Thursday, May 1, 2014

Hận thù còn đó

Quốc Hận tháng Tư: Hận thù còn đó

Quang Dương

Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư lại trở về với chúng ta trong niềm ngậm ngùi xót xa hơn bao giờ hết. Thật ra, không phải chỉ đến dịp Tháng Tư Đen hàng năm chúng ta mới nhớ về tổ quốc và tưởng niệm ngày Quốc Hận. Nỗi đau mất nước, mất quê hương, mất người thân, mất tài sản cơ ngơi sự nghiệp phải chăng tuy có lúc khắc khoải âm thầm, có lúc trào dâng mãnh liệt nhưng luôn canh cánh bên mình, nung nấu trong lòng tất cả người dân nước Việt, những người không chấp nhận chế độ Cộng Sản ở trong lẫn ngoài nước.

Kẻ thù của chúng ta, bạo quyền CS miền Bắc VN, với tham vọng điên cuồng, với bản chất hung hăng của quân cướp nước, cộng với sự trợ giúp đồ tể của ngoại bang, đã trắng trợn vi phạm hiệp định Paris 1973, xua quân cưỡng chiếm miền Nam, tức VNCH. Ngày 30 Tháng Tư 1975 là ngày đen tối nhất của toàn dân miền Nam, ngày tất cả người dân cùng phải chịu cái nhục bại trận và cái tang chung mất nước. Kể từ ngày bi thương máu lệ đó, niềm uất hận, nỗi đau quặn xé trong lòng mỗi người chúng ta vì ngậm ngùi xót xa cho quê hương, vì thương nhớ những người thân đã chết dưới tay CS chưa bao giờ nguôi ngoai.

Quân xâm lược sau khi chiếm được toàn thể miền Nam đã áp dụng những chủ trương và chính sách vừa thâm hiểm, vừa dã man tàn khốc, để đưa người dân trong Nam xuống cuộc sống bần cùng, đói rách, hạ tiện, mất nhân phẩm hầu dễ bề cai trị. Với bản tính hiếu thắng, kiêu căng của kẻ cướp nước, chúng ảo tưởng rằng có thể dùng mọi mánh khóe thủ đoạn, kể cả dụ dỗ ngon ngọt, mua chuộc móc nối, che dấu ngụy biện, thậm chí sử dụng bạo lực quân đội, công an, côn đồ, du đãng để cưỡng chế đàn áp, bắt ép chúng ta phải quên đi mối nhục hận vong quốc. Chúng đã lầm. Những điều bọn CS làm chỉ khiến lòng căm hận của chúng ta càng sôi sục hơn, càng nhận thấy rõ hơn dã tâm của chúng muốn tiêu diệt sức đối kháng của tất cả khối người Việt chống Cộng trong lẫn ngoài nước. Như hai chữ “Sát Thát” đã được xâm bằng máu, thích bằng dao lên da thịt quân dân Đại Việt thời nhà Trần, nhắc nhớ mối căm thù không đội trời chung với giặc Nguyên Mông, hai chữ “Quốc Hận” cũng đã hằn in bằng máu và nước mắt trong trí nhớ, trong tâm tưởng mỗi người dân miền Nam. Nỗi thống hận này sẽ còn mãi trong tim óc, trong xương thịt, trong từng bước đi, từng hơi thở của chúng ta, nhất là của những người từng là nạn nhân của CS.

