Saturday, March 31, 2012

Cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương




"Tôi nguyện nắm xương của Tôi sẽ nằm bên cạnh nắm xương của các anh em Binh sĩ"

    ”Nếu cộng sản đưa ra điều kiện của kẻ thắng cho người bại trận, thì không còn cách gì hơn là nếu được, chúng ta cứ việc chiến đấu đến cùng…

    Chừng đó dẫu Sài Gòn này có biến thành biển máu, tôi nghĩ rằng người Việt Nam vì thể diện mình không thể nào mà từ chối được, trừ một số người mới chấp nhận cái chuyện đó…

    Việt Nam Cộng Hòa có thể phải chịu một vài điều kiện khó khăn đau đớn, nhưng điều kiện đó không phải là những bước hoàn toàn để đầu hàng.

    Nếu thương thuyết để đầu hàng thì thương thuyết gì nữa, thà là chết, chiến đấu đến cùng…chớ không thể chấp nhận đầu hàng được”.


Quốc hận tháng Tư - Lâm Hoài Vũ


"Nhớ nước đau lòng con Quốc Quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái Gia Gia!
"
Bà Huyện Thanh Quan


Quốc hận tháng Tư

Tháng Tư đến mây trời xanh xao quá
Những giọt buồn hiu hắt chảy vào tim
Nhớ cố hương ruột đau thắt từng cơn
Bao năm tháng vẫn mù sương thiên lý

Ba mươi bảy năm dài như thế kỷ
Nỗi ưu tư trĩu nặng bước lưu vong
Thời gian phai bao mơ ước bên lòng
Vết thương cũ vẫn còn hoen rỉ máu.

Tháng Tư xưa triệu người trong giông bão
Vành khăn tang liệm chết tuổi hoa niên
Tháng Tư nay đất nước vẫn đảo điên
Dân vẫn sống trong gông cùm cộng đỏ.

Ta thề sẽ một mai về đất Tổ
Cùng toàn dân mở hội rước cờ Vàng
Hồn núi sông sáng rực ánh đăng quang
Như réo gọi tâm linh người ly xứ.




Chứng nhân lịch sử
Ta đang đi trên con thuyền tỵ nạn
Để làm người được nói tiếng Tự Do
Mỗi chúng ta là chứng nhân lịch sử
Dân tộc Việt Nam trong ngục đỏ khổng lồ.

Ta đang trôi trên dòng đời ly xứ
Thật lạc loài nơi đất khách tạm dung
Những tủi nhục hằn in trong cuộc sống
Theo tháng năm hờn vong quốc chất chồng

Ta nhớ ngày xưa vượt biên vượt sóng
Lênh đênh đi tìm thiên đường Tự Do
Chiếc tầu tình thương từ đâu hiện đến
Đã đưa ta về quê người bình an.

Ta không quên bao người còn đau khổ
Ở quê hương rên siết bởi lũ xâm lăng
Đem chủ thuyết ngoại lai phi nhân bản
Đày dân lành thành nô lệ lầm than.

Ta noi gương đấng tiền nhân anh dũng
Chí kiêu hùng truyền thống giống Tiên Long
Rồi sẽ có một mùa Xuân Nguyễn huệ
Phất Cờ Vàng rực rỡ khắp non sông.

Lâm Hoài Vũ


Quốc Hận! - Lão Ngoan Đồng

Lão Ngoan Đồng

Nước đã mất, nhà đã tan, gia đình ly tán! Ý nghĩ nầy in sâu vào trong trí não của những người đang lênh đênh trên biển cả, trong những chiếc thuyền nhỏ bé mong manh, phú thác mạng sống của mình cho vận mệnh rủi may, những mong thoát khỏi ngục tù của những người cộng sản từ miền Bắc, đang xây cất trên toàn cõi quê hương yêu dấu.

Trên đuờng trốn chạy, lìa bỏ quê cha đất tổ, đã có hàng trăm ngàn người vùi thây trong biển cả, trong bụng cá, trong bàn tay sát nhân của bọn hải tặc khát máu. Cũng có những người vuợt thoát bằng đuờng bộ, xuyên qua ngã Cambochia, Lào, và cũng không ít người đa chết đói vì lạc đuờng, hoặc bị giết bởi bọn Miên cộng, Lào cộng. Số còn lại, hơn 2 triệu người đã đến được bến bờ tự do với hai bàn tay trắng, và có rất nhiều người bỏ lại sau lưng những người thân yêu trong gia đinh, dòng họ. Hầu hết những thuyền nhân đó đã nói với các phái đoàn tiếp nhận định cư của các nước: “Thà chết trên biển cả còn hơn sống trong chế độ của Việt cộng”. (tạm dịch: Rather die on the high sea than live under the Vietnamese communist regime). Điều đó đã nói lên cái ý chí liều chết để đi tìm TỰ DO.

Thảm cảnh đó đã làm cho thế giới bàng hoàng, xúc động. Họ đã gọi những người trốn chạy khỏi quê hương nầy bằng một biệt danh, mà trong lịch sử loài người chưa từng có: “BOAT PEOPLE” (Thuyền Nhân).

Thảm cảnh đó khởi đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà bọn cộng sản Việt Nam, từ miền Bắc, đã bất chấp hiệp định Paris 1973, với sự trợ giúp của khối cộng sản quốc tế, đã tấn công và chiếm lãnh miền Nam, nước Việt Nam Cộng Hòa, với sự hững-hờ của thế giới không cộng sản.

Cái hận đã mất nước và cái hận đã bị đồng minh phản bội, đưa đến cảnh nước mất nhà tan, gia đình phân cách, chia ly, đã tạo nên sự thống hận trong lòng người dân Việt kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Từ đấy, chúng ta, những người Việt hải ngoại và kể cả đồng bào quốc nội, gọi ngày 30 tháng tư hàng năm là NGÀY QUỐC HẬN.

Không có từ ngữ nào để diễn tả ngày đó chính xác hơn từ ngữ Ngày Quốc hận. Nó diễn tả không những đúng về mặt hiện thực mà còn đúng về mặt tâm linh. Ngày đó, đời sống của những con người Việt Nam trên toàn quốc đã bị thay đổi một cách toàn diện, từ tốt đẹp biến thành cùng khổ; từ tương lai trong sáng trở thành tăm tối, không có ngày mai. Trong lòng mỗi người đều bị đè nặng bởi nỗi niềm u uất, căm phẫn vì đang bị một lũ người vong bản, tay sai của ngoại bang, dốt nát, tàn ác cai trị bằng chánh sách vô nhân nhứt trần gian. Đời sống của người Việt Nam không hơn không kém gì với đời của một con vật: ngoan ngoãn thì được cho ăn, bằng không thì bị bỏ đói cho đến ngày tàn tạ.

Trong lòng mỗi con dân Việt, ai mà không nhớ đến ngày 30 tháng tư, ngày đổi đời đó? Tuy nhiên, mỗi người nhớ đến nó một cách khác nhau.

Cái nhớ sâu sắc nhất, không bao giờ quên là tuổi thanh niên đã bị hủy hoại trong các nhà tù gọi là trại “cải tạo”. Những rường cột của Quốc Gia đã bị kềm hãm trong ngục tù khổ sai, ăn không đủ no, bệnh không thuốc chữa. Bọn người ác độc lợi dụng sức người hom hem yếu đuối đó, bắt họ đi làm mướn, làm thuê, làm những việc khổ sai, chúng lấy tiền bỏ vào những cái túi tham không đáy. Những người tù “cải tạo” đó, bị hành hạ không những trên thể xác, mà cả tinh thần của họ cũng bị dày vò cả ngày lẫn đêm, bằng những lời chửi bới, hăm dọa, kể cả những đòn thù bằng đánh đập, biệt giam trong những thùng sắt ngột ngạt, nóng bỏng khi nắng lên, không cho nước uống, và còn nhiều trường hợp đem người chống đối bọn chúng ra xử bắn tại nơi đông người. Những hành động nầy, bọn cai tù tàn ác, gọi là những bài “học chính trị”, do “Bác” và Đảng chủ trương đối với những người sa cơ, thất thế.

Những người tù lương tâm đó là ai?

Họ là những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã xả thân mình để bảo vệ phần đất miền Nam của Tổ Quốc, giữ gìn an ninh cho người dân miền Nam được sống một đời sống thanh bình, an cư lạc nghiệp.

Họ là những công chức phục vụ cho chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa, để xây dựng một quốc gia hùng mạnh phú cuờng, có phần trội hơn so với các nước lân bang như Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, Đại Hàn, Đài Loan.

Họ là những nhà tư bản đã góp công xây dựng nền kinh tế phồn thịnh cho nước Việt Nam Cộng Hoà.

Họ là những người trong ngành giáo dục, đã tận tụy và miệt mài với trách nhiệm mở mang trí óc cho những thanh thiếu niên, mong xây dựng nên một thế hệ kế tiếp, văn minh, thông thái hữu dụng cho quốc gia.

Những người tù lương tâm nầy đã bị buộc tội là đã phục vụ cho chánh quyền trước, đã giúp đỡ cho “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” chống phá lại “cách mạng của nhân dân” (sic).

Ngoài những người đã bị bắt đi làm tù “cải tạo”, những người dân thường sống tại các đô thị cũng bị đày đọa không kém. Họ đã bị ép buộc đi đến những nơi hoang dã, thâm sơn cùng cốc, mà bọn cầm quyền ác ôn là “nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (hiện giờ là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), gọi là “vùng kinh tế mới”. Nơi đây chỉ với hai bàn tay trắng, không thể nào tìm được cách sinh nhai. Sau khi đuổi họ đi vùng kinh tế mới, “nhà nước” đã tịch thu tất cả tài sản, cơ ngơi của họ để phân phát cho những cán ngáo (ngố), đã có công với “nhà nước” trong việc cưỡng chiếm miền Nam.

Ở nông thôn, không còn ai có quyền có ruộng đất, dù rằng những mảnh đất do ông cha từ nhiều đời trước để lại cho con cháu. Tất cả ruộng đất đều quy về “hợp tác xã”. Người nông dân canh tác trên những mảnh đất ruộng vườn đó, được thu hoạch do quyết định của bọn đầu sỏ xã ấp, bằng một chính sách gọi là “bảng chấm công”. Ai nịnh bợ hay theo phe chúng thì được chia nhiều hơn. Do vậy, đời sống của người ở nông thôn thiếu thốn rất trầm trọng, có nơi đã có người chết vì đói, mà điều nầy chưa hề xảy ra trong lịch sử của miền Nam Việt Nam.

Tóm lại, sau khi bọn cường bạo cộng sản Việt Nam nhờ súng đạn của Trung cộng, của Liên sô, đã cưỡng chiếm được nước Việt Nam Cộng Hòa, thì toàn thể trên 26 triệu người dân miền Nam, bị cướp giựt một cách trắng trợn, không khoan nhượng, bị nhốt trong một nhà tù vĩ đại, đó là quê hương của mình, bị đày đọa vô cùng tàn ác, sống như một con thú không hơn không kém.

Tình cảnh của người dân Việt Nam hiện nay, năm 2012, đã qua 37 năm, không khác gì ngày bắt đầu cuộc đổi đời 30 tháng 4 năm 1975. Có khác chăng là lối sống giàu sang, xa hoa, trụy lạc của những “cán bộ” Việt cộng và gia đình họ. Còn người dân ngày càng bị đàn áp mạnh mẽ hơn, bằng những thủ đoạn, bằng những xảo thuật nghề nghiệp, gian manh hơn, ác độc hơn.

