Saturday, May 31, 2014

Bức tranh của họa sĩ Lui Liu người Canada gốc Hoa

Bạn nghĩ thế nào về bức tranh này?
Lui Liu was born in March 1957 in North China and came to Canada in 1991. Speaking both Chinese and English fluently, Lui Liu possesses superb painterly techniques, his unique language that finds a wide range of audience around the world. His acquisition of techniques started during China's Cultural Revolution when he was a young boy painting posters on the streets and continued in the most prestigious Central Academy of Fine Arts in Beijing.

Through his paintings, Lui Liu creates a surreal world that transcends cultures and spaces. Growing up in China and living in the west give him a dual role of being an insider and outsider of both worlds and afford him to "stand alone facing east and west, as he chooses," wrote Barry Callaghan, a renown Canadian writer.

Lui Liu is a member of Ontario Society of Artists. He lives and works in Toronto, Canada with his wife and daughter while exhibiting at galleries throughout North America, Europe and Asia. He also held solo shows at Taiwan Fine Arts Museum and at Contemporary Art Center of Holland. Lui Liu has been interviewed by various publications. He was also featured at Bravo! Art Network and AP's television programs. Lui Liu's works have been purchased and commissioned by diverse private and corporate collectors in North America and around the world.



Tà quyền khiếp nhược - Ls Lê Duy San

TÀ QUYỀN KHIẾP NHƯỢC
* Không có cái nhục nào to lớn bằng cái nhục của một dân tộc có một chính quyền hèn hạ và đốn mạt như chính quyền cộng sản Việt Nam ngày nay.

Lê Duy San

Nhiều người nghĩ rằng cái nhục lớn nhất của một dân tộc là cái nhục mất nước. Điều này không đúng hẳn. Nước nhỏ, dân ít, bị một nước lớn, dân đông, xâm chiếm là điều thường xẩy ra trên thế giới, nhất là vào thời kỳ khoa học, kỹ thuật chưa được tiến bộ. Vấn đề quan trọng là dân tộc đó có ý chí, có quyết tâm để tìm cách giành lại chủ quyền hay không. Chỉ khi nào dân tộc đó không có ý chí phục quốc, không có quyết tâm giành lại độc lập và cam chịu số phận mất nước mới gọi là nhục.

Nước ta bị người Tầu đô hộ một ngàn năm và bị người Pháp đô hộ gần 100 năm, nhưng dân tộc ta không bao giờ chịu nhục. Lúc nào dân tộc ta cũng có những người yêu nước tìm cách nổi dậy để đánh đuổi người Tầu, người Pháp ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập cho đất nước và lấy lại chủ quyền cho dân tộc. Nhưng có độc lập, có chủ quyền mà đất bị lấn bị chiếm, biển bị xâm phạm mà chính quyền lại hèn nhát, không dám lên tiếng, thì qủa là một cái đại nhục cho dân tộc.

Ngày 19/1/74, trong khi Hải Quân của Việt Nam Cộng Hòa tử chiến với quân xâm lược Trung Cộng để bảo vệ Hoàng Sa thì ngụy quyền Việt Công Hà Nội im hơi lặng tiếng một cách hèn hạ, không một lời phản đối Trung Cộng.

Ngày 2/12/07, Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập một quận lỵ lấy tên là Tam Sa, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, để trực tiếp quản lý cả hai quần đảo này, ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam cũng chỉ dám phản đối một cách yếu ớt qua lời tuyên bố của Lê Dũng, người phát ngôn của Bộ Ngọai Giao Cộng sản Việt Nam, rằng: "Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", và rằng: "Hành động này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, không phù hợp với nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước, không có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên”.

Ngày 16/5/09, Trung Cộng đã chính thức ra lệnh cấm đánh cá đặc khu kinh tế khổng lồ bao quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không phải chỉ các vùng đang bị tranh chấp mà cả các vùng mà Việt Nam có chủ quyền. Là cơ quan hành pháp, đại diện cho một quốc gia, đứng trước hành động hỗn xược này của Trung Quốc, đúng lý ra, bộ Ngoại Giao Việt Nam phải cho mời Đại Sứ Trung Cộng tới để phản đối hoặc gửi công hàm phản đối với lời lẽ thật mạnh mẽ và cương quyết như “vi phạm chủ quyền của Việt Nam” “xâm phạm lãnh hải Việt Nam”“yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền Việt Nam, lãnh hải của Việt Nam cũng như quyền đánh cá của ngư dân Việt Nam v.v.”

Theo phát ngôn viên của chính quyền Việt Cộng thì bộ Ngoại Giao Việt Cộng đã yêu cầu Đại Sứ Trung Quốc tại Hà Nội kêu gọi chính phủ Bắc Kinh ngừng các hoạt động trên biển. Nhưng thực ra chính quyền Cộng Sản Việt Nam không những đã không dám phản đối mà chỉ xin xỏ một cách hèn hạ như “đề nghị phía Trung Quốc không nên có các hoạt động cản trở hoạt động bình thường của ngư dân Việt Nam” hoặc “việc Trung Quốc tăng cường tuần tra sẽ dẫn tới có thêm nhiều vụ bắt bớ ảnh hưởng tới các hoạt động đánh bắt cá bình thường của ngư dân Việt Nam tại khu vực đánh bắt cá truyền thống của Việt Nam”.

Thế nào là “khu vực đánh bắt cá truyền thống” ? Phải chăng đó là ngôn từ ngoại giao của bè lũ bán nước Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Văn An? Ôi, nghe sao mà hèn hạ vậy? Nếu không dám dùng những danh từ dao to, búa lớn, những danh từ sặc mùi khát mắu mà bọn chúng đã dùng trong thời gian xâm chiếm miền Nam thì ít nhất cũng phải dùng những chữ cho rõ nghĩa, cho đúng với ngôn từ của một quốc gia độc lập và có chủ quyền như: “không được có những hành động cản trở những hoạt động bình thường của ngư dân Việt Nam” hoặc “không được xâm phạm vào khu vực đánh cá thuộc chủ quyền của Việt Nam” v.v. Đúng là phường khôn nhà dại chợ, chỉ quen áp bức dân lành.

Không những hèn mạt, không dám phản đối quan thầy Trung Cộng, bọn ngụy quyền Cộng Sản Hà Nội còn sợ mất lòng quan thầy Trung Cộng không dám để người dân bày tỏ lòng yêu nước và tìm cách đàn áp, bịt miệng những người bất đồng chính kiến, đúng như tờ báo chui, “Báo Sinh Viên Yêu Nước”, của anh em Sinh Viên trong nước đã nhận định trong số báo thứ 5: “Thời gian qua, sự kiện Trung Quốc khai thác Bauxit ở Tây Nguyên còn đang bị dư luận phản đối. Vụ ngư dân Việt Nam đã không dám đánh cá vì bị tàu Trung Quốc tấn công. Vụ lãnh hải Việt Nam bị thu hẹp vì Trung Quốc dùng sức mạnh bá quyền công khai áp lực. Vụ luật sư Cù Huy Hà Vũ dám ra mặt kiện Nguyễn Tấn Dũng. Trước áp lực dư luận có nguy cơ bùng nổ, phô bày bản chất yếu hèn, phản động của đảng CSVN trước tham vọng xâm lăng Việt Nam của Trung Quốc. Hà nội quyết định bắt luật sư Lê Công Định, cũng là cách để chuyển dư luận chống đối sang ngã rẻ khác, vừa răn đe thành phần đấu tranh dân chủ, vừa nhắn nhủ giới luật sư, trí thức, thanh niên sinh viên Việt Nam đang manh nha hình thành lực lượng nhằm phản đối vụ khai thác Bauxit và những quyết định bạc nhược, hèn yếu của Chính trị bộ đối với quan hệ Trung - Việt.
Hẳn chúng ta còn nhớ, cách đây gần 2 năm, sau khi biết tin Trung Cộng công khai xân chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và sát nhập vào một quần đảo khác của Trung Cộng để thành lập một quận lỵ lấy tên là Tam Sa? Các học sinh và sinh viên Việt Nam cùng đồng bào trong nước đã tổ chức 2 cuộc biểu tình vào ngày 9/12/07 tại Saigon và Hà Nội để phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc. Bọn nguỵ quyền Cộng Sản Hà Nội, không những không ủng hộ hay khuyến khích mà lại còn bắt bớ, cấm đoán và hăm dọa. khiến một nữ sinh viên quá uất ức đã vừa khóc vừa la: “Chúng cháu đến đây để thể hiện lòng yêu nước của mình… tại sao lực lượng an ninh lại ngăn cản lòng yêu nước của chúng cháu…? ngăn chặn chúng cháu lại và không cho chúng cháu vào tham gia cùng mọi người…? Tại sao ? Tại sao ? Và một thanh niên khác, không dằn được sự tức giận, đã hiên ngang đập mạnh tay xuống bàn và la lớn: “Các ông chỉ biết lo cho cái ghế của các ông, các ông chỉ biết tham nhũng”.

Thật là một điều nghịch lý khi những nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam gán cho những người dân yêu nước dám bầy tỏ thái độ, lập trường của mình trước những vấn đề liên quan đến sự tồn vong của đất nước, của dân tộc lại bị gán cho những tội danh như “xâm phạm an ninh quốc gia”, “lợi dụng quyền tự do, dân chủ để xâm hại quyền lợi nhà nước”. Thật là một điều nghịch lý khi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã trù dập, đàn áp dã man và bỏ tù những người yêu nước như nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà giáo Vũ Hùng, sinh viên Nguyễn Tiến Nam cho tới các bloggers Điếu Cày Nguyễn Hoàng Hải, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Người Buôn Gió Bùi Thanh Hiếu, rồi nhà báo Phạm Đoan Trang, cùng nhiều người khác nữa chỉ vì họ có tâm huyết với đất nước.

Ngày nay chúng ta đã thấy, người dân đã dám bàn chuyện chính trị, dám phê phán chính quyền công khai, không còn dè dặt và sợ hãi như những năm trước nữa. Nhiều người còn dám rủ nhau đi kiện, đi biểu tình phản đối những vụ chính quyền trưng dụng nhà cửa, đất đai của họ. Các anh em sinh viên cũng đã dám ra một tờ báo chui gọi là Báo Sinh Viên Yêu Nước để bầy tỏ thái độ và các trí thức trong nước cũng đã dám công khai bầy tỏ lập trường. Họ không còn sợ hãi trước sự hù dọa hay sự bắt bớ, giam cầm, bỏ tù một số người chống đối, của ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam. Một vài luật sư đã dám tranh luận thẳng thừng với các chánh án Việt Cộng để bênh vực cho thân chủ trong các vụ án có liên can tới chính trị. Nhưng số người này còn quá ít ỏi, vẫn chưa đủ. Họ cần phải đông đảo hơn nữa, tích cực hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa cho tới khi nào chế độ Cộng Sản Việt Nam bán nước phải cáo chung.