Mỗi người chúng ta cũng không chỉ mang mối hận CS với tính cách riêng lẻ đơn thuần. Chúng ta còn có trách nhiệm cưu mang và nuôi dưỡng mối hận của những người đã chết vì CS nữa. Đây vừa là bổn phận vừa là nghĩa vụ thiêng liêng bắt buộc. Hàng triệu nạn nhân oan mạng của CS, trong đó những đồng bào vô tội, những thân nhân ruột thịt của chúng ta là những người chịu thiệt thòi nhiều nhất. Lý do vì Họ không còn có thể chất chứa mối hận sinh tử với CS và mong có ngày đòi CS phải trả món nợ máu xương. Tuy vậy, u linh oán khí của Họ đã dằng dặc đất trời, trùm phủ núi sông. Oan hồn của Họ chưa thể siêu thoát ngày nào chế độ bạo quyền CSVN còn chưa xụp đổ, và những tên tội đồ đảng viên và tay chân họ Hồ có nợ máu với dân tộc còn chưa bị đưa ra xét xử. Trong âm thầm vô ảnh, Họ vẫn hiện diện một cách tế vi và thường hằng bên chúng ta dưới nhiều hình thức. Thật ra, Họ vẫn đang “sống” trong chúng ta, phù trợ chúng ta, đồng hành với chúng ta trên mỗi bước đường chống Cộng. Hãy nhớ rằng trong mỗi con người chúng ta hiện nay đều đang mang một phần anh linh và thể phách của những nạn nhân đã chết vì chính nghĩa tự do, vì không chấp nhận chế độ CS. Chúng ta chống chế độ và con người CS không chỉ cho riêng chúng ta mà còn vì món nợ tinh thần đối với những đồng bào, người thân đã bỏ mạng trong suốt thời gian đảng CS hoành hành trên đất nước thân yêu nữa.

Nói vậy phải chăng chúng ta thù dai? Hay chúng ta quá khích, chống Cộng cực đoan? Bạo quyền CSVN thường viện lý do rằng chúng ta lòng dạ hẹp hòi, nuôi dưỡng thù hận, chống Cộng điên cuồng quá khích, không chịu mở rộng vòng tay đón nhận lời đề nghị hòa hợp hòa giải của chúng. Rằng đã qua nhiều năm, hãy khép lại quá khứ, xóa bỏ hận thù, xây dựng tương lai. Nhưng hãy tự hỏi ai mới thật thù dai, ai mới là kẻ ngoan cố, hẹp hòi, cực kỳ tham ác hiểm độc, là nguồn gốc của mọi oán thù, chia rẽ?

Không kể thời gian trước 1975, thời CS Bắc Việt tiến hành chiến tranh xâm chiếm miền Nam (vốn đã khét tiếng với những tội ác dã man kinh hoàng của CS đối với quân dân miền Nam mà sửa sách còn ghi chép đầy đủ), hãy chỉ thử nhìn lại trong 39 năm sau ngày mất nước, bạo quyền CSVN đã và đang đối xử với những người dân của một nửa quốc gia bị chúng cưỡng chiếm ra sao? Chúng đã làm được gì cho dân tộc, cho quê hương? Hay chỉ toàn những tội ác và tệ nạn gây thêm căm thù, oán hận, khinh ghét và ghê tởm. Xin tạm chia ra làm hai giai đoạn:
Những tội ác của CS gây hận thù từ 30/4/75 đến 1989
Những năm tháng sau ngày cưỡng chiếm miền Nam VN với chủ trương và chính sách vô cùng nham hiểm thâm độc, CS đã làm những điều sau đây mà chúng bảo là “vô cùng nhân đạo”, “mở rộng vòng tay”, “xóa bỏ hận thù”:
  1. Tập trung cải tạo quân dân cán chính VNCH, thực ra là tù khổ sai vô hạn định nơi rừng sâu núi cao, ma thiêng nước độc mà hậu quả là mấy trăm ngàn người miền Nam bị chết vì bị tra tấn, xử tử, đói khát, bệnh tật, kiệt sức.

  2. Đẩy dân đi kinh tế mới để chiếm nhà chiếm đất, cướp tài sản cá nhân đồng thời một công hai việc, giết bớt dân miền Nam cho dân miền Bắc tràn vào thay thế.