Đã là người Việt Nam thì không ai có thể quên, trong lòng ai cũng đang âm ỉ một nỗi hận. Những kẻ nào quên đi là họ cố ý bị “bịnh quên” để đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn, đẫm ướt máu của đồng bào quốc nội. Họ đã quên đi ơn nghĩa của quốc gia cưu mang họ như một người tỵ nạn. Họ đã quên đi lòng bao dung của cộng đồng tỵ nạn đã đùm bọc, giúp đỡ họ, đến khi họ thành tài, nổi tiếng, thì vì họ xem đồng tiền lớn hơn bánh xe trâu (câu nói khinh miệt của dân miền Nam), họ phủi hết đi ơn nghĩa, trở lại hợp tác với kẻ thù, tiếp tay với bọn Cộng Phỉ, đàn áp ngược lại đồng bào của mình.

Để kết luận, cầu mong tất cả đồng bào Việt Nam hãy ghi nhớ, ngày Quốc Hận 30 tháng 4, bởi vì ngày đó là ngày mang đến nỗi hận xót xa cho cả nước, chúng ta hãy tuởng niệm đến quê hương đã mất đi, tuởng nhớ và tri ơn đến những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã hy sinh mạng sống để bảo vệ tự do cho quê hương và đồng bào. Hãy tuởng nhớ đến những người tỵ nạn kém may mắn đã chết trên đuờng đi tìm tự do. Và quan trọng nhất là hãy làm một vài việc gì đó mà mình có thể, để góp bàn tay với đồng bào quốc nội, đập nát chế độ Việt cộng, để sớm gây dựng lại một Nước Việt Nam Tự Do Nhân Bản và Phồn Vinh, để cho ngày quốc hận trở thành không còn hận nữa, mà chỉ còn là ngày đen tối nhất được ghi lại trong lịch sử Việt Nam.

Lão Ngoan Đồng

Tuesday, March 27, 2012

Trận chiến cuối cùng của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu



Nguyễn Anh Dũng & Lâm A Sáng
(Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu)

Từ bên bờ sông Bến Hải, vết xích chiến xa T54 và các sư đoàn Bắc quân đã xóa nát văn kiện hiệp định Ba Lê 1973, tiến dần về Nam. Như một thứ định mệnh oan nghiệt, cả nước bị ém chặc và bức tử theo ván bài chiến lược quốc tế được quyết định từ bên ngoài cương thổ Việt Nam. Từng tấc đất bị mất. Hoa Kỳ làm ngơ, thế giới cúi mặt. Mất Quảng Trị, Huế, Ðà Nẵng, Qui Nhơn, Cao Nguyên, Nha Trang, Phan Thiết... Và rồi đầu tháng Tư 75, Bắc quân bị Sư đoàn 18 BB của tướng Lê Minh Ðảo chận khựng tại Long Khánh 12 ngày đêm, sau đó địch tiếp tục tràn về ven biên ngoại ô Sài Gòn. Quân ta cứ rút, cứ rút.

Vũng Tàu, những ngày cuối tháng Tư năm 1975, một trong những phần thân thể còn lại của Tổ Quốc cũng đang lên cơn sốt hốt hoảng, náo động. Dòng người di tản, cả lính lẫn dân, đổ về Vũng Tàu từ cả hai mặt, đường bộ cũng như đường biển. Vũng Tàu chênh vênh bên bờ nước, tuyệt vọng, cùng đường.

Ngày 26 tháng 4, Bắc quân tấn chiếm Biên Hòa, Bà Rịa, sau đó, cầu Cỏ May nối liền Bà Rịa và vũng Tàu bị giật sập. Vũng Tàu co ro trong thế cô lập, chờ chết! Nhưng trường Thiếu Sinh Quân thì dường như không. Truờng tọa lạc ngay cửa ngõ của thị trấn, song lại bị ngăn cách bởi những vách tường vách đá kiên cố bao quanh, cái giao động âu lo, tuyệt vọng từ một Vũng Tàu hỗn loạn không lọt vào trường. Các Thiếu Sinh Quân vẫn sinh hoạt đều đặn như mọi ngày, Thiếu Sinh Quân liên lớp 12 (lớp người viết) đang trong thời gian học thi tốt nghiệp vẫn cúi đầu miệt mài với sách vở. Trong thời gian này, phần lớn các Thiếu Sinh Quân lớp nhỏ cư ngụ ở các vùng Sài Gòn, các tỉnh vùng 3 và vùng 4 được nhà trường cho về với gia đình, còn các Thiếu Sinh Quân ở vùng 1 và vùng 2 phải ở lại trường do tình hình chiến sự rối ren hay đã mất vào tay Bắc quân, vì thế không khí nhà trường càng ngày càng nặng nề, yên tĩnh.. Cái nặng nề và yên tĩnh đó trở nên ngột ngạt căng thẳng dần khi chúng tôi nhận ra nét âu lo, bức xúc trên những gương mặt của các cán bộ và nhân viên cơ hữu nhà trường.

Ngày 28 tháng Tư, chúng tôi được lệnh tập hợp sau bữa ăn chiều. Trung tá Ngô Văn Doanh, Chỉ huy trưởng, thông báo tình hình khẩn cấp, ban hành lệnh giới nghiêm và tuyên bố:

- Các em không có gì phải rối loạn, lo âu! Nhà trường đã có kế hoạch di tản!

Mặc dù còn trẻ, nhưng chúng tôi đã cảm thức cái nguy cơ, cái bất thường tuyệt vọng của tình hình đất nước trong những ngày qua, nên dù đã được Chỉ huy trưởng trấn an, chúng tôi cũng đã phải trải qua một đêm mất ngủ. Tổ quốc, tương lai, gia đình, bè bạn và ngôi trường thân yêu này ngày mai sẽ ra sao? Chúng tôi trằn trọc đến sáng, khi mặt trời lên, trên gương mặt của đám Thiếu Sinh Quân chúng tôi, ai cũng hiện lên những nét lo âu, sợ sệt của đám gà con đang bối rối rúc chui dưới lông cánh gà mẹ trong lúc diều hâu lờ lững lượn trên vòm trời xanh.

Khung trời rộng dường như nhỏ dần lại trên khoảng không gian trường Thiếu Sinh Quân sáng ngày 29 tháng Tư, cùng lúc những âu lo của anh em lại trương lớn dần và căng thẳng thêm. Bỗng chợt âm thanh của đạn trọng pháo chẳng biết từ đâu xé gió rít qua không gian ... và Ầm! Ầm!.. Tiếng nổ ù tai của những viên đạn rơi vào chân núi đài viba sát đàng sau lưng trường. Ðại úy Lê Viết Ðắc, cán bộ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hùng Vương, liên lớp 12 rút súng ra khỏi vỏ, chạy ngược chạy xuôi lệnh cho các Thiếu Sinh Quân nằm sát xuống đất để tránh miểng đạn. Trong bối cảnh của tiếng những mảnh đất đá rơi xào xạc trộn lẫn âm thanh vang dội của đạn trọng pháo, ông như một con gà mẹ dáo dác bảo bọc đàn con. Không biết mục tiêu những viên đạn trọng pháo đó là ai, là trường Thiếu Sinh Quân hay đơn vị đồn trú tại đài viba gần trường, nhưng âm thanh của tiếng nổ và cảnh núp đạn lần đầu tiên kể từ ngày vào trường đã gieo trong đầu non nớt chỉ biết ăn học và chơi của chúng tôi cái cảm giác kỳ lạ, hoang mang, lo sợ về sự sống, sự chết. Chúng tôi vẫn nằm yên. Ðịch pháo thêm vài đợt, đạn rơi bên ngoài trường, sau đó rồi im. Tình hình yên tĩnh trở lại.

Khoảng 11 giờ trưa, trong cái cảm giác mang mang, tuyệt vọng, toàn trường như bất động lặng yên nghe tiếng Ðại úy Hoàng, cán bộ Liên đoàn trưởng, thông báo qua loa phóng thanh:

- Toàn trường chuẩn bị di tản! Các thiếu Sinh Quân cấp trưởng trang bị vũ khí và nhận nhiệm vụ hướng dẫn và bảo vệ đoàn quân. Tập hợp kiểm điểm quân số! Chuẩn bị lên đường khi có lệnh!

Thế là hết! Cơn bão lịch sử sắp tràn qua ngôi trường thân yêu đầy những kỷ niệm của tuổi thơ. Lệnh ra được tuân theo răm rắp. Khoảng xế 1 giờ trưa, toàn thể Thiếu Sinh Quân bắt đầu di chuyển khỏi nhà trường cùng với tất cả cán bộ nhân viên. Ðoàn di tản bắt đầu rời trường theo thứ tự từ nhỏ đến lớn. Là Thiếu Sinh Quân Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hùng Vương, liên lớp 12, tôi đi hàng đầu cùng các em nhỏ. Ðội ngũ Thiếu Sinh Quân lặng lẽ di chuyển dưới ánh nắng Vũng Tàu chói chang.

Ða số anh em là những đứa trẻ mất cha, mất mẹ trong chiến tranh, ngôi trường Mẹ Thiếu Sinh Quân trở thành tổ ấm đầu đời và tương lai, nay phải doạn lìa, phải ra đi, những trái tim non đã bước đi những bước bùi ngùi, vương vấn. Ði về đâu? Với ai? Thông báo toàn trường được di tản bằng tàu không là câu trả lời trọn nghĩa cho những ý nghĩ mênh mang trong đầu những đứa trẻ chưa thành người lính. Ðột nhiên, nữa đường di chuyển, chúng tôi bị một số anh Thủy Quân Lục Chiến chận lại. Trung tá Dzoanh đến tiếp chuyện cùng người chỉ huy toán lính TQLC... Chúng tôi không rõ nội dung cuộc nói chuyện, song thấy không khí và sắc mặt cả hai bên đều lộ vẻ căng thẳng. Qua tiếng được, tiếng mất, chúng tôi đoán Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm giữ bến cảng để họ di tản. Họ buộc chúng tôi phải quay trở lại trường. Cuối cùng, lệnh quay về trường được ban ra. Trên đường về, tâm hồn tất cả mọi người đều trĩu nặng. Bắc quân càng lúc càng sát nách, đường thoát bị tắc nghẽn, sinh lộ càng lúc càng hẹp dần. Không ai bảo ai, tất cả mọi người đều thấy cái cơ may được di tản rất là mong manh.

Về đến sân trường, chúng tôi được tập trung ở sân banh. Chỉ huy trưởng thông báo là kế hoạch di tản được thay đổi. Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ được bốc tại trường bằng trực thăng để đưa ra Hạm Ðội 7 đang chờ ngoài khơi Vũng Tàu. Thời gian như chậm lại, nặng nề. Cả đám chúng tôi bật dậy như những chiếc lò so khi thấy một chiếc trực thăng đáp xuống sân trường, niềm hy vọng lại nhen nhúm bốc lên theo đám bụi mù tung cao theo cánh quạt. Hành khách chuyến không vận đầu tiên này gồm một cố vấn Mỹ mặc thường phục, Trung sĩ I Ngộ, cán bộ của trường và 7 em Thiếu Sinh Quân thuộc Tiểu đoàn Quang Trung là liên lớp nhỏ nhất trường. Chuyến bay cất cánh rời khỏi vận động trường. Chúng tôi thẫn thờ tìm chỗ ngồi chờ đợi. Thời gian kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ mà chúng tôi có cảm tưởng như một thế kỷ. Anh em nhìn lên bầu trời xanh chờ bóng dáng một chiếc trực thăng, chờ âm thanh cánh quạt, mỏi mòn, tuyệt vọng. Chiếc trực thăng cứu tinh ngày càng biền biệt tăm hơi khi bóng chiều ngả bóng dần trên sân trường. Nhìn lên cột cờ, lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc vẫn còn tung bay. Nhìn xuống sân trường, đoạn trường, ngao ngán.

Khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi sững sờ nhìn chiếc xe chở Trung tá Chỉ huy trưởng lăn bánh vội vàng rời cổng trường. Trái tim tôi nghẹn đắng một nỗi uất ức kèm theo một nỗi chới với, hoảng hốt của một đứa bé lạc mẹ giữa buổi chợ đông nghẹt những người. Rồi phóng thanh, một lần nữa, xác định một thực tế phũ phàng:

- Kể từ giờ phút này, chúng tôi không còn trách nhiệm với các em nữa! Các em hãy tự lo lấy bản thân!

Thế là đã quá rõ! Chúng tôi bị bỏ rơi! Ngôi trường này là nhà. Cán bộ là người thân. Giờ đây chúng tôi biết làm gì, và biết đi về đâu. Những trái tim non uất nghẹn, chới với, hoảng hốt. Và thế là như một bầy ong vỡ tổ, chúng tôi tản mát tung ra chạy khỏi trường. Nhưng chạy đi đâu? Chẳng biết! Tại sao chạy? Chẳng hiểu! Thấy bạn bè chạy thì mình cũng chạy. Thế thôi!

Tôi và Nguyễn Lương Thịnh, biệt hiệu Thịnh nhóc thường đánh bóng bàn với tôi, cùng tôi, tay cầm súng, tay gạt các nhánh sậy che phủ con đường mòn sau núi, chạy hộc tốc như bị cọp đuổi sau lưng. Chúng tôi ra tới Bãi Trước và nhận ra tình trạng náo loạn ngoài đường phố, tiếng đạn nổ tứ tung, dân chúng ai cũng đóng chặt cửa trốn trong nhà. Thật không khác một đám loạn kiêu binh. Tôi thấy ở phía trước mặt khoảng 200 thước, một Thiếu Sinh Quân cũng cầm súng như tôi, bị một người lính, không biết ta hay địch giả dạng, hành hung và giật lấy khẩu súng. Tôi không hiểu vì sao. Hoảng hốt, tôi và Thịnh vội vàng vứt súng và quay ngược chạy trở về trường, mệt và khô cổ đến đắng họng. Chẳng hiểu sao chúng tôi lại có thể chạy liên tục từ trường ra Bãi Trước rồi rồi từ Bãi Trước quay ngược trở lại trường. Về đến gần trường, tôi chợt nhớ ra gia đình người bạn cùng liên lớp là Tô Trích Long Vân. Cha của Vân là Thiếu úy Tô Trích Mầu, một cán bộ của trường và gia đình nằm trong khu gia binh gần trường. Thế là chúng tôi chạy đến gõ cửa xin tạm náu.

Bố mẹ Vân dọn cơm cho chúng tôi ăn. Mẹ Vân nhìn hai chúng tôi đang ngấu nghiến ngồi ăn với ánh mắt xót thương, trìu mến. Tôi không bao giờ quên ánh mắt của bà. Có lẽ bà đang nghĩ tội nghiệp cho hai đứa chúng tôi. Là những bạn học cùng lớp, Vân còn có gia đình, ruột thịt ở bên cạnh, còn hai đứa chúng tôi thì tứ cố vô thân, không biết sẽ trôi giạt về đâu trong cn biến loạn. Xong bữa cơm, nhìn ra ngoài trời, đêm đen đã trùm kín không gian tự lúc nào. Căn nhà như thu mình trong nỗi lo âu. Và mọi người cứ nhìn nhau, không ai nói một lời. Trong lúc mọi người chìm đắm trong những suy tư riêng, tôi bỗng nghe tiếng loa phóng thanh từ trường vọng lại:

- Các anh Thiếu Sinh Quân lớp lớn xin trở về trường! Chúng em cần các anh lắm!

Tiếng của em Thiếu Sinh Quân nhỏ vang vọng trong màn đêm, thúc bách não ruột như tiếng chim chíp của đàn gà con mất mẹ làm tôi vô cùng xốn xang, bất xúc. Các em chẳng có nơi nào dung thân, chỉ còn biết trông cậy vào các anh lớn đùm bọc. Là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Thiếu Sinh Quân lớp lớn nhất, tôi nhận ra trách nhiệm của mình. Tôi không thể ngồi yên khi nghĩ đến bạn bè và đàn em đang ở trong trường. Có thể lúc này Bắc quân đã có mặt đâu đó gần Vũng Tàu hay quanh trường, nhưng tiếng các em gọi loa đã giục tôi đứng lên và cương quyết trở lại truờng với các em. Bố Mẹ Vân lo lắng khuyên chúng tôi đổi ý. Tôi cám ơn Bố Mẹ Vân và nói trước khi phóng vào đêm tối:

- Tụi con không thể bỏ các em được!

Về đến trường, các bạn cùng liên lớp với tôi như Lâm A Sáng, Phạm Ngọc Trình, Nguyễn Văn Minh... cũng đã có mặt. Tôi nhận thấy các bạn đã phá kho vũ khí của trường và đang hì hục khuân vác súng đạn ra các ổ canh gác. Một toán Thiếu Sinh Quân khác thì đang xả thịt một con bò, lui cui nấu ăn và luộc thịt. Thế là tôi vớ lấy một cái nón sắt, chụp một khẩu Carbine, cùng với Thịnh, cũng trang bị y hệt, lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Hai đứa chúng tôi tự xem trách nhiệm tổ chức canh gác như nhiệm vụ được anh em giao phó.

Nhìn lên bầu trời đen thẳm, nỗi cô đơn chợt đến, chợt đi, tôi suy nghĩ lan nan với một bài toán không đáp số. Vì trách nhiệm của anh lớn bảo bọc đàn em, chúng tôi sẳn sàng cho một cuộc chiến. Cuộc chiến đấu này sẽ về đâu? Chúng tôi không biết. Tương quan lực lượng nghiêng lệch ra sao? Chúng tôi chẳng cần bàn. Không ai trong chúng tôi tin là mình sẽ chiến thắng, nhưng chúng tôi vẫn sẽ chiến đấu, ít nhất chúng tôi cũng phải đánh trả đích đáng những ai muốn chiếm lấy ngôi trường này, nơi dung thên cuối cùng của chúng tôi.

Tôi và Thịnh vát súng đi một vòng toàn trường, thăm các chốt và các chòi canh. Các chốt canh gác những hướng xâm nhập chủ yếu đều được trang bị vũ khí cộng đồng với xạ thủ, phụ tá xạ thủ và nhân viên tiếp đạn. Nhìn những Thiếu Sinh Quân đàn em chững chạc, tự tin bên ổ súng, thành thạo nạp những băng đạn vào ổ súng, sẳn sàng khai hỏa... Tôi bỗng thấy các em chợt lớn lên như những anh hùng Phù Ðổng. Tôi đặt mật khẩu, dặn các chốt canh học thuộc lòng, nếu thấy bóng người di chuyển đến thì hỏi, trả lời không đúng mật khẩu là "quạng" liền lập tức. Toàn trường đặt trong tình trạng báo động và sẳn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào.

Sau khi dạo vài lần, nhận thấy các chốt canh đã được chuẩn bị đạn dược chu đáo, mật khẩu thông thuộc, tất cả mọi người đèu được phân phối khẩu phần đầy đủ... (Nhìn các bạn "chén" bữa cơn nửa khê nửa sống một cách ngon lành, tôi có cảm giác bữa cơm hôm nay có lẽ là bữa cơm ngon nhất kể từ ngày nhập trường của các bạn...) Xong công việc, tôi và Thịnh quay lên phòng làm việc của Chỉ Huy Trưởng nghỉ dưỡng sức. Lúc này Thịnh quá mệt, chẳng còn thiết tha gì nữa, cậu ta chui vào một góc phòng và mấy phút sau đã bắt đầu "kéo đờn cò". Ngoài trời, đêm đen thật thanh vắng, tôi ra ngoài đứng trên ban công, nhìn qua trại gia binh bên cạnh, tự hỏi không biết gia đình Vân đang làm gì, và nghĩ đến ánh mắt yêu thương của Mẹ Vân nhìn hai đứa tôi khi ăn cơm với linh cảm mình sẽ không bao giờ có lại bữa cơm đó. Nhìn qua lầu 2 phòng quân số, tất cả đều yên tỉnh. Tôi biết một số quá mệt, chắc cũng đã "hồn bướm mơ tiên", tuy nhiên hẳn cũng đã phân công thay nhau ngủ. Những con gà con rối loạn chỉ trong vài tiếng đồng hồ nay đã trở thành những con mãnh hổ đang nằm phục sẳn. Không ai có thể ngờ được sức mạnh của những con mãnh hổ này lợi hại đến nhường nào.

Tôi quay trở lại phòng Chỉ Huy Trưởng,và ngủ thiếp đi tự lúc nào không hay. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang ở nhà quây quần cùng với cha mẹ và anh em. Hai đứa em gái của tôi, bây giờ mới được 7 và 8 tuổi, đòi tôi dẫn đi chợ. Hàng năm, mỗi lần được về phép thăm nhà, anh em chúng tôi, như đã thành thông lệ, thường được cha mẹ cho tiền. Hai em gái tôi rất thích ăn yaourt. Ở chợ gần nhà có quán của bà Ba, yaourt của bà làm thật là ngon tuyệt. Thế là ba anh em chúng tọi lại đến vòi mẹ xin tiền, rồi mỗi đứa một bên, tôi dắt hai em đi chợ. Ði gần đến chợ thì... một em Thiếu Sinh Quân lay tôi dậy. Tôi mở mắt thấy trời hừng sáng. Em nói:

- Anh Dũng! Có lính đông lắm, đang đi về hướng mình!

Tôi bật dậy, nhảy ra ban công nhìn về hướng đại lộ độc đạo dẫn vào cổng trường. Trời đang mưa lâm râm, còn mờ mờ tối, cảnh vật rất yên tỉnh. Tôi chẳng nhìn thấy gì, và nghĩ cậu bé lay mình dậy vì hoảng sợ nên tưởng tượng, trông gà hóa cuốc... nên sắp sửa quay lưng trở về chỗ nằm. Bỗng nghe tiếng oang oang của hạ sĩ Hoành mà các anh em đặt biệt hiệu vui là Hoành heo, anh Hoành là hạ sĩ quan cán bộ hỏa đầu vụ. Tôi ngạc nhiên vì sự hiện diện của hạ sĩ Hoành, chẳng biết anh nhập cuộc tự bao giờ. Hạ sĩ Hoành bảo chúng tôi:

- Tụi bay ở đó đi! Chắc lính mình đó! Ðể tao ra coi thử!

Cùng đi với hạ sĩ Hoành là Nguyễn Văn Thành, liên lớp 12 và một Thiếu Sinh Quân nữa tôi không biết tên, vác súng hướng về phía cổng trường. Ðến lúc đó, tôi mới thấy có một nhóm người lố nhố ở tít đàng xa đang hướng dần về phía chúng tôi. Tôi đứng trên lầu căng mắt theo dõi và dặn anh em sẵn sàng cho mọi bất trắc. Ðột nhiên, tất cả anh em đều nghe tiếng hạ sĩ Hoành la lớn:

- Việt cộng!

Tiếng hô "Việt cộng!" của hạ sĩ Hoành vừa dứt thì lập tức, tất cả hỏa lực đặt sẵn ở lầu 1 phòng quân số, phòng chỉ huy, các khu vực tháp canh nhất tề đồng loạt khai hỏa yểm trợ cho đồng đội chạy trở vào trường. Bắc quân không thể nào ngờ họ "được đón tiếp nồng hậu" như vậy. Suốt khoảng thời gian gần 15 phút, hỏa lực từ trong trường dập ra thật dữ dội. Bắc quân bị tấn công bất ngờ, chui rúc tìm chỗ tránh đạn, chỉ nghe rời rạc vài tiếng AK bắn trả. Có lẽ là họ nghĩ trường Thiếu Sinh Quân đã di tản và bỏ trống. Những phút giây khai hỏa dữ dội ở cổng trường đã làm cho tất cả lực lượng chiến đấu còn lại của trường tỉnh táo và sẵn sàng ở vị trí ứng phó 5/5.