Một người dân trong nước cũng viết: “Tôi bần thần tự hỏi, chính quyền hiện hành có còn là chính quyền của dân tộc Việt Nam hay không ?Tự hỏi để rồi ngầm trả lời: Không, không, không. Chính quyền này không phải là của dân tộc Việt Nam, mà là chính quyền của đảng cộng sản Việt Nam ! Tôi và bao bậc cha mẹ khác lẽ nào đưa con mình đi cầm súng để bảo vệ đảng nô lệ như thế này ? Tôi đã rớt nước mắt. Tệ hại quá, tôi phải “nướng” con tôi cho lũ cầm quyền phản dân tộc này sao? Tôi sẽ phải làm thế nào ? Cầm súng bảo vệ đất nước thì tôi không sợ, cầm súng chống bọn xâm lấn Trung Cộng thì tôi sẵn sàng đưa con tôi lên đường. Còn cầm súng, hi sinh con cái chúng tôi cho quyền lợi riêng của đảng cộng sản Việt Nam thì khác nào sự ngu xuẩn, hơn nữa, đó là sự nhục nhã !

Gần đây, tấm bia ghi chiến tích trận đánh Trung Quốc nơi biên giới Việt Trung của quân đội Cộng Sản Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1979 đã bị bọn ngụy quyền Việt Cộng hèn nhát ra lệnh đục bỏ những chữ “Đoàn Quân Trung Quốc Xâm Lược“ là bằng chứng cho sự khiếp nhược đã tới mức không thể diễn tả bằng lời”.

Thật không có cái nhục nào to lớn bằng cái nhục của một dân tộc có một chính quyền hèn hạ và đốn mạt như chính quyền cộng sản Việt Nam ngày nay, một chính quyền bán nước hại dân, chỉ biết tham nhũng và hiếp đáp dân lành. Không những thế, bọn ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam còn muốn tất cả dân tộc Việt Nam phải hèn nhát như bọn chúng. Vì thế nếu có người nào can đảm, dám biểu lộ lòng yêu nước và dám nói lên những việc làm sai trái, đốn mạt của bọn chúng, là bọn chúng tìm cách đàn áp và bắt giam như ta đã thấy.

Không biết người dân còn chịu đựng sự nhục nhã này tới bao giờ mới tìm cách lôi cổ bọn hèn nhát này xuống để trị tội?

Lê Duy San

* Tổng thống Nga Putin nói: “Kẻ nào tin những gì CS nói là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời của CS, là không có trái tim.”



Chuyện thần kỳ - Tôn Nữ Hoàng Hoa

CHUYỆN THẦN KỲ
Tôn Nữ Hoàng Hoa

Tôi không biết làm sao giải thích để quí vị có thể hiểu hai chữ "thần kỳ" mà tôi đang diễn tả trong bài viết này. Nói nôm na là có những chuyện vô nhân ác đức của Việt Cộng đã gây ra trên suốt gần một thế kỷ tại đất nước Việt Nam. Nhưng theo thời gian và theo những "bộ óc thần kỳ" đã hô biến biến để những chuyện đau thương đó trở nên thường tình trong hiện tại.

Ban đầu là chuyện VC qua tên tội đồ Hồ Chí Minh thi hành bạo sách cải cách ruộng đất của Tầu phù để giết dân trong hơn ½ thế kỷ qua bằng những hình thức chôn sống rồi lấy cày cày cho chết hay là chôn dân xuống hố rồi lấy đất lấp lại khi dân còn hơi thở. Những chuyện giết người độc ác đó bây giờ có một số người có đầu óc "thần kỳ" hô lên đã là chuyện quá khứ thì nhắc lại làm gì để không thể "hòa hợp hòa giải dân tộc".

Cái thần kỳ mà bọn người có đầu óc thần kỳ hô lên chính là đổ tội cho dân Việt giết dân Việt chứ đảng viên gạo cội lấy chỉ thị của Hồ Chí Minh đã không giết dân.

Vì vậy mới kêu gọi mọi người không nên nhắc lại chuyện cũ để có thể thể hiện tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc chứ nếu tên tội đồ Hồ Chí Minh và bọn đảng viên của Việt Cộng đã giết dân thì mắc mớ gì đến người dân mà phải lải nhải tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc.

Nhưng lại thần kỳ hơn nữa chính những tên đảng viên năm xưa theo Hồ Chí Minh làm Cách mạng giết dân bằng búa, bằng liềm trên những vết dao chém ngang, chém dọc để xương cốt dâng cao như núi và máu chảy thành sông thì nay lại được một số đầu óc thần kỳ tại hải ngoại kính cẩn gọi tên là "Những nhà cách mạng lão thành".

Khi Việt Cộng xâm lăng Nam Việt Nam dân chúng bỏ chạy trốn VC vì những hình ảnh man rợ mà VC đã gây ra trong những cuộc đấu tố tại miền Bắc. Con số thương vong cho cuộc di tản tìm tự do của dân Việt vừa bi thống vừa đau thương vừa đoạn lìa chia cắt đã lên gần một triệu người thì hiện nay có một số trí thức thần kỳ tại hải ngoại lại hô biến để kêu gọi mọi người nên định lại tên gọi của cuộc chiến .

Nhất là khi VC tràn vào miền Nam thì chính cái ông trí thức thần kỳ này đã chạy trốn VC, nhưng năm 2005 lại thần kỳ ra sách kêu gọi "Để tiến tới quan hệ bình thường giữa người Việt hải ngoại và VN" mà trong đó thấp thoáng bóng dáng của chiêu bài Hòa Hợp Hòa Giải với VC. Thử hỏi ông trí thức thần kỳ này tại sao ông muốn hòa hợp hòa giải với VC mà khi VC vào ông lại hớt hơ hớt hãi tìm đường vượt thoát rồi lại trâng tráo lên tiếng kêu gọi về mối quan hệ giữa người Việt hải ngoại với VN. Chẳng lẽ tiền Đô không đủ chi dùng nên phải đem thân làm nô lệ cho tiền HỒ??

Một khi người dân vượt thoát tìm tự do tức là họ không chấp nhận cái bạo quyền của nhà nước Việt Cộng là một chính phủ hợp lệ theo Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Ở Điều A mục 3 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã minh định: là một chính quyền hợp lệ thì phải được đặt trên căn bản ý nguyện của người dân. Ý nguyện của người dân được thể hiện qua những cuộc phổ thông đầu phiếu.

Từ 1930 sau khi chiếm miền Bắc và 1975 sau khi chiếm miền Nam, VC đã có tổ chức một cuộc phổ thông đầu phiếu nào cho dân được tự do chọn người đại diện cho mình tham gia vào chính quyền hay chưa mà quí ông lại thần kỳ dám đại diện cho người dân hải ngoại viết Thỉnh Nguyện Thư cho chúng rồi thần kỳ hóa theo nguyên tắc hành chánh gởi đến cho bạo quyền VC như chấp nhận nhà nước VC là một chính phủ hợp lệ đại diện cho dân, và cái TNT gởi cho VC lại ký tên của 36 nhà trí thức "thần kỳ" ở hải ngoại.

Những hành vi dám ngang nhiên VÔ HIỆU HÓA cuộc đấu tranh chống csVN tại hải ngoại, VÔ HIỆU HÓA SỰ HY SINH ANH DŨNG CỦA QUÂN NHÂN QUÂN LỰC VNCH VÀ CÁC CHIẾN SĨ QUỐC GIA bằng một cái TNT "thần kỳ" của những đầu óc thần kỳ bịnh hoạn đã làm cho người Việt tỵ nạn cs tại hải ngoại đã ngán ngẫm lại càng ngán ngẫm hơn .

Hơn nữa khi nhà trí thức "thần Kỳ" này muốn thần kỳ tên gọi của cuộc chiến VN qua nhan đề "30 năm tên gọi gì cho cuộc chiến" (TÁC GIẢ Lê Xuân Khoa” chính là lúc ông này muốn mọi người nhận thức vai trò "xin job của VC" mà nghe đâu năm 1993 ông ta và ông thông luận (TỔ QUỐC ĂN NĂN tác giả NGUYỄN GIA KIỂNG) đã xin Job ở VN nhưng bọn VC lại không tín nhiệm hai tên "ngụy" này nên đã đưa cái job cho một kỹ sư người Việt ở bên Canada.

Thêm vào đó ông trí thức "thần kỳ" này muốn định lại cái tên cho cuộc chiến VN là ý của ông ta muốn xóa tội cho Hồ Chí Minh một cách sạch sẽ khi chính Hồ Chí Minh đã tuân lệnh Nga sô để mở cuộc chiến tranh tại VN. Hay nói một cách khác chính Hồ Chí Minh đã lấy xương máu của con dân VN để xây mộng bá chủ hoàn cầu cho Nga Sô. Vậy làm sao mà ông trí thức thần kỳ này lại có thể hô biến biến để định lại tên gọi cho cuộc chiến VN.

Gần đây, một số chuyện thần kỳ khác đang xảy ra. Cũng giống như từ thập niên 90 không biết mấy ông trí thức thần kỳ thổi ống đu đủ diễn biến dân chủ cho VN ra làm sao nhưng những chuyện VC cho những nhà đấu tranh dân chủ ra hải ngoại lại còn khoan hồng "ship" vợ con theo cho các nhà phản tỉnh thần kỳ khỏi cô đơn trong đêm trường trên đất khách quê người. Cái mà quí ông trí thức thổi đu đủ vào mấy ông phản tỉnh thần kỳ này đã biến quí ông thành những nhà "chính khách cây me" có nghĩa là chính khách đưa mối.

Trong xã hội VC chúng khủng bố giết chóc bất cứ ai bị tình nghi là phản động, phản Đảng. Ấy thế mà VN dạo này thần kỳ đến nỗi các nhà phản Đảng lên internet Paltalk tố cáo Đảng te tua mà Đảng lại im hơi lặng tiếng để cho các nhà phản tỉnh cứ tự nhiên chửi bới như người Hà Nội.

Hết chửi thì lại được đi "an dưỡng" trong nhà tù để sửa soạn "cái mác người về từ lao tù cs" hầu "ship" ra hải ngoại và được những nhà chính khách cây me đưa vào Quốc Hội Mỹ điều trần. Điều trần cái gì khi bản thân mấy nhà phản tỉnh thần kỳ này đã được VC cho xuất ngoại cùng với vợ con thì Quốc Hội Mỹ sẽ nghĩ rằng VC chúng đã quá khoan hồng rồi chứ gì. Có phải đây là chiêu tuyên truyền cho VC đối với chính quyền Mỹ khi họ quan tâm đến vấn đề nhân quyền tại VN?? Đây có phải là sự thành công hai chiều của mấy ông chính khách cây me??

Cái thần kỳ khác khi mấy chú "Vẹm điều trần "(mượn chữ của nhà báo Đào Nương). Dưới mắt người Mỹ, họ đã biết VN BỊ ĐÓI KHỔ TRONG NHIỀU NĂM. Người dân VN không mong ước gì hơn là được đầy đủ hai bữa cơm trong ngày. Được như vậy là ân huệ cho dân chúng VN chừng nào. Chính vì lẽ đó mà người dân an phận. Những cuộc biểu tình nếu không do VC tổ chức thì đố ai dám gồng mình tự do biểu tình trước guồng máy đàn áp và khủng bố của chúng. Ấy thế mà ở hải ngoại cứ tung với hứng là dân sẽ nổi dậy ở VN và cứ chờ hoài chờ hủy chờ mỏi cả con mắt mà cũng chả thấy tăm hơi.

