Monday, September 29, 2008

Ông Bùi Tín “Càng Ngày Càng Viết Láo"

Nam Nhân – Lý Tuấn

Nếu ai cẩn thận đọc những công trình “viết lách” của ông Bùi Tín, chắc chắn phải nhận ra sự khoe khoang, sơn phết, đánh bóng cho riêng cá nhân và gia đình ông ta, từ ông nội trở xuống, từ đứa cháu ngoại 5 tuổi trở lên; tất cả đều là những con người tròn trịa chân chính. Và một điểm cực kỳ quan trọng là viết láo để chạy tội cho Hồ chí Minh – tuyên dương, ca ngợi… để huyền thoại hóa đoàn quân đánh thuê – đồng đội của ông ta, với cái tên láo lếu là “quân đội nhân dân”.

Chúng tôi đả trích dẫn tài liệu từ hai quyển “Hoa xuyên tuyết – Mặt thật” đến “Mây mù thế kỷ” cùng những bài viết của ông ta, để cho thấy sự hoạt động của Bùi Tín ở hải ngoại là:

“Thẩm thấu một cách tinh vi “chính sách xâm lăng” Cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại, nhằm biến họ thành công dân nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.”

Mới đây, trên diễn đàn lại xuất hiện bài “Cái nhìn từ Hà nội” cũng nằm trong âm mưu thâm độc với mục đích tuyên truyền mị dân của đại tá lê dương cộng sản Bùi Tín.

Bài viết này nhằm mục đích vạch mặt me-xừ Bùi Tín vẫn chưa bỏ bản chất bồi bút của mafia cộng sản. Nhiệm vụ của Bùi Tín chỉ là hà hơi tiếp sức cho lũ nằm vùng và lũ chủ hàng nhằm lũng đoạn cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại. Đồng thời, về lâu dài, Bùi Tín âm mưu làm thế hệ trẻ bị lẫn lộn “thực giả” khi nghiên cứu các công trình “viết lách” của Bùi Tín trong vai phản tỉnh!!!

Bùi Tín luôn luôn “dạy” mọi người là phải khách quan, tỉnh táo với cái đầu lạnh và, nào là phải viết đúng sự thật như nó vốn như vậy…

Bùi Tín khéo léo khoe khoang các chức vụ dưới ngụy quyền cộng sản, các mối quan hệ với người nước ngoài để lách về việc được dự họp một cuộc họp “cuốc tế” với tư cách học giả! Nghĩa là khoe mình thuộc loại trí thức gộc!!!

Dưới đây, chúng tôi xin phép bạn đọc để chứng minh xem Bùi Tín đã thật thà đến mức nào, và trình độ lý luận ra sao? Là trí thức gộc hay trí nô mù lòa trí tuệ?


Về ông Hình Bộ Thượng thư

Khi viết về thân phụ là, Hình bộ Thượng thư, Bùi bằng Đoàn, dưới triều Hoàng đế Bảo Đại, Bùi Tín đã đánh bóng mạ kền như sau:

“Ba anh em ruột Bùi bằng Phấn, Bùi bằng Thuận, Bùi bằng Đoàn sáng dạ, chăm học, thường quét lá đa ở cửa chùa để đến tối đốt lên thay đèn đọc sách. Năm 1906, ba anh em lên đường vào kinh đô Huế dự thi Hương và đều đỗ, gọi là đồng khoa, một điều rất hiếm. Cha tôi đỗ cử nhân Hán học lúc mới 17 tuổi, ngay sau đó phải khai thêm 3 tuổi (Học đòi gian lận từ nhỏ, đối với Nho giáo còn là điều đại kỵ!!! Góp ý của NN/LT) để vào trường hậu bổ học 3 năm tiếng Pháp. Cha tôi đỗ đầu thi tốt nghiệp. Sau khi làm chánh án tỉnh Bắc Ninh, Tuần phủ tỉnh Cao Bằng, rồi tỉnh Ninh Bình, đầu 1933, cha tôi được chọn vào Huế làm Thượng thư (bộ trưởng) bộ Tư pháp mới 44 tuổi. Mười hai năm ở kinh đô, trông nom việc xử kiện của tất cả các tỉnh Trung kỳ, cha tôi giữ một đức tính liêm khiết đến mức tuyệt đối…”

“Đầu năm 1945, sau cách mạng Tháng Tám, cụ Hồ chí Minh mời cha tôi ra làm việc. Hai lần đầu cha tôi từ chối, viện cớ tuổi đã cao (56 tuổi), sức đã yếu, nhưng chính là do quan điểm Nho giáo: Trung thần không thể theo hai vua! Đến lần thứ ba cụ Hồ khẩn khoản yêu cầu, cha tôi mới nhận lời sau khi xin ý kiến hai ông anh và cả gia đinh…” (Trích “Hoa xuyên tuyết” – NXB Nhân quyền 1991 – trang 32-33).

Xin lưu ý quí bạn đọc, nhất là các bạn trẻ rằng:

- Cùng thời gian ấy, có rất nhiều người không thèm học ra làm quan, vì đó là giai đoạn nước Việt Nam của chúng ta bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ. Họ học những ngành nghề khác như kỹ sư, bác sỹ y khoa, dược sỹ, luật v.v… Tỷ dụ như các cụ Nguyễn thế Truyền, Trần trọng Kim, Phan văn Trường, Đặng văn Hướng, Trần minh Phương, Bửu Hội, Phạm duy Khiêm, Nguyễn mạnh Hà, Nguyễn mạnh Tường, Hồ hữu Tường v.v… nhiều lắm lắm. Nhiều người thi đỗ nhưng không chịu ra làm quan như Phan Bội Châu, Lương Văn Can, Tam Nguyên Yên Đỗ, Huỳnh Thúc Kháng v.v… Nên nhớ cụ Huỳnh Thúc Kháng thi đỗ Giải nguyên, năm 1904 đỗ Hoàng giáp, hơn bội lần cái “cử nhân” của Bùi bằng Đoàn, vậy đâu thèm làm quan mà … làm cách mạng chống thực dân Pháplàm báo để cổ võ tinh thần yêu nước.

Anh em Bùi bằng Đoàn cố học để tập tễnh ra làm tay sai cho thực dân Pháp. Họ Bùi làm án sát ở Ninh Bình, để rồi leo tới Hình bộ Thượng thư chỉ trong vòng 20 năm!!!

án sát làm nhiệm vụ xử kiện và cho bỏ tù nhân dân trong một tỉnh. Hình bộ Thượng thư làm nhiệm vụ xử kiệnbỏ tù nhân dân ở toàn bộ các tỉnh thuộc Trung kỳ (thời thực dân Pháp).

Đương nhiên, dưới chế độ thực dân Pháp thì án sát và Hình bộ Thượng thư xử kiệnbỏ tù những người Việt Nam không đóng thuế cho thực dân Phápkhởi nghĩa chống thực dân Pháp. Nghĩa là, nói theo ngôn ngữ mà Bùi Tín quen dùng, thì Bùi bằng Đoàn là công cụ chuyên chính (tự nguyện) trong tay thực dân Pháp. Bùi bằng Đoàn phải cực kỳ trung thành bảo vệ quyền lợi mọi mặt của thực dân Pháp nên mới được ưu ái như vậy, để thành cỗ máy chém của các tỉnh Trung kỳ (thời Pháp thuộc).

Nói chung, các thượng thư thời Pháp thuộc đều là tay sai của Pháp, nhưng tác hại của họ hoàn toàn khác nhau. “Tội” của Bộ Học, Bộ Lễ, Bộ Công có thể bỏ qua được. Bộ Binh thì cũng chẳng đáng kể, tuy nó cũng thuộc phạm trù “công cụ chuyên chính”. So sánh tính chất – là công cụ chuyên chính – của Bộ Binh với Bộ Hình của Bùi bằng Đoàn – làm thượng thư – thì chỉ như cái “gậy tre” bên “cỗ máy chém”!!!

Bùi Tín cố lờ đi tại sao năm 1933, Bùi bằng Đoàn được thực dân Pháp lôi cổ đặt lên cái ghế thượng thư Bộ Hình?

1. Cụ Phan Bội Châu bị Hồ chí Minh chỉ điểm cho mật thám thực dân Pháp bắt tại Thượng-hải (Tàu) và đưa về Việt Nam xử án. Nhân dân cả ba miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam khi ấy đều thương cảm, bãi khóa, bãi thị, đình công đấu tranh đòi thực dân Pháp phải thả cụ Phan Bội Châu ra. Bùi bằng đoàn được cử làm thông dịch trong phiên tòa, đã dịch câu Chánh án hỏi cụ Phan Bội Châu:

- Votre nom? Là: “Tên mày là gì?”

Phải là con chó cực kỳ trung thành với thực dân Pháp, Bùi bằng Đoàn mới dùng chữ “mày” mà không dùng các tiếng “tế nhị” hơn như “anh”, “ông”, hay cùng lắm là “ngươi”! Và họ Bùi ngu lắm mới dịch “votre” tương ứng ra “mày”.

Bộ mặt ông thân sinh ra Bùi Tín hiện rõ từ trong phiên tòa đó. Và, thực dân Pháp lập tức nhận ra “con chó berger” họ Bùi để đưa vào “lực lượng chuyên chính” của chế độ thực dân Pháp và đặc biệt cất nhắc.

2. Sau cái gọi là Xô-viết Nghệ-tĩnh 1930-31, các tỉnh miền Trung Việt Nam bị thực dân Pháp đặc biệt trấn áp. Lại thêm hàng ngàn gia đình liên quan với những thanh niên, do bọn Trần Phú, Hà huy Tập (cộng sản) móc nối tổ chức cho qua Tàu, theo học các lớp chính trị, bị Hồ “bán” cho mật thám thực dân Pháp, nên thực dân Pháp càng ra tay khủng bố nhân dân miền Trung. Đó là lý do thực dân Pháp đã lôi tên “cẩu nô họ Bùi”, đặt vào cái ghế thượng thư Bộ Hình, vì tin rằng hắn sẽ rất tự nguyện và trung thành bảo vệ “mẫu quốc Pháp”, thực hành chuyên chính – nôm na là bỏ tù, chém chết, phát vãng, đi phu ở Côn Đảo, Tân Thế Giới v.v… – nhân dân các tỉnh miền Trung Việt Nam. Nhiều người dân ở miền Bắc (chế độ bảo hộ) và miền Nam (chế độ thuộc địa), bị coi là phần tử nguy hiểm cho quyền lợi của thực dân Pháp, cũng bị đưa vào tay Bùi bằng Đoàn xét xử để chịu những án phạt nặng nề của Nam triều.

Cũng cái năm 1933 đó thì, cụ Ngô Đình Diệm, đang là Thượng thư Bộ Lại – tức tể tướng –, đã từ quan vi thực dân Pháp không chịu sự đòi hỏi của cụ Diệm về một số quyền lợi của Việt Nam.

Sử liệu đen – trắng còn rành rành như vậy mà Bùi Tín tô vẽ Bùi bằng Đoàn như là một “người yêu nước”; là bạn thân của họ Hồ (!!!???) (gia nô thì có chứ bạn thân cái khỉ mốc gì); là “liêm khiết đến mức tuyệt đối(?) (HXT, trang 32-33).

Chính do khả năng lý luận của Bùi Tín quá kém cõi; không tổng hợp nổi các vấn đề đặt ra; chủ quan theo cảm tính, như con nhái trong vũng nước chân trâu, nên các bài viết, các sách của Bùi Tín viết ra đều đại mâu thuẫn, thông tin thì lệch lạc, xuyên tạc các sự kiện… và ngu độn nhất là cứ tưởng mình là cái rốn… của con bò, luôn luôn dạy đời!!!

Bùi Tín dám hạ bút viết về cụ Ngô Đình Diệm rằng:

“Bảo Đại rồi Ngô Đình Diệm đều là vua quan thời thuộc địa..… Do đó chính quyền Ngô Đình Diệm rất khó có danh nghĩa “yêu nước”, “cách mạng”, “dân tộc” đối với cả nhân dân hai miền Nam Bắc.” (Mây mù thế kỷ, trang 19)

Bùi Tín căn cứ vào đâu mà dám dùng cụm từ “nhân dân hai miền Nam Bắc…”? Thật là bố láo!!!

Bùi Tín cần mở to mắt, vểnh tai nghe để thấy rằng: cái mà Bùi Tín đặt tên là “nhân dân hai miền Nam Bắc” là, ở phía Bắc chỉ có lũ bút nô và tập đoàn Việt gian cộng sản; ở phía Nam là tụi Việt gian được tập đoàn Hồ chí Minh cài lại để hoạt động phá hoại, cùng vài tên trí ngủ như Nguyễn hữu Thọ, Trịnh đình Thảo… và bọn tiền thân của lũ chủ hàng, sau này hóa thân thành cái gọi là “thành phần thứ ba”, tụi “du ca”, “phản chiến”.

Có bao giờ Bùi Tín, có chút thông minh để, hỏi tại sao với truyền thống không rời mồ mả, làng xã vậy mà hàng triệu người dân miền Bắc, năm 1954, đã bỏ mồ mả, cơ nghiệp của trăm đời để vào Nam với cụ Ngô Đình Diệm? Nếu không bị tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh khủng bố, nếu không phải vì khó khăn về phương tiện vận chuyển, cũng như thời gian bị hạn chế thì còn nhiều triệu người nữa ra đi vào Nam.

Và, những năm sau 1954, khi đó Bùi Tín đang ở Khu Bốn, chẳng lẽ không biết đến rằng cho tận đến 1975, vẫn còn nhiều người miền Bắc tìm cách vượt Bến Hải để vào Nam? Sự việc đó phải kết luận là gì? Vì, có thấy ma nào từ miền Nam trốn ra Bắc không?