Bên ngoài trường, hẳn là đồng bào đã bừng thức giấc và ngạc nhiên, lo âu, nhìn vào trường Thiếu Sinh Quân. Một buổi sáng họ không bao giờ quên. Trong trường, anh em di chuyển nhộn nhịp hẳn lên. Tôi nhìn thấy Lâm A Sáng và Phạm Ngọc Trình chạy lúp xúp sang ban quân số, đứa vác súng, đứa vác đạn. Ðến ban quân số, tầng trên đã chật ních những xạ thủ, Sáng và Trình phải nằm thủ ở bậc cầu thang, thoắt một cái, khẩu trung liên Bar của Sáng và Trình đã sẵn sàng tham gia cuộc chiến. Súng vẫn còn nổ giòn giã thì Hoàng Văn Mạ đang thủ đại liên trên lầu gào:

- Ê tụi bay! Bắn cho chính xác và vừa thôi, coi chừng hết đạn nghe!

Sau tiếng gào lớn của Mạ, như thể một mệnh lệnh, khiến cho tất cả các khẩu súng đều ngừng khạc lửa. Khói súng mịt mù, mùi thuốc súng nồng nặc. Tai tôi lùng bùng vì tiếng đạn nổ tưởng rách màng nhĩ. Xa xa ngoài cổng trường, các bóng Bắc quân biến đi đâu mất. Bên trong sân trường và các ổ chiến đấu thì tĩnh mịch, cái yên tĩnh rùng rợn của một hứa hẹn đổ máu thật dễ sợ mà lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy. Tôi đoán Bắc quân thế nào cũng tấn công và chiếm trường. Tôi cũng biết quyết tâm của những tay súng Thiếu Sinh Quân quả cảm, liều lĩnh. Chúng tôi lúc này như đã ở vào thế cận chân tường, chiến đấu trong tâm trạng "điếc không sợ súng" và ý nghĩ "không còn gì để mất!".

Bên ngoài, trời đã bắt đầu rạng sáng. Trấn tĩnh đội hình, Bắc quân bắt đầu tấn công chiếm trường. Họ cho một toán quân tiến qua khách sạn đối diện trường ở phía bên kia đường, chiếm giữ các vị trí trên các tầng lầu nhằm giảm lợi thế của chúng tôi khai hỏa từ trên cao, một mặt, họ đưa hỏa lực mạnh như súng cối, súng phóng lựu, B40 để công phá chúng tôi ở mặt đất, vì với vị trí phòng thủ kiên cố, hỏa lực nhẹ của họ không có tác dụng uy hiếp được chúng tôi.

Cuộc chạm súng đợt hai khởi diễn với quả đạn pháo của Bắc quân rớt vào giữa sân banh sau lưng chúng tôi. Lần đầu tiên bị pháo giữa sân trường, lẽ ra phải nằm xuống tránh miểng đạn, một số các em hoảng sợ chạy tán loạn tìm chỗ che lưng, cũng may là không ai bị trúng thương. Tiếp theo là một phát B40 thổi tung cổng trường, một em Thiếu Sinh Quân, có lẽ thuộc liên lớp 9 hoặc 10, chạy ra kéo cánh cửa đóng lại. Vừa đóng xong, em chạy qua nấp bên bức tường đá phía phòng chỉ huy. Tất cả sự việc xẩy ra không đầy một phút, em vừa kịp lách mình vào thành đá là một quả B40 thứ hai nối tiếp một lần nữa, mở toang cổng trường. Giỡn mặt với tử thần như vậy cũng tạm đủ. Từ giờ phút đó chẳng ai thèm chạy ra đóng cửa nữa. Nhìn rõ mặt đánh nhau mới "sướng!"

Mặc dù có những lỗi lầm ngu ngơ của lần đầu tiên trong đời đối mặt với kẻ thù như vừa kể, cuộc chạm súng đợt hai đã diễn ra thật dữ dội. Ðối phó với địch quân trên các tầng lầu khách sạn, Phú Văn Ðại cầm khẩu M79 bắn trực xạ vào các ô cửa phòng khách sạn. Chẳng hiểu hắn luyện tập khi nào mà sử dụng vũ khí rất chuyên nghiệp. Bắc quân bị khốn đốn rất nhiều với anh chàng này.

Ðối phó với toán quân trên bình địa là các khẩu đại liên phí hợp với trung liên, tiểu liên thay phiên bọc lót nhau. Những tràng đạn giòn tan đủ âm độ được tô điểm bởi những phát nổ cầm chừng cũa các khẩu Garant nhịp nhàng, ăn ý, lâu lâu lại có tiếng dậm đậm đà của cây phóng lựu M2. Tất cả các âm thanh quyện lại như một dàn nhạc giao hưởng điêu luyện và biến thành một lưới đạn chằng chịt phủ xuống đầu đối phương.

Với quân số ước lượng hơn một tiểu đoàn quân chính quy Bắc Việt, đối phương dồn hỏa lực cố gắng tạo kẽ hở để vượt lên tiến gần chúng tôi, nhưng với vị trí thuận lợi và những tay súng gan lì không hề nao núng trước lằn đạn kẻ thù, các em nhỏ Thiếu Sinh Quân đã buộc Bắc quân phải bó tay, dậm chân tại chỗ suốt hơn một giờ chiến đấu.

Ðến khoảng 7 giờ sáng, từ bên phòng Chỉ Huy Trưởng, tôi chạy băng qua phòng quân số để theo dõi việc tiếp đạn cho các khẩu đại liên trên đó. Qua hai cánh cổng mở toang, tôi chợt thấy một bộ đội cộng sản đang đặt một khẩu phóng lựu trên vai nhắm thẳng ngay tôi, tôi bật ngay khẩu carbin trên tay hướng về hắn bóp cò. Cùng lúc viên đạn từ nòng súng của hắn cũng xẹt một ánh sáng xanh bay về phía tôi, chệch qua mặt tôi khoảng hai gang tay. Viên đạn trúng đài biểu tượng Nhân - Trí – Dũng, phá tan một mảnh đá lớn. Ngay lúc đó, tôi cảm thấy hoa mắt, chân và vai tê rần. Tôi khỵu xuống với chân phải bị trúng thương, liếc nhìn xuống áo sơ mi đang mặc loang lổ đầy máu tươi. Một thoáng tích tắc, tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao áo mình đầy những máu mà tôi không cảm thấy một chút gì đau đớn thì tôi ngả ra ngất xỉu. Trong lúc đó, Lâm A Sáng cũng bị một phát đạn vào chân, Lê Văn Tánh chạy lại băng bó cho Sáng, một lúc sau cũng lãnh một viên đạn vào đùi.

Thế là Phạm Ngọc Trình cõng Lâm A Sáng, Nguyễn Văn Minh cõng tôi chạy qua khu Văn Hóa. Nghe kể lại, hai Thiếu Sinh Quân đã dùng tấm drape giường làm võng khiêng tôi đang mê man ra đến bệnh viện Vũng Tàu cách trường vài cây số.

Các anh em Thiếu Sinh Quân ở lại vẫn tiếp tục chiến đấu mãi cho đến gần 10 giờ sáng. Khi ấy đạn dược đã gần cạn, các bạn mới quyết định gọi loa điều đình ngưng bắn và treo cờ trắng đầu hàng. Một sự đầu hàng trong danh dự, vì các em vẫn đường hoàng làm lễ hạ quốc kỳ và thay vào đó bằng tấm drape trắng dong lên cho phép Bắc quân đặt chân vào ngưỡng cửa ngôi trường yêu dấu. Bắc quân hẳn phải bàng hoàng khi thấy những đối thủ kiêu hùng của họ chỉ là các em Thiếu Sinh Quân tuổi trung bình 15, 16 mà thôi. Họ uất ức, nhưng chắc hẳn họ cũng phải thán phục các tác giả của 6 xác bộ đội đang nằm phơi nắng ngoài cổng trường.

Theo lời thuật lại của Lâm A Sáng, thì trong hơn 100 Thiếu Sinh Quân tham gia trận đánh, đa số đã leo rào sau trường trốn thoát trước khi Bắc quân xông vào cổng trường, còn lại chỉ có vài chục em nhỏ ở lại với các anh lớn bị thương không thể đào thoát. Tất cả bị Bắc quân bắt giữ đem nhốt qua trại gia binh Cô Giang bên cạnh trường. Trại gia binh Cô Giang vốn là ngõ ngách quen thuộc của các Thiếu Sinh Quân, nên tất cả đã chui rào biến mất, khiêng luôn cả Lê Văn Tánh bị thương nặng ở đùi theo. Nhốt Thiếu Sinh Quân ở trại Cô Giang chẳng khác nào thả hổ về rừng.

Trở lại phần tôi, tỉnh dậy trong bệnh viện Vũng Tàu thì trời đã tối. Chân và vai đau đớn vì miểng đạn , mặt thì sưng vù không há miệng được do vết thương ở bên má. Cho đến bây giờ, hơn 27 năm sau, ngồi viết đến đoạn này, tôi vẫn không ngăn được niềm xúc động và tự hào cho tình yêu thương nhau hiếm có của những con người Thiếu Sinh Quân. Bệnh viện đầy ngập những người bị thương, nhân viên y tế không đủ để chăm sóc. Tôi bị bỏ nằm trên nền đất lạnh cả đêm, chẳng có y tá nào ngó ngàng tới, chỉ có một em Thiếu Sinh Quân lớp 9 mà mãi đến 27 năm sau tôi mới được biết tên là Nguyễn Kim Hùng, đã ở lại chăm sóc cho tôi. Em thức suốt đêm cạy miệng đổ sữa cho tôi cầm sức và quanh quẩn bên tôi để giúp đỡ. Ðến sáng hôm sau, thì một đám bạn cùng lớp gồm Thịnh nhóc, Thành râu, Thiện huế và vài em nữa tôi không nhớ tên, đến bệnh viện đón tôi đi. Các bạn rất vất vả thay phiên nhau cõng tôi đi mãi đến khi trời chập choạng tối thì chúng tôi mới về đến Bà Rịa. Nghỉ ở Bà Rịa một đêm, sáng hôm sau, chúng tôi lại dìu dắt nhau tìm phương tiện để trở về thành phố.

Lịch sử đã sang trang. Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Truờng Thiếu Sinh Quân ngày nay đã trở thành trụ sở của một công ty dầu khí ở Vũng Tàu, tuy nhiên, trong lòng người dân xứ biển, hình ảnh hào hùng của những Thiếu Sinh Quân trong trận đánh giữ trường lịch sử mãi mãi sẽ không bao giờ phai nhạt. Tổ Quốc sẽ ghi danh trong quân sử những người con Thiếu Sinh Quân vũ dũng, kiêu hùng đã viết nên thiên anh hùng ca bất khuất cho quân đội...