Có một chuyện thần kỳ khác là không biết từ bao giờ và từ đâu mà quí ông chính khách cây me lại ngồi chờ "Mỹ bật đèn xanh" cho nên bất cứ một biến động nào là quí vị sẽ nghe tiếng vo ve của các nhà chính khách cây me tại Hoa Kỳ kêu gọi tự do dân chủ nhân quyền, một sản phẩm vay mượn ở Tây Phương chứ như có lần chúng tôi đã trình bày trong bài viết "Nhân Quyền on Sale" thì Nhân Quyền cũng chỉ là một món hàng. Đôi lúc có discount giảm giá trước những lợi nhuận mà người Tây phương nhắm đến.

Trong khi đó VC vẫn uyển chuyển bài bản theo Nghị Quyết 36 của chúng là kêu gọi "con dân VN Hải ngoại" kêu gọi các quốc gia mà họ định cư ủng hộ và giúp đỡ VN.

Không biết cái Thỉnh Nguyện Thư và nhóm Đỗ Phủ, Trúc Hồ cùng một số đảng phái "thần kỳ" tại hải ngoại có đầy đủ con dân trí thức và lao động ở hải ngoại ký vào để dâng TT Obama có bị cái chiêu bài kêu gọi Hoa Kỳ giúp đỡ VN chống Trung Cộng mà tay sai VC đã tung hứng lâu nay trước cái đại họa gọi là mất nước hay không?

Đương nhiên là trong bài bản TNT phải có "sản phẩm Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền", mới có chính nghĩa. Vậy chúng ta hãy trở lại quá khứ để thử xem Mỹ có thật sự quan tâm đến NHÂN QUYỀN HAY KHÔNG?

Bằng chứng: Năm 1992 khi ứng cử viên Bill Clinton gay gắt chỉ trích Tổng Thống Bush đã không cứng rắn với Trung Cộng trên vấn đề nhân quyền. Ứng cử viên Clinton cam kết với cử tri là khi thắng cử ông ta sẽ dùng qui chế mậu dịch quốc gia để làm áp lực với Trung Cộng.

Năm 1994 TT Clinton đã đưa ra lời khuyến cáo Bắc Kinh nếu muốn được tái hưởng qui chế mậu dịch thì phải thực hiện nhân quyền. Bắc Kinh phản đối kịch liệt bằng cách hăm dọa các công ty Mỹ đang làm ăn tại Hoa Lục.

Bị đám tài phiệt Mỹ làm áp lực ngày 26 tháng 5 năm 1994 Clinton tuyên bố cho TC hưởng qui chế mậu dịch và tuyên bố tách vấn đề nhân quyền ra khỏi và không lệ thuộc vào vấn đề mậu dịch.

Chưa hết, còn chuyện thần kỳ khác cũng chính vì cái sản phẩm "Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền" vay mượn đó mà mấy ông Chính Khách Cây Me "đưa người cửa trước, rước người cửa sau" vào Quốc Hội điều trần.

Gần đây nhất là sự việc các nhà chính khách cây me đã dẫn mối cho ông Cù Huy Hà Vũ, công dân của nước Cờ Đỏ (ăn lòng đỏ trứng gà từ lúc mới sinh ra đời cho đến lớn - theo lời anh Nguyễn Kim Khánh) vào Quốc Hội điều trần và khuyến nghị về việc chấm dứt các hành vi xâm phạm nhân quyền ở Việt Nam (trích): Tôi, Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, công dân Việt Nam, bị Nhà nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cầm tù về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại Điều 88 Bộ Luật hình sự Việt Nam, có một số khuyến nghị sau đây nhằm chấm dứt các hành vi xâm phạm nhân quyền ở Việt Nam. (Hết trích)

Câu hỏi được đặt ra ở đây là nếu VC vi phạm nhân quyền thì tại sao chúng lại tôn trọng nhân vị của ông Cù Huy Hà Vũ và để ông cùng vợ con ông ra đến Hoa Kỳ chữa bịnh cao máu ?? hay có chăng sự điều trần này chỉ là diện mà điểm lại là một mục tiêu chính trị khác ? Đúng là chuyện thần kỳ. Hơn nữa như chúng tôi đã trình bày vấn đề nhân quyền đối với Mỹ nó không nằm trong các lợi nhuận. Lợi nhuận tại VN trước mắt trong tương lai là biển dầu trong khu vực lãnh hải của VN. (Xin đọc là biển dầu chứ không phải Biển Dâu của nhà dịch giả Nguyễn Ngọc Bích). Như trên đã trình bày Nhân Quyền đối với Mỹ là một vấn đề không lệ thuộc vào mậu dịch như Cựu TT Clinton đã tuyên bố .

Xin quí vị bình tĩnh. Sở dĩ tôi có thắc mắc trên là bởi những nhà "đấu tranh dân chủ" tại VN đến Mỹ trước đây như Hoàng Minh Chính khi điều trần tại Hạ Viện thì chạy tội cho VC là không ăn hối lộ và nhất quyết lập bàn hội nghị Tiểu Diên Hồng với "trí thức CS" (sic). Rồi đến Nguyễn Chính Kết thì kêu gọi Đại Đại Đoàn Kết như "Cụ Hồ" kêu gọi và nhất là đồng thanh tương ứng trong việc "Cờ Đỏ treo chung Cờ Vàng" trong ngày bọn scump VC khánh thành Tòa Lãnh Sự của chúng tại Houston. Chuyện này thì trước đây cũng có nhà "đấu tranh Dân Chủ" Đoàn Viết Hoạt đã kêu gọi. Trước hơn nữa thì VC Dương Thu Hương cũng ca ngợi Già Hồ ngay tại đất tỵ nạn này. Chuyện này đúng là thần kỳ vì những con chốt được VC đưa qua sông không có ai có được một chút tin tưởng của người Việt tỵ nạn cs tại hải ngoại. Tại sao ? Rất dễ hiểu. Tại vì dân VN đã bị VC lừa và bịp quá nhiều lần. Cho nên nếu có một người Việt tỵ nạn VC đi tìm tự do mà có phản đối mấy cái chiêu bài cũ rích mà bọn VC lập đi lập lại hoài thì xin quí vị có những bộ óc thần kỳ thứ lỗi cho.

Vì vậy trường hợp của con nhà tông CS Cù Huy Hà Vũ cũng không khác. Biết vậy. Biết hàng đã ung thối mà vẫn export ra nước ngoài thì đúng là chuyện thần kỳ Bởi có khách hàng nào lại đi mua đồ ung thối ??

Cho nên khi Trung Cộng đặt giàn khoan HD981 tại thềm lục địa VN thì ngay tức khắc các chính khách cây me chạy đôn, chạy đáo thành lập nội các với những nhà trí thức thần kỳ cùng những chính khách cây me tại Hoa Kỳ có vóc dáng những nhà chống Cộng ôn hòa ? Để làm gì ? Để đáp ứng điều kiện với VC nếu một khi "Mỹ Bật Đèn Xanh" thì nội các của mấy ông chính khách đưa mối mới được chấp nhận. Và thần kỳ hơn nữa vì các nhà phản tỉnh thần kỳ ra hải ngoại nhìn thấy tập thể người Việt chống Cộng tại hải ngoại quá kiên cường do đó sợ giao cho một ai ở hải ngoại mà chống Cộng "cực đoan" như vậy thì phiền hà cho Đảng nên phải chấp nhận điều kiện là để cho những nhà phản tỉnh thần kỳ trong nước nắm quyền "lãnh đạo Tông Tông" thì Đảng mới yên tâm .

Một mặt khác họ vực dậy những món hàng cũ như Chiến Sĩ Kinh Kha Chiến Sĩ Võ Đại Tôn đã hơn một lần bị cái "bạch thư" làm khổ và cũng đã ẩn dật khá lâu. Nay lại được Đảng Thần Kỳ đem đi rao hàng khắp chốn Âu Châu hầu góp mặt vào cái chính phủ Trung Lập mai sau. Xin quí vị đừng nóng, Đây là CHUYỆN THẦN KỲ mà.

Trở lại chuyện giàn khoan HD981 của Trung Cộng đặt tại thềm lục địa VN. Theo với sự suy diễn của cá nhân chúng tôi về việc TC đặt giàn khoan HD981 là muốn làm một chuyện Mind-Reading đầu óc của Mỹ sau khi TT Obama thăm viếng Á Châu.

Có người cho rằng TT Obama không đi VN là biết VN thuộc quyền "cai trị" của TC và cũng đã tuyên bố là không muốn dính dáng vào chuyện tranh chấp Biển Đông giữa VN và TC. Nhưng lại ký kết hiệp định bảo vệ Philippine và Nhật. Trong khi đó Nhật tuyên bố sẽ hổ trợ VN khi TC xâm lăng. Quí vị cứ dùng tam đoạn luận ở sự việc này thì sẽ thấy Mỹ đang dùng chiêu gì? và có bỏ rơi VN không?

Còn lập luận cho rằng Mỹ giúp VN là thương dân VN. Điều này lại càng sai lầm hơn vì Mỹ đã từng bỏ đồng minh để tháo chạy mà không hề quan tâm đến sự sống chết của đồng minh, rồi sau đó lại đi tái lập bang giao với kẽ thù. Thật ra chúng tôi không cần phải nói đến những ý kiến này vì ai ở Mỹ cũng rõ. Câu châm ngôn Mỹ không có bạn mà cũng chẳng có thù. Chỉ nơi nào có tiền là đám tài phiệt Mỹ nhào tới. Việt Nam tuy là một thị trường nhỏ hơn Trung Hoa nhưng vẫn hấp dẫn cho những kẽ đi kiếm mỹ kim. Chính thái độ và hành vi của Mỹ đã làm mấy chú Ba Tầu có máu Tào Tháo nghi ngờ. Do đó việc đặt giàn khoan của TC chỉ là một cuộc thăm dò để biết Mỹ nói vậy mà có làm như vậy không?

Nhưng tại hải ngoại, chính biến cố Trung Cộng đặt giàn khoan tại VN là cơ hội giáo giở lên đường. Những thông cáo, tuyên cáo kêu gọi đồng bào hải ngoại biểu tình cùng đồng bào quốc nội để chống Tầu xâm lăng trong khi cái đảng cs đang cai trị VN đã mở đường mời TC vào xâm lăng từ khuya rồi.

Hình ảnh kêu gọi "biểu tình chung cùng quốc nội để chống TC lại là một chuyện thần kỳ khi hình ảnh cờ vàng cờ đỏ phất phới bên nhau cùng chống TC xâm lăng". Ôi đẹp thay cho một bức tranh hòa hợp hòa giải dân tộc, "bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương".

Bọn giáo giở dùng hình ảnh CỜ Đỏ CỜ Vàng để chúng tuyên truyền về sự thành công của chiêu bài hòa hợp hòa giải ở hải ngoại để chúng chạy chọt một chỗ ngồi trong cái chính phủ gọi là Trung lập mà chúng đang tung hứng trên các diễn đàn với sự sắp đặt là Cù Huy Hà Vũ sẽ lãnh đạo.

Lại thêm một chuyện thần kỳ về ông Cù Huy Hà Vũ. Theo tin tức thì Nhà phản tỉnh thần kỳ Cù Huy Hà Vũ được VC cho đi Mỹ để chữa bịnh cao máu nhưng ông Cù Huy Hà Vũ lại tuyên bố là khi thành công thì sẽ trở về. Có nghĩa là ông không bị cao máu cho nên không cần lành bịnh mà chỉ cần thành công đạt được mục tiêu chính trị thì sẽ trở về. Vậy xin hỏi ông phản tỉnh thần kỳ họ Cù ông cần đạt được mục đích gì để gọi là thành công?? và mục tiêu chính trị đó phải cần thời gian bao lâu và sau VC sụp đổ hay VC vẫn còn cai trị?