Một điều nực cười mà Bùi Tín không thể mù và điếc đến mức không biết là việc ông Nguyễn cao Kỳ cho đẩy những người “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” kiểu thú y sỹ Phạm văn Huyến (cha đẻ của mụ Phạm thị Thanh Vân, tức Ngô bá Thành) v.v… qua cầu Bến Hải ra Bắc thì mấy “em” chống đối, chê bai miền Nam, rụt cổ như rùa và câm như hến luôn!

Với “con mắt lộn ngược” nhìn một “cẩu nô” thành “yêu nước”“liêm khiết tuyệt đối như thế nên khi viết về tên Việt gian Hồ chí Minh – cẩu nô của thực dân đỏ Nga xô – Tàu cộng – Bùi Tín đã hạ bút chạy tội cho Hồ một cách đại mâu thuẫn:

- “Sai lầm cải cách ruộng đất làm chết hơn 10 nghìn người (bị bắn trước các tòa án nhân dân) là do áp dụng máy móc kinh nghiệm của Trung quốc, do các cố vấn Trung quốc trực tiếp áp đặt, do ý thức sùng bái Trung quốc rất phổ biến lúc bấy giờ, bởi thái độ mù quáng, tự ti mà theo tôi ông Hồ cũng phạm phải.” (HXT, trang 113).

y thế mà chỉ vài dòng dưới đó, Bùi Tín đã viết rằng:

“Ông Hồ không trực tiếp chỉ đạo công cuộc cải cách ruộng đất…” (HXT, trang 113), và tiếp đó là: Theo tôi, ông Hồ có ý thức độc lập khá rõ đối với Liên-xô và Trung quốc.” (HXT, trang 116). Để rồi sau đó, Bùi Tín, lại dùng ngón võ quen thuộc, làm mơ hồ qua cái đại lượng như kiểu “nhân dân hai miền Nam Bắc” khi nhận xét về cụ Ngô Đình Diệm. Bùi Tín viết: “ở Việt Nam, chủ tịch Hồ chí Minh được nhìn nhận như một con người tận tụy, có đạo đức, có tâm huyết, hiểu biết rộng, hành động kiên quyết.” (HXT, trang 237).

Bùi Tín không nêu rõ những ai ở Việt Nam nhìn nhận về Hồ như vậy. Viết lách kiểu đó là bất lương, vì thế hệ trẻ Việt Nam – nhất là ở hải ngoại – và người nước ngoài sẽ tưởng toàn dân Việt Nam nghĩ như vậy!!!

Cũng với bút pháp lưu manh như thế, vòng vo tam quốc toàn những chuyện thiên hạ đã biết hết cả rồi, Bùi Tín tóm tắt nhận xét về, bè lũ ác ôn có nợ máu với nhân dân Việt Nam, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Nguyễn văn Linh, Võ nguyên Giáp và ngay cả Lê đức Thọ… rằng:

“Nét chung của các ông là tận tụy cho mục tiêu và sự nghiệp cách mạng, rất tin tưởng và tự tin ở công việc mình làm, sống dản dị, có tấm lòng cởi mở thân tình với xung quanh. Các ông đều tiếp thu phong cách sống của chủ tịch Hồ chí Minh.” (HXT, trang 122).

Bằng vài dòng ngắn gọn, bút nô họ Bùi đã lồng vào mớ thông tin lộn xộn để lừa người đọc, nhằm lách những lời tâng bốc họ Hồ và chân tay kế cận lên tận mây xanh.

Sau này, thế hệ trẻ của Việt Nam, trong môi trường chính trị và xã hội mới, vì nghiên cứu một cách nghiêm túc nên sẽ thấy cái nhận xét đó của họ Bùi và thế là nuốt phải viên thuốc độc của ngòi bút “phản tỉnh” (cuội)!!!

Về những bạn nhà báo nước ngoài của Bùi Tín

Bùi Tín đã dành nhiều giấy mực để ca ngợi những anh, chị viết báo; những nhà sử học, nhà nghiên cứu người nước ngoài. Để làm gì?

1. Cho đến nay, một điều đáng buồn là đầu óc của một số người viết sách báo, và người đọc là Việt Nam, vẫn coi thông tin của mấy “ông Tây, bà Đầm” mới là chuẩn mực, là đáng tin cậy. Việc khoe có quan hệ thân thiết với “tây, đầm” đó của Bùi Tín, chính là muốn người đọc tăng thêm độ tin cậy vào những trò phù thủy trong thông tin và chơi chữ của họ Bùi:

2. Tạo ấn tượng cho thế hệ trẻ Việt Nam làm quen với những tên tuổi của các “tây, đầm” đó, để lơ là mất cảnh giác nuốt những của giả do “tây, đầm” chế biến từ “nguyên vật liệu” của lũ bút nô và trí nô của cộng sản Việt Nam sản xuất.

Giờ thử xét một số mặt hàng, của “tây, đầm” mà Bùi Tín trân trọng giới thiệu, xem đúng sai như thế nào:

1. Jean Lacouture, từng viết cả sách cả báo về Việt Nam mà nội dung thiên vị cho tập đoàn Việt gian cộng sản Hồ chí Minh một cách lộ liễu. Jean Lacouture cũng đã phải thừa nhận sai sót của mình. Đây là một cây bút tầm thường, không trung thực.

2. Jean Claude Labbé, phóng viên ảnh người Pháp. Như Bùi Tín giới thiệu, thì, anh chàng này “từng vào vùng giải phóng sau hiệp định Paris.” (HXT, trang 54). Có điều Bùi Tín giấu nhẹm rằng Jean Claude Labbé làm gì trong vùng giải phóng với Nguyễn văn Linh. Nhưng chắc chắn phải có công gì đó cực lớn lao, nên sau 1976, Nguyễn văn Linh mới “tặng” cho Jean một vi-la cực đẹp bên Phú-nhuận, Sài-gòn và bán “theo lối hóa giá” (tức gần như cho không) một vi-la nữa ở đường Phạm ngũ Lão (Sài-gòn) để Jean cho cô “bồ” Việt Nam – diễn viên đóng vai người yêu của họ Hồ trong bộ phim chuyện về Hồ chí Minh – cư ngụ. Mặc dù cả bè lũ Nguyễn văn Linh lẫn Bùi Tín đều biết Jean Claude Labbé đang có vợ – là một người họ hàng nhà Hoàng xuân Hãn.

Nhận “hối lộ” như thế không thể là một phóng viên đàng hoàng được!

3. Burchett, nhà báo người úc, kẻ đã quay phim, phỏng vấn lũ hề có tên (Mặt trận giải phóng” ra mắt… ở U-minh. Nhưng thực ra chúng ra mắt ở rừng lim thuộc tỉnh Thanh-hóa. Quả là nhà báo… láo!!!

Còn những tác giả nước ngoài viết về họ Hồ lại càng đáng buồn về trình độ lý luận và khả năng xử lý thông tin. Thí dụ: Judge Quinn thì cho rằng Hồ chí Minh luôn luôn “tìm sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân Việt Nam”. Chẳng hiểu cái bà Quinn này có biết Hồ đã xử sự ra sao với cụ Phan Bội Châu; với những người gọi là trotskit; với những trí thức, công thương, nông dân v.v… và các đảng phái không cộng sản cũng như các tổ chức tôn giáo v.v… để nói ra những lời táo bón thông tin như vậy.

Cũng một căn bệnh tương tự, một nhà sử học có hai dòng máu Pháp và Việt, sinh ra và lớn lên ở Chợ-lớn (Sài-gòn), khoe đã mất 50 năm (?!) nghiên cứu về Hồ và nhận ra con người Hồ bị dẫn giắt bởi tư tưởng Khổng-Mạnh. Người ngu đến đâu cũng biết sơ lược về Không-Mạnh là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Thử hỏi Hồ đạt được một điểm nào trong những điểm nói trên.

+ Hồ là tên bất nhân khi hắn bán cụ Phan Bội Châu, bôi nhọ cụ Phan Chu Trinh; giết những người cưu mang hắn; những người yêu nước…; nhu bà Cát thành Long, ông Đào đình Quang…

+ Hồ là tên bất nghĩa khi hắn lấy Nguyễn thị Minh Khai, đẻ con với nhau mà không nhận, lại gán cả vợ, cả con cho Lê hồng Phong. Hắn ngủ với Nông thị Xuân, có con mà nhẫn tâm để cho bộ hạ giết một cách man rợ và v.v…

+ Hồ là tên bất lễ khi hắn coi Lénine và Staline như ông cố nội của hắn, thì đã lưu manh đứng trước đền thờ Đức Thánh Trần, tôi tôi bác bác, tự cho là hơn cả Đức Thánh Trần:

“Bác đưa một nước qua nô lệ

Tôi dẫn năm châu đến đại đồng”

+ Hồ là tên bất trí khi bỏ lỡ cơ hội làm lại cuộc đời lương thiện. Từ một tên gián điệp, gia nô của Nga-xô, năm 1945 hắn may mắn được gần như toàn thể nhân dân Việt Nam hòa giải, hòa hợp với hắn để bảo vệ và xây dựng Việt Nam. Thế mà hắn đã phản bội tất cả để dấn sâu hơn nữa vào tội ác Việt gian bán nước cho thực dân đỏ Nga-xô và Tàu cộng. Rồi đây tên hắn sẽ bị lịch sử dùng để chỉ những tên, những hành động phản dân, hại nước.

+ Hồ là tên bất tín chỉ cần đối chiếu việc hắn đã làm với những điều hắn hứa trong cái gọi là “Tuyên ngôn độc lập”, 2/9/1945” là một trong ngàn vạn thí dụ.

Sự việc rành rành như vậy mà một bộ óc phải nghiền ngẫm tới hơn 50 năm vẫn chưa nghĩ ra thì không biết đó là loại óc gì?! Xin quý bạn đọc đặt tên cho.

Bùi Tín phản bội chứ không phản tỉnh

Cha đẻ của Bùi Tín là, Bùi bằng Đoàn, một kẻ cả cuộc đời chỉ làm “cẩu nô”. Thời thực dân Pháp, Bùi bằng Đoàn đã bỏ tù, đưa đi lưu đầy, tịch thu tài sản hàng trăm vạn người Việt Nam chỉ vì thiếu thuế đóng cho thực dân Pháp, hoặc chống lại bọn xâm lược thực dân Pháp bằng cách này, cách khác. Chính vì nắm được cái bản chất của cả 3 anh em họ Bùi – cố công học để ra làm tay sai cho thực dân Pháp, hai anh thành tuần phủ, còn Bùi bằng Đoàn thì leo tới thượng thư Bộ Hình – tên đao phủ với cỗ máy chém của Khâm sứ thực dân Pháp tại Trung kỳ – cho nên Hồ mới gọi Bùi bằng Đoàn ra hợp tác.

Nếu Bùi Tín đừng lấc cấc dùng ngòi bút bất lương để tô vẽ cho dòng họ và bản thân thì cũng chẳng ai thèm quan tâm đến tên “cẩu nô” Bùi bằng Đoàn, vì hắn chỉ là cặn bã của lịch sử Việt Nam!

Nếu quả rằng họ Bùi thấm nhuần Nho giáo, như Bùi Tín viết, thì dù Hồ có giết cũng không hợp tác chứ đâu cần đến lần thứ ba đã đi bằng đầu gối ra hợp tác với Hồ! Bùi Tín hãy nhìn lại lịch sử xem Trần Bình Trọng ứng xử ra sao khi giặc Nguyên-Mông mời làm vua. Rồi từ Phan Đình Phùng đến Phan Bội Châu; Lương Văn Can, Nguyễn Thiện Thuật, Tam Nguyên Yên Đỗ, Hoàng Hoa Thám… nhiều lắm lắm. Và, đặc biệt là cụ Ngô Đình Diệm được Hồ trân trọng mời nhưng đã sáng suốt từ chối cái ghế bộ trưởng nội vụ, cũng như Đức Cha Lê Hữu Từ, không để bị Hồ lừa.

Sau này, trong cái thường vụ Quốc hội khóa 1, chạy lên Việt-Bắc, giáo sư Trịnh Thục Viên bị áp chế qua cái gọi là “đấu tố chính trị”; cụ Nguyễn Văn Tố bị thực dân Pháp nhảy dù ở Bắc-cạn giết chết (?) (Bị chỉ điểm? Tại sao chỉ có cụ Tố, chủ tịch Quốc hội bị chết?), Hồ đã thí cho “cẩu nô” họ Bùi cái ghế Quyền chủ tịch ủy ban thường vụ quốc hội. Nếu quả rằng Bùi bằng Đoàn “liêm khiết đến mức tuyệt đối thì sao những người như luật sư Nguyễn mạnh Tường, nhà kinh tế Hoàng văn Đức, thức trưởng văn hóa Đỗ Đức Dục, giáo sư Trương Tửu và nhiều văn nghệ sỹ, sinh viên… dám tố giác sai lầm của cải cách ruộng đất v.v… Vậy mà Bùi bằng Đoàn hoàn toàn câm như chó ăn vụng bột trong chức vụ dân cử cao nhất???!!!

Xưa Bùi bằng Đoàn đã nghe lệnh tên Khâm sứ thực dân Pháp ở Trung kỳ để bỏ tù đày và giết những người Việt Nam vô tội, những người Việt Nam yêu nước; “Mày Tao” với nhà đại ái quốc của Việt Nam là cụ Phan Bội Châu. Khi thờ Hồ thì “thông qua” mọi chỉ thị của Hồ nhằm “hợp pháp hóa” đường lối bán nước của lũ Việt gian Hồ chí Minh cho Nga-xô và Tàu cộng.