  3. Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, thực chất là thu gom cướp trắng toàn bộ tài sản, nguyên vật liệu, khí cụ sản xuất, tài nguyên, nguồn vốn lớn của đồng bào miền Nam đem về Bắc chia chác lẫn nhau.
  4. Hợp tác xã kinh doanh/sản xuất, tổ hợp tiểu thủ công, nông nghiệp chỉ là cái cớ để bần cùng hóa người dân lao động, bóp chết tài năng sáng tạo, triệt tiêu năng lực sản xuất và tạo điều kiện cho đám cán bộ địa phương công khai ăn cướp của cải, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn của dân.
  5. Đổi tiền, cấm đường, cấm chợ, cấm tư bản tư doanh, cấm báo chí tư nhân, cấm hội họp và chính sách hộ khẩu, tem phiếu sổ gạo, công an khu vực, đi khai về trình, tổ dân phố đã bóp nghẹt bao tử người dân vốn càng ngày càng teo tóp sau ngày mất nước đồng thời kiểm soát gắt gao, hạn chế tự do đi lại, tự do lập hội, tự do ngôn luận… Nói chung người dân miền Nam bị tước đoạt tất cả mọi quyền tự do mà họ từng được hưởng thoải mái đầy đủ trong chế độ VNCH.
  6. Về tôn giáo, các nhà thờ, chùa chiền, miếu đền, nơi thờ phượng đều bị kiểm soát chặt chẽ, thậm chí bị tịch thu, giải tỏa. Tu sĩ bị cấm giảng đạo, bắt hoàn tục, giáo dân bị theo dõi, cấm theo đạo.
  7. Đến nghĩa trang mộ phần là nơi an nghỉ của người quá cố cũng không được yên. Hầu hết nghĩa trang đều bị đập phá, san bằng để cán bộ CS cướp đất kinh doanh lấy tiền bỏ túi. Những nghĩa trang lớn như nghĩa trang quân đội Biên Hòa vì bạo quyền còn e ngại phản ứng bất lợi từ tất cả người dân nếu thẳng tay xóa bỏ nên chúng đã ngấm ngầm phá hoại bằng cách một mặt trồng rất nhiều các loại cây muồng, cây sao, cây có rễ ăn xiên phá đất để hủy hoại các ngôi mộ ở chung quanh. Một mặt đập phá, bỏ cho hoang phế đồng thời ngăn cản, cấm đoán thân nhân của tử sĩ đến thăm viếng, trùng tu, đôn đắp mộ phần. Hành động táng tận lương tâm này đã gây nên sự phẫn nộ trong lòng tất cả người dân Việt vì nó chứng tỏ rõ ràng nhất rằng CSVN vẫn còn nuôi hận thù đối với những người lính VNCH đã tử trận dù chiến tranh chấm dứt từ lâu. Về điểm này, bọn chúng đâu khác chi những vua chúa ngày xưa, lòng dạ nhỏ nhen, cựu thù chết rồi mà vẫn sai đào mộ lấy xác đốt thành tro, trộn vào thuốc súng thần công bắn cho tan xác thêm một lần nữa!
  8. Về mặt văn hóa, CS ra lệnh tịch thu, đập phá, thiêu hủy toàn bộ văn hóa phẩm như các loại sách báo, tài liệu tham khảo, họa phẩm, hình tượng, phim ảnh, băng dĩa nhạc…của VNCH với mục đích xóa sạch những tinh hoa nhân bản, văn minh của miền Nam. Thay vào đó, chúng thay bằng những sách báo XHCN rồi ra sức tuyên truyền, bắt ép người dân miền Nam phải học tập những giáo điều khô khan cứng ngắc của một chủ thuyết sắt máu, lạc hậu, lỗi thời. Chúng muốn biến toàn thể dân miền Nam thành những cái máy không còn biết suy nghĩ phải trái, thành nô lệ sẵn sàng làm bất cứ điều gì chúng muốn.
  9. Phân biệt đối xử giữa người thuộc chế độ VNCH và người của bọn chúng. Quân dân cán chính VNCH đương nhiên bị gạt ra ngoài xã hội, chỉ một số rất ít được lưu dụng vì nhu cầu nhưng chỉ có tính cách tạm thời và không có quyền quyết định một điều gì. Tất cả quân dân VNCH bị coi như những công dân hạng hai. Thân nhân, con cháu những người có dính líu đến chế độ cũ không được vào đại học, bị chèn ép nơi học đường. Người đi làm bị nghi kỵ, theo dõi nơi sở làm. Người ở nhà bị dòm ngó xoi mói bởi công an khu vực và cán bộ phường khóm xã ấp.
  10. Dưới chế độ hà khắc, chủ trương trả thù đê hèn của bạo quyền CS, người dân miền Nam đã phải tìm cách bỏ nước ra đi, bất chấp hiểm nguy, vượt biên vượt biển bằng đường bộ, đường biển. Số người mất tích, bỏ xác nơi rừng sâu, khe núi hay đại dương biển cả nhiều không đếm xuể. Thống kê không chính thức lên tới 400.000 người. CS không thể chối cãi là chúng không có trách nhiệm về số lượng khổng lồ những người chết này. Chính cuộc xâm lược miền Nam và chính sách tàn bạo của chúng đã xô đẩy dân miền Nam vào thảm cảnh đoạn trường có một không hai trên toàn thế giới. Nỗi kinh hãi lẫn oán hận và ghê tởm CS của người miền Nam nếu có cũng là điều hiển nhiên.
Trên đây chỉ là vài trong số vô vàn việc làm gây phẫn uất căm hờn trong dân chúng sau ngày CS miền Bắc xâm chiếm miền Nam tự do. Thiết nghĩ chỉ những điều đó cũng đã quá đủ để chứng minh CSVN chính là kẻ tạo ra hận thù. Nhưng không phải tội ác của chúng chấm dứt ở đó.
Những việc làm của CS gây oán hận từ 1990 về sau
Sau thời gian thi hành những chủ trương và chính sách sai lầm đưa miền Nam nói riêng và cả nước đi vào con đường bế tắc, kiệt quệ, oán thù chồng chất, bạo quyền CS suốt trong những năm tháng kể từ đầu thập niên 90 cho đến bây giờ vẫn tiếp tục gây thêm tang thương oán hận bằng vô số những hành động thất nhân tâm. Bọn chúng không chỉ gây tội ác với người dân miền Nam mà còn với đồng bào cả nước.