Trong khi đó VC vẫn uyển chuyển bài bản theo Nghị Quyết 36 của chúng là kêu gọi "con dân VN Hải ngoại" kêu gọi các quốc gia mà họ định cư ủng hộ và giúp đỡ VN.

Không biết cái Thỉnh Nguyện Thư mà nhóm Đổ Phủ Trúc Hồ cùng một số đảng phái "thần kỳ" tại hải ngoại có đầy đủ con dân trí thức và lao động ở hải ngoại ký vào để dâng TT Obama có bị cái chiêu bài kêu gọi Hoa Kỳ giúp đỡ VN chống Trung Cộng mà tay sai VC đã tung tung hứng hứng lâu nay trước cái đại họa gọi là mất nước hay không?

Không biết cái chính phủ mà giáo sư Nguyễn Ngọc Bích (người đã từng bị tai tiếng vì chạy chọt cho Nghị Quyết SJ455 biến đổi “Ngày Quốc Hận” của Tập Thể Người Việt Tỵ nạn cs thành “ngày Việt Nam” được thành hình và nhất là dịch giả những bài thơ của tên VC Tố Hữu lẫy lừng với câu thơ giềt người dân VN rất dã man như: “Giết! Giết ! Giết bàn tay không ngừng nghỉ Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong đã lập xong nội các chưa? Hay chờ con mồi Cù Huy Hà Vũ được Mỹ chấp nhận ???

Trong khi đó nhóm Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng cũng bám sát con mồi Cù Huy Hà Vũ. TS Nguyễn Đình Thắng đã từng bị “banh ta lông” tại thềm Nhà trắng khi con cờ Thỉnh Nguyện Thư bị Nhóm Đổ Phủ, Trúc Hồ rẽ theo con đường riêng ta đi.

Tuy nhiên nổi bật nhất vẫn là sản phẩm TNT mà nhóm Đỗ Phủ, Trúc Hồ đang tiến hành như đã nói ở trên. Thật tội cho cái sản phẩm "nhân quyền tại VN". Hết Mỹ đong đưa buôn bán, VC chà đạp thương đau đến mấy ông chính khách đồng ca lạc điệu.

Chuyện Thần kỳ còn rất nhiều nhưng bài viết thì quá dài. Có điều là có người nhìn thấy có người không. Tuy nhiên không phải ai cũng nhìn thấy. Đó mới là CHUYỆN THẦN KỲ.

Ngày nào còn những chuyện thần kỳ thì ngày đó công cuộc chống csVN tại hải ngoại vẫn còn gian nan.

Tôn Nữ Hoàng Hoa



Friday, May 30, 2014

Việt Nam Cộng Hòa, lối thoát của Hoàng Sa và dân tộc - Trần Trung Đạo

Việt Nam Cộng Hòa, lối thoát của Hoàng Sa và dân tộc

Trần Trung Đạo

Sau 40 năm nếu tính từ thời gian hải quân Trung Cộng tấn chiếm Hoàng Sa và 56 năm kể từ khi Phạm Văn Đồng gởi công hàm cho Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai, lần đầu tiên lãnh đạo CSVN chính thức phủ nhận công hàm. Bao nhiêu lần lập đi lập lại câu thần chú “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý vững chắc về chủ quyền đối với Hoàng Sa” nhưng giới lãnh đạo CSVN không hề nhắc đến công hàm, tưởng chừng như văn bản đó không phải là của họ. Thứ Sáu 23-5-2014, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Biên Giới Quốc Gia, trong cuộc họp báo với mục đích “làm rõ công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng” đã đưa ra các lý luận để phản bác các quan điểm của Trung Cộng.

Điều kiện quốc tế dẫn tới công hàm Phạm Văn Đồng

Trước 1958, Trung Cộng không có một quan điểm rõ ràng nào về lãnh hải. Nhà văn Trung Quốc Wei Wen-han nghiên cứu về lãnh hải nhắc lại cho đến tháng Sáu 1957 Trung Cộng vẫn chưa có một xác định nào về hải phận và thềm lục địa thuộc về Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Tháng 12 năm 1957, Nam Dương tuyên bố mở rộng lãnh hải từ 3 hải lý theo truyền thống mà hầu hết các quốc gia áp dụng sang 12 hải lý và được tính từ điểm ngoài cùng của các đảo thuộc lãnh thổ Nam Dương. Vì Nam Dương là quốc gia quần đảo, nếu tính như vậy, một vùng biển rộng lớn của vùng Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đều thuộc quyền kiểm soát của Nam Dương. Anh, Hòa Lan và nhiều quốc gia khác cùng lên tiếng phản đối. Trung Cộng chụp lấy thời cơ binh vực Nam Dương và ngày 4 tháng 9 năm 1958 công bố riêng một Bản tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc (Declaration on China's Territorial Sea) với các điểm chính như mọi người đều biết: “Bề rộng của lãnh hải Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý”“áp dụng tương tự đối với Đài Loan và các đảo chung quanh, Quần đảo Bành Hồ (Penghu), Quần đảo Trung Sa (Tungsha), Quần đảo Tây Sa (Hsisha), Quần đảo Chungsha, Quần đảo Nansha (Nam Sa), và các đảo khác thuộc Trung Quốc”.

Công tâm mà nói, bản tuyên bố của Trung Cộng trong thời điểm đó nhắm vào Mỹ đang bảo vệ các tàu hàng Đài Loan trong các vùng đảo Kim Môn, Mã Tổ, Bành Hồ hơn là các nước Đông Nam Á. Người soạn thảo bản tuyên bố của Trung Cộng áp dụng phương pháp tính lãnh hải của Nam Dương và có tầm nhìn Đại Hán nên đã đưa các đảo Tây Sa (Hsisha) tức Hoàng Sa và Nam Sa (Nansha) tức Trường Sa trong vùng biển Đông vào. Chính phủ Mỹ tức khắc bác bỏ bản tuyên bố của Trung Cộng và các chiến hạm Mỹ vẫn tiếp tục bảo vệ an ninh cho các tàu hàng Đài Loan trong vùng 3 hải lý của đảo Kim Môn, Bành Hồ chung quanh Đài Loan. Trung Cộng không dám bắn. Bộ quốc phòng Mỹ đã lên kế hoạch tấn công Trung Cộng bằng bom nguyên tử. Để giữ thể diện, Bành Đức Hoài tuyên bố ngưng bắn vào Kim Môn nếu tàu chiến Mỹ ngưng bảo vệ tàu hàng Đài Loan. Mỹ chẳng những không đáp lại đòi hỏi của Trung Cộng mà còn gởi Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles thăm Đài Loan để bàn kế hoạch phòng thủ Đài Loan lâu dài.

Hai lý do Trần Duy Hải dùng để bác bỏ công hàm Phạm Văn Đồng

Thứ nhất. Công hàm Phạm Văn Đồng “hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.

Lý luận này không thuyết phục được ai. Không cần phải đứng về phía Trung Cộng mà chỉ một người có chút hiểu biết và dù đứng về phía Việt Nam cũng phản bác lại dễ dàng. Đưa ra lý do không đề cập đến Hoàng Sa, Trường Sa là một cách tự kết án mình. Bản tuyên bố của phía Trung Cộng ghi rõ Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Cộng và Việt Nam đáp lại bằng cách“ghi nhận và tán thành bản tuyên bố”. CSVN có nhiều cách để lấy lòng đàn anh Trung Cộng mà vẫn giữ được chủ quyền đất nước. Chẳng hạn, Phạm Văn Đồng chỉ nhấn mạnh đến sự ủng hộ của đảng và nhà nước CSVN đối với các chính sách của Trung Cộng trong xung đột Đài Loan mà không nhắc nhở gì đến Hoàng Sa, Trường Sa và coi như không biết đến “Bản tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc”. May ra còn có thể cãi cọ được. Tiếc thay, lãnh đạo đảng sợ viết như vậy chưa vừa lòng đàn anh và chưa tỏ bày hết lòng dạ trung kiên, cắt cỏ ngậm vành của mình.

Không giống thái độ của các nước Mỹ, Anh, Hòa Lan, CSVN tự nguyện đưa cổ vào tròng. Không có một văn bản nào cho thấy Trung Cộng áp lực Việt Nam phải đồng ý với bản tuyên bố lãnh hải của Trung Cộng. Không có tài liệu nào cho thấy Trung Cộng đe dọa nếu CSVN không ủng hộ sẽ đưa quân sang “dạy cho một bài học” hay cắt đứt viện trợ. Thời điểm năm 1958 vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa chưa phải là mối bận tâm hàng đầu của Trung Cộng, tuy nhiên những người soạn thảo bản công bố chủ quyền biển của Trung Cộng đã biết phòng xa. CSVN thì không. Nếu sự kiện được trình lên toàn án quốc tế, không một quan tòa nào sơ đẳng đến mức đánh giá hai văn bản một cách độc lập với nhau.

Phân tích để thấy, lãnh đạo CSVN trong lúc phủ nhận giá trị của công hàm Phạm Văn Đồng trước dư luận quốc tế, cũng đồng thời thừa nhận trước nhân dân Việt Nam công hàm Phạm Văn Đồng là công hàm bán nước.

Lý do thứ hai cũng do Trần Duy Hải đưa ra “Hoàng Sa và Trường Sa cũng phù hợp với thực tế lúc đó hai quần đảo này nằm dưới vĩ tuyến 17 thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa”.

Trong hai lý do, chỉ có lý do Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là có sức thuyết phục về mặt pháp lý cũng như gây được cảm tình của thế giới tự do. Tuyên cáo của chính phủ VNCH công bố ngày 14 tháng Hai năm 1974 xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Bạch thư của Bộ Ngoại Giao VNCH đầu năm 1975 đanh thép bác bỏ giá trị pháp lý của công hàm Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng không thể công nhận những gì không thuộc lãnh thổ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. VNCH là một quốc gia có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về VNCH đã được quốc tế công nhận. Tuy nhiên, lý luận VNCH có gây được cảm tình nhân loại và có thể dùng để tranh luận trong bàn hội nghị cũng chưa thắng được bởi vì VNCH không còn là một thực thể chính trị.

Phản đối của nhà nghiên cứu Trung Quốc

Ngô Viễn Phú, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Pháp luật Việt Nam và từng du học tại Việt Nam đã bác bỏ các luận điểm của CSVN. Ngô Viễn Phú cho rằng: “Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh).”

Đàn anh Cộng Sản Trung Quốc công nhận đàn em CSVN là chuyện đương nhiên và thể theo lời yêu cầu của CSVN chứ không phải của VNCH. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước thay đổi theo từng thời kỳ. Singapore là một nước nhỏ nhưng mãi đến 1990 mới công nhận Trung Cộng. Liên Xô là một nước lớn nhưng Mỹ bắt chờ 16 năm sau cách mạng CS Nga mới công nhận Liên Xô. Thời điểm 1933 Nhật bắt đầu bành trướng ở phương Đông nên Mỹ cần làm dịu căng thẳng ở phương Tây, nếu không Tổng thống Franklin Roosevelt còn cô lập Liên Xô thêm nhiều năm nữa.