Ngòi bút của Bùi Tín có thể ca ngợi một kẻ có ăn học mà không bằng loài chó ngựa như vậy, đương nhiên hắn không thể nào phân biệt nổi đâu là chính nghĩa. Chính vì thế, khi ra đến hải ngoại, Bùi Tín đẻ ra những cuốn như “Hoa xuyên tuyết; Mặt thật; Mây mù thế kỷ và rất nhiều bài viết khác nữa…” hoàn toàn bằng bút pháp lưu manh, lý luận bất lương, thông tin lộn ngược. Chính với tâm trạng của tên ăn trộm luôn luôn sợ bị bắt quả tang, nên Bùi Tín lúc nào cũng nói đến: “sự thật, khách quan, không thêm bớt, bằng cái đầu lạnh và tỉnh táo v.v…”

Bùi Tín luôn luôn để tính lưu manh dẫn giắt, bịa ra nhân vật thứ ba – mà không nói cụ thể là ai – để mượn mồm kẻ vô danh đó thóa mạ quân, dân, chính của Việt Nam Cộng Hòa, của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại.

Thí dụ1: Trong “Hoa xuyên tuyết”, trang 88, Bùi Tín viết:

“Chẳng phải trong số trên dưới 1 triệu gọi là ngụy quân, ngụy quyền thì số bị đi cải tạo dài hạn chỉ bao gồm trên 10 vạn người, nghĩa là chừng 1 phần mười, còn 9 phần mười đã được hưởng quyền công dân ngay từ đầu rồi là gì? Chẳng phải đã có ông chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh tham gia Mặt trận tổ quốc thành phố Hồ chí Minh, ông Nguyễn xuân Oánh, quyền thủ tướng cũ được bầu làm đại biểu quốc hội rồi là gì?”

Về chuyện “cải tạo dài hạn”, Bùi Tín càng lưu manh hơn khi hắn chơi trò xiếc chữ nghĩa. Trong “Hoa xuyên tuyết”, trang 2, hắn viết như sau:

“Nói là giải phóng đất nước, giải phóng đồng bào, mà sao hàng trăm nghìn người lại phải vào ngồi tù trong các trại tập trung cải tạo, kéo dài hàng trăm, hàng ngàn ngày với biết bao tủi cực và khổ đau…”(người viết nhấn mạnh các chữ trămngàn)

Nếu bị giọt “nước mắt cá sấu” của Bùi Tín làm mơ hồ, chúng ta dễ dàng bỏ qua chất lưu manh của họ Bùi khi hắn dùng chữ trămngàn thay cho thángnăm. Thế hệ con em chúng ta và những người nước ngoài làm công tác nghiên cứu sẽ nghĩ rằng:

- Trăm ngày có nghĩa là hơn ba tháng;

- Ngàn ngày có nghĩa là ba năm.

Như thế là đúng với lời tuyên bố, của tên Phạm văn Đồng, cố thủ tướng ngụy quyền cộng sản, với phóng viên báo chí trong và ngoài nước rằng “chính sách cải tạo” của chúng chỉ có thời hạn là ba năm!

Thực tế là chí ít cũng hai hay năm năm; còn hầu hết từ bảy hoặc tám năm cho đến trên mười lăm năm và khá nhiều bị tù đến hai chục năm!

Bộ mặt của tên phản tỉnh cuội Bùi Tín – con trai của “cẩu nô” Bùi bằng Đoàn – là thế đó.

Thí dụ 2: Trong “Mây mù thế kỷ”, trang 32, Bùi Tín viết về quân lực VNCH như sau:

“Quân lực VNCH có những khó khăn, ở ngay sự ra đời và phát triển của nó. Nó được chính quyền thực dân Pháp lập nên, được người Pháp tổ chức và huấn luyện. Các sỹ quan cấp cao nhất hầu hết là học ở các trường quân sự của thực dân Pháp. Các tướng Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn cao Kỳ, Nguyễn văn Hinh, Trần văn Đôn, Dương văn Minh, Phạm văn Phú, Đỗ cao Trí, Ngô quang Trưởng, Đỗ Mậu… đều thế cả. Trước nhân dân cả nước Việt Nam, trước dư luận quốc tế, quả thật là có nhiều khó khăn, khi muốn dành cho quân đội ấy những chữ “yêu nước”, “chính nghĩa”, khác hẳn với Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tất nhiên điều này, anh em binh sỹ, sỹ quan sơ cấp và trung cấp của Quân đội VNCH không chịu trách nhiệm. Nó thuộc về lịch sử.” (Người viết in đậm những chữ cần lưu ý quý bạn đọc).

Bạn đọc tỉnh táo, đọc những câu trên, sẽ thấy rõ hơn dòng máu “cẩu nô” chỉ đạo ngòi bút “tô hồng, bôi đen” của tên, nguyên phó tổng biên tập, báo Nhân dân, cơ quan nói láo, của tập đoàn Việt gian cộng sản.

Chính Bùi Tín cũng thừa nhận đại tướng cộng quân Lê trọng Tấn là đội tàu bay của thực dân Pháp. Thêm nữa, những tên như đại tướng Võ nguyên Giáp, trước 1945 là con nuôi chánh cẩm thực dân Pháp là Marty, sau 1954 là con nuôi của bố Krút-xốp (Nga-xô); thiếu tướng Lê thiết Hùng là thiếu tá quân của Trương phát Khuê (Tàu Tưởng); đại tướng Lê đức Anh là cặp-rằng đồn điền cao-su của thực dân Pháp; thượng tướng Chu văn Tấn là lính dõng thời thực dân Pháp; đại tướng Đoàn Khuê, cả hắn và cha hắn đều là chánh tổng ác ôn; đại tướng Nguyễn chí Thanh, tên đầu hàng, chỉ điểm cho Khâm sứ Trung kỳ của thực dân Pháp bắt người trong tổ chức của hắn, trong số đó có Đặng xuân Thiều, anh em của Trường Chinh. Kẻ tuân lệnh Khâm sứ Trung kỳ cho cả nút vào tù và đi phát vãng lại chính là “cẩu nô” Hình bộ Thượng thư Bùi bằng Đoàn. Chính “nhà văn không làm chính trị” Vũ thư Hiên, bỏ vợ con ở lại Việt Nam, trốn từ Nga sang thế giới phương tây, để “tô hồng” cho những tên Việt gian thân Nga-xô trong vụ án “xét lại” thành “những người đấu tranh cho dân chủ”, thường được con gái Đặng xuân Thiều “tháp tùng”! Tên thượng tướng Phùng thế Tài, nguyên tổng tham mưu phó kiêm tư lệnh và chính ủy bộ tư lệnh phòng không, không quân ngụy quân lê dương cộng sản Việt Nam, xuất thân từ một tên du đãng ở Vân-nam-phủ của Tàu, từ trước 1940, rồi thành mật vụ của quân Tàu (Tưởng); tên thiếu tướng Tô Ký, trước 1975 từng là tư lệnh ngụy quân cộng sản quân khu Tây-Bắc, cũng là dân đâm thuê chém mướn ở miệt Cửu-long, miền Nam Việt Nam v.v… Còn nhiều lắm lắm, kể sao cho hết được. Những chuyện đó không thể nào Bùi Tín dám nói là không biết. Nhất là cái lý lịch của tên Võ nguyên Giáp, từng là đại tướng tổng tư lệnh kiêm bí thư quân ủy trung ương của ngụy quân cộng sản, thì hắn có là con nuôi chánh cẩm thực dân Pháp là Marty hay không, và hắn có đầu hàng hay không thì các đại biểu trong đại hội 7 của Việt gian cộng sản đều được đọc tài liệu do ban tổ chức đại hội phân phát. Bùi Tín có dám chối là không biết không?

So sánh tướng lãnh của hai phía – thì quân đội VNCH rõ ràng là yêu nước và chính nghĩa thực thụ 100%. Các tướng lãnh của VNCH đã dám hy sinh vì dân vì nước như Ngụy Văn Thà, Nguyễn Khoa Nam v.v… Còn các tướng ngụy quân cộng sản từ Giáp trở xuống, từ Tô Ký trở lên, cho đến toàn bộ cái gọi là “quân đội nhân dân”, trong đó có tên “cẩu nô” Bùi Tín, kể từ khi bỏ cái danh xưng “quân đội quốc gia” – là danh xưng của lực lượng vũ trang hợp nhất của Chính phủ Liên hiệp do Quốc hội Liên hiệp đa đảng (khóa 1) bầu ra – để thành “quân đội nhân dân”, là lực lượng vũ trang bị Hồ lưu manh cho qua Tàu cộng tẩy não trong các năm 1949-50. thì cái Quân đội đó đã thoái hóa thành “ngụy quân cộng sản”, lính lê dương đánh thuê cho Nga-xô và Tàu cộng trong việc bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ – tức chủ nghĩa Marx-Lénine-Staline và tư tưởng Mao trạch Đông!!!

Chính Bùi Tín cũng thú nhận trong “Mây mù thế kỷ”, trang 91 về danh xưng Quân đội Quốc gia bị đổi thành “quân đội nhân dân”. Và, Bùi Tín thú nhận rằng:

“Chúng tôi cho thời kỳ 1947-1948 là thời kỳ đẹp nhất của trai trẻ, vô tư, hăng hái, lãng mạn.” (Mây mù thế kỷ, trang 91).

Tại sao? Vì thời kỳ đó lực lượng vũ trang hợp nhất của các đảng phái trong Chính phủ Liên hiệp vẫn còn mang danh xưng, quân đội quốc gia với tôn chỉ trung với nước, hiếu với dân. Phải đến cuối năm 1949, Mao thống trị cả lục địa Tàu thì tên Việt gian Hồ chí Minh lấy cớ luân phiên đưa quân đội quốc gia qua Tàu cộng huấn luyện, trang bị lại để tẩy não, áp đặt khiến những người lính quốc gia mất hết cả “vô tư, hăng hái, lãng mạn” – như Bùi Tín viết, biến chất thành lũ lê dương người Việt đánh thuê cho tập đoàn thực dân đỏ Nga-xô – Tàu cộng. Có nghĩa họ đã bị “dã thú hóa” thành lũ Việt gian vũ trang, công cụ chuyên chính của tập đoàn Việt gian cộng sản theo tôn chỉ mới – khi núp dưới danh xưng quân đội nhân dân hay Bộ đội cụ Hồ – là trung với đảng (Việt gian cộng sản). Vì thế mặt mũi chúng lúc nào cũng như “hiền triết phương đông” như ngôn ngữ của bút nô Lữ Phương; mở mồm là như con vẹt, leo lẻo về chủ nghĩa Mác cùng Lê (nghe mà tởm), và khi có súng trong tay chúng “hồ hởi, phấn khởi” bắn thoải mái vào trường học, chợ búa, buôn làng của dân v.v… không phân biệt nổi đúng, sai.

Rành rành như vậy mà Bùi Tín kết luận “lộn tùng phèo” y như kết luận về anh em cẩu nô của thực dân Pháp là 3 tên họ Bùi.

Yêu nước mà theo lệnh của lũ sát nhân, trong đó có Trần Độ, để bắn vào những đồng đội của trung tá Ngụy Văn Thà đang làm nhiệm vụ đánh quân Tàu cộng xâm lược các hải đảo Việt Nam. Đấy là yêu nước Tàu cộng, hiểu chưa hả đại tá lê dương đỏ Bùi Tín???

Chính nghĩa mà chấp nhận thân phận quân xâm lược để bị xích cẳng vào xe tăng và đại pháo, uống thuốc kích thích để tàn sát dân lành như vụ Mậu Thân (1968) ở Huế, giết đồng bào sắc tộc thiểu số ở Hà-giang, đồng bào theo đạo công giáo ở Khu Bốn cũ; đồng bào theo đạo Tin lành ở Tây-nguyên v.v…

Thí dụ 3: Trong “Mây mủ thế kỷ”, trang 54, Bùi Tín viết:

“Tôi đã gặp một số vị trong chế độ Sài-gòn cũ, có vị là trung tướng nói với tôi rằng: “Nếu chúng tôi chiến thắng, tức miền Nam thắng miền Bắc, không chắc chính sách của chúng tôi đối với các ông đã hơn gì so với chính sách của các ông đối với chúng tôi. Có khi chúng tôi lại có những trại giam tàn bạo hơn.” Ngay một số trí thức từng ở trong chính quyền miền Nam cũng tỏ ra phủ nhận bộ máy lãnh đạo của chế độ VNCH trước đây và phủ nhận cả lá cờ vàng ba sọc đỏ. Nhiều người trước kia đã là viên chức cao cấp trong chính quyền miền Nam đã nói với tôi: “Chúng tôi muốn quên lá cờ vàng ba sọc đỏ đi vì nó tiêu biểu cho một chế độ quan liêu quân phiệt, tham nhũng và thối nát, chúng tôi không muốn thừa nhận lá cờ ấy. Chế độ đó đã thất trận, thất trận do thối nát, thiếu sáng suốt, phải bỏ nước chạy ra nước ngoài.” trong nước, đồng bào ta, kể cả những người từng sống trong chế độ Sài-gòn cuõ, cũng không nuối tiếc và hy vọng gì về những người “quốc gia” ở nước ngoài, vì họ không tác động có hiệu quả đối với đất nước, trong khi phần đông họ chỉ cổ vũ hận thù và một thời gian còn có không ít người chủ trương dùng bạo lực.”