Colorado 24/10/2002
Nguyễn Anh Dũng & Lâm A Sáng
(Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu)


Con Cá Sấu Khóc trên Nhát Kiếm Chém Gió - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Về khoa học kỹ thuật thì chưa dám nói, nhưng về văn chương phú lục thì phải thừa nhận rằng, tiếng Việt của chúng ta xúc tích và sâu sắc tuyệt vời. Để nói về cái thói đời giả nhân giả nghĩa thôi cũng đã có hàng lô thành ngữ nghe thú vị hết sẩy như là: nước mắt cá sấu, mèo khóc chuột, nhân nghĩa bà Tú Đễ v.v. Những câu này hàm ý mỉa mai cử chỉ hay hành động của những kẻ trong lòng ác độc, nhưng bề ngoài lại tỏ ra ta đây nhân nghĩa, đạo đức. Người với người khéo dư nước mắt vờ vịt thương khóc nhau khi người nọ thấy người kia gặp bất hạnh là chuyện nhỏ. Việc chính quyền nước này chạnh mối từ tâm lo chuyện mất nhân quyền cho một dân tộc khác mới là chuyện lớn. Chả nói ra thì quý bạn đọc cũng đã hiểu bần bút muốn nói gì và muốn nói về ai.

· Từ vấn đề bán vũ khí

Hiện nay đang có chuyện VGCS thương lượng mua vũ khí của Hoa Kỳ. Dĩ nhiên là loại vũ khí hiện đại có thể đương đầu với ngoại xâm (Trung cộng) chứ không phải là những thứ súng dỉ, máy bay tầu bò phế thải mà ông bạn Mỹ tốt bụng ngày xưa giúp cho QLVNCH để đánh VC. Thằng VGCS dám chơi thằng Trung cộng thì ông Mỹ khoái là cái chắc. Thằng khốn nạn bí lắm mới phải nhịn ăn nhịn mặc để mua sắm võ khí. Ông Mỹ đang lúc dân thiếu ăn hẳn cũng muốn bán để có tiền cứu đói, nhưng lại lồng vào việc mua bán này điều kiện là phải trả nhân quyền cho nhân dân VN trước cái đã rồi mới bán. Buôn bán người ta deal với nhau vấn đề giá cả, cò kè bớt một thêm hai, chứ có ai lại đem quyền lợi của người khác ra mà mặc cả? Chuyện lạ là chỗ đó. Về nhân quyền tại VN thì chẳng phải là ngày trước chính quyền Mỹ đã cố ý giao người dân miền Nam cho bọn VGCS để chúng tha hồ hành hạ và tước đoạt nhân quyền đó sao? Thế mà nay người Mỹ lại khi không đòi nhân quyền về cho người dân VN thì ai tin nổi? Có cái gì mờ ám trong đó không? Nước mắt khóc thương người dân VN của mấy ông chính khách Mỹ có gì khác nước mắt cá sấu?

Người Mỹ rao hàng với bọn VGCS đều là chính khách cỡ bự cả: ông Phụ tá Bộ Trưởng Ngoại Giao, Nghị sĩ John McCain, Joe Lieberman. McCain ngày xưa được bọn cai tù VC cho ăn cháo lú hơi nhiều nên ông là người đầu tiên kêu gọi Mỹ bãi bỏ cấm vận và thiết lập bang giao với VGCS, bây giờ đi lo chuyện nhân quyền! Còn ông Joe Lieberman đi VN phải chi rủ thêm Henry Kissinger cùng đi chung có phải vui vẻ cả làng không. Do Thái với nhau cả đấy mà. Ẩn ý của mấy ổng trong vấn đề bán buôn này là gì người ngoài chẳng ai biết, vì thế bần bút đành phải rờ mu rùa để bốc quẻ vậy.

Dân tỵ nạn mình là bầy chim phải ná nên thấy có người giương cung là sợ. Quốc gia sợ đã vậy, mà thằng VGCS cũng lạnh cẳng nữa. Khi ông Mỹ ra giá để bán võ khí là vấn đề nhân quyền thì nhất định thằng VGCS cũng thừa hiểu rằng, lòng từ tâm của mấy ông chính khứa Mỹ chẳng qua cũng là thứ nhân nghĩa bà Tú Đễ. Kẻ cướp bà già hiểu nhau quá mà. Thằng VGCS nghe ông Mỹ ra điều kiện sách nhất định sẽ tỉnh bơ trả lời: nguời VN chúng tôi vẫn có đầy đủ nhân quyền đấy chứ có ai lấy đi đâu mà mất. Dĩ nhiên mấy ông Mỹ vì muốn bán hàng nên quả quyết điều mình nói là thật, còn phải đưa ra bằng chứng nữa để chứng minh.

Có phải phong trào ký Petition ra đời trong cái bối cảnh như thế không? Nếu đúng thì bần bút sẽ lại rờ mu rùa tiếp.

· Đến hỏa mù điều kiện sách

Việc bán võ khí không biết đã đi đến đâu, nhưng phong trào ký Petition đã qua rồi. Diễn tiến của vấn đề đã được truyền thông phổ biến đầy đủ. Bần bút xin được miễn nhắc lại, chỉ xin nhấn mạnh đến hai điểm quan trọng trong nhiều sự việc đã xẩy ra. Thứ nhất là sự hứa hẹn TT Obama sẽ tiếp kiến phái đoàn trình Petition. Và thứ hai là cuộc tiếp kiến đáng lẽ để trình bầy về vấn đề nhân quyền tại VN, đã biến thành buổi thực tập cho sinh viên của chương trình Community Leadership của TS Nguyễn Đình Thắng.

1. Obama tiếp kiến - Trong cái chiêu mị dân của ông Obama “We the People”, người ta chỉ thấy nói, nếu có 25.000 chữ ký thì Petition sẽ được tòa Bạch Ốc cứu xét và trả lời. Thế nhưng trong cuộc cuộc vận động ký Petition, vấn đề đã biến dạng đi rất nhiều. Ngay từ khởi đầu, ông Nam Lộc (phát ngôn viên của ban vận động?) đã khoa trương thành TT Obama xin được gặp gỡ phái đoàn người Việt tỵ nạn, và còn muốn được nghe mấy bài hát NS Việt Khang đã sáng tác. Sự thể “được Tổng Thống tiếp kiến” đã làm nức lòng nhiều người trong cộng đồng tỵ nạn VN. Rất nhiều người háo hức mong có dịp vô tòa Bạch Ốc, gặp mặt, bắt tay, và nói chuyện với ông Tổng Thống vài ba câu. Có tấm hình chụp với ông Tổng Thống để khoe bà con là điều đáng hãnh diện lắm chứ. Nhất là (xin nhấn mạnh) khi được nghe mấy ông giáo sư, tiến sĩ, sĩ quan bự ca cải lương đề cao phong trào, họ tin tưởng mãnh liệt rằng thời cơ giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của bạo quyền VGCS, được Obama giúp đỡ, đã đến trong tầm tay. Sự mơ tưởng này đã trở thành động lực có sức quyến rũ mãnh liệt khiến phong trào ký Petition bùng lên cao và lan rất nhanh là vì vậy. Các chiến lược gia của tòa Bạch Ốc nhất định rất bằng lòng với kết quả này. Nếu đúng như bần bút đoán mò thì tòa Bạch Ốc đã dùng con số người ký Petition để chứng minh với bọn VGCS rằng quả thật vấn đề nhân quyền là vấn đề quan trọng lắm. Người dân Mỹ gốc Việt rất quan tâm về vấn đề này và họ đang quyết liệt đòi hỏi cho bằng được. Xem ra chính phủ Mỹ khó lòng mà thoái thác. Một mặt người Mỹ vẫn neo giá. Nhưng mặt khác họ lại trấn an VGCS rằng, tuy nhiên vấn đề này còn có thể giải quyết được. Mấy ông Mỹ biết đâu chẳng nói nhỏ vào tai bọn VGCS rằng thì là, các anh đừng có lo, chúng tôi sẽ có cách biến chuyện CÓ thành KHÔNG dễ dàng thôi, cứ yên chí đi. Vì thế người ta mới được thấy xẩy ra chuyện treo đầu dê (đòi nhân quyền) bán thịt chó (thực tập Leadership) ngày 5-3 vừa qua tại tòa Bạch Ốc.

2. Buổi thực tập chương trình Community Leadership - Hiện nay không còn vấn đề thuyền nhân nên dĩ nhiên không cần đến SOS làm gì. TS Nguyễn Đình Thắng xoay qua hoạt động lãnh vực đào tạo leaders tưong lai cho cộng đồng tỵ nạn VN. Người ta không biết có sự sắp đặt nào giữa TS Nguyễn Đình Thắng và tòa Bạch Ốc không, nhưng sự thể xẩy ra tại South Court Auditorium trong Eisenhower Executive Office Building trong tòa Bạch Ốc cho thấy, đây là buổi thực tập cho các học viên chương trình Community Leadership của TS Thắng hơn là cuộc gặp gỡ Tổng Thống của người VN tỵ nạn để đạo đạt nguyện vọng của mình. Chủ đích của buổi tiếp kiến là trình bầy với chính quyền Obama về vấn đề nhân quyền tại VN thì hầu như bị bỏ quên, có nhắc đến cũng chỉ là một chút mầu mè riêu cua làm mặt. Sự vắng mặt cố ý của kép chính (TT Obama) trong buổi tiếp kiến là để làm giảm tính cách quan trọng của vấn đề nhân quyền hầu chứng tỏ cho VGCS thấy cái tài đạo diễn của người Mỹ để chúng an tâm. Màn ảo thuật biến “CÓ thành KHÔNG” ngoạn mục này hẳn làm yên lòng bọn VGCS. Nhưng nhân vật chủ chốt trong chiến dịch Petition là ông Trúc ồ thì bất bình ra mặt. Ông Trúc Hồ bất bình vì cho rằng mình đã thất bại vì bị người nào đó đánh lừa. Công cuộc vận động để chính TT Obama can thiệp với ngụy quyền VGCS thả NS Việt Khang và các tù nhân chính trị khác Trúc Hồ coi như đã đi đoong?

· Điều kiện sách thực?

Vấn đề đặt ra ở đây là, nếu quả thật chính quyền Obama đã dàn dựng ra biến cố và lợi dụng phong trào ký Petition của cộng đồng tỵ nạn VN để deal với VGCS trong vấn đề mua bán vũ khí thì chuyện đó có tin được không, và nếu đáng tin thì điều kiện sách mà người Mỹ đòi hỏi thực sự là gì?

Vấn đề thứ nhất: có hay không có chuyện dàn dựng - Chuyện tin hay không tin là tùy nơi mỗi người, bần bút chỉ dựa trên kinh nghiệm về nước Mỹ để suy đoán. Dù sao cũng có một điều có thể tin được là, ở nước Mỹ này, nhà cầm quyền đôi khi bất chấp đạo lý và lương tâm để được những gì mà họ cần. Lấy vụ án OJ Simpson làm thí dụ. Vụ án OJ Simpson đã lôi cuốn được sự chú ý của cả thế giới chứ không phải riêng nước Mỹ. Đến nỗi có một lần TT Yeltsin gặp TT Clinton, vừa bước ra khỏi máy bay, câu đầu tiên ông Yeltsin hỏi Tổng Thống Mỹ là: Liệu ông có tin OJ Simpson hắn giết vợ thật không? Khi OJ Simpson bị cảnh sát rượt đuổi trên xa lộ hàng buổi trời thì người ta đã có lý do để nghĩ rằng anh ta giết vợ thật. Simpson bị bắt và bị đưa ra tòa thì dân da đen đe dọa nổi loạn. Lý do là vì Nicole vợ Simpson là da trắng, còn anh ta da đen. Nhìn vào thành phần xử án, người ta đã có thể suy đoán Simpson sẽ vô tội. 12 phụ thẩm chỉ có 2 ông nhưng tới 10 bà. Trong số 12 vị này thì 2 da trắng, 1 spanish, còn 9 là da đen. Chánh án Ito là một ông gốc Nhật bản. Đúng như là, OJ Simpson trắng án thật. Research của đài NBC cho thấy có tới 77% người được hỏi tin rằng Simpson đã giết vợ. 87% trong số 77% này da trắng, còn lại là da mầu. Vụ án OJ Simpson quan trọng tới độ mà TT Bill Clinton đã phải bỏ công việc để theo dõi phiên tòa trên màn hình. Cho tới khi Simpson được tuyên bố trắng án thì ông Clinton mới yên tâm thở phào nhẹ nhõm. Phiên tòa đã được sắp đặt đâu ra đấy từ chánh án đến phụ thẩm, biện lý cũng như luật sư hai bên. Mọi thủ tục, luận chứng và bằng chứng trước tòa ăn khớp nhau, không ai bắt bẻ gì được. Người đạo diễn tỏ ra thật tài tình. Trong trường hợp này, công lý phải nhường bước để đổi lấy trật tự và an toàn cho xã hội. Biến cố 30-4-1975 còn là một kinh nghiệm học hỏi nữa cho bất cứ người VN nào. Đau thương, tang tóc, uất hận, và bi đát vô cùng. Chúng ta mất hết chẳng còn gì để người Mỹ được cái mà họ muốn. Trước danh dự của một cường quốc số một trên thế giới, người Mỹ còn dám dàn dựng cả một cuộc thua trận để tháo chạy, bỏ lại đàng sau một dân tộc rơi vào cảnh đau thương, tủi nhục, bị tước đoạt quyền làm người thì còn có gì họ không dám làm! Nếu chiến dịch Petition là một trò hề dàn dựng thì màn kịch dàn dựng này còn quá nhân đạo.