Việc “Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam” cũng chỉ giá trị giữa miền Bắc CS và Trung Cộng không ảnh hưởng gì với quốc tế và không liên hệ gì đến nước thứ ba, trong trường hợp này là VNCH. Trung Cộng có quyền công nhận miền Bắc Cộng Sản và không công nhận VNCH về mặt ngoại giao nhưng vẫn phải thừa nhận VNCH là một quốc gia độc lập được quốc tế và các quốc gia tham dự hội nghị Geneva, trong đó có Trung Cộng tham dự và ký kết.

Trong khi phản bác Ngô Viễn Phú lại cũng dựa trên lý luận CSVN đã xâm lược VNCH và không có quyền “thừa kế” lãnh thổ của nước bị chiếm: “Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.”

Về mặt công pháp quốc tế cũng như cả lãnh đạo CSVN lẫn phe phản đối lý luận của CSVN đều công nhận rằng chủ nhân thật sự của Hoàng Sa vẫn là VNCH. Do đó, điều kiện tiên quyết, chọn lựa duy nhất và con đường thích hợp nhất không chỉ để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Công mà mở đường cho tự do, dân chủ và thịnh vượng là tập trung vào công cuộc phục hưng VNCH.

Lối thoát VNCH

Đọc tới đây, một số độc giả có thể sẽ dừng lại vì cho người viết không tưởng, hư cấu hay chủ trương đi lại một vết xe đổ. Không. Phục hưng VNCH không phải là đi lùi vào quá khứ mà hướng tới tương lai, không phải lập lại mà thăng tiến cao hơn. VNCH không phải là vết nhăn trên trán của thế hệ cha chú đã qua mà là hành trang và ước vọng của tuổi trẻ ngày nay. Chủ nghĩa CS mới thật sự là lạc hậu và việc cáo chung của chủ nghĩa này chỉ là vấn đề thời gian. Thác nước Niagara không thể nào chảy ngược. Không phải người viết, phần đông độc giả mà ngay cả các lãnh đạo CSVN cũng không thể chối cãi sự thật đó. Chủ nghĩa CS còn kéo dài ở Á Châu cho đến hôm nay là nhờ họ biết núp bóng sau tấm bình phong chống thực dân đế quốc. Tấm bình phong do họ dựng lên đang rã mục. Năm 1954 tại miền Bắc, nhiều người thật sự tin rằng đảng CS và dân tộc Việt Nam là một, như nước với sữa, như máu với thịt, hay như Hồ Chí Minh nói “đảng là con nòi của dân tộc”. Năm 1975, khi đối diện với miền Nam từ lối sống đến phương tiện hoàn toàn khác với những gì bộ máy tuyên truyền CS đã thêu dệt nhiều người bắt đầu nhận ra đảng đã lợi dụng máu xương của những người ngã xuống vì khát vọng hòa bình, vì mơ ước đoàn viên, vì cơm no áo ấm chỉ để CS hóa toàn đất nước. Và hôm nay, 2014, đông đảo nhân dân Việt Nam đã hiểu rõ cơ chế độc tài là trở lực duy nhất trên con đường dẫn đến một Việt Nam tự do, dân chủ, văn minh. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để tại Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian.

Và khi đó, thể chế nào khác sẽ thay thế chế độ CS nếu không phải là thể chế cộng hòa? Thực tế chính trị rất hiển nhiên đó đang là một khải hoàn ca tại hầu hết các quốc gia cựu Cộng Sản như Cộng hòa Czech, Cộng hòa Hungary, Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa Lithuania, Cộng hòa Estonia, Cộng hòa Mông Cổ v.v... Tiến trình dân chủ hóa diễn ra nhanh hay chậm tùy theo điều kiện của mỗi nước nhưng là hướng phát triển của văn minh nhân loại trong thời đại này.

Giá trị của VNCH

Trong suốt 60 năm từ 1954, bộ máy tuyên truyền của đảng đã không ngừng vẽ trong nhận thức của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một VNCH chẳng khác gì một con ma, ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian này. Suốt 60 năm qua, VNCH là hiện thân của thứ tội ác. Trong nhận thức không chỉ tuổi trẻ Việt Nam sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng viên, nhà văn, nhà thơ đều được dạy để biết VNCH có ba đặc điểm lớn là “tham nhũng”, “trấn áp” “ôm chân đế quốc Mỹ”.

Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên Talawas 8 năm trước người viết đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại miền Nam. Xin trích một phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa đọc.

Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Chẳng những có mà còn vô cùng trầm trọng.

Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không? Có, không chỉ đàn áp một lần mà nhiều lần, không chỉ một năm mà nhiều năm.

Miền Nam trước 1975 có sống bám vào viện trợ Mỹ không? Có, không chỉ 300 triệu dollars “viện trợ đặc biệt” như nhiều người hay nhắc mà nhiều tỉ đô la.

Vâng, tất cả điều đó đều có. Chế độ cộng hòa tại miền Nam Việt Nam ra đời và lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các nguyên tắc dân chủ đã trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ hai lưỡi đó đã đâm vào thân thể của chế độ cộng hòa hàng trăm vết thương đau đớn từ ngày mới ra đời cho đến gục xuống trong tức tưởi. Miền Nam có tất cả sắc thái của một xã hội dân chủ đang từng bước đi lên. Dân chủ không phải là lô độc đắc giúp một người trở nên giàu sang trong một sớm một chiều mà là quá trình tích lũy vốn liếng từ những chắt chiu của mẹ, tần tảo của cha, thăng trầm và thử thách của cả dân tộc.

Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ, Nam Hàn cũng phải bước qua con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay. VNCH cũng vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Như một viên ngọc nằm trong lòng lớp rong rêu của vỏ con trai, trên tất cả, giá trị đích thực của VNCH không nằm trong tham nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong Hiến pháp VNCH đặt nền tảng trên một thể chế dân chủ do dân và vì dân.

Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập hiến Phan Khắc Sửu ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ cộng hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, chủ quyền thuộc về toàn dân” phát xuất từ “Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.”

Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong suốt 9 chương và 117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng hòa, qua đó, quyền lãnh đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền rõ rệt: ”Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xã hội”.

Phục hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền miền Nam. Chính thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống hay chết theo một chính quyền. Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc. Sau 39 năm, VNCH như một mạch nước chảy ngầm trong rặng núi, đau đớn, vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng chảy. Nếu ai cho tôi khoác lác hãy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định kiến xã hội, khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hòa trên trang đầu của Hiến pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung thôi, tôi tin người đọc dù Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước, sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến. Công nhận các giá trị được đề ra trong hiến pháp VNCH không có nghĩa là đầu hàng, chiêu hồi. Không. Không ai có quyền chiêu hồi ai hay kêu gọi ai đầu hàng. Đây là cuộc chiến mới, cuộc chiến giữa dân tộc và phản dân tộc, giữa cộng hòa và cộng sản, giữa tự do và độc tài, giữa nhân bản và toàn trị. Mỗi người Việt sẽ chọn một chỗ đứng cho chính mình phù hợp với quyền lợi bản thân, gia đình, con cháu và sự sống còn của dân tộc.

Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn kiện tham khảo cần thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng thế kỷ trước đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Hạt giống dân chủ khơi mầm tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước bị chia đôi 1954 mà đã có từ hàng trăm năm trước.

Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các nhà cách mạng tại miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh nghị trường, tiếp cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm nền tảng cho chế độ cộng hòa sau này. Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà là vốn quý của dân tộc đã được đổi bằng máu, mồ hôi, nước mắt của nhiều người. Đó không phải là tài sản của riêng miền Nam mà của tất cả những người Việt cùng ôm ấp một ước mơ dân chủ. Những ai biết gạt bỏ định kiến Bắc Nam, tháo gỡ lớp màn “căm thù Mỹ Ngụy” ra khỏi nhận thức, sẽ thấy đó chính là hành trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Không cần phải tìm giải pháp từ Miến Điện, Nam Phi, Ai Cập, Libya hay tìm chân lý ở Anh, ở Mỹ mà ngay ở đây, giữa lòng đất nước Việt Nam.

Phục hưng VNCH không có nghĩa là phủ nhận công lao của những người đã hy sinh trong chiến tranh chống thực dân Pháp. Như kẻ viết bài này đã nhấn mạnh nhiều lần, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Đó là cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng rất anh hùng của một dân tộc bị nô lệ đã đứng lên chống lại một thực dân tàn bạo. Việc tham gia vào đảng phái, kể cả việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam trong thời kỳ chống Pháp, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập nhưng đối với đảng CS chiếc phao lại chính là dân tộc.

Nhiều người yêu nước chọn tham gia vào đảng CS nhưng bản thân đảng CS như một tổ chức chính trị dựa trên ý thức hệ CS chưa bao giờ là một đảng yêu nước. Những nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Dù sao, người yêu nước bằng tình yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, tổ quốc sẽ ghi công họ một cách công bằng.

Phục hưng VNCH không có nghĩa là tái thực thi hiệp định Paris. Dân tộc Việt Nam là một thực thể thống nhất và tất cả các hòa ước Patenôtre, hiệp định Geneva hay hiệp định Paris đều là những chiếc còng của thực dân và đế quốc áp đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam yếu kém và phân hóa. Trước 1975, trong đáy lòng của bất cứ một người Việt yêu nước nào cũng mong một ngày dân tộc Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau sẽ được đoàn viên trong tự do, dân chủ và thịnh vượng. Tuy nhiên, ngoài trừ lãnh đạo CSVN chủ trương CS hóa toàn cõi Việt Nam bằng súng đạn của Nga, Tàu, không ai muốn đoàn viên phải trả bằng giá của nhiều triệu sinh mạng người dân vô tội, đốt cháy một phần đất nước, để lại một gia tài nghèo nàn lạc hậu cho con cháu. Hôm nay, dù không tự mình chọn lựa, dân tộc Việt Nam cũng đã là một và không có một thế lực nào làm Việt Nam phân ly lần nữa.

Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn cuộn lúc âm thầm, có chỗ sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy. Đó là sự thật. Khoảng thời gian từ khi Mã Viện, danh tướng nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng (năm 43) đến khi Lý Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và dựng nước Vạn Xuân (năm 543) là tròn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người đã sinh ra và chết đi trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống Việt Nam vẫn tồn tại và lớn lên. Việt Nam là một trong số rất ít quốc gia trên thế giới trong đó người dân gọi nhau bằng hai tiếng đồng bào thân thương và trìu mến. Đối mặt với một kẻ thù đông hơn nhiều và mạnh hơn nhiều, chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong nước và 3 triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay. Đảng CS có 3 triệu đảng viên nhưng đa số trong số 3 triệu người này trong thực tế cũng chỉ là nạn nhân của một tập đoàn lãnh đạo đảng tham quyền và bán nước. Chỉ có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ tự do mới mong thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt Nam. Tổ tiên Việt Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm được.

Người viết biết rằng, đối với một số người Việt đã bị bộ máy tuyên truyền đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ thống giáo dục một chiều CS, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một quá trình đấu tranh tư tưởng khó khăn.

Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn thẳng vào thực tế đất nước sau 39 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở châu Phi như Ghana, Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng hãnh diện vì chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên. Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn vào cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng của lãnh đạo CSVN. Ngoài những lời phản đối đọc như kinh nhật tụng họ không có và cũng không thể có một chọn lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một nhóm người lãnh đạo được đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước. Như người viết đã trình bày trong bài trước, rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Thảm trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những lạc hậu kinh tế hôm nay, những yếu kém về quốc phòng hôm nay, những cô đơn trong bang giao quốc tế hôm nay là những câu trả lời cho những ai còn do dự, còn một chút tin tưởng nào đó ở lãnh đạo đảng CSVN.

Sau hải chiến Hoàng Sa đầy hy sinh xương máu, VNCH lần nữa lại được lịch sử giao trọng trách đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa trong tay Trung Cộng. Cuộc tranh đấu mới sẽ khó khăn nhưng là con đường đúng nhất của dân tộc trong cùng hướng phát triển của nhân loại. Giống như hầu hết các nước cựu CS ở Đông Âu và khối Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa đương nhiên và dứt khoát. Các quốc gia sẽ bình đẳng trước công pháp quốc tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ý thức hệ CS. Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển thành một quốc gia hiện đại về cả kinh tế lẫn quốc phòng. Các nhà lãnh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh mới trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư cách của một cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất, dân chủ, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới. Giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một cuộc tranh đấu gian nan, gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng chính nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.

Trần Trung Đạo



Làm cách nào xóa mối nhục bán nước? - Ngô Nhân Dụng

Làm cách nào xóa mối nhục bán nước?

Ngô Nhân Dụng

Các “đồng chí anh em” bắt đầu tỏ thái độ đối nghịch với nhau. Lần đầu tiên một tưởng thú Cộng Sản Việt Nam (viết tắt là Việt Cộng) dọa rằng sẽ dùng đòn pháp lý để nói chuyện với Cộng Sản Trung Cộng (viết tắt, Trung Cộng).

Chỉ mới nói thôi, chưa đưa đơn kiện, tức là chưa làm gì cả; nhưng dám nói còn hơn không. Thêm vào đó, tờ tạp chí trên mạng, tiếng nói của đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ đích danh lãnh tụ Trung Cộng tố cáo là theo chủ nghĩa Ðại Hán. Hai chữ này diễn tả một truyền thống kéo dài hơn 2,000 năm, ít nhất kể từ thời Mã Viện. Tất nhiên nói như vậy vẫn chỉ là người Việt nói cho người Việt nghe cho sướng tai; giống như nói chuyện kiện cáo mà không dám đưa đơn kiện, không đụng tới lông chân mấy anh chị Ðại Hán ở Trung Nam Hải. Một bước đi xa hơn nữa là trên tờ báo lề phải còn đăng bài biện minh rằng bức công hàm của Phạm Văn Ðồng ký năm 1958 đồng ý các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh hải Trung Quốc là không có giá trị. Bài báo này có vẻ nhắm đến dư luận quốc tế, trong đó có cả Trung Quốc; chứ không chỉ nhắm người Việt nói với nhau. Nhưng lập luận của bài báo đó cũng không có giá trị nào cả. Muốn chống lại chiến dịch xâm lấn Biển Ðông của Trung Cộng, người Việt Nam phải dùng biện pháp khác, triệt để hơn.

Chế độ cộng sản ở Hà Nội hiện nay là thừa kế chính thức của chính phủ Phạm Văn Ðồng. Cho nên, khi họ xác định rằng bức công hàm do ông Phạm Văn Ðồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 là vô giá trị, đó là một bước thoái lui có ý nghĩa. Bởi vì đây là lần đầu tiên đảng Cộng Sản Việt Nam xác định chính quyền Việt Nam Cộng Hòa có giá trị pháp lý. Từ năm 1954, Việt Cộng không bao giờ công nhận điều đó. Họ gọi chính quyền miền Nam là “ngụy,” nghĩa là “giặc.” Bây giờ họ chính thức thừa nhận chính quyền Sài Gòn làm chủ các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cho nên, họ biện minh, ông Phạm Văn Ðồng, thủ tướng chính phủ Hà Nội, không có quyền hành nào trên các quần đảo đó. Vì vậy, ông Ðồng không thể đem trao cho Trung Cộng, dù ông ta muốn cống hiến. Nói cách khác, Việt Cộng bây giờ đồng ý rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ hợp pháp; công nhận chế độ đó làm chủ một nửa nước Việt Nam. Thật đáng tiếc, hồi đó họ lại chủ trương đánh chiếm miền Nam để cùng “tiến lên chủ nghĩa xã hội!”. Họ lờ đi không nói rõ ông Ðồng có ý nhường các đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng hay không, dù ông ta không có quyền!. Tội nghiệp ông Ðồng, ông chỉ ký tên vào bức thư đã được tất cả Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận, vì thế mà riêng ông mang tội bán nước.

Nhưng dùng lối phủ nhận này không phải là thứ lý luận đứng vững trong cuộc đối đầu với Trung Cộng, cũng như trong ý định biện minh cùng dư luận thế giới.

Thứ nhất, bởi vì sau khi nước ta bị chia đôi năm 1954, chính quyền cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam trong thời gian đó đều tự coi mình nắm chủ quyền trên toàn thể nước Việt Nam. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa, từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, đều khẳng định lãnh thổ Việt Nam kéo dài từ Nam Quan đến Cà Mau; mà Hiến Pháp miền Bắc cũng vậy. Khi chính phủ Phạm Văn Ðồng giao thiệp với Trung Cộng, họ nhân danh cả nước Việt Nam, chứ không riêng gì miền Bắc vĩ tuyến 17; mà Bắc Kinh cũng công nhận điều đó. Ông Ðồng ký bức công hàm theo nội dung này. Bây giờ nói đi nói lại, rằng ông Ðồng chỉ nhân danh một nửa nước Việt Nam thôi; Bắc Kinh sẽ bác bỏ luận điệu đó một cách dễ dàng, rất khó cãi lại.

Tập Cận Bình và tập đoàn thống trị ở Ðông Nam Hải còn có thể nêu ra rất nhiều bằng cớ chứng tỏ ông Ðồng và tất cả đảng Cộng Sản Việt Nam đã công nhận Trung Cộng làm chủ Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Ðồng viết cho Chu Ân Lai nói rằng chính phủ của ông “ghi nhận và tán thành” bản tuyên bố của Trung Cộng ngày 4 tháng 9 năm 1958 về lãnh hải Trung Quốc. Trong văn bản đó, Trung Cộng nói rõ ràng Tây Sa và Nam Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, ông Ðồng và cháu chắt ông ta không thể chối cãi rằng họ hiểu lầm được. Một bằng chứng hiển nhiên khác mà Trung Cộng có thể nêu ra là các sách giáo khoa vẫn được sử dụng ở miền Bắc. Năm 1964, cuốn sách “Tập Bản Ðồ Việt Nam” do Cục Ðo Ðạc và Bản Ðồ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành đã dùng địa danh “Tây Sa”“Nam Sa” theo cách gọi của Trung Cộng chứ không gọi là “Hoàng Sa”“Trường Sa” theo cách của người Việt Nam. Với bằng chứng đó, khó cãi với họ lắm.

Hơn thế nữa, năm 1974 khi Trung Cộng tấn công chiếm Hoàng Sa, chính quyền Hà Nội không hề lên tiếng phản đối. Khi phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa thưa kiện Trung Cộng về vụ này, cả chính phủ miền Bắc lẫn đám bù nhìn của họ ở miền Nam đều không đồng ý. Tại hội nghị La Celle Saint Cloud, được mời cùng đứng tên phản đối hành động xâm lăng Hoàng Sa, họ cũng từ chối. Bây giờ làm sao nói ngược lại được? Gần đây, phóng viên Xuân Hồng của đài BBC có phỏng vấn bà Bảy Vân, vợ của cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn. Bà Bảy Vân xác nhận: “Phạm Văn Ðồng có ký văn bản. Ngụy nó đóng ở ngoài đó (Hoàng Sa). Cho nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa”. Người Tàu họ có thể đọc được tiếng Việt, sẽ vin vào các bằng cớ đó mà xác định rằng Bắc Việt đã đồng ý trao Hoàng Sa cho Trung Cộng từ năm 1958!

Tất cả luận điệu của đảng Cộng Sản Việt Nam chối bỏ bức công hàm của Phạm Văn Ðồng trở thành vô giá trị khi ra trước công luận thế giới. Vậy chúng ta có cách nào xóa bỏ mối nhục bán nước đó hay không?

Có một cách. Là toàn thể dân chúng Việt Nam, từ Bắc chí Nam, bây giờ cùng nhau khẳng định rằng chính phủ Phạm Văn Ðồng là một chính quyền vô giá trị, không bao giờ làm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, đó là một chính quyền ngụy tạo, mạo nhận, không chính đáng.

Người Việt Nam có thể làm công việc đó ngay bây giờ, bằng một cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng sẽ xóa bỏ tất cả cơ cấu quyền hành từ thời Phạm Văn Ðồng tới ngày nay; thay thế bằng một chính thể mới, do người dân Việt Nam tự do bỏ phiếu lựa chọn.

Ðảng Cộng Sản Việt Nam có thể làm công việc đó. Giống như đảng Cộng Sản Bulgaria đã làm năm 1989. Một ngày sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Bộ Chính Trị Cộng Sản Bulgaria đã họp nhau, tự xóa bỏ độc quyền lãnh đạo trong Hiến Pháp và xóa luôn tên đảng cộng sản. Họ tổ chức bầu cử, viết một Hiến Pháp mới, và chính quyền mới (cũng do các người trong đảng cộng sản cũ cầm đầu) tuyên bố tất cả các hiệp ước với Liên Xô đều vô giá trị.

Trên thế giới, nhiều nước đã xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với nước ngoài bằng cách đó. Chính quyền Phạm Văn Ðồng chịu công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc, đó là một thứ thỏa hiệp bất bình đẳng. Trung Cộng đã đưa ra 16 chữ vàng: “Sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan”. Ðảng Cộng Sản Việt Nam diễn tả thành ra 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Bây giờ là lúc dân Việt Nam chấm dứt mối quan hệ bất bình đẳng này, do áp lực của Trung Cộng qua chủ nghĩa cộng sản. Người Việt Nam có quyền xóa bỏ một chế độ sai lầm, xây dựng lại đất nước,

Trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo Người Việt, Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã nói rằng vụ giàn khoan 981 “là một sự kiện rất đau thương, nhưng rất có thể đó cũng là một cơ hội đặc biệt tạo ra cái đổi mới, cái khởi đầu nào đó cho Việt Nam. Nhiều người hy vọng rằng, biết đâu nhờ biến cố đặc biệt đó mà Việt Nam lấy lại cái thế chủ quyền độc lập của mình, thoát khỏi vòng tay Trung Cộng”. Người Việt trong nước hiện đang nôn nóng đòi thi hành một chính sách đối ngoại “Thoát Trung”.

Muốn thoát Trung, phải thoát Cộng. Không chấp nhận “lý tưởng tương thông” thì mới thoát được cái gọng kìm “vận mệnh tương quan”. Dân Việt phải tự quyết định, tự mình làm một “cái khởi đầu nào đó” cho nước Việt Nam. Ðó là cách tốt nhất để xóa mối nhục bán nước năm 1958.

