần, kết quả vẫn không thay đổi. Cuối cùng anh ta kết luận: -Con cào cào nó bị điếc!!!

3. Ông Thiện đúng là tác giả của tập thơ Vô Đề bởi vì nếu ông ta không phải là tác giả thì tại sao ông ta dám in nó công khai ở hải ngoại rồi tái bản hàng chục lần? Ở hải ngoại có ba triệu người Việt sao không có người nào dám đến tự nhận mình là tác giả mà chỉ có một mình ông Thiện dám nhận? Như vậy thì ông ta đúng là tác giả rồi chớ còn gì nữa! Bản thân ông ta đã là "thứ thiệt" rồi mà tại sao có nhiều người cứ muốn gây chuyện, nói ông ta là thi sĩ dỏm?

Nhận xét:

- Ông Thiện hơn ba triệu người Việt đang sống ở hải ngoại ở một điểm rất quan trọng: - DA MẶT CỦA ÔNG TA DÀY, ĐẠN SÚNG AK BẮN KHÔNG THỦNG!!!

Hơn nhau là ở chỗ đó!

Không phải là của mình mà cứ tỉnh bơ nhận là của mình thì mới "anh hùng" chớ! Tổ quốc Việt Nam đâu có phải của tập đoàn ăn cướp việt gian cộng sản đâu nhưng tụi nó cứ nhận bừa, rồi cứ ngồi lì trên ngai vàng đã hơn 60 năm nay rồi!

Có sức chơi có sức chịu. Dám nhận vơ bố láo thì có ngày sẽ phải đi ở tù! Những vụ ăn cắp bản quyền trí tuệ đã xảy ra nhan nhản khắp nơi trên thế giới. Nhưng có lẽ trường hợp của ông Thiện là đặc biệt nhất vì còn phải chờ cái chế độ cộng sản bị sụp đổ thì lúc đó ông ta sẽ ......!!!!

Những chuyện vui về dịch giả thiên tài:

Hồi trước năm 1975, báo giới ở Sài Gòn thường đăng những bài bình luận tiếu lâm, châm biếm một dịch giả. Nghe nói ông dịch giả này đi du học ở bên Mỹ, đỗ bằng tiến sĩ về văn chương, báo chí. Khi ông ta về nước, nhiều người rất nể cái bằng tiến sĩ của ông ta. Một hôm có người đến nhờ ông ta dịch mấy câu thơ sau đây sang tiếng Anh:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương

Ông dịch giả đó đã làm kinh ngạc mọi người khi ông dịch hai chữ "canh gà" là "chicken soup"!

Sau đó, trong một dịp khác, người ta lại nhờ ông này dịch câu:

Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách

Ông dịch giả này bèn "chơi luôn", dịch hai chữ "thất phu" là "seven coolies" (bảy thằng cu li). Như vậy, cứ theo như câu dịch thì khi quốc gia hưng thịnh hay suy vong thì bảy thằng cu li phải chịu trách nhiệm! (mấy thằng việt cộng trong bộ chính trị nó rất mừng!)

Từ đó, thiên hạ bèn chắp tay vái sống ngài tiến sĩ văn chương tốt nghiệp ở bên Mỹ!

Gần đây, nghe nói có một ông dịch giả nào đó ở Mỹ dịch hai chữ "bể dâu" là "sea of strawberry" Không biết ông dịch giả này với ông "chicken soup" nêu trên có phải là một người hay không?

Trần Thanh