Vấn đề thứ hai: điều kiện sách thực - Lợi ích của việc Mỹ bán vũ khí cho VGCS thì chỉ có chính quyền, những người ở cấp thượng tầng, mới biết. Người khác khó có ai biết được. Chúng ta cũng chỉ có thể suy đoán dựa trên kinh nghiệm lịch sử. Ở các nước khác thì bần bút không dám nói, nhưng kinh nghiệm cuộc chiến Quốc cộng vừa qua cho chúng ta một bài học. Trong cuộc chiến tranh này, chính quyền Mỹ cung cấp cho VNCH dưới hình thức viện trợ toàn khối quân trang, quân dụng để chiến đấu chống Việt gian miền Bắc xâm lược. Phải nói thiệt rằng vũ khí và khối quân dụng đó đều là thứ cũ kỹ và lỗi thời. Không có cái gì là hiện đại cả, tạm trừ ra duy nhất là những trái bom CBU. Bom CBU tại VN cho đến bây giờ vẫn còn là một huyền thoại. Nó là loại vũ khí hiện đại nhất đối với QLVNCH. Theo nhận định của vài người bạn của bần bút trong Không Quân, thì CBU có thể gọi là loại vũ khí quyết định chiến trường của QLVNCH, được Mỹ viện trợ nhưng không giao ngòi nổ. Ngòi nổ được cất giữ mãi ở bên đảo Guam hay Thái Lan gì đó. Có lẽ người Mỹ sợ QLVNCH táy máy chôm chĩa rồi làm hư bột hư đường của họ chăng? Vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, người Mỹ mới để cho Không Quân VNCH thả hai trái bom này xuống chiến trường Xuân Lộc nhằm chặn đường tiến quân của bộ đội miền Bắc hầu có đủ thì giờ cho ông ĐS Martin và những người Mỹ cuối cùng kịp rút khỏi Saigon.

Cần phải thừa nhận VN là một mắt xích quan trọng và cần thiết trong sách lược chế ngự Trung cộng của Mỹ thì mới thấy rằng người Mỹ muốn dành quyền làm chủ các vũ khí có khả năng quyết định vấn đề thắng hay bại trong vùng biển Đông nếu chiến tranh xẩy ra. Trong cuộc chiến VN, Mỹ không chủ thắng nên họ viện trợ bom mà không viện trợ ngòi nổ cho VNCH. Tiền đề này dẫn đến kết luận là cho dù người Mỹ bán hay viện trợ các loại vũ khí chiến lược nào cho người VN, dù Quốc Gia hay CS thì họ cũng muốn dành quyền sử dụng vũ khí đó khi họ muốn. Xưa kia Mỹ giao bom mà không giao ngòi nổ cho VNCH. Bây giờ nếu bán vũ khí tối tân cho Hànội, VGCS cũng phải để cho Mỹ quyền điều khiển các vũ khí đó. Đây mới là điều kiện sách thực. Nhân quyền chỉ là cái mặt nạ của vấn đề. Yêu sách của người Mỹ có thể là họ đòi khi chuyển giao vũ khí phải có chuyên viên đi theo để bảo trì với hình thức cố vấn kỹ thuật. Vũ khí càng tối tân thì chuyên viên càng phải có trình độ. Phần chuyên môn này không phải ai làm cũng được và vơ ở đâu cũng có người. Thằng VGCS nghe thế có lẽ đành chịu thua, nhưng nó liên tưởng ngay đến con ngoáo ộp CIA và vô cùng sợ hãi. Do đó ông Mỹ lại phải một phen dùng phù phép để trị. Petition của Trúc Hồ mới là món ăn chơi. Có thể Dự Luật 1410 đang nằm ở Hạ Viện sẽ là món ăn thiệt. Đã có món khai vị (appetizer) rồi. Obama vừa mới ra lệnh cấm nhập từ VN vào Hoa Kỳ những túi nylon đựng đồ. Đến lúc cần cho thằng VGCS say xỉn, ông Mỹ chơi đòn cấm người dân tỵ nạn gởi tiền về hay một biện pháp nào khác hữu hiệu hơn xem nó có nằm đo ván để cho chó ăn chè không thì biết liền.

Trong bài viết trước đây “Thả con cá bắt con tép” bần bút cho rằng chiến dịch Petition có thể nằm trong kế hoạch vận động tái tranh cử của Obama. Tuy nhiên sau những chuyện xẩy ra tại tòa Bạch Ốc ngày 5-3 vừa qua, bần bút nhận thấy dự đoán đó khó thuyết phục. Cần phải tìm một lối giải thích khác. Thiếu thuyết phục bởi vì một cuộc vận động kiếm phiếu không thể nào luộm thuộm đến độ làm mất lòng cử tri được. Thế nhưng điều đó đã xẩy ra. Vả lại, nhìn vào cuộc tranh cử hiện nay thì thấy ông Obama không cần đến số phiếu của cộng đồng tỵ nạn VN. Có thể ông đã có đủ lý do để tin mình sẽ thắng cử. Không phải nhiều cơ quan truyền thông lề phải (Main Stream Media) đã đưa ra kết quả poll đó sao: Obama leads all GOP candidates (Obama dẫn trước tất cả mọi ứng cử viên Cộng Hòa.) Nếu không là kiếm phiếu hoặc một chủ đích quan trọng nào khác thì Bạch Ốc chẳng làm ồn ào kiểu đó. Cứ suy nghĩ xem, nhà cầm quyền thành phố Los Angeles đã dám “trick” cả nước Mỹ để tránh được một cuộc bạo loạn, thì chính quyền Obama chơi trick cộng đồng tỵ nạn VN một coup để nắm cái thế chiến lược tại Biển Đông theo tính toán của Bạch Ốc thì tại sao không làm?

· Cuộc chống cộng không người lái và hệ quả của nó

Tòa Bạch Ốc, và có lẽ cả ông Obama nữa, chắc hẳn phải sửng sốt trước sự thành công tuyệt vời của chiến dịch Petition của cộng đồng người VN tỵ nạn. Không phải khoe khoang, nhưng thử hỏi có mấy sắc dân làm được như thế. Sự việc nói lên hai đặc điểm của người tỵ nạn: lòng ái quốc rất cao và tinh thần chống cộng rất quyết liệt. Chỉ tiếc rằng người Việt chúng ta thiếu lãnh đạo. Việc lớn không có người lèo lái. Với tinh thần và quyết tâm đó mà kết quả của công cuộc chống cộng từ bao năm qua vẫn cứ xa tít mù khơi là vì vậy! Nhìn vào chiến dịch ký Petition này thôi (chưa nói đến trong nước), chúng ta cũng thấy được những hệ quả của việc thiếu lãnh đạo. Ít nữa có ba biểu hiện chính sau đây.

1. Phi lập trường và mâu thuẫn - Khỏi cần biện luận, chỉ xin nêu dăm ba thí dụ cụ thể. Ký Petition thì ký, nhưng nhịn về VN, đem tiền về vỗ béo CS thì không được, phải về. Chống giao lưu văn hóa nhưng không đưa vợ con đi nghe Đàm Vĩnh Hưng hát không chịu được, phải đi. Tố Thúy Nga thân cộng nhưng trong nhà không thiếu cuốn Paris by Night nào, phải có. Bà Nancy Bùi ký và hội luận hô hào mọi người ký Petition nhưng không tài nào bỏ được công việc làm ăn giao dịch với VGCS. SBTN chống cộng nhưng Trúc Hồ vẫn gởi phóng viên về nước lấy tin và làm phóng sự. Không nhiều thì ít cũng có công tuyên truyền quảng bá dùm cho VGCS, chứ không sao? Có cái gì khác với Nguyễn Phương Hùng? TS Nguyễn Đình Thắng vận động nhân quyền cho VN nhưng lập ra tổ chức bảo lãnh và giúp đỡ con cháu của những đứa đang tước đoạt nhân quyền của người dân trong nước… Những mâu thuẫn này xuất phát từ tinh thần phi lập trường trong cuộc sống tỵ nạn hiện nay. Chữ “Phi” ở đây hàm ý là không cần, không xác định dứt khoát. Ngoài lập trường nhổ cỏ và nhổ tận gốc đảng và chế độ VGCS ra, những thứ khác đều là lập trường phi lập trường cả. Việt Tân rêu rao chống cộng, nhưng coi đảng VGCS có công với đất nuớc và chủ trương đối lập với đảng CS để xây dựng đất nước là phi lập trường. Tâng bốc Bùi Tín và Cù Huy Hà Vũ là phi lập trường, bởi vì bọn này chỉ chống bọn nắm quyền trong Bộ Chính Trị hiện thời mà không chống đảng VGCS. Trúc Hồ không chủ trương lật đổ phỉ quyền CS là phi lập trường. Vân vân và vân vân.

2. Niềm tin mù quáng: tin bạn mất vợ, tin đồng minh mất nước - Trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ 2, Tổng Thống Bush con tuyên bố đanh thép: “Today, America speaks anew to the peoples of the world: All who live in tyranny and hopelessness can know: the United States will not ignore your oppression, or excuse your oppressors. When you stand for your liberty, we will stand with you.“ (Tạm dịch: Hôm nay, một lần nữa nước Mỹ nói với các dân tộc trên thế giới rằng, tất cả những ai đang sống trong chuyên chế và vô vọng đều nên biết Hoa Kỳ sẽ không làm ngơ trước việc họ bị áp bức, và tha thứ cho những kẻ đàn áp họ. Một khi các bạn đứng lên vì tự do, chúng tôi sẽ cùng đứng chung với các bạn.) Ông Bush nói ngon vậy đó và còn gọi Đỗ Hoàng Điềm vào Bạch Cung để tham vấn, nhưng toàn đưa ra những chính sách làm khổ dân VN thêm. Obama cũng thế thôi, vì ông ta cũng là Tổng Thống Mỹ. Đường lối của nước Mỹ có thay đổi ít nhiều tùy tình hình cụ thể, nhưng chính sách của nước Mỹ thì liên tục, không thay đổi dù Cộng Hòa hay Dân Chủ. Đừng quên rằng chính quyền Mỹ đã trao người dân VN cho VGCS hành hạ và tước đoạt quyền làm người thì không có lý do gì đang trong lúc mặn nồng với VGCS, họ lại tốt bụng đến nỗi bắt thằng này phải trả lại nhân quyền cho nhân dân VN. Trên đời có lắm anh đàn ông tin bạn mà mất vợ. Lãnh đạo miền Nam tin Mỹ quá mất nước không hay. Vậy tại sao cái gì cũng phải méc bu với những kẻ đã quay mặt với mình và còn lậy lục xin xỏ nữa? Người dân Việt tỵ nạn chưa học được bài học cay đắng đó.