Bộ óc lưu manh của Bùi Tín “bịa” ra những nhân vật thứ ba để nói lên chính ý nghĩ của hắn và đồng bọn. Thử hỏi: “một số vị” là bao nhiêu người, tên tuổi; tên vị “trung tướng” là gì?; “một số trí thức” là bao nhiêu người, tên tuổi, học vị, ngành nghề trước 1975 và hiện nay; “nhiều người trước kia” v.v… cũng thế, bao nhiêu người tất cả, họ xếp hàng trước mặt Bùi Tín đồng thanh tuyên bố: “Chúng tôi muốn quên cờ vàng ba sọc đỏ…” hay sao, hay từng nhóm, từng người xin gặp Bùi Tín để nói như vậy. Rồi nữa, Bùi Tín sử dụng cơ quan thăm dò nào, tổ chức thăm dò ra sao, ở đâu, lúc nào, mà biết được “đồng bào ta”“những người từng sống trong chế độ Sài-gòn cũ”, không nuối tiếc và không hy vọng gì về những người “quốc gia” ở nước ngoài …

Viết lách như vậy mà cũng đòi cầm bút và nói đến trung thực. Cũng chẳng lạ gì, vì Bùi Tín chính là hậu thân của Bùi bằng Đoàn – kẻ dám gọi nhà đại ái quốc Phan Bội Châu của Việt Nam là “mày”. Và, như Bùi Tín, khoe, được đích thân tên đại diện cho “hồng” trong ngụy quân Việt gian cộng sản, Nguyễn chí Thanh, sau khi thanh lọc xong những phần tử gọi là “xét lại” (tức Việt gian thờ Nga-xô làm thầy) trong tờ báo lá cải mang tên “Báo Quân đội Nhân dân”, chọn lọc cho vào hàng ngũ “bút nô” “tô hồng, bôi đen” chuyên nghiệp. Cái nguồn gốc xuất thân và tên tuổi quan thầy của Bùi Tín đủ biểu hiện rõ Bùi Tín là loại… “mặt người dạ thú”!

Sự thực nhiệm vụ của Bùi Tín ở hải ngoại?

Bằng vào lời tự khai, thì Bùi Tín thấy “đảng” của hắn có sai lầm, nên muốn “cứu đảng”, nhân đi công tác nước ngoài, Bùi Tín xin lên đài BBC đọc cái gọi là “kiến nghị của một công dân”.

Chúng tôi, quá hiểu Bùi Tín, kể họ hàng xa gần của Bùi Tín, thì nghĩ rằng, sau khi quan thầy của Bùi Tín là Nguyễn chí Thanh, bị Hồ làm thịt, những nhân vật thay chỗ của Nguyễn chí Thanh như tên đại tướng cố nông Chu huy Mân, không bao dung được Bùi Tín. Khi được về báo Nhân dân, Bùi Tín tuy có cái ghế “phó” tổng biên tập, nghĩa là “người giúp việc” cho tổng biên tập, nên thực ra con đường quan lại đỏ của hắn không có gì sáng sủa lắm. Lần lượt những tổng biên tập Hồng Hà, Hà Đăng, Hữu Thọ, chẳng ai ưa Bùi Tín. Tuy bọn chúng chẳng ra gì, nhưng chúng làm sao quên được khi học tập về “cải cách ruộng đất”, Bùi Tín đã “cuồng tín” đến mức từ bỏ cái họ Bùi, nên mới có tên là Thành Tín. Sau này, ra đến hải ngoại, Bùi Tín mới dám nhìn nhận lại họ Bùi để thành Bùi thành Tín hay Bùi Tín.

Với cái lý lịch con quan lại đó, Bùi Tín hết lòng khuyển mã, luôn luôn xung phong xin đi những nơi đầu sóng ngọn gió vì quyền lợi của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh. Nhờ thế đã lọt vào hàng ngũ tà lọt của Nguyễn chí Thanh. Và, ngay từ 1963, Bùi Tín đã được cử theo một đoàn thâm nhập miền Nam để nghiên cứu cách đưa quân lê dương đỏ ở Bắc vào và tổ chức cho tụi Việt gian, mật vụ đỏ nằm vùng ở miền Nam hoạt động khủng bố và phá hoại.

Chính bản thân hắn “tự nguyện”“trung thành” trong vai xâm lược đỏ, nên cho đến tận giờ phút này hắn vẫn “đề cao” quân xâm lược đỏ, như Trần Độ chẳng hạn, và những tên Việt gian nằm vùng là “người yêu nước”.

So với bọn Hồng Hà, Hà Đăng và Hữu Thọ, quả rằng thành tích phục vụ “đảng Việt gian cộng sản”“cái đầu lạnh” dám cắt đứt nguồn gốc quan lại của mình, thì Bùi Tín hệt như Hình bộ Thượng thư Bùi bằng Đoàn, vượt nhanh hơn hai ông anh tuần phủ trên nấc thang làm tay sai cho thực dân Pháp.

Bùi Tín đã từng bon chen vào đám bút nô để viết hồi ký cho Lê Duẩn và Trường Chinh, nhưng với Lê Duẩn, Bùi Tín phải nhường bước cho Thép Mới. Còn Trường Chinh lại không mặn mà với Bùi Tín, chưa nói đến việc chưa xong hồi ký thì Trường Chinh đã bị các oan hồn đẩy hắn té cầu thang, chết “bất đắc kỳ tử”.

Cho nên, cái mũi “Việt gian nòi” của Bùi Tín đã đánh hơi ra ông quan thầy mới: Võ nguyên Giáp, kẻ mà trong sách viết ra, Bùi Tín đã “phịa” rằng, sau cải cách ruộng đất, Hồ đã cân nhắc giữa Duẩn với Giáp xem ai nên cho làm bí thư thứ nhất. (Bùi Tín thừa nhận việc Lê Duẩn được thay chỗ của Trường Chinh – năm 1957 – là do Hồ cất nhắc. y thế mà hắn lại mâu thuẫn cho rằng Hồ bị Lê Duẩn khống chế từ đó). Chẳng phải Bùi Tín “ngu”, mà vì tuy ở hải ngoại những Bùi Tín vẫn hoàn toàn thi hành đường lối chạy tội cho họ Hồ, để dựng làm “thần tượng”, mọi sai lầm đổ hết lên đầu Lê Duẫn – Lê đức Thọ. Vì thế mà trước sau cứ mâu thuẫn hoài hoài!!!

Trước đống “chiến lợi phẩm”, nhờ vào cuộc xâm lược vũ trang nước VNCH, tập đoàn Việt gian cộng sản, đặc biệt là tướng tá và binh lính lê dương đỏ, cũng như lũ công an, mật vụ cộng sản, như một đàn chó đói, chúng cắn lộn nhau tranh ăn. Những tên như Văn tiến Dũng, Lê đức Anh, Mai chí Thọ v.v… cùng lũ tà lọt thân cận là vớ bẩm nhất. Những tên chậm chân, mất phần lồng lộn ghen tức. Thế là những chữ “yêu nước”“chính nghĩa” mà bút nô Bùi Tín, tận bây giờ vẫn ngoan cố gắn lên đầu đoàn quân lê dương đỏ xâm lược, thì ngay sau 30-4-1975 đã lòi đuôi, cũng chính Bùi Tín phải thừa nhận trong “Hoa xuyên tuyết”, trang 38, qua miệng một nhà báo Mỹ (Bùi Tín không nói tên), rằng:

“… Các ông không chinh phục cũng không giải phóng được miền Nam, các ông xử sự như những đội quân chiếm đóng”.

Cái mặt nạ “quân đội nhân dân” sau 30-4-1975 bị rớt ra và cả nước Việt Nam lẫn quốc tế đều thấy chúng chính là “quân đội giết dân”“quân đội ăn cướp của dân”. Chính Tố Hữu, đầu lãnh của lũ bút nô cộng sản, chuyên nghề “tô hồng, bôi đen” đã phải thốt lên:

Đúng là lũ ăn cướp, là quân thổ phỉ, quân đội cách mạng gì mà như vậy! Khi hắn bước chân xuống sân bay Đà-nẳng.

Những vụ bắt bớ ở khu tập thể cấp tá; vụ đặt bom làm cháy trụ sở báo “quân đội nhân dân” ở Lý nam Đế; vụ tàu bay quân sự chuyên chở thuốc lá lậu; vụ cháy kho Long Bình; vụ bán máy bay Mig, nguyên đai nguyên kiện; vụ quản chế trung tướng tổng cục hàng không v.v… và v.v… là cuộc đấu đá của các lũ tướng, tá lê dương đỏ ở cỡ chóp bu trở xuống. Và, thế là anh chàng con nuôi chánh cẩm thực dân Pháp thuở nào được một số “thuyết khách mới” – trong đó có Thành Tín, vận động để ra giành cái ghế “tổng bí thư” trong đại hội 7 của tổ chức Việt gian cộng sản: đó là Võ nguyên Giáp.

Cuộc bầu đại biểu trong lực lượng vũ trang đi dự đại hội cho kết quả là: Võ nguyên Giáp được nhiều phiếu nhất; kế đến sui gia của Giáp là đại tướng Hoàng văn Thái, rồi đến đại tướng Lê trọng Tấn cùng một số khác như Hoàng minh Thảo, Lê quang Đạo v.v… Nhóm đối đầu của Giáp, thì đầu lãnh Văn tiến Dũng chỉ đạt cái “vé dự khuyết”, còn các tay chân thân cận như đại tướng Chu huy Mân, trung tướng Đặng vũ Hiệp, trung tướng Lê ngọc Hiền v.v… “trượt vỏ chuối”.

Trước tình thế đó, vì quá ít thời gian, nên Võ nguyên Giáp cố xuất hiện mọi nơi, mọi chốn cho mọi người nhẵn mặt. Và, đại tá nhà báo, phó tổng biên tập báo Nhân dân, ra nước ngoài, lên đài BBC đọc “kiến nghị của một công dân” làm tiếng bom kiểu “tiếng bom ở Sa-điện” (Quảng châu – Tàu) của Phạm Hồng Thái, hy vọng Võ nguyên Giáp và phe cánh sẽ thu được thắng lợi để nắm lấy cái chức “tổng bí thư”. Nào ngờ, phe đối lập đi võ độc: phổ biến tài liệu về cái “quá khứ thảm hại” của Giáp. Thế là cái “ghế trung ương” còn không được thì làm sao mơ tưởng được cái ghế “tổng bí thư”.

Quan thầy “dzớt” đài nên đệ tử Thành Tín ngơ ngác, lang thang bên trời Tây.

Hồ luôn luôn thực hiện khẩu hiệu “giành chủ động trong bị động” và các đệ tử theo Hồ đều nhớ làm lòng câu đó.

Cho nên, có thể là từ Thành Tín; có thể là từ lũ đầu nậu Việt gian cộng sản trong nước đã “biến” cái “bị động lang thang” của Thành Tín thành “chủ động thâm nhập vào cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại”, với tư cách “kẻ chống đối đảng”, nhằm sử dụng “mồm”“ngòi bút để thu phục” cái cộng đồng của người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại này bằng “phỉnh phờ”, “mua chuộc” v.v… dẫn dụ từng bộ phận, đi theo trình tự:

- Quên quá khứ, xóa bỏ hận thù

- Hòa giải, hòa hợp xây dựng một Việt Nam dân chủ v.v…

- Đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực cho Tổ quốc Việt Nam

- Không phân biệt ranh giới Nam – Bắc, trong nước ngoài nước v.v… nghĩa là “từ chối quốc kỳ VNCH”, coi quân xâm lược ăn cướp cộng sản cũng cùng là người Việt Nam, cùng ôm nhau ca bài “kết đoàn”, cùng “nắm tay” xây dựng nước Việt Nam dân chủ, nhân bản, phồn vinh v.v…

- Tự nguyện làm “công dân” của nước CHXHCN/VN.

Các đối tượng để tác động:

+ Những trí thức tên tuổi, nhưng giao động về chính trị, mơ hồ về “địch” và “ta”, nghĩa là “xâm lược”“chống xâm lược”. Vì thế, cứ lẫn lộn gọi cuộc chiến ở Việt Nam hết là “chiến tranh chống xâm lược Mỹ”, lại đến “chiến tranh ủy nhiệm” (tức quốc – cộng) và sai lầm cực nặngtác hại cũng cực nặng khi coi đó là “chiến tranh huynh đệ”.

+ Những trí thức, nhà văn nhà báo nước ngoài thiên tả. Những kẻ chống chiến tranh trong các thập niên 1960-70.

+ Tầng lớp trẻ của cộng đồng tỵ nạn cộng sản, thiếu kinh nghiệm thực tế, ham “lý thuyết” xuông nên dễ bị đốn ngã.

+ Những phần tử gọi là “thành phần thứ ba”, hay nói như Đoàn viết Hoạt gần đây là “trung hòa”; tụi “du ca, phản chiến”. Những văn nghệ sỹ loại có giọng ca thiên bẩm, loại có năng khiếu sáng tác thiên về “thẩm mỹ”, nhưng yếu kém về lý luận nên không phân biệt nổi “đúng – sai”; nhất là loại có cuộc sống bê tha, ham tiền, ham nhậu, ham danh.