Ngô Nhân Dụng



Nói một lần về chuyện MÀU CỜ - Song Chi

Nói một lần về chuyện MÀU CỜ
Song Chi (RFA)

Cho đến bây giờ đã gần 4 thập niên trôi qua kể từ ngày VN thống nhất, nhưng lòng người Việt vẫn chưa thể thống nhất. Một trong những biểu hiện rõ nhất là đa số vẫn chỉ có thể chấp nhận đứng dưới một lá cờ: hoặc vàng hoặc đỏ. Chỉ có số ít hoặc không nghiêng về màu cờ nào và dành sự quyết định đó cho tương lai, khi đất nước đổi thay, sẽ có một cuộc trưng cầu dân ý về việc chọn lựa màu cờ; hoặc không chọn cả hai và muốn chính phủ mới sau này sẽ có một lá cờ mới, đoạn tuyệt hẳn với quá khứ.

Về phần mình, tôi tôn trọng quyết định của tất cả những ai xem lá cờ vàng là thiêng liêng, hoặc không nghiêng về màu cờ nào, hoặc không chọn cả hai như vừa nêu trên, tôi chỉ muốn tâm sự đôi điều với những ai cho đến giờ phút này vẫn xem lá cờ đỏ sao vàng của đảng cộng sản là cờ Tổ quốc.

Nếu đó là người dân bình thường không quan tâm và cũng không đọc/nghe/xem thông tin đa chiều về tình hình chính trị nên chưa nhận thức ra, hoặc nếu là những người từ 40, 50 tuổi trở lên nhưng sinh ra và lớn lên ở miền Bắc vốn nghe tuyên truyền bao nhiêu năm về “chế độ ngụy quyền tay sai bán nước” nên không hiểu hay căm ghét lá cờ vàng, hoặc nếu là người sinh ra sau chiến tranh không từng sống qua cả hai chế độ nên không biết chọn lựa gì hơn lá cờ đỏ…thì không có gì đáng nói.

Nhưng có những người đã hiểu ra tất cả những sai lầm, tội lỗi và hệ lụy đảng cộng sản đã gây nên cho đất nước, dân tộc VN trong bao nhiêu năm qua, thậm chí còn đứng về phía những người tiến bộ, dân chủ, mà vẫn còn lướng vướng lá cờ đỏ thì thật đáng tiếc.

Trước hết, chúng ta đều biết, lá cờ đỏ sao vàng không phải là lá cờ có từ bao nhiêu đời nay của dân tộc VN, do ông bà tổ tiên ta truyền lại, mà đó là lá cờ của đảng cộng sản VN. Cho dù được gọi là quốc kỳ thì cũng chỉ là quốc kỳ của nước VN Dân Chủ Cộng Hòa trước đây ở miền Bắc và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN hiện nay.

Là lá cờ đại diện cho đảng cộng sản, cho một chế độ do đảng cộng sản dựng nên, nhưng trên thực tế, một sự thật mà cho đến nay những ai có lương tri, có hiểu biết đều không thể phủ nhận rằng chính đảng cộng sản trong quá khứ và hiện tại, đã và đang là lực cản lớn nhất trên con đường giành lại tự do dân chủ, hạnh phúc cho nhân dân và sự cường thịnh cho đất nước. Sau bao nhiêu năm độc quyền lãnh đạo, không có lý do gì để đổ thừa cho bất cứ nguyên nhân nào khác, đảng và nhà nước cộng sản phải hoàn toàn chịu trách nhiệm khi:

Để cho VN hôm nay trở thành một quốc gia lạc hậu, thua xa các nước láng giềng hàng chục, hàng trăm năm về mọi mặt.

Để cho người dân ngày hôm nay sống trong một xã hội không có tự do, dân chủ, nhân quyền bị chà đạp, đạo đức suy đồi, văn hóa tàn mạt, những bản tính tốt đẹp, nhân văn của con người VN bị hủy hoại đến tận cùng…

Để cho VN bị lệ thuộc nặng nề vào Trung Cộng từ kinh tế cho đến chính trị, VN bị mất đất, mất đảo, mất biển và có nguy cơ mất nước vào tay Trung Cộng…

Đó là chưa kể, vì sự mù quáng của đảng cộng sản mà trong suốt thế kỷ XX, VN bị lôi kéo vào những cuộc chiến tranh liên tiếp hao người tốn của, tàn phá nặng nề đất nước và con người, từ chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ và miền Nam Việt Nam Cộng Hòa, chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc và biên giới Tây Nam với Khơ me Đỏ-Cambodia…

Chưa kể, chính những hành động ngu muội, đặt tình hữu nghị Việt-Trung lên trên quyền lợi đất nước, dân tộc của đảng cộng sản đã đưa tới bao hệ lụy thiệt thòi, nguy cơ cho đất nước và dân tộc VN, như công hàm của ông Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng 1958 cho tới nay đã luôn bị Bắc Kinh đưa ra làm cứng họng Hà Nội khi mở mồm nói về chủ quyền Hoàng Sa là một trong rất nhiều ví dụ.

Vậy có nên đứng dưới một lá cờ đại diện cho một chế độ, một đảng cầm quyền có quá nhiều sai lầm, mà nếu gọi là cõng rắn cắn gà nhà, bán nước thì cũng không ngoa hay không? Xin tùy cho mọi người suy nghĩ.

Hãy nhìn từ Liên Xô cho đến các nước XHCN cũ ở Đông Âu, sau khi thoát khỏi chế độ cộng sản, có nước nào sử dụng lại lá cờ của đảng cộng sản trước đó hay ngược lại, họ vĩnh viễn cất bỏ tất cả mọi thứ liên quan đến thời kỳ, chế độ cộng sản vào… bảo tàng?

Mong rằng một ngày nào đó, trên khắp nẻo đường VN sẽ tung bay lá cờ của một chế độ tự do dân chủ văn minh tôn trọng con người, lá cờ ấy màu gì cũng được nhưng đừng là màu đỏ gợi nhớ tới màu đỏ máu mà các đảng cộng sản trên thế giới thích dùng, bởi biểu tượng cờ đỏ, búa liềm, ngôi sao là biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản, của toàn thể phong trào cộng sản trên thế giới.

Trong khi ngày nay nhắc lại “thành tích” của các chế độ cộng sản từ Liên Xô, các nước Đông Âu cũ… cho tới Bắc Hàn, Trung Quốc, Việt Nam… người ta chỉ lạnh người nhớ đến những tội ác diệt chủng, tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh, hay tội ác xâm lược…mà các chế độ này đã từng gây ra đối với nhân dân của họ và của nước khác.

Và cùng với lá cờ mới, là một bài quốc ca mới, không còn những ngôn ngữ sắt máu, hiếu chiến kiểu như “Cờ in máu chiến thắng… Đường vinh quang xây xác quân thù…”, mà sẽ là những ca từ ngọt ngào tụng ca quê hương VN, tụng ca hòa bình, tình yêu thương.

Chỉ đến lúc đó, mới hy vọng có thể có được sự bình yên và thống nhất trong lòng mọi người con dân Việt, dù đang sống trong hay ngoài nước.

Song Chi



ĐẢNG CS GỞI ĐẠI SỨ TRÁ HÌNH CÙ HUY HÀ VŨ - Dương Thanh Đông

ĐẢNG CS GỞI ĐẠI SỨ TRÁ HÌNH CÙ HUY HÀ VŨ
VÀO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI.

Dương Thanh Đông

Cù Huy Hà Vũ là con trai của đại công thần đảng Cộng Sản, nhà thơ Cù Huy Cận, đã bán rẻ tâm hồn
cho quỷ đỏ cộng sản từ khi làm thuộc hạ thân tín cho tên Việt gian Hồ Chí Minh, tên cộng sản ác ôn, là tội đồ của dân tộc Việt nam. Cù Huy Cận biến thành tên nịnh nót chuyên nghiệp, nằm trong thành phần thi nô như Tố Hữu, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư…trong khi những người chân chính như thi sĩ Hữu Loan, thì bị trù dập từ thuở cải cách ruộng đất đến khi qua đời, ông sống trong nghèo khổ tại miền bắc. Cù Huy Cận nhờ tài nịnh hót tên Việt gian Hồ Chí Minh từ thời 1945, nên hắn hưởng nhiều bổng lộc, được Hồ ban cấp quyền ăn cướp công khai tài sản nhân dân, sau nầy con cái tranh giành nhau những bất động sản do đời cha ăn cướp, đời con cháu thụ hưởng. Cù Huy Hà Vũ lớn lên trong nhung lụa, du học ở Pháp vào thời mà toàn dân miền bắc đói khổ, ăn độn ngô khoai và ăn cả nhau tươi từ các bệnh viện cung cấp, do ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em của đại tướng Võ Nguyên Giáp thi hành công tác của đảng giao phó.

Cù Huy Hà Vũ thuộc gia đình quí tộc đỏ, giai cấp thượng lưu cộng sản, không cần phải tìm hiểu, chỉ cần nhìn những tấm ảnh mà hắn có mặt chung với các lãnh tụ miền bắc, cũng đã nói lên Cù Huy Hà Vũ luôn bảo vệ đảng, tôn thờ Hồ Chí Minh là thần thánh và cả gia tộc họ Cù vẫn dùng biểu tượng lá cờ máu, là sản phẩm của chế độ độc tài, sắt máu cộng sản bạo tàn nhất trong lịch sử nước Việt.

Do tranh quyền thất bại với cánh cầm quyền Nguyễn Tấn Dũng, đưa đến bản án 7 năm tù, nhưng vốn là dòng quí tộc đỏ, nên Cù Huy Hà Vũ hưởng qui chế tù như là khách sạn, sau nầy, vì nhu cầu cần người lãnh đạo thành phần du sinh, đón gió, nằm vùng, nên đảng dàn dựng cho Cù Huy Hà Vũ sang Hoa Kỳ với lý do chữa bệnh. So với Nguyễn Hữu Cầu, Tạ Phong Tần, Điếu Cày… thì những người nầy xứng đáng là tù nhân lương tâm, còn Cù Huy Hà Vũ chỉ là tù hờ, tù khổ nhục kế và được đảng cấp chiếu khán sang Mỹ bằng lý do đối kháng nhà cầm quyền nhưng lại "không chống đảng CS". Không ai chấp nhận một tay anh chị trong băng đảng Mafia tuyên bố hoàn lương vì bất đồng quyền lợi với những kẻ cầm đầu băng đảng, nhưng lại một lòng trung thành với đảng Mafia. Cù Huy Hà Vũ hay bất cứ tên Cộng Sản nào, dù thân Nga hay thân Tàu cũng luôn luôn bảo vệ đảng, là mái nhà chung của bọn vô thần, bất lương. Do đó những kẻ trong đảng CS tranh giành quyền lực, không phải là "bất đồng chính kiến" như các cơ quan tuyên truyền của băng đảng Việt Tân cố tình đánh lạc hướng suy nghĩ của mọi người, vì cái "chính kiến" là đảng, là tà thuyết Marx Lenin, lãnh tụ Hồ Chí Minh… chúng chỉ bất đồng về quyền lợi, quyền hành mà thôi.