Vin vào chủ trương đường lối kinh tế mới, bung ra thị trường, gọi nôm na theo kiểu đầu gà đuôi vịt là “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” (do chính chúng vẽ vời ra), thay cho Kinh tế tập trung, bao cấp đã bị phá sản, bọn đảng viên cán bộ đua nhau vơ vét làm giàu, tham nhũng hối lộ, lập phe nhóm ăn cắp của công, ăn cướp của dân một cách công khai trơ trẽn. Bọn chúng chia nhau nắm giữ tất cả những công ty, xí nghiệp, ngân hàng, cơ sở kinh doanh quan trọng. Cha mẹ, anh chị em, con cháu, họ hàng và tay chân bọn chúng được giao cho nắm giữ những chức vụ béo bở đầy quyền hành, hái ra tiền dù chẳng có tài cán đạo đức gì. Những tên cùng phe với nhau hợp thành những nhóm lợi ích để bao che thủ lợi. Chúng còn mạnh tay thu gom tài nguyên đất đai, khoáng sản, lâm sản, thủy sản, nguồn vốn công béo bở nhờ lợi dụng chính sách ưu đãi dành cho doanh nghiệp nhà nước (thì cũng do chúng tự đặt ra). Khi kinh doanh bị thua lỗ, sản xuất sa sút đình trệ do khả năng yếu kém, tham nhũng, ăn cắp lan tràn, chúng xoay sở chạy tội, lôi kéo ra cả bầy đàn cán bộ đảng viên chóp bu cùng dính máu ăn phần. Sau những màn trình diễn xử án làm cảnh, tất cả lại huề cả làng hoặc chỉ đem vài “con dê tế thần” cho có lệ vì ngành Tư pháp, tòa án cũng là tay chân bọn chúng và cũng vì rút dây thì động rừng, phe nào cũng ăn bẩn như nhau cả.