Trong vai hề mới, Thành Tín nhận lại cái họ Bùi mà hắn đã quẳng đi thời cải cách ruộng đất. Gốc gác con quan Hình bộ Thượng thư; là cậu ấm ở Quốc học Huế; là “bộ đội quốc gia” của thuở 1946-48; là nhà báo, được đi nhiều, quen nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu nước ngoài; là kẻ năm 1963 thâm nhập vào VNCH thám xét, điều nghiên; là kẻ gia nhập làng báo Việt gian cộng sản từ 10-1964, do đích thân tên Nguyễn chí Thanh lựa chọn; là kẻ có mặt trong ngày xích xe tăng của quân xâm lược đỏ nghiến trên đường phố Sài-gòn – thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa; là kẻ mò mẫm khắp các trại tù giam giữ và đày ải quân, dân, chính của VNCH là kẻ đi tiếp đôi chân xâm lược sang Căm-bốt v.v…; là kẻ đeo lon đại tá và giữ chức phó tổng biên tập báo Nhân dân. Nghĩa là vị trí của Bùi… thành Tín trong bộ máy xâm lược đỏ vừa là công cụ chuyên chính về vũ trang vừa laø công cụ chuyên chính về mặt tinh thần – tư tưởng!

Với mũ áo, râu ria, hia ngựa như vậy, Bùi Tín có nhiều thuận lợi để thuyết phục, mua chuộc mấy anh trí thức táo bón thông tin, ngộ độc thông tin; gan muỗi, óc bã đậu, nhanh chóng theo gợi ý của Bùi Tín để “oẹ” ra hàng đống sản phẩm ô uế, đầu độc những người tỵ nạn cộng sản lương thiện. Bùi Tín cũng dễ dàng lôi kéo được một số nào đó, đã “đầu hàng”, “khuất phục” khi bị hành hạ trong trại giam của quân xâm lược đỏ – cả loại cầm súng lẫn loại cầm bút – để tung ra những luận điệu tiếp cận dần dần với quan điểm chủ đạo của Bùi Tín – tất nhiên do sự chỉ đạo của tụi xâm lược đỏ chóp bu từ trong nước.

Nếu như tập đoàn Việt gian cộng sản khi xâm lược VNCH chỉ lo vơ vét của cải, vàng bạc, đất đai, thì nhân dân Việt Nam ở phía Bắc, trong đó có một số văn nghệ sỹ, trí thức lại “vơ vét” được những sản phẩm tinh thần của VNCH và của thế giới tự do. Nhờ đó họ đã “ngộ cái đạo làm người”, vì thế, bắt đầu có những tiếng nói đòi quyền làm người gióng lên, ở các mức khác nhau tùy theo mức độ “ngộ đạo”.

Sự tiếp xúc của hai miền Nam-Bắc Việt Nam đã khiến người dân miền Bắc có dịp so sánh hai chế độ mà tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh đặt tên là:

- Miền Bắc là XHCN, nhân dân làm chủ và ra đường là gặp anh hùng;

- Miền Nam (tức VNCH) là ngụy, thuộc địa của chủ nghĩa thực dân mới. Đàn ông thì ăn cắp, ăn cướp; đàn bà con gái làm đĩ cho lính Mỹ. Văn hóa thì đồi trụy, phồn vinh thì giả tạo v.v…

Sự thật không còn có thể che dấu được, nhất là nhân dân miền Nam, có dịp mó cái “xã hội chủ nghĩa”. Và tất cả chợt tỉnh giấc Nam kha, từ du kích đến “bộ đội nón tai bèo”; từ “bà mẹ chiến sỹ” đến “chiến sỹ diệt Mỹ-Ngụy”; từ người nông dân ít học cho đến những giáo sư, nhà báo văn chương, chữ nghĩa đầy ắp các túi quần, như giáo sư Nguyễn ngọc Lan, Lm Chân Tín v.v…

Những kẻ không chịu “nghe kinh nghiệm của người đi trước, tự mình mày mò thì thường thâu được kinh nghiệm lúc đã quá muộn để… thực hành!!!”

Một cuộc vượt biển khổng lồ, bao gồm cả Nam, cả Bắc, tỵ nạn cộng sản xâm lược, đã làm xúc động cả thế giới, ngay cả những người có lúc đã công-kênh tụi xâm lược cộng sản lên tận đỉnh tháp Eiffel như Jean Lacouture, thuê tàu đi vớt người tỵ nạn. Và, cái cộng đồng tỵ nạn cộng sản xâm lược hình thành và không ngừng lớn mạnh cả về chất lẫn lượng, khiến những chiến lược gia của quân xâm lược cộng sản đã dần dần thấy hình ảnh của David trước tên xâm lược khổng lồ.

Tuy cách Tổ quốc Việt Nam cả một đại dương, nhưng cuộc cách mạng thông tin của thế kỷ, lòng yêu nước vẫn nồng nàn và với tờ USA trong tay, cộng đồng tỵ nạn cộng sản đã trở thành hậu phương vững chắc của những người Việt Nam ở trong nước đã bừng tỉnh cơn mộng du trên đường lầy của cái gọi là CNXH.

Mẫu quốc Nga-xô sụp đổ như lầu đài cát. Anh hai Tàu cộng tạm nới lỏng cái giỏ cá cơm để nuôi “mèo trắng hay mèo đen” đều được cả, miễn là biết bắt chuột. Một lũ “đao phủ” đồng chí, đồng chóe của họ Hồ, thuở nào ở Đông-âu, đều đua nhau mua vé đi “chín suối” thăm Lénine và Staline. Chỉ còn lại dăm đứa con hoang côi cút, trong đó có tập đoàn Việt gian cộng sản, đang lúng túng như gà mắc tóc trước sự phản công của những người chống xâm lược – ở hải ngoại – đòi quyền sống, quyền tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng v.v… ở trong nước.

Lá bài Bùi Tín được tung vào cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản trong bối cảnh như vậy.

Với kinh nghiệm lật đổ, phá hoại, chia rẽ, tuyên truyền xuyên tạc, mị dân v.v… tập đoàn Việt gian cộng sản cử thêm những tên phản tỉnh cuội ra hải ngoại tiếp tay với Bùi Tín; những tên “thành phần thứ ba”, xưa kia ở trong Nam, cũng được dụ dỗ, đánh bóng bằng những án tù nặng nề, bằng “biệt giam” để bồi dưỡng “võ lũng đoạn, gây rối”.

Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại đã dấn thân đấu tranh, biểu tình, tố cáo trước quốc tế đòi “thả những người bị giam giữ ở trong nước”. Tập đoàn Việt gian cộng sản đi võ “một mũi tên bắn trúng nhiều đích”. Chúng thả một số ra, thế là với dư luận quốc tế, chúng có vẻ tiến bộ. Và cái cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản vô tình đã tự nguyện đón nhận một số điệp viên của quân xâm lược đỏ, đã được đội thêm vòng nguyệt quế, nào “tù lương tâm”, nào đủ thứ râu hề mà lại do chính cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản đội cho. án tù nghe thật nặng – 20 năm, nhưng thực tế ở chưa đến… 6 năm đã ra để làm… lãnh tụ tương lai của phe trung hòa!!!

Cũng dịp đó, Vũ thư Hiên, đang ở Nga, bị “đánh và bị ăn cắp tài liệu cho cuốn ‘Đêm giữa ban ngày’”, nên phải chạy tỵ nạn sang Pháp và cho xuất bản cuốn “Hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, có tên “Đêm giữa ban ngày” (tài thật, lại có tài liệu ở đâu ra mà nhanh hơn điện???)

Và, thế là nhóm của Nguyễn gia Kiểng, đã cắm rễ ở Pháp từ trước, với món hàng “hòa giải – hòa hợp”, có thêm những quan thầy tiếp sức: một anh đối kháng cuội, một anh tay sai của Nga-xô bị tay sai của Tàu cộng bợp tai – trùm nói dóc, thêm một anh “tù lương tâm” về tội “trung hòa” cùng lũ cơ hội, chủ hàng… tụ họp biểu diễn màn “hòa giải – hòa hợp” ở hải ngoại.

Các tay sai của Nga-xô xưa kia bị lũ thân Tàu cộng cho đo ván trên võ đài, được Vũ thư Hiên, qua hồi ký chính trị “Đêm giữa ban ngày”, phù phép thành những người đấu tranh cho dân chủ (cuội) – từ cái thời… 1960 – 1963!!!

Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại, vì lòng chân thật, không thể tin rằng có những tên đại bịp như vậy, nên vô tình tiếp tay đánh bóng, cái lũ Việt gian thờ Nga-xô, ở tầm vóc quốc tế, cũng chính từ những thông tin “bất lương” trong “Đêm giữa ban ngày”.

Tội ác lớn nhất của bọn chúng là cố tình xóa bỏ truyền thống của Việt Nam. Tụi thân Tàu cộng thì Tàu hóa toàn dân. Tụi thân Nga-xô thì Nga hóa toàn dân.

Cả hai tập đoàn –thân Tàu thân Nga-xô – đều tranh nhau làm chủ dân mà cấu xé nhau, chẳng hề có đứa nào đấu tranh cho dân chủ!!!

Tụi làm nhiệm vụ Tàu hóa nhân dân thì đứa nào cũng ăn mặc đúng kiểu Ba Tàu cộng: áo “đại cán” 4 túi, cổ cao có móc đồng; quần đồng màu với áo; đội mũ lưỡi trai kiểu Mao; chân đi hoặc giầy vải – tụi khá giả, hoặc dép lốp – tụi nghèo. Bọn này hay đeo các huy hiệu lăng nhăng đủ loại, có bán ở các hiệu bán sách báo. Túi áo “đại cán” thì một bên đựng cái khẩu trang, một bên đựng cái khăn mặt bông để lau mặt hoặc lót cổ áo. Mặt mũi lúc nào cũng “tư lự” cứ như là lo nghĩ việc nước.

Tụi làm nhiệm vụ Nga hóa nhân dân thì ăn mặc theo mốt Đông-âu, thường sơ-mi trắng hoặc màu cỏ úa, quần ka-ki và thường mang giày da hoặc xăng-đan nhựa; mùa đông có thể mặc áo bông xanh cổ lông, nhưng thế nào cũng phải lòi cái cổ áo sơ-mi trắng. Đứng đâu, ngồi đâu cũng ồn ào, bắng nhắng như “Tây con”, mồm luôn “nhiét nhiét” hoặc “kha-rát-sô”.

Cả hai bọn đều đua nhau dịch các sách của mẫu quốc đỏ Nga-xô, Tàu cộng, phổ biến khắp hang cùng, ngõ hẻm. lĩnh vực này, tụi thờ mẫu quốc đỏ Nga-xô thắng thế hơn tụi thờ Tàu.

Xưa kia, các nhà nông dân Việt Nam thướng có “câu đối”, “hoành phi”, các tranh dân gian như “đám cưới chuột”, “chuột vinh qui”, thì nay trên vách toàn là ảnh các nam nữ tài tử điện ảnh Nga-xô. Kệ sách thì toàn sản phẩm của Nga-xô được chuyển ngữ, từ “Sông Đông êm đềm” đến “Người Xô-viết chúng tôi”; từ “Nam tước Phôn-gô-rinh” đến “Vượt sông En-bơ”; từ “Thép đã tôi thế đấy” đến “Bông hồng vàng” (“Bông hồng vàng” là dịch phẩm của Vũ thư Hiên). Lác đác cũng có vài cuốn sách Tàu-cộng như “Thượng cam lĩnh” hay “Lôi phong” và ảnh trong phim “Bạch mao nữ” hay “Cờ hồng trên núi thúy”!

Tội ác của tụi thờ Nga-xô thật tai hại, nhất là trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Nó phổ cập lối sống Nga-xô, tư tưởng tôn thờ Nga-xô gần như tuyệt đối. Thực dân Pháp có cả gần trăm năm mà không bén gót thực dân Nga-xô trong vòng 20 năm. Tốc độ và chiều sâu của việc Nga hóa nhân dân Việt Nam chính là do bè lũ mà Vũ thư Hiên phết sơn thành “những nhà đấu tranh cho dân chủ”, đến mức có người trân trọng, gửi đô-la Mỹ về, biếu lũ Việt gian đó!!! Đúng là kẻ thì đại bịp, người thì quá… khờ. Những đồng đô-la Mỹ đó đúng ra phải được chuyển cho thương phế binh QLVNCH!!!

Sự tôn thờ Nga-xô đến mức các thanh niên nông dân ở miền Bắc Việt Nam, những năm 1956-1975, dù mang những tên khá hay, như Dũng, Long, Sơn, Hải v.v… hoặc với nữ như Cúc, Lan, Hồng, Phượng v.v… nhưng vẫn tự đặt cho những tên Nga như Vích-to, Xéc-gây… hay nữ thì: Zôi-a, Na-ta-sa, Lút-mi-la v.v… Thật kệch cỡm hết chỗ nói.

Nếu ngày xưa khi làm ngoài đồng, nam nữ hát ví, hát ru em những ca dao Việt Nam, thì nay thích hát bài “Nữ anh hùng Zôi-a” hoặc “Tiếng hát dòng sông Si-bê-ri” v.v…

Trong lĩnh vực khoa học nông nghiệp, những tên thờ Nga-xô, như viện sỹ Bùi huy Đáp, cùng các đệ tử, thì ra công phổ biến “kiến thức phản khoa học” của cái gọi là học thuyết “Mít-su-rin – Lư-xen-cô”.

Sau tháng 4-1975, chính là nhờ ngọn gió truyền thống từ nước VNCH thổi ra mà bộ mặt xã hội miền Bắc Việt Nam thay đổi hẳn. Nếp sống truyền thống của dân tộc được phục hồi dần dần. Những sản phẩm tanh tưởi, mất gốc của tụi Việt gian thờ Nga-xô (trong đó có cha con Vũ thư Hiên) được Vũ thư Hiên đánh bóng là “những người đấu tranh cho dân chủ” (hay dân chửi), mới bị gió Nam thổi bạt gió Nga-xô.