Nói đúng hơn là đảng CSVN không thể cử một đại diện chính thức sang sống chung, sinh hoạt và lãnh đạo hơn 4, 5 triệu người bỏ nước ra đi tìm tự do, nên cách tốt nhất là gởi Cù Huy Hà Vũ sang, dưới dạng là tù chính trị, cộng thêm cái cớ nhân đạo là cho đi chữa bệnh, để đảng CSVN có được một đại sứ trá hình tại một nơi mà hầu hết mọi người đều dị ứng với cờ đỏ sao vàng, ảnh Hồ Chí Minh. Hai thứ ấy là biểu tượng trong trái tim hồng của một công tử đỏ, dòng giống cộng sản, nay đã đến đời thứ 3 (Cháu của Cù Huy Cận là Cù Huy Xuân Hiếu, nay đang du học ở nước Úc).

Hoa Kỳ tự hào là quốc gia dân chủ, với tượng thần Tự Do ở New York, là nơi nhận những di dân đa sắc tộc, nên một số người bị đàn áp như anh chàng luật sư mù Trần Quang Thành (Trung Cộng) cũng được chính phủ Mỹ cho cư trú. Đảng cộng sản lợi dụng tinh thần dân chủ mà cài người sang, trường hợp tên đạo tặc tập thơ Hoa Địa Ngục Nguyễn Chí Thiện là một trong những kế hoạch đưa người vào cộng đồng tỵ nạn VN ở hải ngoại để lãnh đạo sau khi được băng đảng Việt Tân tô son trét phấn thành thần tượng là ngục sĩ (tên CS gốc chủ động mãi dâm nầy đã lộ mặt sau khi khuyên người Việt đừng biểu tình, mà đến trò chuyện thân mật với những tên lãnh đạo CS công du nước ngoài và chúng về nước là thay đổi, tiến đến dân chủ), luật sư Bùi Kim Thành cũng sang Mỹ sau thời gian được băng "dù sao bác Hồ vẫn kính yêu"… nay là Cù Huy Hà Vũ, kẻ không bao giờ là người quốc gia, tuyên bố: "tôi không chống đảng" thì Cù Huy Hà Vũ chống lại những người chống đảng bán nước cộng sản VN, nói đúng hơn là hắn là đại diện chính thức của đảng CSVN nằm ngoài sứ quán và lãnh sự, núp dưới bình phong tỵ nạn chính trị. Bao quanh đại sứ CSVN trá hình thành tù nhân lương tâm là những kẻ mà cộng đồng hải ngoại không còn lạ gì như Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Ngọc Bích, Chu Tất Tiến..và băng đảng Việt Tân, đài truyền hình "Sinh Bắc Tử Nam" của gã Trúc Hồ…

Hoa Kỳ có chính sách nhân đạo là cách biểu lộ qua sự thu nhận bất cứ ai bị chính quyền đương đại giam cầm hay áp bức. Tinh thần nhân ái ấy có khe hở nên Cù Huy Hà Vũ, con một đại công thần CS, bị trù dập không phải là bất đồng chính kiến, có tinh thần dân tộc, đấu tranh để đưa đất nước đến dân chủ tự do, nhưng hắn bị thất bại trong cuộc tranh giành quyền lực với các đồng chí của hắn, nhất là đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Do đó ý nghĩa tỵ nạn chính trị của Cù Huy Hà Vũ hoàn toàn khác biệt với các tù nhân HO. Việc gọi là điều trần trước quốc hội Mỹ là một sinh hoạt dân chủ thông thường mà tại quốc hội có một diễn đàn, nơi nầy như là một sân khấu Karaoke, hễ ai có người giới thiệu (thường là vài vị dân cử đói phiếu), mời đến và được một số người Việt (thường là khoa bảng như Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Ngọc Bích..) cùng với một sớ người thân tín, cùng lập trường đến tham dự cho có số lượng và những người tổ chức đưa những hình ảnh nầy lên các cơ quan truyền thông Việt ngữ, là hình thức nổ có chính sách và bài bản, nhiều khi nhà dân chủ dỏm, thùng rỗng kêu to. Đó là kỹ thuật tuyên truyền của những kẻ bịp bợm, trong đó có CS và Việt Tân. Trên facebook hay diễn đàn, nhiều khi thấy hình của thủ tướng tự phong Đào Minh Quân đứng trên bục thuyết trình ở White House hay thư viện quốc gia… Thật ra, điều trần trước quốc hội là việc rất trọng đại, dành cho các dân biểu, thượng nghị sĩ khi có vấn đề quan trọng, hay những khách đặc biệt như thủ tướng, tổng thống đến tham dự, hoặc những nhân vật như bà Aung San Suu Kye, Đức Đa Lai Đa Ma vị lãnh đạo tinh thần nổi tiếng toàn cầu của người Tây Tạng lưu vong… còn người Việt Nam thì việc điều trần trước quốc hội Mỹ, chỉ thấy tại diễn đàn "sân khấu Karaoke" mà thôi. Từ lâu nay, băng đảng Việt Tân và các nhà dân chủ cuội, cũng cho là điều trần trước quốc hội để đánh lừa mọi người về tư thế quan trọng của họ, nhưng đây là các tuyên truyền đánh bóng cá nhân, vì tự họ không có đủ uy thế, tài năng, nên đành phải dùng hào quang "quốc hội" mà gọi là điều trần để dựa vào hào quang đó mà làm những công tác sau nầy.

Vừa sang Mỹ là Cù Huy Hà Vũ xuất chiêu, với thành phần ủng hộ không ai xa lạ như Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Thắng, Chu Tất Tiến…. và đàng sau là băng đảng Việt Tân. Thăm dò dư luận bằng bản tin của Dr. Trần, tin nóng là Cù Huy Hà Vũ sẽ thành lập chính phủ. Bản tin nóng của Dr. Trần là màn giáo đầu mà đảng, thành phần tay sai sắp ra tay hành động với nhân vật nổi bật Cù Huy Hà Vũ, tù nhân lương tâm hạng quí tộc máu, lại được Mỹ cho định cư qua sự đồng thuận cấp chiếu kháng cho xuất ngoại (nếu Mỹ can thiệp cho định cư, nhưng nhà nước cộng sản không cấp chiếu kháng, thì không thể ra đi được).

Bản tin nóng của Dr. Trần rao vặt chính phủ Cù Huy Hà Vũ được xem là có sự ủng hộ mạnh của Mỹ, Pháp, quân đội CS... và để cho chắc ăn, nhét vào những người Mỹ gốc Việt nổi tiếng như nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, luật sư Đinh Việt (nguyên là thứ trưởng bộ Tư Pháp dưới thời tổng thống George W Bush)... để đánh lừa mọi người là Cù Huy Hà Vũ sang Mỹ là do Mỹ vận động và Mỹ sẽ đưa Cù Huy Hà Vũ về Việt Nam thay thế thành phần lãnh đạo hiện nay. Tuy nhiên, Dương Nguyệt Ánh là người xác nhận là không hề liên lạc hay bất cứ quan hệ nào với Cù Huy Hà Vũ, thì cái bình phong do Mỹ ủng hộ đã sụp đổ, té ra đây là những kẻ mạo danh, tuyên truyền láo khoét.

Người ta chỉ thấy hình của Cù Huy Hà Vũ với một vài người Mỹ mà ít thấy nổi tiếng và có cả nhân vật chuyên ăn PHÂN (là Nguyễn Đình Thắng)... nhưng nào thấy Cù Huy Hà Vũ ngồi mạn đàm với tổng thống Mỹ hay Pháp… hoặc văn bản của các nguyên thủ quốc gia nêu trên với thông báo báo chí (Press release) như họ từng dành cho bà Aung San Suu Kye, Đa Lai Đa Ma…

Dr.Trần nào đó đưa tin nóng, mà lại tin vịt, để chuẩn bị dư luận người Việt ủng hộ "tên đại sứ CS trá hình nhà đối kháng Cù Huy Hà Vũ" thật là dốt, ngốc và đần. Tên Dr. Trần nầy không biết là ở đâu mà không biết sinh hoạt dân chủ các nước Tây Phương, cứ dám nghĩ, dám nói ẩu là Mỹ, Pháp… sẽ đưa Cù Huy Hà Vũ về làm tổng thống. Người Việt hải ngoại đã thất vọng giới trí thức, làm hệ lụy đến hàng ngũ trí thức chân chính. Những trí thức nay thành trí cùn như tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, Đinh Xuân Quân, Trần Hữu Dũng, Nguyễn Ngọc Bích... đã bị cháy rụi uy danh trong bếp than rơm "Bên Thắng Cuộc" của "Vẹm Văn San Hô" Huy Đức. Trí thức Bùi Diễm trong quyển The jaws of history lại ca tụng tên đại Việt gian Hồ Chí Minh… thì Dr. Trần cũng là loại trí thức dấu mặt hay mạo danh khoa bảng để bịp thiên hạ. Trí thức có danh tiếng hẳn hòi mà còn có tên dỏm, thì thứ Dr. Trần khơi khơi, không ai biết, lại càng không thể tin được, có thể tên Dr. Trần là một tên VC nằm vùng, băng đảng Việt Tân hay đón gió tung tin để chuẩn bị tạo thế đứng, lòng tin vào một "tân đại sứ trá hình Củ Huy Hà Vũ" vào cộng đồng tỵ nạn và trong tương lai sẽ hướng dẫn hải ngoại vào tròng của đảng?

Mặc dù Mỹ chính thức ủng hộ bà Aung San Suu Kye hay tiếp kiến Đức Đa La Đa Ma, nhưng chưa hề lên tiếng ủng hộ thành lập chính phủ lưu vong để về Miến Điện hay Tây Tạng nắm chính quyền.

Chuyện Cù Huy Huy Hà Vũ thành lập chính phủ, được những cường quốc đương đại ủng hộ là điều không thể kiểm chứng, nhưng trò bịp bợm nầy đã bị phơi bày trước khi chính phủ thành hình. Tuy nhiên, đảng CSVN đã thành công trong việc đưa được một đại sứ trá hình vào cộng đồng hải ngoại để làm công tác gom cả hải ngoại vào tay đảng.

Cù Huy Hà Vũ không chống đảng, còn Việt Thường Trần Hùng Văn là một cán bộ nồng cốt của đảng trá hàng, từng du học ở Liên Xô khi còn ở miền bắc trước 1975, đã không thể dấu cái đuôi CS sau thời gian phản tỉnh giả: "Tôi không chống Cộng, chỉ chống Việt gian". Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc ở Úc, là kẻ có nguồn gốc gia đình cách mạng như Cù Huy Hà Vũ, tốt nghiệp đại học sư phạm sau 1975 và ở lại dạy một thời gian trước khi tìm cách len lỏi vào cộng đồng hải ngoại, cũng tuyên bố: "tôi không hề chống cộng". Đó là những bằng chứng điển hình về những kẻ nằm bên kia chiến tuyến, đang sinh sống trong cộng đồng tỵ nạn quỷ đỏ. Họ không chống đảng, thì chắc chắn là thành phần trung thành với đảng CSVN, là kẻ thù của nạn nhân cộng sản.

Bao quanh "đại sứ VC trá hình" Cù Huy Hà Vũ là những thành phần mà người Việt hải ngoại đã quá quen thuộc về lập trường chính trị, thì không ai ngạc nhiên với câu tục ngữ "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã".

Dương Thanh Đông