Viện lý do thực hiện dự án này, quy hoạch nọ, chúng giải tỏa/cướp trắng nhà đất của dân nghèo, đền bù với giá rẻ mạt do chính bọn chúng ấn định. Khu đất cướp được chúng đem bán cho tư bản nước ngoài với giá trên trời, gấp hàng ngàn lần hơn giá chúng trả cho khổ chủ. Công nhân thì bị bóc lột sức lao động, chèn ép, hạ nhân phẩm, làm tăng giờ, trả lương thấp do chủ nhà máy (đa số là ngoại kiều) toa rập với cán bộ địa phương để ngoảnh mặt làm ngơ. Dân oan hoặc công nhân biểu tình khiếu kiện đòi sự công bằng thì bị đe dọa, trấn áp, đánh đập tàn tệ, thậm chí bỏ tù. Những người dân khác thấy cảnh bất công, tìm đến giúp đỡ đồng bào cô thế thì bị bạo quyền sai công an và côn đồ bao vây, dọa nạt, gây khó dễ trong việc di chuyển và cũng bị hành hung, quấy nhiễu, vu cho tội âm mưu chống phá, lật đổ chính quyền.

Nhiều người dân nghèo không sống nổi ở quê nhà phải tha phương cầu thực, đi làm “lao động xuất khẩu” ở những nơi rất xa. Các cô gái VN nghèo không đường sinh kế phải xếp hàng khỏa thân cho đàn ông ngoại quốc sờ nắn chọn lựa mua về làm vợ như mua một món đồ vật (thực tế nhiều phần là phải làm đầy tớ, vật thỏa mãn sinh lý cho cả nhà chồng). Trong dịch vụ xuất cảng công nhân lao động, mua bán cô dâu VN, bọn cán bộ CS cũng được những công ty môi giới đút lót để chúng đồng lõa ăn chặn tiền công, ăn cướp tiền bán xác thân của những con người bất hạnh.
Kinh tế, xã hội đã vậy còn các mặt khác thì sao?
Về tài chính thì “tiền vào nhà Cộng như gió vào nhà trống”, bao nhiêu tiền bạc của cải đổ vào đám mồm gàu tai quạt, hôn quan ôn vật VC và cái bộ máy tài chính cũ rích rệu rạo ngốn tiền như hạm của chúng cũng không bao giờ đủ. Tiền đồng của CSVN lạm phát theo lối phi mã, người dân không còn tin tưởng vào giá trị đồng tiền và khả năng chi trả của ngân hàng nên không muốn gửi tiền trong đó. Dĩ nhiên, vì ngân hàng nhà nước và các ngân hàng kỹ, nông, công, thương khác chỉ là phương tiện cho bọn cán bộ và đại gia chiêu dụ, phù phép, lừa đảo ăn cướp tiền của dân và của những nhà đầu tư ngoại quốc còn ngây thơ tin tưởng vào lời lẽ ngon ngọt đầu môi chót lưỡi của CS. Do khả năng quản lý yếu kém, hệ thống tài chính và ngân hàng của CSVN đang kiệt quệ, đứng bên bờ vực thẳm khánh tận vì nợ công nợ tư ngập đầu mà không tìm đâu ra nguồn vốn để xoay sở.