Sài-gòn sau 30-4-1975 đưa đến hai nhận định:

- Nhân dân và cán bộ cộng sản – kể cả binh lính, văn nghệ sỹ – bật ngửa ra rằng về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa đến giáo dục, sản xuất công, nông, thủ công nghiệp, không một điểm nào miền Bắc bén cái gót chân của miền Nam.

- Người miền Bắc Việt Nam nhanh chóng phát hiện rằng, cho dù cuộc chiến do tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh phát động nhằm xâm lược nước VNCH, phục vụ chiến lược bành trướng của chủ nghĩa đế quốc đỏ Nga-xô – Tàu cộng, kéo dài hàng 20 năm, nhưng miền Nam hiểu về miền Bắc cộng sản rất hời hợt. Chẳng có công trình nghiên cứu nào phản ánh được trung thực. Người ta hiểu về lũ xâm lược đỏ miền Bắc và cuộc chiến xâm lược qua tròng mắt và các cục óc của những ống kính và cây bút như: Jean Lacouture, Thomas Lippman, Félix Bolo, Jean Claude Labbé, Jean-Emile Vidal, Bernard Fall, Peter Arnett v.v… Vì thế mới chịu đóng tiền ăn đi “tù”; “duy trì 5 thành phần kinh tế”; đấu tranh từ Guam để trở về các trại tù ở Việt Nam; “miền Nam nhận họ và miền Bắc nhận hàng”. Và điều tai hại nhất là từ đó đến nay vẫn còn nhiều người chưa nhận thấy tính cách xâm lược chống xâm lược của cuộc chiến.

*****

Bùi Tín, Vũ thư Hiên cùng tay chân như nhóm Nguyễn gia Kiểng v.v… cùng một vài người cầm bút không có khả năng tiêu hóa thông tin lại còn bị ngộ độc những thông tin giả, nhất là thông tin của “Tây-Đầm” chế biến từ nguyên liệu ô uế của tụi trí nô do tập đoàn Việt gian cộng sản chăn giắt, vỗ béo, đã sử dụng hết công suất của các công cụ truyền thông, nhằm lũng đoạn tư tưởng, phân tán hướng đấu tranh của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại.

Thí dụ: Trong “Mây mù thế kỷ”, ở các trang 66-67, Bùi Tín đã viết:

“Về phía những người cầm quyền ở miền Bắc, cũng có quan điểm cho rằng không hòa hợp hòa giải với những kẻ “bán nước”, “tay sai đế quốc”. Những người chiến thắng luôn luôn là chính nghĩa. Những người bại trận là phi nghĩa, phải phục tùng.”

Bùi Tín kết luận: “Đấy cũng là một cách nhìn cực đoan”. Và, Bùi Tín gây mơ hồ cho người đọc bằng những dòng sau đây:

“Chính những người cầm quyền đã từ chối hòa hợp hòa giải hồi năm 1973-1974, điều đã được ghi trong Hiệp định Paris mà họ là một bên ký kết, họ đã cố tình bỏ qua cam kết và đã cho mình toàn thắng, trịch thượng, tự phụ trong vấn đề này. Đáng lẽ phải hòa giải hòa hợp dân tộc thì họ lại thực hiện chính sách trả thù những người thua trận. Đây là một thái độ mù quáng, trái với truyền thống nhân nghĩa của dân tộc.”

Mới đọc thoáng qua, tưởng chừng me-xừ đại tá ngụy quân cộng sản Bùi Tín “khách quan” phê phán tập đoàn cộng sản Việt gian. Nhưng xin lưu ý quý bạn đọc về cái chất lưu manh của ngòi bút Bùi Tín. Đó là:

1. Đáng lẽ Bùi Tín phải “khách quan” nhìn nhận xem giữa miền Nam và miền Bắc, ai là kẻ “bán nước”. “tay sai đế quốc”, như:

- Máu của QLVNCH đã đổ ra để bảo vệ hải đảo của Việt Nam, trong khi Phạm văn Đồng ký văn thư công nhận việc xâm lược đó của Tàu cộng. Vậy kẻ “bán nước” là ai?

- Ai dâng cho Đế quốc đỏ Nga-xô sử dụng free cảng Cam-ranh và liên doanh dầu khí Việt-Xô theo công thức: chủ ăn thịt, chó gặm xương.

- ở đâu mà chế độ chính trị phải ghi rõ những cái tên ngoại quốc Lénine, Staline, Mao trạch Đông. Và, từ cơ quan, trường học, chợ búa, bệnh viện cho đến trụ sở quốc hội, trụ sở đảng và chính phủ v.v… chỗ nào cũng phải treo ảnh tôn thờ Lénine, Staline rồi nào Bulganine, Khrút-xép, Brê-zơ-nép, Andropốp, Tchec-nen-cô cho đến Goóc-ba-chốp?

- Miền Nam có treo ảnh Kennedy, Johnson, Nixon v.v… không?

2. Bùi Tín “phê phán” những người cầm quyền cái tội rất “tủn mủn” là “từ chối hòa giải hòa hợp hồi năm 1973-1974” mà cố tình không nói đến việc chúng dùng chiêu bài “hòa giải hòa hợp” để ru ngủ tinh thần cảnh giác của nhân dân VNCH, tạo “đề tài” cho lũ “thành phần thứ ba” – tức lũ nón tai bèo ở thành thị – bàn ngang như hiện nay chúng đang làm ở hải ngoại, để chia rẽ quân, dân, cán, chính của VNCH, từ đó chúng tiếp tục vũ trang xâm lược. Cái tội xâm lược được Bùi Tín làm lu mờ đi.

Sau khi phê phán cái tội “tủn mủn” và cũng ra vẻ “khách quan” đội cho tập đoàn Việt gian cộng sản cái nón “cực đoan”; ngòi bút của Bùi Tín chỉa về phía nạn nhân của cuộc vũ trang xâm lược, rằng:

Về phía những người chống cộng cực đoan hiện nay cũng vậy, thái độ của họ giống hệt như những người cộng sản (chúng tôi nhấn mạnh NN/LT). Những người này tự nhận là quốc gia và coi những tổ chức của họ là duy nhất đúng đắn, là chính nghĩa. Họ coi thường những người trước từng là cộng sản hoặc hiện còn ở trong hàng ngũ cộng sản. Họ nhìn tất cả những người cộng sản bằng con mắt hận thù…”

Những phần tiếp sau, Bùi Tín “phân tích” nghe có vẻ “vừa tình vừa lý”. Chính thế mà còn có không ít người chưa nhận ra bộ mặt thật của Bùi Tín.

Chỉ riêng cái việc đánh đồng miền Nam cũng như miền Bắc là hoàn toàn lưu manh cố tình trộn lẫn thực giả!

Làm sao cái cực đoan của tụi xâm lược, dùng mọi thủ đoạn bẩn thỉu của cái gọi là “3 mũi giáp công”, như một mặt tung ra luận điệu “hòa giải hòa hợp dân tộc” nhưng vẫn đưa quân lính, súng đạn vào Nam; ký Hiệp định Paris ngưng chiến, nhưng vẫn tiếp tục làm chiến tranh mạnh hơn. Và, khi chiếm xong miền Nam, chúng đã hành xử mà Bùi Tín phải thừa nhận là “quân chiếm đóng”. Chúng vũ trang xâm lược VNCH, chúng cướp hết tài sản, đất đai nhiều đời của nhân dân VNCH; chúng san bằng mồ mả của nhân dân và quân đội VNCH; chúng bắt giam hàng triệu người đi lao động khổ sai; chúng lùa hàng triệu gia đình đi lưu đày; chúng tổ chức xua đuổi nhân dân VNCH phải bỏ nước đi tỵ nạn v.v…

Vậy mà nay, những nạn nhân của cuộc xâm lược phải tay trắng đi tỵ nạn, nay đấu tranh phục quốc, đòi lại những cái của mình, của máu xương, mồ hôi công sức của tổ tiên để lại – mới đòi bằng miệng thôi – thế mà bị gọi là cực đoan.

Làm sao cái cực đoan của người bị cướp lại có thể giống cái cực đoan của quân cướp.

Làm sao chống xâm lược lại có thể là cực đoan. Nếu vậy thì các tiên liệt của Việt Nam từ Hai Bà Trưng đến Ngô Quyền; rồi nhà Lý chống quân Tống; nhà Trần chống Nguyên-Mông; Lê Lợi chống quân Minh; Quang Trung chống quân Thanh; Hàm Nghi, Duy Tân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu v.v… đều cực đoan chăng?

Có bao giờ Bùi Tín cố bứt ra khỏi cái di truyền qua dòng máu “tay sai cho ngoại xâm” của Bùi bằng Đoàn để tự giải đáp vì sao lại có cái cực đoan đó, từ đâu mà ra, làm sao xóa bỏ được?

Bài học lịch sử đã chứng minh, không phải một lần mà rất nhiều lần:

1. ở Việt Nam:

- Quan hệ nhà Lý của Việt Nam với nhà Tống của Tàu chỉ hết cực đoan khi Tống tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Cũng như thế ở các triều đại Trần, Lê, Nguyễn v.v…

- Việt Nam Cộng Hòa đã thiết lập bang giao và có quan hệ kinh tế, văn hóa v.v… với Pháp khi Pháp cắt cái đuôi thực dân. Làm gì còn chuyện chống Pháp cực đoan. Bùi Tín cứ hỏi ông thầy Jean Lacouture của Bùi Tín xem.

2. Nước ngoài:

- Quan hệ Mỹ – Nhật hiện nay ra sao, khi Nhật từ bỏ chiến tranh xâm lược.

- Quan hệ Nga – Đức cũng vậy, khi Đức từ bỏ chủ nghĩa Phát-xít và nhất là từ khi Nga từ bỏ chủ nghĩa thực dân đỏ – núp dưới cái tên chủ nghĩa Mác-Lê! Với Pháp cũng thế, đâu còn cực đoan chống Đức , không những thế, ba nước Pháp-Đức-Nga còn ôm nhau thắm thiết vì một số mưu đồ chung trên bàn cớ thế giới.

Tóm lại, cái mà Bùi Tín đội cho tụi xâm lược cộng sản Việt Nam hiện nay là cực đoan, hoàn toàn sai. Bọn chúng hành xử đúng hệt bất kể tụi xâm lược nào không chỉ qua lịch sử Việt Nam mà qua cả lịch sử toàn thế giới.

Còn cộng đồng người Việt tỵ nạn xâm lược cộng sản ở hải ngoại – mà Bùi Tín gọi là “người quốc gia” – cũng như những người Việt Nam ở trong nước bị tập đoàn thực dân đỏ đang thống trị và cùm kẹp, cần nhớ phải cực đoan hơn nữa mới xứng đáng với công lao chống ngoại xâm của Tổ tiên. Mức độ cực đoan như hiện nay bị Bùi Tín đánh giá còn chưa đủ về cường độ và số lượng người cực đoan cần nhân lên nhiều hơn nữa; phải vận động cả ở trong nước và ngoài nước cùng cực đoan hơn nữa. Vì cực đoan như hiện nay mà trong nước người dân vẫn bị bịt miệng, tôn giáo vẫn bị đàn áp; người sắc tộc thiểu số vẫn bị kỳ thị; nông dân vẫn bị cướp ruộng đất; công nhân vẫn bị bóc lột tàn bạo v.v… Và, sự kỳ thị lớn nhất là cái gọi là lũ “đảng viên cộng sản” vẫn coi toàn dânđất nước Việt Nam là tài sản riêng của chúng, hoàn toàn giống tụi xâm lược phương Bắc và phương Tây. Những biểu hiện cụ thể là điều 4 trong cái gọi là Hiến pháp và nghị định 31/CP do tên Võ văn Kiệt ký và tên Phan văn Khải bổ xung hoàn chỉnh hơn.

Qua sơ lược trích dẫn từ sách của Bùi Tín như trên, dù có mù cũng thấy được nhiệm vụ của Bùi Tín hiện nay là: tập hợp chân tay lập ra tổ chức này, tổ chức nọ, tận dụng mọi phương tiện truyền thông ở hải ngoại để nhiễu loạn thông tin. Núp dưới áo mũ phản tỉnh để:

1. Lèo lái dư luận quốc tế tiệm cận với quan điểm của tụi Việt gian cộng sản xâm lược;

2. Làm thanh niên Việt Nam trong các gia đình tỵ nạn cộng sản xâm lược bị mơ hồ về các sự kiện lịch sử, không nhận ra bộ mặt xâm lược của tập đoàn Việt gian cộng sản;

3. Cố gắng truyền bá quan điểm “hòa giải hòa hợp” nhằm xóa bỏ ranh giới giữa nạn nhân với tội phạm, từ đó hạ thấp cường độ đấu tranh chống tập đoàn Việt gian cộng sản xâm lược.

4. Điều hành việc tuyên truyền, đề cao ở tầm vóc quốc tế những phần tử do an ninh của tập đoàn Việt gian cộng sản cài vào phong trào phản kháng ở trong nước. Để khi can thiết, tụi xâm lược thống trị sẽ bày trò chia quyền lãnh đạo với lực lượng đối kháng – đã được cộng đồng tỵ nạn cộng sản xâm lược và tổ chức dân chủ quốc tế… thừa nhận, mà thực ra đó là lũ Việt gian cộng sản trá hình.

Bùi Tín, Vũ thư Hiên cùng nhóm Nguyễn gia Kiểng… đã tìm mọi cách đề cao tụi Việt gian cộng sản trá hình đối kháng lên tầm cao hơn một cái đầu, so với một số người trẻ tuổi là đối kháng thứ thiệt.