3. Giao trứng cho ác - 150.000 chữ ký là 150.000 tấm lòng yêu nước sắt son (dĩ nhiên trừ ra những kẻ phi lập trường), trao vào tay những người chưa rành về đấu tranh, phi lập trường mà không trất uốc mới là chuyện lạ. Sau này khi mọi chuyện đã vỡ lở, qua những lời tuyên bố từ chính cửa miệng Trúc Hồ nói ra, nguời ta mới biết ông là một nhà làm truyền thong phi lập trường: ông không chủ trương lật đổ phỉ quyền VGCS mà còn kêu gọi Mỹ giúp nó. Mục tiêu tranh đấu ban đầu của ông là đòi phóng thích NS Việt Khang ra khỏi tù. Về sau thêm mắm thêm muối vào, mục tiêu của Petition mới thành ra là đấu tranh cho nhân quyền tại VN. Tại sao lại Việt Khang mà không phải là một ai khác. Thiếu gì người ở tù không tội tại VN? Thì ra chỉ vì Việt Khang cũng là nhạc sĩ như Trúc Hồ. Chuyện đồng thanh, đồng khí như thế là đáng khen, nhưng nặng tinh thần cục bộ và tùy hứng. Nhờ có “nguyễn trãi” Nam Lộc hiến kế “Obama tiếp kiến và muốn nghe nhạc Việt Khang” mà sáng kiến Petition của “lê lợi” Trúc Hồ bay bổng lên trời cao và nở hoa trên bầu trời tỵ nạn. Tuy nhiên, Trúc Hồ vẫn chưa tìm ra con đường để tìm vào Bạch Ốc và tòa nhà Quốc Hội nên mới phải cầu cạnh TS Nguyễn Đình Thắng. Đây là đầu mối của chuyện bể bạc Petition của Trúc Hồ. Đàng sau vấn đề này người ta thấy lấp ló bóng dáng của những tên Việt Tân. Không biết TS Nguyễn Đình Thắng có liên hệ gì với Việt Tân không, nhưng cái âm mưu lợi dụng lòng yêu nước của đồng bào khởi đi từ chương trình Community Leadership của ông.

Vấn đề đào tạo Leader của TS Nguyễn Đình Thắng cho cộng đồng là một việc nên làm và nên khuyến khích làm. Tuy nhiên trong vấn đề này có hai nghi ngại lớn cần phải đặt ra. Thứ nhất là cơ quan BPSOS của TS Thắng hiện nay đã biến thành một cơ quan bảo trợ cho các du học sinh từ trong nước. Như vậy thì liệu TS Thắng có nghĩ tới việc VGCS cấy người của chúng vào để sau này lãnh đạo cộng đồng tỵ nạn mà ngăn chặn không? Thứ hai, không biết TS Thắng và đám đệ tử của ông có thể lead cái gì cho cộng đồng nếu không phân biệt được mục tiêu tranh đấu như hiện nay. Có hai loại mục tiêu đấu tranh là DIỆT và ĐÒI. Loại đấu tranh để DIỆT bần bút không bàn đến ở đây. Còn với mục tiêu đấu tranh đòi quyền lợi, cũng cần biết quyền lợi tranh đấu là thứ quyền lợi gì. Có cái hợp lý, tranh đấu có thể đòi được. Nhưng cũng có cái bất hợp lý, tranh đấu chỉ uổng công vô ích. Loại thứ nhất là quyền lợi công dân mà Hiến Pháp và luật pháp Hoa Kỳ bảo đảm. Để tranh đấu cho những quyền lợi công dân, TS Nguyễn Đình Thắng và các đệ tử của ông có thể học hỏi nơi các leader người da đen như Martin Luther King Jr. hay Louis Farrakhan. Họ kéo cộng đồng của họ xuống đường để nói to lên nguyện vọng là đủ rồi, chả cần phải xin xỏ lậy lục ai. Loại thứ hai là quyền lợi công dân của nước ngoài, nằm trong tay của chính quyền sở tại, cụ thể ở đây là VGCS, luật pháp Hoa Kỳ không bảo đảm được. Quyền lợi Petition đòi hỏi thuộc loại này và phải biết nó nằm trong khuôn khổ bang giao quốc tế. Bang giao quốc tế được hiểu là việc trao đổi quyền lợi giữa các nước. Chuyện đấu tranh đời quyền lợi từ trong tay phỉ quyền Hànội, TS Nguyễn Đình Thắng không thể đem bầu nhiệt huyết, tinh thần yêu nước của cộng đồng cùng với hai bàn tay trắng ra mà đòi được. TT Obama có muốn cho cũng không có mà cho, muốn giúp cũng phải đổi chác với Hànội bằng một cái giá nào đó. Nếu cái giá đó đi ngược lại với đường lối chính sách của chính phủ Hoa Kỳ thì ai buộc được ông Obama phải chiều lòng cộng đồng chúng ta? Ai cũng biết, đường lối và chính sách của các chính quyền Mỹ từ sau chiến tranh VN là thân thiện với bọn VGCS. Sự thể này không còn nghi ngờ gì nữa. Nên nhớ lại đi, trước đây có lần khi ngoại trưởng Mỹ sang thăm Miến Điện, trước một tập hợp đông đảo dân chúng Miến, bà Hillary Clinton sánh vai bà Aung San Suu Kyi tuyên bố khuyên các nhà lãnh đạo Miến Điện và Bắc Hàn nên theo gương và bắt chước CSVN trên các vấn đề cải cách và phát triển. Khi bà Ngoại Trưởng Mỹ đã lấy CSVN làm mô hình phát triển dân chủ và kinh tế cho nước khác thì xin hỏi, đối với chính quyền Mỹ, vấn đề nhân quyền tại VN có còn được họ quan tâm và cần thiết phải đặt ra nữa hay không? Trao phó tinh thần yêu nước của cộng đồng vào tai những kẻ đang ôm ấp kẻ thù của cộng đồng nên gọi là cái gì, có phải là giao trứng cho ác không?

· Tại cái GPS

Lái xe không rành đường ở nước Mỹ, người ta phải nhờ đến cái máy chỉ đường gọi là GPS (global positioning system.) Để kết thúc bài viết, bần bút xin mạn phép nói rông rài một chút về chuyện cái GPS. Mới hồi đầu tháng, có 3 sinh viên nhật đi du lịch sang Úc. Vì không biết đường nên họ mướn xe có máy chỉ đường GPS. Không biết cái máy quên đường hay trục trặc gì đó, thay vì dẫn 3 người bạn trẻ đến nơi họ muốn tới thì lại đưa họ xuống một bãi biển sình lầy. Chiếc xe ngập hết bánh dưới nước biển và không chạy được nữa. Tội ngiệp mấy người bạn trẻ phải chui ra khỏi xa và lội vô bờ để về khách sạn. Tin rằng lái xe đi đường có GPS là chắc ăn thì lầm to. Bần bút sợ rằng, những quí vị đi trình Petition, có thể vì gặp phải cái GPS có “sự cố” (lại tiếng VC) chăng nên đã đi lộn đường, tới lộn chỗ, gõ lộn cửa, và gặp lộn người chăng. Không phải cái GPS nào cũng giống nhau cả đâu. Sợ là uổng công cho quí vị mất thôi. Hơn một trăm ngàn Petition có giá trị chính trị và tâm lý rất cao. Nó ví như một thanh kiếm báu, chém đá như chém bùn, có thể giáng xuống chưởng lực ngàn cân trên đầu bọn VGCS. Nhưng báu kiến trao vào tay một kiếm khách tồi, chưởng lực tung ta chỉ là nhát kiếm chém gió. Quí vị có đi lạc chỗ cũng xin đừng buồn. Tin rằng thế nào rồi Bạch Ốc cũng sẽ gởi cho quí vị một lá thư cám ơn với một vài câu hứa hẹn vu vơ. Đó là phép xã giao bắt buộc nơi cung đình của các bậc vương tôn công tử trên thế gian này. Trừ ra bọn đầu gấu tại Ba Đình là không có cái lễ nghi vương giả đó mà thôi.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Monday, March 19, 2012

Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Được Giải Ngũ Chưa? - Nguyễn Bách Việt



Nguyễn Bách Việt

Thêm một ngày 30 tháng 4 đang tới. Ba mươi hai ngày 30 tháng 4 đang qua. Thời gian có thể làm nguôi ngoai nhiều chuyện. Nhưng nỗi đau khi nhìn quê hương VN thân yêu đang tiếp tục chịu cảnh điêu linh, tan nát, nhìn dân tộc VN đang bị đoạ đầy, đau khổ, sẽ không bao giờ nguôi trong lòng chúng ta cho tới khi quê hương VN thật sự có tự do, độc lập, hạnh phúc, phú cường. Ngày 30 tháng 4, 1975 luôn luôn tạo ra biết bao ngậm ngùi, cay đắng, uất nghẹn trong lòng mọi người chúng ta, nhất là trong tâm trí người lính VNCH vì chính trong ngày này, một quân đội tinh nhuệ, thiện chiến trên thế giới đã bị bán đứng do các mưu toan chính trị quốc tế “ngắn hạn” sắp xếp. Từ việc quân lực VNCH bị buộc buông súng, ngưng chiến đấu theo lệnh ông Dương Văn Minh, đại nạn của dân tộc qua biến cố đau thương 30/4, 75 bắt đầu khởi sự và kéo dài cho tới ngày nay trên quê hương VN khốn khổ. Trong tâm tình ngày 30 tháng 4 năm nay, chúng ta hãy đặt câu hỏi:

Binh sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã được giải ngũ chưa?
Về mặt lý và tình, binh lính quân lực VNCH chưa hoàn toàn được giải ngũ.

Lý:

1. Xét theo mặt hiến pháp VNCH trước 1975, mọi người lính trong quân lực VNCH cho dù hiện nay trong độ tuổi 80, 70, 60, 50 nhưng tất cả chưa thực sự được giải ngũ. Vì trong ngày 30 tháng 4 đau thương năm 1975, khi ra lệnh cho tất cả binh lính VNCH buông súng quy hàng, ông Dương Văn Minh đã không đứng trên cương vị chính danh của vị tổng thống kiêm tổng tư lệnh quân đội. Theo Hiến Pháp VNCH, việc Tổng Thống Trần Văn Hương trao lại quyền tổng thống cho ông Dương Văn Minh là vi hiến. Từ lập luận này chúng ta có thể khẳng định chắc chắn, quân lực VNCH vẫn chưa hề được giải ngũ. Cũng dựa trên căn bản pháp lý này, cách đây 12 năm, thượng nghị sĩ Phạm Nam Sách, người dành cả cuộc đời tranh đấu cho hạnh phúc của dân tộc, một nhà hoạt động có uy tín trong cộng đồng VN hải ngoại, khi còn sống, đã phát động phong trào Tái Dựng Nền Cộng Hòa để từ đó, có cơ sở giải thể chế độ VC đang thống trị trên hai miền Nam - Bắc VN rồi đi tới thống nhất đất nước trong hòa bình thực sự.

2. Thêm nữa, khi một người chiến binh bị địch bắt buông súng quy hàng, không có nghĩa là người lính ấy đã được giải ngũ. Người ấy không phải là Cựu Quân Nhân.

