- Bình Ngô đại cáo (1427) là bài cáo của Nguyễn Trãi viết thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.
— Trích dẫn từ Bình Ngô đại cáo của Wikipedia.
Nguyên văn (Hán văn) "Bình Ngô đại cáo" |
Nguyên bản tiếng Hán | Phiên âm tiếng Việt |
---|---|
代天行化皇上若曰。
蓋 聞 ﹕ 仁 義之 舉, 要 在 安 民, 弔伐 之 師 莫 先 去 暴 。 惟 我 大 越 之 國, 實 為文 獻 之 邦 。 山 川 之 封域 既 殊, 南 北 之 風 俗亦 異 。 自 趙 丁 李 陳 之肇 造 我 國, 與 漢 唐 宋元 而 各 帝 一 方 。 雖 強弱 時 有 不 同 而 豪 傑 世未 常 乏 。 故 劉 龔 貪 功以 取 敗, 而 趙 禼 好 大 以 促 亡 。 唆 都 既 擒 於 鹹 子 關 , 烏 馬 又 殪 於 白 藤 海 。 嵇 諸 往 古, 厥 有 明 徵。 頃 因 胡 政 之 煩 苛 。 至 使 人 心 之 怨 叛 。 狂明 伺 隙, 因 以 毒 我 民; 惡 黨 懷 奸, 竟 以 賣我 國 。 焮 蒼 生 於 虐 焰, 陷 赤 子 於 禍 坑 。 欺天 罔 民, 詭 計 蓋 千 萬狀; 連 兵 結 釁 稔 惡 殆二 十 年 。 敗 義 傷 仁 ,乾 坤 幾 乎 欲 息; 重 科厚 歛, 山 澤 靡 有 孑 遺。 開 金 場 塞 冒 嵐 瘴 而斧 山 淘 沙, 採 明 珠 則觸 蛟 龍 而 緪 腰 汆 海 。 擾 民 設 玄 鹿 之 陷 阱 , 殄 物 織 翠 禽 之 網 羅 。 昆 虫 草 木 皆 不 得 以 遂其 生, 鰥 寡 顛 連 俱 不獲 以 安 其 所 。 浚 生 靈之 血 以 潤 桀 黠 之 吻 牙; 極 土 木 之 功 以 崇 公私 之 廨 宇 。 州 里 之 征徭 重 困, 閭 閻 之 杼 柚皆 空 。 決 東 海 之 水 不足 以 濯 其 污, 罄 南 山之 竹 不 足 以 書 其 惡 。 神 民 之 所 共 憤, 天 地之 所 不 容 。 予 奮 跡 藍山, 棲 身 荒 野 。 念 世讎 豈 可 共 戴, 誓 逆 賊難 與 俱 生 。 痛 心 疾 首者 垂 十 餘 年, 嘗 膽 臥薪 者 蓋 非 一 日 。 發 憤忘 食, 每 研 覃 韜 略 之書, 即 古 驗 今, 細 推究 興 亡 之 理 。 圖 回 之志 寤 寐 不 忘 。 當 義 旗初 起 之 時, 正 賊 勢 方張 之 日 。 奈 以 ﹕ 人 才秋 葉, 俊 傑 晨 星 。 奔走 先 後 者 既 乏 其 人 , 謀 謨 帷 幄 者 又 寡 其 助。 特 以 救 民 之 念, 每鬱 鬱 而 欲 東; 故 於 待賢 之 車, 常 汲 汲 已 虛左 。 然 其 得 人 之 效 茫若 望 洋, 由 己 之 誠 甚於 拯 溺 。 憤 兇 徒 之 未滅, 念 國 步 之 遭 迍 。 靈 山 之 食 盡 兼 旬, 瑰縣 之 眾 無 一 旅 。 蓋 天欲 困 我 以 降 厥 任, 故與 益 勵 志 以 濟 于 難 。 揭 竿 為 旗, 氓 隸 之 徒四 集 投 醪 饗 士, 父 子之 兵 一 心 。 以 弱 制 彊, 或 攻 人 之 不 備; 以寡 敵 眾 常 設 伏 以 出 奇。 卒 能 以 大 義 而 勝 兇殘, 以 至 仁 而 易 彊 暴。 蒲 藤 之 霆 驅 電 掣 , 茶 麟 之 竹 破 灰 飛 。 士氣 以 之 益 增, 軍 聲 以之 大 振 。 陳 智 山 壽 聞風 而; 褫 魄, 李 安 方 政 假 息 以 偷生 。 乘 勝 長 驅, 西 京既 為 我 有; 選 兵 進 取, 東 都 盡 復 舊 疆 。 寧橋 之 血 成 川, 流 腥 萬里; 窣 洞 之 屍 積 野 ,遺 臭 千 年 。 陳 洽 賊 之腹 心, 既 梟 其 首; 李亮 賊 之 奸 蠹, 又 暴 厥屍 。 王 通 理 亂 而 焚 者益 焚, 馬 瑛 救 鬥 而 怒者 益 怒 。 彼 智 窮 而 力盡, 束 手 待 亡; 我 謀伐 而 心 攻, 不 戰 自 屈。 謂 彼 必 易 心 而 改 慮, 豈 意 復 作 孽 以 速 辜。 執 一 己 之 見 以 嫁 禍於 他 人, 貪 一 時 之 功以 貽 笑 於 天 下 。 遂 靈宣 德 之 狡 童, 黷 兵 無厭; 仍 命 晟 昇 之 懦 將, 以 油 救 焚 。 丁 未 九月 柳 昇 遂 引 兵 猶 邱 溫而 進, 本 年 十 月 木 晟又 分 途 自 雲 南 而 來 。 予 前 既 選 兵 塞 險 以 摧其 鋒, 予 後 再 調 兵 截路 以 斷 其 食 。 本 月 十八 日 柳 昇 為 我 軍 所 攻, 計 墜 於 支 稜 之 野 ; 本 月 二 十 日 柳 昇 又 為我 軍 所 敗, 身 死 於 馬鞍 之 山 。 二 十 五 日 保定 伯 梁 銘 陣 陷 而 喪 軀, 二 十 八 日 尚 書 李 慶計 窮 而 刎 首 。 我 遂 迎刃 而 解, 彼 自 倒 戈 相攻 。 繼 而 四 面 添 兵 以包 圍, 期 以 十 月 中 旬而 殄 滅 。 爰 選 貔 貅 之士, 申 命 爪 牙 之 臣 。 飲 象 而 河 水 乾, 磨 刀而 山 石 鈌 。 一 鼓 而 黥刳 鱷 斷, 再 鼓 而 鳥 散麇 驚 。 決 潰 蟻 於 崩 堤, 振 剛 風 於 稿 葉 。 都督 崔 聚 膝 行 而 送 款 , 尚 書 黃 福 面 縛 以 就 擒。 僵 屍 塞 諒 江 諒 山 之途, 戰 血 赤 昌 江 平 灘之 水 。 風 雲 為 之 變 色, 日 月 慘 以 無 光 。 其雲 南 兵 為 我 軍 所 扼 於梨 花 ,自 恫 疑 虛 喝 而先 以 破 腑; 其 沐 晟 眾 聞 昇軍 大 敗 於芹 站, 遂 躪 藉 奔 潰 而 僅 得 脫 身。 冷 溝 之 血杵 漂, 江 水 為 之 嗚 咽; 丹 舍 之 屍 山 積, 野草 為 之 殷 紅 。 兩 路 救兵 既 不 旋 踵 而 俱 敗 , 各 城 窮 寇 亦 將 解 甲 以出 降 。 賊 首 成 擒, 彼既 掉 餓 虎 乞 憐 之 尾 ; 神 武 不 殺, 予 亦 體 上帝 孝 生 之 心 。 參 將 方政, 內 官 馬 騏, 先 給艦 五 百 餘 艘, 既 渡 海而 猶 且 魂 飛 魄 散; 總兵 王 通, 參 政 馬 瑛 ,又 給 馬 數 千 餘 匹, 已還 國 而 益 自 股 慄 心 驚。 彼 既 畏 死 貪 生, 而修 好 有 誠; 予 以 全 軍為 上, 而 欲 民 之 得 息。 非 惟 謀 計 之 極 其 深遠, 蓋 亦 古 今 之 所 未見 聞 。 社 稷 以 之 奠安, 山 川 以 之 改 觀 。 乾 坤 既 否 而 復 泰, 日月 既 晦 而 復 明 。 于 以開 萬 世 太 平 之 基, 于以 雪 天 地 無 窮 之 恥 。 是 由 天 地 祖 宗 之 靈 有 以 默 相 陰 佑 而 致 然 也 ! 於 戲 ! 一戎 大 定, 迄 成 無 兢 之功; 四 海 永 清, 誕 布維 新 之 誥 。 播 告 遐 邇, 咸 使 聞 知 。 |
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:
Cái văn: Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân, Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. Duy ngã Đại Việt chi quốc, Thực vi văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực ký thù, Nam bắc chi phong tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,[1] Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương. Tuy cường nhược thì hữu bất đồng, Nhi hào kiệt thế vị thường phạp. Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại, Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong. Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan, Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.[2] Kê chư vãng cổ, Quyết hữu minh trưng. Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà, Trí sử nhân tâm chi oán bạn. Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân; Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc. Hân thương sinh ư ngược diệm, Hãm xích tử ư họa khanh. Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng; Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên. Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức; Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di. Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa, Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải. Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh, Điễn vật chức thúy cầm chi võng la. Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh, Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở. Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha; Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ. Châu lý chi chinh dao trọng khốn, Lư diêm chi trữ trục giai không. Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô, Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác. Thần dân chi sở cộng phẫn, Thiên địa chi sở bất dung. Dư: Phấn tích Lam Sơn, Thê thân hoang dã. Niệm thế thù khởi khả cộng đái, Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh. Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật. Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư, Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý. Đồ hồi chi chí Ngộ mị bất vong. Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì, Chính tặc thế phương trương chi nhật. Nại dĩ: Nhân tài thu diệp, Tuấn kiệt thần tinh. Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân, Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ. Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông; Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả. Nhiên kỳ: Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương, Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch. Phẫn hung đồ chi vị diệt, Niệm quốc bộ chi tao truân. Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần, Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ. Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm, Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan. Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập; Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ. Tốt năng: Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo. Bồ Đằng chi đình khu điện xế, Trà Lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ khí dĩ chi ích tăng, Quân thanh dĩ chi đại chấn. Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách, Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh. Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu; Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương. Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý; Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên. Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ; Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi. Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần, Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ. Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong; Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất. Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự, Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô. Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân, Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ. Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần. Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến, Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai. Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong, Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực. Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã; Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn. Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu, Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ. Ngã toại nghênh nhận nhi giải, Bỉ tự đảo qua tương công. Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt. Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ, Thân mệnh trảo nha chi thần. Ẩm tượng nhi hà thủy càn, Ma đao nhi sơn thạch khuyết. Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn, Tái cổ nhi điểu tán quân kinh. Quyết hội nghĩ ư băng đê, Chấn cương phong ư cảo diệp. Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản, Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm. Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ, Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy. Phong vân vị chi biến sắc, Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang. Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ; Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân. Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết; Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng. Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại, Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng. Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ; Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm. Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán; Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành; Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức. Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn, Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn. Xã tắc dĩ chi điện an, Sơn xuyên dĩ chi cải quán. Càn khôn ký bĩ nhi phục thái, Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh. Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ, Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ. Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã. Ô hô! Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công; Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo. Bá cáo hà nhĩ, Hàm sử văn tri. |
Tượng mảng:
Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu-phạt chỉ vì khử bạo,
Như nước Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn-hiến đã lâu,
Sơn-hà cương-vực đã chia,
Phong-tục bắc nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương,
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
Song hào-kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên
Lưu Cung sợ uy mất vía,
Triệu Tiết nghe tiếng giật mình,
Cửa Hàm-tử giết tươi Toa Đô,
Sông Bạch-đằng bắt sống Ô Mã,
Xét xem cổ-tích,
Đã có minh-trưng,
Vừa rồi
Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà,
Để trong nước nhân-dân oán bạn,
Quân cường Minh đã thừa-cơ tứ ngược,
Bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh,
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ.
Chước dối đủ muôn nghìn khoé,
Ác chứa ngót hai mươi năm.