Sang đến giáo dục và y tế thì băng hoại, thối nát, chỉ biết chạy theo đồng tiền và cái ghế ngồi, coi rẻ đạo đức xã hội và luân lý chức nghiệp. Thầy cô tìm cách bắt học sinh phải đóng tiền học thêm những lớp luyện thi. Tình trạng mua bán đề thi là phổ biến. Cán bộ có chức quyền ăn hối lộ hoặc gài ép cô giáo trong việc bổ dụng, thuyên chuyển để thỏa mãn dục vọng Thầy giáo mua/ép dâm học trò hay học trò bán dâm để lấy điểm lên lớp. Nhà thương, bác sĩ, nhân viên y tế ưu tiên chữa bệnh cho cán bộ đảng viên. Những kẻ có quyền chức, đại gia đỏ được hưởng sự săn sóc tối đa, nằm bệnh viện tân tiến, bác sĩ giỏi, thuốc men thừa mứa, ăn uống thỏa thuê. Dân thường chỉ được chữa trị nếu có tiền. Ai có đủ tiền trả trước cho dịch vụ y tế thì mới được chẩn bệnh, nhập viện. Ai nghèo túng, khố rách áo ôm thì cứ việc nằm đường chờ chết. Những kẻ cầm đầu bất tài vô hạnh trong hai ngành này đã gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng mà vẫn bình chân như vại dù tội lỗi đã rành rành. Tiếng kêu than, phiền trách, tố cáo của người dân về những tệ nạn trong hai ngành này đã thấu trời xanh nhưng tình trạng đâu vẫn hoàn đó vì bọn chóp bu CS còn đang lo củng cố quyền lực và vơ vét làm giàu, làm gì còn thì giờ lo cho dân cho nước. Hơn nữa dẫu thay người cỡ “Vũ Như Cẩn” bằng “Nguyễn Y Vân” thì cũng rứa! Bọn chúng cùng một ruộc, lấy đâu ra những bậc thiện lương tài đức để cầm cân nẩy mực?

Đến giao thông thì đường xá, cầu cống chật hẹp xuống cấp, lưu thông ứ đọng. Tai nạn xe cộ xảy ra hàng ngày do thiếu kế hoạch tu sửa hợp lý và mở rộng kịp thời. Người dân thù ghét coi thường cảnh sát và luật lệ giao thông cũng vì tai tiếng của ngành này. Sự kiện cảnh sát giao thông vừa hống hách, hành xử vũ phu, coi thường mạng sống của người dân vừa lợi dụng quyền bắt người phạm luật để lấy tiền đút túi đã được phản ánh rất nhiều. Về xây dựng thì các công trình xây cất, nhà cửa, cầu, hầm đều dưới tiêu chuẩn an toàn, có khi đổ xập bất ngờ gây tai nạn chết người thảm khốc vì tệ nạn móc ngoặc tham nhũng, ăn hối lộ, tráo vật liệu trong khi gia công và nghiệm thu. Tại nhiều tỉnh miền cao nguyên, phương tiện giao thông và đề xuất xây dựng còn thiếu thốn đến độ các em học sinh phải đánh đu trên những cây cầu treo đã mục gẫy nghiêng đổ để đi học hoặc phải chui vào bao nhựa để người lớn đưa qua sông qua suối.

Về nội an thì tội ác trộm cắp, xì ke ma túy, cướp của giết người nhiều như rươi. Không ngày nào không có tin tức về giựt rọc, trộm cướp, đâm chém, cờ bạc, hiếp dâm, giết người, nhiều trường hợp rất dã man rùng rợn, bất kể đạo lý truyền thống, thuần phong mỹ tục lâu đời. Chính quyền, công an thì bất lực trước những tệ nạn xã hội này nhưng lại rất sành sỏi và nhanh nhạy trong việc quây bắt, trấn áp, tra tấn những người biểu tình yêu nước đòi tự do dân chủ hoặc chống quân Trung Cộng xâm lăng lấn chiếm biên giới, biển đảo của quê hương. Người dân sống trong cảnh hồi hộp lo âu thường trực, không biết lúc nào tai nạn sẽ xảy đến cho mình. Tất cả chỉ vì thượng bất chính thì hạ tắc loạn.