Người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại bị mơ hồ vì mồm miệng và ngòi bút của Bùi Tín, Vũ thư Hiên… đã đành, ngay một số người ở trong nước cũng bị lừa.

Những kẻ đối kháng cuội ở trong nước là ai?

1. Kẻ nguy hiểm, bất lương nhưng cũng bất tài nhất là “viện sỹ” “tiến sỹ” Nguyễn thanh Giang. Người lúc nào cũng nâng cái tôi lên hết cỡ thợ mộc. Nào là:

+ Bạn thân của Trần đức Lương – chủ tịch cái gọi là nước CHXHCN Việt Nam;

+ Bạn thân, cố vấn cho tên đao phủ, uống máu nhân dân Việt Nam. Đó là tên trung tướng ngụy quân cộng sản Việt Nam, một trong những tội phạm đầu sỏ trong cuộc chiến xâm lược VNCH: Trần Độ;

+ Là người được anh Lê chí Quang chủ động đến xin làm quen vì… phục tài;

+ Là người chấp bút bài mà nhà báo Nguyễn vũ Bình đã “đạo văn” để gửi cho bà Loretta Sanchez, đại biểu quốc hội Hoa Kỳ.

+ Là người có nhiều khách nước ngoài đến thăm nhất Hà-nội;

+ Là người mà bản thân cùng vợ và 2 con đi nước ngoài thường xuyên. Hai con đều làm việc tại thế giới Tây phương;

+ Là người được… nhiều bằng khen, giấy khen là “lao động tiên tiến” và được cơ sở đề nghị… là “anh hùng lao động” toàn quốc (hì, hì, hì…);

+ Là “tác giả” bài viết khen tài của Hà sỹ Phu để lại có dịp kết luận bằng bài thơ của Hà sỹ Phu… ca ngợi Nguyễn thanh Giang (theo kiểu “mẹ hát con khen hay”);

+ Là tác giả bài: “Sao chính chính quyền ta bay giờ lại sợ nhân dân đến thế”. Tưởng “nhân dân” là ai, hóa ra là me-xừ tiến sỹ”Ba đình” Nguyễn thanh Giang, người rất thích sử dụng cụm từ “đồng chí” là cụm từ ngay báo Nhân dân cũng rất ít khi dùng. Bài tả lại sự gian nan đối kháng của “tiến sỹ nhân dân Nguyễn thanh Giang qua việc đạp xe đi đưa bài “Nhìn nhận về đa cực hóa thế giới” cho… các đầu đà của tập đoàn Việt gian xâm lược. Nguyễn thanh Giang cố tình mô tả để người đọc thấy các đồng chí cộng an ở chỗ nào cũng lễ phép, nhã nhặn, hoàn toàn khác hẳn sự tố cáo của nạn nhân bị đàn áp về tôn giáo; bị cướp đất cướp nhà đội đơn khiếu nại v.v… Và, lố bịch nhất là đoạn văn sau đây:

“Để tăng phần nào khả năng bài viết đến tay Chủ tịch nước, ngoài bì tôi chỉ đề gửi ông Chánh văn phòng Chủ tịch Nước. Trong phong bì kèm bức thư ngắn: “Kính gửi đồng chí Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch Nước. Kính nhờ đồng chí chuyển giúp bài viết này đến tay đến tay đồng chí Chủ tịch Nước. Anh Trần đức Lương rất biết tôi. Xin chân thành cảm ơn.”

Gọi Trần đức Lương bằng anhbệnh cố hữu “thấy sang bắt quàng làm họ” của Nguyễn thanh Giang, xuyên suốt các bài viết của hắn.

Tất nhiên Trần đức Lương phải “rất biết tôi” – tức Nguyễn thanh Giang. Vì ngoài cái chức “Chủ tịch nước”, hắn còn giữ chức “bí thư ban cán sự an ninh trung ương”. Vì thế, bài mà Nguyễn thanh Giang viết và email khắp nơi thì không sao, còn Nguyễn vũ Bình chỉ chép lại, gửi theo yêu cầu của dân biểu Hoa-kỳ Loretta Sanchez, thì bị tù 7 năm và 3 năm quản chế.

Nhà báo Nguyễn vũ Bình sinh đẻ ở tỉnh nhỏ gần nông thôn, vậy mà lại quên rằng “Kẻ bẫy cò không bao giờ làm thịt con cò mồi!!!

Cũng qua bài trên; Nguyễn thanh Giang cho người đọc thấy, nhân viên công sở ngụy quyền Hà-nội lễ phép đến mức “phịa”, hoặc chỉ đặc biệt lễ phép với “cò mồi”. Xin quý bạn đọc “nghiên cứu” kỹ lưỡng đoạn văn sau:

“Tôi đề nghị người gác cổng cho vào Phòng Văn thư. “Không vào được bác ạ”. Tôi không có đơn kiện gì đâu đồng chí ạ, tôi chỉ gửi bản góp ý về đường lối đối ngoại một cách rất đứng đắn. “Thư từ gì bác cứ gửi qua bưu điện, không đưa được vào văn thư đâu bác ạ!”. “Đây, đồng chí xem, chỉ có ba văn thư tôi gửi phó chủ tịch Quốc hội Trương quang Được, chủ nhiệm ủy ban đối ngoại Vũ Mão và ông Chủ nhiệm ủy ban An ninh và Quốc phòng của Quốc hội. Hoặc đồng chí cho tôi vào đưa cho văn thư, hoặc tôi để đây, đồng chí xem xong thấy nội dung tốt thì đồng chí chuyển. Nếu đồng chí không bằng lòng thì đốt đi cũng được.” “Cháu không dám nhận, cũng không dám xem văn bản của bác”… (lễ phép quá cỡ thợ mộc, ô là là).

Phòng thường trực xây cao, người thường trực chỉ cỡ tuổi con trai tôi, tôi đứng dưới đường ngửa cổ lên, nuốt nước mắt vào lòng (me-xừ tiến sỹ này “cải lương”quá xá!)”

“Phải nói “nuốt nước mắt vào lòng” để lỡ người thường trực, vô tình đọc bài của Nguyễn thanh Giang, lại lên tiếng cải chính rằng “làm gì có chuyện Nguyễn thanh Giang khóc, hai mắt rắn dáo khô khốc thì có!” Hoặc giả, Nguyễn thanh Giang nhớ đến truyện Tam quốc của Tàu, đoạn viết về việc vua đến nhà Chung Do, con trai lớn của Chung Do thấy vua, sợ quá mồ hôi ra như tắm; còn Chung Hội thì tỉnh bơ. Bị vua hỏi, Chung Hội thưa rằng: “Vì sợ quá nên mồ hôi toát vào trong”. Vua cho là người tài.

Nguyễn thanh Giang thì “nuốt nước mắt vào lòng” nên chắc cũng là người tài. Tiếc rằng đó là tài sạo!!!”

Sau cùng, Nguyễn thanh Giang phải “đành đưa danh thiếp có ghi học hàm, học vị…”, mới gửi được văn bản cho nhân viên văn thư (lại khoe cái tôi quan trọng!).

Thử tưởng tượng, ở Mỹ có một ai đó, chạy đến tòa Bạch ốc, đòi gửi cho tổng thống Bush một văn bản góp ý thì không biết được đối xử ra sao?

Cuối bài nói trên, Nguyễn thanh Giang dùng lối viết của Trần dân Tiên, để tự ca ngợi tấm lòng “vì dân vì nước” của hắn. Hồ chí Minh tự bốc thơm phải dùng bút danh Trần dân Tiên. Còn Nguyễn thanh Giang – hậu sinh khả úy – da mặt cực dày và cũng cực ngu mới tự tô vẽ như sau:

“Tôi về nhà, huyết áp tăng đột ngột, trằn trọc không sao ngủ được. Buồn tủi quá! Nhục nhã quá! Uất ức quá! Mình là con cháu Dông-ky-sốt, bà Nữ Oa… hay chỉ là một con dã tràng? Sao đã không giúp được tý việc gia đình nào lại còn bỏ ra không biết bao nhiêu tiền đáng nhẽ phải giành dụm cho con, cho cháu để mua hết sách này báo kia, đọc ngày đọc đêm. Mỗi bài viết xong, riêng tiền photocopy và cước phí bưu điện để gửi đi có khi cũng bằng lương tháng của một công nhân.”

Và, láo lếu nhất là Nguyễn thanh Giang dám tự ví như nhà đại ái quốc Phan Bội Châu!!!

Còn một cái lưu manh kiểu hai mặt là Nguyễn thanh Giang viết: “Chỉ băn khoăn rằng sao chính quyền ta bây giờ lại khinh dân, sợ dân đến thế?”

Làm gì có chuyện ngụy quyền Việt gian Ba đình sợ dân. Chúng khinh dân từ khi Hồ chí Minh đặt xong ách thực dân đỏ lên phía Bắc Việt Nam bằng việc phải hô các khẩu hiệu:

- Liên-xô muôn năm!

- Hồ chủ tịch muôn năm!

- Đảng Lao động (tức mafia cộng sản) muôn năm!

Và, sau khi đặt ách thực dân đỏ lên cả nước Việt Nam thì chúng ghi trong cái gọi là Hiến pháp, điều 4, quyền độc tôn làm chủ xã hội của cái gọi là tập đoàn Việt gian cộng sản xâm lược. Còn toàn dân Việt Nam chỉ được phép là nô lệ!

Nguyễn thanh Giang thuộc tầng lớp trên của xã hội thực dân đỏ giả làm dân thường nên “chính quyền ta” mới sợ. Còn dân thứ thiệt như Lê chí Quang, Nguyễn vũ Bình, Nguyễn khắc Toàn, Phạm hồng Sơn, Nguyễn đình Huy, Nguyễn văn Lý v.v… và các nông dân bị chiếm đất, giáo dân ở An Truyền, Nguyệt Biểu – nói riêng, người theo đạo Tin lành ở Tây Nguyên v.v… bị cái “chính quyền ta” của Nguyễn thanh Giang đối xử ra sao, chẳng lẽ Thanh Giang “mua hết sách này báo kia, đọc ngày đọc đêm” nên bị mù hoặc không có thì giờ để tìm hiểu?!!!

Thanh Giang kể lể mất nhiều tiền, mua sách báo. Một “trí thức bự của Ba đình” mà than vãn vì phải mua sách báođọc sách báo thì… đúng tiến sỹ Ba đình rồi!!! Chỉ “tiến sỹ giấy” mới không mua sách và đọc sách mà thôi. Cái ngu của Nguyễn thanh Giang là tự moi bản chất cuộirổm ra!

Tất nhiên, cũng còn nhiều kẻ ngu hơn Nguyễn thanh Giang. Đó là tụi lấy đầu làm ghế cho Nguyễn thanh Giang ngồi lên!

Về quan điểm chính trị, Nguyễn thanh Giang hệt như Trần Độ – ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Nếu Trần Độ thích cái mô hình xã hội của Đặng tiểu Bình, thì Nguyễn thanh Giang ra sức ca ngợi Giang trạch Dân và cả… Đặng tiểu Bình.

Bạn đọc muốn biết rõ hơn, xin đọc các bài phân tích của Hải Hồ, mang tên “Thạch Sanh Lý Thông”, đăng trên tạp chí Chiến sỹ Quốc gia, số 16 (Tiếng nói của Liên hội cựu chiến sĩ VNCH vùng Hoa thịnh Đốn), hoặc bài “Thư gửi ông Tiến sỹ Nguyễn thanh Giang của Dạ Đàm Trần Chương Lương, đăng trên tại chí Người Dân, số 158 (PO. BOX 2674 – Costa Mesa – California 92628 – USA).

Chúng tôi xin phép trích đăng bài “Thơ gởi Nguyễn thanh Giang” của Tha Hương, đăng trên tạp chí Người Dân, số 146:

“Khá khen cho Nguyễn thanh Giang

Khôn ngoan đi trước mở đàng, cao tay!

Thấy Độ chết không bày kèn trống

Giang vội vàng khóc rống, thảm thương

Kẻo mai Giang chết lề đường
Không ai than khóc cái phường giết dân
Giang khôn lắm nhưng đần cũng lắm
Tiếng khóc than khăm khẳm làm sao!
Trần Độ nếu có công lao
Thì công với đảng chứ nào với dân!
Hắn ta thuộc thành phần nòng cốt
Cùng dựng lên trụ cột nhà Hồ
Sao không bảo lũ côn đồ
Trai đàn, tưởng niệm ma cô, hỡi đần?
Mà kêu gọi người dân tỵ nạn
Đi tôn vinh đại cán nhà Hồ?
Khá khen ông lắm mưu mô
Nói điều cuồng dại, ý đồ tối tăm
Lời nói ông chỉ nhằm lừa mị
Bọn nằm vùng, nhất trí bưng bô!
Chúng tôi, tỵ nạn, không ngu
Biết ai là bạn, là thù, ông ơi!
Chỉ chấp nhận những người cộng sản
Biết mình lầm, bỏ đảng, bỏ ngôi
Còn như thất sủng, giận đời
Chống đoàn, chống đảng vì ngôi vì tiền
Rồi đánh bóng cái tên Hồ tặc
Để bưng tai, bịt mắt muôn người
Thì mau đi chỗ khác chơi
Chớ mà lải nhải, lắm lời điếc tai!

Im mồm hỡi cán Giang Mai
Chớ rồ chớ dại, nói dai, nói khùng!
Tha Hương ta nếu nổi sùng
Cả lò cộng sản nhà ông nhừ đòn!”