Bại nhân-nghĩa nát cả càn-khôn,
Nặng khóa-liễm vét không sơn-trạch
Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu,
Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả,
Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc,
Nheo-nhóc thay! quan quả diên liên
Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy! no-nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa,
Nặng-nề về những nỗi phu-phen,
Bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi.
Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ-bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,
Lẽ nào trời đất tha cho,
Ai bảo thần-nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam-sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang-dã nương mình,
Ngắm non sông căm nổi thế thù,
Thề sống chết cùng quân nghịch-tặc,
Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa,
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối,
Quên ăn vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ.
Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị,
Chỉ băn-khoăn một nỗi đồ hồi.
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang thịnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn-kiệt như sao buổi sớm,
Nhân-tài như lá mùa thu,
Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn-bạc.
Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục đông
Mấy thủa đợi chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe hư-tả,
Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt-mù như kẻ vọng dương,
Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội-vã như khi chửng nịch,
Phần thì giận hung-đồ ngang-dọc,
Phần thì lo quốc-bộ khó-khăn,
Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi-huyện quân không một đội,
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma,
Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.
Múa đầu gậy ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ,
Mở tiệc quân chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ một lòng phụ-tử.
Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,
Quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường-bạo.
Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy,
Miền Trà-lân trúc phá tro bay,
Sĩ-khí đã hăng,
Quân-thanh càng mạnh,
Trần Trí, Sơn Thọ, mất vía chạy tan.
Phương Chính, Quý An tìm đường trốn-tránh.
Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc.
Lấy Đông-đô thu lại cõi xưa,
Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông,
Bến Tụy-động xác đầy ngoài nội.
Trần Hiệp đã thiệt mạng,
Lý Lương lại phơi thây.
Vương Thông hết cấp lo-lường,
Mã Anh khôn đường cứu-đỡ
Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao,
Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất.
Tưởng nó đã thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui,
Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội-nghiệt.
Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người,
Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dở-duốc.
Đến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-đức, nhàm võ không thôi.
Lại sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng đem đầu chữa cháy.
Năm Đinh-mùi tháng chín,
Liễu Thăng tự Khâu-ôn tiến sang[1],
Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo đến.
Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc-quân,
Ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương-đạo.
Mười-tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng[2],
Hai-mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên,
Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong,
Hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn,
Lưỡi dao ta đang sắc,
Ngọn giáo giặc phải lùi,
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
Sĩ-tốt ra oai tì-hổ,
Thần-thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận sạch không kinh-ngạc.
Đánh hai trận tan-tác chim-muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi,
Hoàng Phúc tự trói để hàng.
Lạng-giang, Lạng-sơn, thây chất đầy đồng,
Xương-giang, Bình-than, máu trôi đỏ nước.
Ghê-gớm thay! sắc phong-vân phải đổi,
Thảm-đạm thay! sáng nhật-nguyệt phải mờ.
Binh Vân-nam nghẻn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật.
Quân Mộc Thạnh tan chưng Cần-trạm, chạy để thoát thân,
Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ,
Thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa.
Hai mặt cứu-binh, cắm đầu trốn chạy,
Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội,
Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi.
Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú-phục,
Ta muốn toàn quân làm cốt, cả nước nghỉ-ngơi.
Thế mới là mưu-kế thật khôn,
Vả lại suốt xưa nay chưa có.
Giang-san từ đây mở mặt,
Xã-tắc từ đây vững-bền.
Nhất-nguyệt hối mà lại minh,
Kiền-khôn bĩ mà lại thái.
Nền vạn thế xây nên chăn-chắn.
Thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu.
Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng giúp-đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy vùng một mảnh nhung-y, nên công đại định.
Phẳng-lặng bốn bề thái-vũ, mở hội vĩnh-thanh,
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết.
Người dịch: Bùi Kỷ
Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu-phạt chỉ vì khử bạo,
Như nước Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn-hiến đã lâu,
Sơn-hà cương-vực đã chia,
Phong-tục bắc nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương,
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
Song hào-kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên
Lưu Cung sợ uy mất vía,
Triệu Tiết nghe tiếng giật mình,
Cửa Hàm-tử giết tươi Toa Đô,
Sông Bạch-đằng bắt sống Ô Mã,
Xét xem cổ-tích,
Đã có minh-trưng,
Vừa rồi
Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà,
Để trong nước nhân-dân oán bạn,
Quân cường Minh đã thừa-cơ tứ ngược,
Bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh,
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ.