Với bản chất tham lam độc ác lại thêm thói quen chuyên dùng thủ đoạn lường gạt cố hữu từ thời bám váy dân nghèo nhúm nhen lập đảng của đầu thập niên 30, tập đoàn thống trị độc tài độc đảng CSVN hiện nay chỉ biết một điều duy nhất là trong thì cướp bóc, vơ vét và làm giàu cho chính bản thân chúng bất kể cuộc sống của người dân có ra sao. Ngoài thì kể từ sau Hội nghị Thành Đô hồi tháng 9 năm1990, bọn chúng rõ ràng đã quy phục Trung Cộng. Nội dung cuộc họp bị giấu nhẹm nhưng những diễn tiến xảy ra trong thời gian sau đó đã chứng minh những “đỉnh cao trí tuệ” sang triều cống thiên triều chỉ là để xin tha tội và khi về đã đồng lòng răm rắp tuân theo chỉ thị, thực thi tất cả những gì bề trên của chúng đòi hỏi. Chúng nịnh bợ ve vuốt Tàu Cộng đến hèn hạ. Chúng chấp nhận ký những hiệp định về biên giới và biển đảo có lợi cho Tàu, mở cửa ngõ biên giới cho quân Tàu tự do qua lại, đóng chốt, xây dựng căn cứ, mai phục lâu dài tại những địa điểm chiến lược hiểm yếu nhằm mục đích thôn tính đất nước ta trong tương lai. Bọn lính Tàu giả dạng công nhân có vi phạm luật pháp VN thì công an VN cũng không dám bắt giữ, tòa án không dám xét xử. Bạo quyền CSVN còn ngậm tăm không dám phản đối TC khi Bắc Kinh công bố “đường lưỡi bò”, tự tiện phách lối chiếm trọn 80% diện tích biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong đó. Hèn hơn nữa là bọn chúng chỉ dám phản đối suông lấy lệ khi tàu hải giám, tàu tuần của TC cấm cản, chận đánh, phá hoại, gây thương tích cho ngư dân, bắt giữ trái phép, đòi tiền chuộc nhiều lần các tàu thăm dò dầu khí và tàu thuyền đánh cá của dân ta trong hải phận và chủ quyền VN. Bọn chúng còn thậm chí cắt dâng biển đảo đất liền cho chủ với mục đích mong được Tàu Cộng bảo bọc, chống lưng để yên tâm đè đầu cưỡi cổ dân lành, vinh thân phì gia và muôn năm trường trị.

Đất nước, giang sơn của tổ tiên mà cũng chỉ còn là món đồ để mua bán đổi chác trong tay bạo quyền CSVN thì bọn chúng xá gì sự sống còn của gần 90 triệu đồng bào (dĩ nhiên đã trừ ra cỡ một triệu đảng viên CS cốt cán). 39 năm trôi qua quá đủ để chúng ta không còn nghi ngờ bản chất xấu xa hèn với giặc, ác với dân, gặp ai cũng lường gạt, thấy gì cũng vơ vét của con người CS. Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư năm nay là dịp để chúng ta nhắc nhớ nhau thêm những tội ác của CS với đất nước, với dân tộc để mà càng cảnh giác, càng nuôi thêm mối căm hận bọn chúng. Ngày nào bạo quyền CSVN còn thống trị trên quê hương, chúng ta còn cương quyết tranh đấu chống lại. Hãy không tin, không nghe, không làm, không nhận bất cứ điều gì CS dụ dỗ mời mọc. Kinh nghiệm cho thấy CSVN chỉ có thể bị xóa bỏ, tiêu diệt chứ không bao giờ có thể hòa giải hoà hợp, cùng bắt tay chung sống.

Quang Dương (Quốc Hận 4/2014)



No comments:

Post a Comment