Như thế có nghĩa là, dù Nguyễn thanh Giang có đem cái mẹt “viện sỹ”, “tiến sỹ” ra che mặt, và dù có được nhóm Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Nguyễn gia Kiểng… cùng một số vệ tinh tâng bốc lên thành “đại trí thức”, “đại trí tuệ”, “nhà chống đối nổi tiếng”… thì nhiều người trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản vẫn nhìn ra được bộ mặt thật của Nguyễn thanh Giang. Bởi vì những người đó đã đọc những bài viết, nghe phỏng vấn của Nguyễn thanh Giang chứ không phải như một số nào đó không chịu đọc, hoặc nếu có đọc thì lớt phớt kiểu chuồn chuồn đập nước – tất nhiên, loại trừ bọn cơ hội, chờ dịp đi đêm với cộng sản, hoặc bọn nằm vùng.

Sau một loạt bài của Hà sỹ Phu, rồi sách của Dương thu Hương, Trần mạnh Hảo, Bảo Ninh… cho đến sự phản kháng của Bùi minh Quốc, Tiêu dao Bảo cự… cũng như các phóng sự của Phùng gia Lộc, truyện ngắn của Nguyễn huy Thiệp… đi theo bước khai phá của Lưu quang Vũ trong kịch nói, rồi đến phản ứng của Trần Độ vì bị rớt đài, người ta mới thấy sự xuất hiện không bình thường của tiến sỹ Nguyễn thanh Giang. Vì, ngoại trừ Trần Độ, trong số đó, Nguyễn thanh Giang thuộc loại được ưu đãi cả gia đình. Chính Nguyễn thanh Giang cũng thừa nhận điều đó:

“Cả hai vợ chồng, cả hai con đều được ăn học đến nơi đến chốn ở nước ngoài; là gia đình được phép tiếp khách nước ngoài mà còn tiếp nhiều khách nước ngoài nhất Hà-nội (cũng có nghĩa là nhất cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam); là bạn của Trần Độ và “bạn thân” của Trần đức Lương – chủ tịch ngụy quyền Việt gian cộng sản, kiêm thêm một chức vụ cực kỳ quan trọng nữa: “là người đứng đầu của đảng Việt gian cộng sản về ngành công an, an ninh và tình báo!””

Nếu so sánh lối viết và nội dung các bài viết của những người hiện nay – đa phần bị “ngộ nhận” là “đấu tranh cho dân chủ”, thì Nguyễn thanh Giang hoàn toàn khác hẳn. Đó là:

1. Luôn luôn giới thiệu tầm quan trọng của cái “tôi”;

2. Luôn luôn tỏ ra một cách mập mờ rằng “ta đây là lãnh tụ của nhóm phản kháng (như kêu gọi tưởng niệm Trần Độ);

3. Vẫn bảo vệ đảng Việt gian cộng sản với các đầu đà của tổ chức Việt gian này, như Hồ chí Minh, Trường Chinh, Võ nguyên Giáp v.v…

4. Vẫn lấp liếm che dấu tội xâm lược của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, tay sai của thực dân đỏ Nga-xô, Tàu cộng. (Cụ thể: phong cho Trần Độ là “anh hùng giải phóng dân tộc” mà lờ đi việc Trần Độ đã tập kích vào sau lưng của QLVNCH, mà đại diện là Trung tá Ngụy Văn Thà và đơn vị dưới quyền, đang làm nhiệm vụ bảo vệ hải đảo do quân xâm lược Tàu cộng đánh chiếm). Khoe là “viện sỹ tiến sỹ” mà không nhìn ra giữa anh hùng liệt sỹ Ngụy văn Thà và các liệt sỹ dưới quyền với tên Trần Độ và tập đoàn ngụy quân dưới quyền hắn, thử hỏi ai là anh hùng giải phóng dân tộc? Ai chống xâm lược, ai theo đuôi quân xâm lược???!

Vì không chịu tìm hiểu sự thật lịch sử; không có khả năng suy luận một cách khoa học nên mới có một số nhỏ “trí thức”, thuộc loại “dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa” của Hồ Xuân Hương, khóc lóc, tưởng niệm, thề theo gót tên Việt gian có nợ máu với toàn dân Việt Nam là Trần Độ, vì hau háu tin theo một tên “viện sỹ tiến sỹ” vừa bất lương vừa thuộc loại cẩu trệ kiểu Hoàng cao Khải, Lê Hoan, Nguyễn sinh Sắc…

Nguyễn thanh Giang vừa “vào cuộc” là nắm vội lấy Trần Độ, thổi Trần Độ thành một thứ “lãnh tụ”. Còn sau lưng “lãnh tụ” Trần Độ thì lấp ló cái mặt của kẻ “thừa kế”: “viện sỹ tiến sỹ, lao động tiên tiến xây dựng CNXH Nguyễn thanh Giang.” Sau khi Trân Độ bị quỷ sứ xích cổ tống vào hỏa ngục thì Nguyễn thanh Giang “tự phong” một cách khéo léo ngôi vị “đầu đàn” của nhóm tạp nham “năm cha ba mẹ”, tự xưng là “đấu tranh cho dân chủ (cuội)”. Và, một mặt tặng phong Trần Độ là “hai lần anh hùng”, một mặt hô hào làm lễ tưởng niệm Trần Độ.

1- Trần Độ đã xua ngụy quân cộng sản giết nhân dân VNCH, tàn phá trường học, chợ búa, cầu đường v.v…; tập kích tàn bạo vào chiến hữu của Trung tá Ngụy Văn Thà và đơn vị dưới quyền đang lấy máu xương để bảo vệ hải đảo của tổ tiên Việt Nam để lại. Sự hiệp đồng của Trần Độ với quân xâm lược Tàu cộng đã khiến Trung tá QLVNCH Ngụy Văn Thà và đơn vị dưới quyền phải hy sinh mà hải đảo vẫn bị xâm lược, thì hỏi rằng Trần Độ “giải phóng” hay “chống giải phóng”; “xâm lược” hay “chống xâm lược”. Cách đánh giá của Nguyễn thanh Giang như vậy có khác gì coi bọn Hoàng cao Khải, Lê Hoan là “anh hùng giải phóng”, còn Hoàng Hoa Thám và quân đội dưới trướng là ngụy?!

2- Cho đến chết Trần Độ vẫn mơ tưởng một mô hình CNXH kiểu Đặng tiểu Bình – kẻ cho xe tăng nghiền nát những người Trung hoa, đòi dân chủ, ở Thiên an môn, mà là “anh hùng đấu tranh cho dân chủ”?! Nếu diễn giải như Nguyễn thanh Giang thì “thần tượng Đặng tiểu Bình” của Trần Độ phải là “đại anh hùng đấu tranh cho dân chủ”, và những học sinh, sinh viên biểu tình ở Thiên an môn là “bè lũ phản động, phản dân chủ” chăng? Muốn rõ hơn, xin bạn đọc đọc thêm bài của Ls. Nguyễn văn Chức viết về Trần Độ, có đăng trên tạp chí Thế giới Ngày nay, số 176, trang 4-6.

Cái “tài ba” mà cũng là cái “tai vạ” cho Nguyễn thanh Giang là “hai tay chống đất, chân chổng lên trời” quan sát vấn đề. Nôm na là Nguyễn thanh Giang hoặc quá lưu manh hoặc quá ngu.

Cũng cách lý luận như vậy, Nguyễn thanh Giang đã coi việc tập đoàn Việt gian Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh, Nguyễn văn An, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn mạnh Cầm, Lê công Phụng v.v… cắt đất, cắt biển dâng cho thực dân đỏ Tàu cộng là bị lừa!!! Trong vấn đề này cả Trần Độ lẫn Nguyễn thanh Giang đều chạy tội cho tập đoàn Việt gian.

Đây là bằng chứng rõ rệt nhất để chứng minh tính chất phi nghĩa, tính chất Việt gian của tập đoàn cộng sản Việt Nam, trước công luận cả trong và ngoài Việt Nam thì được hai tên đầu lãnh Trần Độ và Nguyễn thanh Giang, của cái gọi là nhóm “đấu tranh cho dân chủ” diễn dịch ngược lại với sự thật!!! Tại sao vậy? Tại vì, Nguyễn thanh Giang có nhiệm vụ trà trộn vào cái gọi là “nhóm chống đối” tự phát, chưa có đầu lãnh cụ thể, để dùng học hàm, học vị; dùng một vài bài “tố giác” những truyện mà con nít ở trong nước cũng biết, để được mật vụ trong nước và đồng bọn ngoài nước đánh bóng, tạo uy tín cho Nguyễn thanh Giang nắm lấy cái vị trí đầu lãnh của nhóm “chống đối” nhằm lèo lái, làm thui chột những mầm đấu tranh cho dân chủ thứ thiệt như Ls. Lê chí Quang, nhà báo Nguyễn vũ Bình, Bs. Phạm hồng Sơn, nhà kinh doanh Nguyễn khắc Toàn v.v…

Xin lưu ý bạn đọc rằng, khi quân phát-xít Nhật-bản xâm lược Trung hoa, Mao và Tưởng đã hòa hoãn với nhau để chống quân xâm lược Nhật.

Còn ở Việt Nam, khi quân xâm lược Tàu cộng xâm chiếm hải đảo của Việt Nam, thì Trần Độ và các cấp trên của hắn có “hòa hoãn” với QLVNCH để chống Tàu cộng xâm lược đâu, mà chúng còn hiệp đồng với quân xâm lược Tàu cộng để xâm lược VNCH. Trước đó, qua văn bản do Ưng văn Khiêm và Phạm văn Đồng ký, chúng còn dâng lãnh hải của Việt Nam và nhiều hải đảo cho Tàu cộng.

Chuyện tày trời như vậy thì cả Trần Độ lẫn Nguyễn thanh Giang không biết đến hoặc không muốn nói đến. Khi sự việc vỡ bung ra, thì cả hai tên đều nói rất hời hợt nếu không nói là bọn chúng còn bao che cho nhau. Trần độ thì “mượn cớ” hỏi thăm Lê minh Nghĩa để cho rằng không có chuyện cắt nhiều đất và lãnh hải cho Tàu cộng. Còn Nguyễn thanh Giang thì nói rằng bị Tàu cộng lừa!

Lo việc nước mà chuyện tày trời như vậy lại do một thanh niên trẻ, chưa đầy 30 tuổi, ốm yếu bệnh tật hiểm nghèo là Ls. Lê chí Quang tố giác trước công luận!

Thì ra Trần Độ còn bận với “bồ nhí” ở nhà khách Sài-gòn, và Nguyễn thanh Giang thì bận… tiêp khách nước ngoài, để có dịp khoe: “Anh Trần đức Lương rất biết tôi”!!! và “tôi được cơ sở đề nghị phong anh hùng (rơm)”!!!

Cứ xem sự trả thù của tập đoàn Việt gian Nông đức Mạnh lên đầu những người chống đối thì biết thật, giả. Lê chí Quang, Phạm hồng Sơn, Nguyễn vũ Bình, Linh mục Nguyễn văn Lý, giáo sư Nguyễn đình Huy, cụ Lê quang Liêm, Hòa thượng Thích huyền Quang và v.v… so với Trần Độ, Nguyễn thanh Giang, Trần dũng Tiến… thì rõ sự trừng phạt tàn bạosự trừng phạt tượng trưng để đánh bóng. Từ đó, tụi mật vụ được tung ra hải ngoại chỉ đạo cho lũ cơ hội, lũ nằm vùng nhiễu loạn thông tin, nhằm đưa tụi “chống đối vài tên ăn cướp, nhưng vẫn ca ngợi đảng cướp với tên lập ra đảng cướpca ngợi những chiến tích ăn cướp của đảng cướp” thành nhân vật ly khai, đối lập (cuội) để chuẩn bị cho màn kịch “mờ rộng dân chủ, chấp nhận đối lập” của tập đoàn Việt gian Nông đức Mạnh, Trần đức Lương, Phan văn Khải… trong những tháng tới.

Tại sao Trần Độ không về đứng cùng phía với nông dân Thái Bình?

Tại sao Nguyễn thanh Giang không đứng cùng với những người bị cướp nhà, cướp đất ra Hà-nội biểu tình khiếu nại như Nguyễn khắc Toàn?

Tại sao Nguyễn thanh Giang vẫn đi bỏ phiếu bầu cái gọi là quốc hội, trong lúc đó, các cháu của Linh mục Nguyễn văn Lý lại tẩy chay?

Và, Nguyễn gia Kiểng, viết bài tự khoe đủ mọi thứ mà lại có thể làm cái việc rất ấu trĩ là sử dụng máy vi tính để nhắn Bs. Phạm hồng Sơn mở rộng tổ chức “dân chủ”? (Thà rằng nhờ quách sứ quán cộng sản ở Paris hoặc gửi về công an cộng sản nhờ chuyển hộ… lại có vẻ… “đàng hoàng” và “độc đáo” hơn).

Những người “chống đối thứ thiệt” bị những án tù nặng nề và thời gian dài bị quản chế sau khi mãn tù. Bỗng dưng sự hy sinh của họ chỉ có tác dụng đánh bóng cái gọi là “lực lượng đấu tranh cho dân chủ” ở tầm cỡ quốc tế. Nhưng, một thực tế phũ phàng là, trong cái lực lượng đó, chỉ còn vài người ăn theo đã ở cái tuổi “gần đất xa trời”, để kẻ yêu dân chủ cò mồi nhận trọn vẹn hào quang chiến thắng, hệt như màn kịch của tên đại Việt gian Hồ chí Minh đã diễn trong những năm tháng 1945-1949!!!

Kẻ đó chính là Nguyễn thanh Giang!

Nam Nhân-Lý Tuấn

No comments:

Post a Comment