Chước dối đủ muôn nghìn khoé,
Ác chứa ngót hai mươi năm.
Bại nhân-nghĩa nát cả càn-khôn,
Nặng khóa-liễm vét không sơn-trạch
Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu,
Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả,
Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc,
Nheo-nhóc thay! quan quả diên liên
Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy! no-nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa,
Nặng-nề về những nỗi phu-phen,
Bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi.
Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ-bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,
Lẽ nào trời đất tha cho,
Ai bảo thần-nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam-sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang-dã nương mình,
Ngắm non sông căm nổi thế thù,
Thề sống chết cùng quân nghịch-tặc,
Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa,
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối,
Quên ăn vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ.
Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị,
Chỉ băn-khoăn một nỗi đồ hồi.
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang thịnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn-kiệt như sao buổi sớm,
Nhân-tài như lá mùa thu,
Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn-bạc.
Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục đông
Mấy thủa đợi chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe hư-tả,
Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt-mù như kẻ vọng dương,
Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội-vã như khi chửng nịch,
Phần thì giận hung-đồ ngang-dọc,
Phần thì lo quốc-bộ khó-khăn,
Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi-huyện quân không một đội,
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma,
Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.
Múa đầu gậy ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ,
Mở tiệc quân chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ một lòng phụ-tử.
Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,
Quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường-bạo.
Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy,
Miền Trà-lân trúc phá tro bay,
Sĩ-khí đã hăng,
Quân-thanh càng mạnh,
Trần Trí, Sơn Thọ, mất vía chạy tan.
Phương Chính, Quý An tìm đường trốn-tránh.
Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc.
Lấy Đông-đô thu lại cõi xưa,
Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông,
Bến Tụy-động xác đầy ngoài nội.
Trần Hiệp đã thiệt mạng,
Lý Lương lại phơi thây.
Vương Thông hết cấp lo-lường,
Mã Anh khôn đường cứu-đỡ
Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao,
Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất.
Tưởng nó đã thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui,
Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội-nghiệt.
Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người,
Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dở-duốc.
Đến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-đức, nhàm võ không thôi.
Lại sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng đem đầu chữa cháy.
Năm Đinh-mùi tháng chín,
Liễu Thăng tự Khâu-ôn tiến sang[1],
Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo đến.
Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc-quân,
Ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương-đạo.
Mười-tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng[2],
Hai-mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên,
Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong,
Hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn,
Lưỡi dao ta đang sắc,
Ngọn giáo giặc phải lùi,
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
Sĩ-tốt ra oai tì-hổ,
Thần-thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận sạch không kinh-ngạc.
Đánh hai trận tan-tác chim-muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi,
Hoàng Phúc tự trói để hàng.
Lạng-giang, Lạng-sơn, thây chất đầy đồng,
Xương-giang, Bình-than, máu trôi đỏ nước.
Ghê-gớm thay! sắc phong-vân phải đổi,
Thảm-đạm thay! sáng nhật-nguyệt phải mờ.
Binh Vân-nam nghẻn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật.
Quân Mộc Thạnh tan chưng Cần-trạm, chạy để thoát thân,
Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ,
Thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa.
Hai mặt cứu-binh, cắm đầu trốn chạy,
Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội,
Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi.
Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú-phục,
Ta muốn toàn quân làm cốt, cả nước nghỉ-ngơi.
Thế mới là mưu-kế thật khôn,
Vả lại suốt xưa nay chưa có.
Giang-san từ đây mở mặt,
Xã-tắc từ đây vững-bền.
Nhất-nguyệt hối mà lại minh,
Kiền-khôn bĩ mà lại thái.
Nền vạn thế xây nên chăn-chắn.
Thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu.
Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng giúp-đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy vùng một mảnh nhung-y, nên công đại định.
Phẳng-lặng bốn bề thái-vũ, mở hội vĩnh-thanh,
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết.
Người dịch: Bùi Kỷ
No comments:
Post a Comment