Lý Đại Nguyên
Sinh Viên Các Trường Đại Học Hà Nội phát động cuộc biểu tình vào ngày 14-09-2008, nhằm chống lại việc Trung Cộng tiếm nhận chủ quyền ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nằm trên thềm lục địa Việt Nam, vốn thuộc chủ quyền của quốc gia Việt Nam từ xưa. Đến khi Việt Nam bị chia đôi. Theo Hiệp Định Geneve lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới thì miền Bắc thuộc Cộng Sản, miền Nam thuộc Quốc Gia. Nên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên công pháp quốc tế, trong thực tế lịch sử hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam và do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa quản trị.
Chỉ đến ngày 04-09-1958, Mao Trạch Đông chủ tịch Trung Cộng công bố quyết định về hải phận 12 hải lý của họ là: “Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là 12 hải lý. Điều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa - tức Hoàng Sa của VN - quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa – tức Trường Sa của VN – và các đảo khác thuộc Trung Quốc” trích từ báo TDNL số 59.
Chỉ 10 ngày sau, 14-09-1958, đảng và nhà nước Việt Cộng Miền Bắc, đứng đầu là Hồ Chí Minh, lén lút giấu Dân Chúng và Quốc Hội (dù đó chỉ là thứ quốc hội bù nhìn) đã ra lệnh cho Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gởi công hàm cho Chu Ân Lai thủ tướng Trung Cộng, rằng: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc”. Như thế Hồ Chí Minh và Việt Cộng đã biết rõ bản công bố của Trung Cộng có ý đồ thôn tính 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Tổ Quốc Việt Nam, mà trong khi đó đang thuộc quyền quản trị hợp pháp của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Nhất là giữa lúc cuộc xung đột Nga, Hoa đang nổ lớn.
Năm 1956, Khrushchev tổng bí thư cộng sản Liên Xô chủ trương “xét lại”, hạ bệ thần tượng Stalin. Mao Trạch Đông “chống xét lại”, trên danh nghĩa họ Mao tự đặt mình vào vị thế “cầm lái” Quốc Tế Cộng Sản. Nhưng trong thực tế là phục hồi tinh thần Đế Quốc Đại Hán Bành Trướng, Phong trào Cộng Sản Quốc Tế đã thực sự tan vỡ. Ranh ma như Hồ Chí Minh hẳn phải biết, chẳng làm gì còn cái thứ “tình đồng chí Cộng Sản Quốc Tế” nữa, mà chỉ còn quyền lợi quốc gia và vị thế cầm quyền của các lãnh tụ mà thôi. Tại sao họ Hồ laị mau mắn công nhận quyền lợi đế quốc của Trungcộng như thế? Vì theo quán tính nô lệ các đàn anh cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh đã quay lưng lại với toàn dân, dù trong thời kháng chiến chống Pháp, họ Hồ đã lừa mị được dân chúng hy sinh cho kháng chiến, nhưng khi có chính quyền một nửa nước. Hồ Chí Minh và Việt Cộng đã phạm nhiều tội ác như: Cải cách ruộng đất. Tịch thu tài sản của các giáo hội, bắt tu sĩ hoàn tục. Hủy bỏ chế độ Tư Hữu, thành lập chế độ Công Hữu Xã Hội Chủ Nghĩa. Quốc hữu hóa công nghiệp, thương nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp, áp dụng chế độ chấm công, Nông Dân trở thành Nông Nô, Công Nhân trở thành Công Nô.
Giao thương hoàn toàn thuộc quốc doanh. Lưu đầy nhân viên chế độ cũ. Thẳng tay đàn áp những văn nghệ sĩ, trí thức và tu sĩ. Khủng bố toàn dân bằng chủ trương “kiểm soát bao tử”. Dù mất hết mọi thứ quyền, và đói khổ triền miên, nhưng lại buộc toàn dân miền Bắc vẫn phải biết ơn Bác và Đảng. Chính vì vậy, Hồ Chính Minh và Việt Cộng không dám tin vào dân, để quay về củng cố vị thế Quốc Gia Dân Tộc, hòa bình với miền Nam, tránh cảnh bị Nga, Tầu xâu xé. Mà lại chọn giải pháp lôi kéo cả Nga lẫn Tầu vào cuộc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam. Bởi thế, họ Hồ và Việt Cộng mới nhanh nhẩu cúi đầu dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng.
Ngày nay, trước sự lộng hành và đe dọa của Trung Cộng, đáng lẽ Việt Cộng phải dựa vào sức dân để chống với mưu đồ bành trướng của Trung Cộng. Như Trung Cộng thường để cho dân chúng biểu tình chống lại áp lực của Mỹ, hay phản đối Nhật khi cần. Đàng này Việt Cộng thẳng tay đàn áp phong trào sinh viên lên án bành trướng Trung Cộng, bắt giam những người đòi Dân Chủ để thỏa hiệp chui với Trung Cộng. Sau khi Trung Cộng tung tin: “Càn quét Việt Nam trong vòng 31 ngày”. Liền đó, hôm 09-09-08, tại Hà Nội, Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam – PetroVietnam – và Tập Đoàn Trung Hoa Chiêu Thương Cục – China Merchants Group - của Trung Cộng đã ký một bàn ghi nhớ hợp tác chiến lược. “Tạo cơ sở quan trọng để 2 bên hợp tác tìm cơ hội đầu tư chung trong các lãnh vực cùng quan tâm và phát huy thế mạnh mỗi bên”.
Điều nổi bật nhất trong bản ghi nhớ này là: “Từ đầu năm 2009, hai bên sẽ ký tiếp các dự án hợp tác trong lãnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí trên lãnh thổ Việt Nam”. Trong cuộc họp báo ngày 12-09-08, Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ John Negroponte tuyên bố rằng: “Mọi tranh chấp trên biển Đông phải được giải quyết bằng đường lối hòa bình dựa theo Công Ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc”. Ông cũng nhấn mạnh rằng: “Các công ty Mỹ có đầy đủ quyền hạn để tham gia hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam”. Xem thế, giữa Mỹ với Tầu đã có sự ăn ý với nhau về việc Hoa Kỳ Hòa Bình Nhập Nội Toàn Diện Việt Nam, mà Trung Cộng chỉ còn là nước đối tác kinh tế với Việt Nam, và được chia một phần dầu khí. Chủ quyền Việt Nam Việt Cộng đã để mất trắng, Hà Nội chỉ còn là công cụ cho ngoại bang.
Nếu giới cầm quyền Hà Nội còn nhất điểm lương tâm, còn chút đỉnh tự ái dân tộc thì nên nghiêm chỉnh đáp ứng Tuyên Cáo Các Yêu Sách của Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, do Hòa Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo công bố:
1- Nhà cầm quyền Hà Nội cần có văn thư chính thức gửi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc phủ nhận Công Hàm ngày 14-09-1958 của ông Phạm Văn Đồng, đồng thời minh định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa…
2- Trả tự do tức khắc cho những cá nhân, đặc biệt là thanh niên, sinh viên bị bắt giữ trong mấy ngày qua…
3- Tôn trọng và bảo đảm cho nhân dân tự do biểu tỏ và biểu tình theo điều 69 trên Hiến Phháp…
4- Loại bỏ điều 4 Hiến Pháp tạo điều kiện cho sự tham gia cứu quốc của toàn dân.
Kết luận, Tuyên Cáo viết:
“Lịch sử Việt Nam qua bao đời từng khẳng định như chân lý rằng: Dựa vào sức mạnh toàn dân làm nòng cốt để giữ nước. Kẻ nào cứ nay chạy theo nước này, mai chạy theo nước khác cầu viện để bảo vệ quyền bính riêng tư của một nhóm người, thì hậu quả sẽ là mất nước và biến mình thành công cụ cho ngoại nhân mà thôi”.
Sống ở thời đại toàn cầu hóa hiện nay, không có nghĩa là mỗi nước phải tự đánh mất chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc của mình, mà phải kịp thời dân chủ hóa chế độ, tạo điều kiện cho mỗi người tự phát huy quyền tự do, lực tự chủ và khả năng sáng tạo, nhằm phát triển nội lực dân tộc, để quốc gia đủ sức mạnh và điều kiện chủ động bang giao với các nước khác. Nhất là cần đứng trong Thế Liên Minh Dân Chủ Thế Giới, để tác động hữu hiệu vào tiến trình toàn cầu hóa.
No comments:
Post a Comment