Tình:

1. Theo truyền thống, quân đội là lực lượng bảo vệ đất nước, lãnh thổ, dân tộc. Ngày nay, nhóm VC lãnh đạo VN đang bán dân, bán nước, bán biển cho quan thầy Tàu cộng. Vậy những chiến sĩ VNCH không thể khoanh tay ngồi nhìn thảm họa đang tiếp tục đổ chụp xuống đầu dân tộc và tổ quốc. Chúng ta không thể ngồi yên để nhìn dân tộc từ từ bị diệt vong dưới bàn tay những người CSVN phi dân tộc. Chúng ta không thể nhìn đất, biển tiếp tục rơi vào tay Tàu cộng, ngư dân VN vô tội tiếp tục bị Tàu cộng bắn giết.

2. Khi gia nhập quân đội, mỗi chiến sĩ VNCH luôn khắc sâu một lời thề:
    Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm
Lời thề này được ghi khắc trong tim nên luôn ở trong lòng mỗi người quân nhân VNCH trên mọi nẻo đường của cuộc sống và được thực hiện trong mọi hoàn cảnh, môi trường chung quanh. Lời tâm niệm “Tổ Quốc - Danh Dự -Trách Nhiệm“ vẫn luôn được các chiến sĩ VNCH thực hiện từ ngày 30 tháng 4 đau thương đó cho đến nay. Những vị tướng như Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng đã chọn cái chết để bảo vệ DANH DỰ cho quân lực VNCH. Những sĩ quan như Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Hữu Thông, v.v... đã can đảm đối đầu với họng súng của VC để nêu cao khí tiết, DANH DỰ của quân lực VNCH. Những người lính thuộc Trung đội Nhảy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái cùng nhau tự sát bằng lựu đạn sáng 30 tháng Tư, 1975. Những binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến của Lữ Ðoàn 147 cùng nhau tự sát ở Mỹ Khê, Ðà Nẵng tháng 3, 1975 để nêu cao khí tiết. Hơn 100 Thiếu Sinh Quân chưa hề ra trận lần nào, đã quyết chiến anh dũng với địch trong hơn nửa ngày liên tục để bảo vệ trường Mẹ tại Vũng Tàu ngày 28 tháng 4, 1975 và chỉ chịu đầu hàng khi hết đạn, làm cho VC ngỡ ngàng, cảm phục.Còn biết bao chiến sĩ khác đã anh dũng chiến đấu tới hơi thở cuối cùng hay tự sát trong ngày 30/4 mà chúng ta chưa biết tên nhưng đã được một số đồng bào, đồng đội cũng như ký giả ngoại quốc tường thuật lại với lòng cảm phục vô cùng, đã chứng tỏ tinh thần bất khuất của người lính VNCH. Cho đến nay, những chiến sĩ VNCH còn sống tại hải ngoại hay quốc nội vẫn tiếp tục chiến đấu bằng cách này hay cách khác để thực hiện cho được lời thề:
    Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã từng là một quân đội hùng mạnh đứng hàng thứ 4, 5 trên thế giới và hàng nhất trong vùng Đông Nam Á. Qua cuộc chiến tranh Quốc-Cộng vừa qua, quân lực VNCH đã chứng tỏ mình chiến đấu vì lý tưởng tự do của dân tộc, đã chứng tỏ khả năng chiến đấu kiêu hùng, dũng mãnh, sự hy sinh, chịu đựng gian khổ tuyệt vời nếu đem so với các quân đội khác trên thế giới. Vì thế, quân lực VNCH không thua tại chiến trường nhưng thua vì các sắp xếp chính trị trên bàn cờ quốc tế. Giờ đây, danh dự của quân lực VNCH đang được trả lại. Những cuộc hội thảo quốc tế (thí dụ cuộc hội thảo về chiến tranh VN tại trường đại học Texas Tech University, thành phố Lubbock, tiểu bang Texas) đã được tổ chức để trả lại Danh Dự cho quân lực VNCH. Nhiều nhà báo, học giả ngoại quốc, nhất là từ phía Mỹ, đã lên tiếng hay viết bài ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của quân lực VNCH. Tướng Norman Schwarzkopf, người chỉ huy cuộc chiến vùng Vịnh để giải phóng Kuwait năm 1991 đã từng ca ngợi các vị chỉ huy quân lực VNCH và cho biết ông học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm quý báu từ quân lực VNCH khi ông tham chiến bên VN. Tướng Collin Powel, tham mưu trưởng quân đội và là cựu bộ trưởng ngoại giao Mỹ cũng xác nhận và ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của quân lực VNCH. Thượng nghị sĩ Mc Cain, ứng cử viên tổng thống Mỹ năm 2008, từng bị VC giam 6 năm, cách đây vài năm khi sang thăm VN và thăm nhà tù Hỏa Lò, ông đã thẳng thắn tuyên bố “kẻ ác đã chiến thắng“. Lời nói này là sự gián tiếp ca ngợi lý tưởng tranh đấu cho tự do, dân chủ của dân - quân - cán - chính VNCH, đặc biệt ca ngợi quân lực VNCH, lực lượng tiên phong trong công cuộc tranh đấu cho lý tưởng này. Vì thế, đã đến lúc chúng ta phải hãnh diện là chiến binh của quân lực VNCH ưu tú, đã đến lúc chúng ta hãnh diện nói cho con cháu chúng ta nghe về công sức, về sự hy sinh, chiến đấu vô bờ bến của chúng ta, của đồng đội để bảo vệ lý tưởng tự do cho dân tộc.

3. Vì Danh Dự, người lính VNCH không bao giờ chịu khuất phục trước bạo quyền cộng sản. Vì Tổ Quốc VN yêu thương đang quằn quại trong đau khổ, tang thương, vì Trách Nhiệm của người lính VNCH đối với tổ quốc, đồng bào vẫn chưa thực hiện được nên người lính VNCH vẫn phải tiếp tục chiến đấu. Ngày nay mặt trận không nằm ở chiến trường nữa. Nó nằm ở trong cuộc sống, trong sinh hoạt đấu tranh, trong tư tưởng, trong ý chí của người lính VNCH. Nhận thức như vậy nên người lính VNCH vẫn luôn đi đầu trong các cuộc tranh đấu chống cộng. Hãy xem, trong các cuộc tranh đấu chống cộng có khi nào thiếu vắng những người lính VNCH đi tiên phong không?

4. Một vị tướng ngoại quốc có câu nói lừng danh “Người ta có thể mang tôi ra khỏi quân đội, nhưng không thể mang quân đội ra khỏi tôi”. Rất đúng! Vì bất cứ lý do gì, vì bất cứ hoàn cảnh nào, lời thề “Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm“ luôn luôn nằm trong tim các chiến sĩ VNCH. Vì bất cứ lý do gì, các binh sĩ VNCH suốt đời vẫn là chiến sĩ. Vậy chúng ta có thể ngồi yên, an hưởng tự do không khi quê hương VN thân yêu vẫn còn chìm ngập trong điêu linh, thống khổ, dân tộc vẫn còn sống trong đọa đầy, đàn áp? Lòng ta có thanh thản không khi bè lũ Việt cộng vẫn tiếp tục đọa đầy dân tộc, bịt miệng đồng bào, đang đưa dân tộc làm nô lệ cho ngoại bang Á châu, cho Tàu cộng?

Chúng ta chưa thể nghỉ yên vì Mẹ VN vẫn đang quằn quại, đau thương, than khóc. Chúng ta chưa thể an hưởng tự do nơi xứ người khi đồng bào còn đang bị đàn áp, chà đạp nhân phẩm, bóc lột tận xương tủy bởi VC và ngoại nhân. Nhiệm vụ đối với quê hương, dân tộc chúng ta chưa làm tròn, chúng ta chưa được nghỉ ngơi.

Hàng ngàn, hàng ngàn bé gái là con, cháu chúng ta đang bị bán trong các nhà chứa bên Thái Lan, Cam Bốt, sống kiếp đọa đầy, tủi nhục, đang mòn mỏi chờ đợi sự cứu vớt của chúng ta trước khi quá trễ. Hàng ngàn các em bé khác sẽ tiếp tục bị bán nếu chế độ VC còn tồn tại. Các cô gái Việt Nam là em, cháu chúng ta đang bị rao bán trên internet, trong các lồng kính tại các quốc gia Đông Nam Á như là các con vật tình dục, buộc chúng ta không thể ngồi im để tận hưởng tự do, sung túc, êm ấm nơi xứ người mà không tìm cách tranh đấu để thảm trạng đau lòng này không bao giờ tái diễn trên quê hương VN thân yêu nữa. Các cô gái khốn khổ này không có tội tình gì hết. Chính bè lũ VC mới là tội đồ và chúng ta là tòng phạm nếu chúng ta cứ để cho thảm cảnh đau lòng này tiếp tục xảy ra.

Chúng ta không thể nhìn các cô gái VN hàng ngày bị lột truồng, đi qua đi lại như súc vật để được mua bán, chọn lựa trước những cặp mắt đầy nhục dục của các người Đại Hàn, Đài Loan, Tàu Đông Nam Á tại chính quê hương VN khốn khổ của chúng ta như vậy. Chúng ta không thể thản nhiên nhìn hàng chục ngàn công nhân VN đang bị các chủ nhân ngoại bang hành hạ, làm nhục, bị bóc lột và bị đối xử như con vật trước sự đồng lõa của VC.

Chúng ta không thể cúi đầu nhìn ngoại nhân sỉ nhục dân tộc chúng ta như vậy.

Con người VN đang bị lăng nhục, dày vò, bóc lột. Lòng tự ái dân tộc VN đang bị ngoại nhân thách thức, chà đạp. Chẳng lẽ chúng ta ngồi lặng im? Chẳng lẽ dân tộc VN, chẳng lẽ chúng ta mất hết nhuệ khí oai hùng của Mê Linh Quật Khởi, của Bạch Đằng Dậy Sóng Diệt Thù, của Phá Tống – Bình Chiêm, của Sát Thát, của Bình Ngô Đại Cáo, củaQuang Trung Đại Phá Quân Thanh mà tổ tiên truyền lại?

Chẳng lẽ chúng ta quen thuộc với sỉ nhục đến độ không còn cảm giác tối thiểu để đứng lên làm một cái gì đó rửa nhục cho dân tộc, cho con, em, cháu và cho chính chúng ta?

Cái nhục dân tộc đau đớn này nếu chúng ta không trả được thì chúng ta không thể ngẩng cao đầu làm người VN chứ đừng nói là chiến sĩ VNCH. Nỗi khổ đau tận cùng này của dân tộc nếu chúng ta không bắt đảng CSVN hại dân bán nước trả nợ thì suốt đời con cháu sẽ nguyền rủa chúng ta. Ai sẽ cứu dân tộc VN, ai sẽ cứu các bé gái này, ai sẽ cứu các cô gái VN này nếu không phải chúng ta? Chúng ta phải tranh đấu, phải hành động hết sức mình trước khi kêu gọi sự giúp đỡ của các quốc gia tự do trên thế giới yểm trợ cho 1 nước VN hoàn toàn độc lập, tự do, phú cường.

5. Vong hồn của hơn 3 trăm ngàn (300.000) chiến sĩ VNCH, của hơn 6 mươi ngàn (60.000) chiến sĩ đồng minh đã bỏ mình vì lý tưởng tự do cho dân tộc VN, oan hồn của hàng mấy trăm ngàn đồng bào chết trên đại lộ kinh hoàng mùa hè đỏ lửa 1972, của dân chúng Huế Tết trong Mậu Thân 1968, của cuộc di tản đau thương 1975, cũng như tại nhiều nơi khác trên quê hương đang kêu nài chúng ta đòi lại công lý cho họ để họ không chết oan ức, để cái chết của họ không bị chìm vào quên lãng.

- Vong linh của mấy chục ngàn chiến sĩ đã bỏ mình trong các nhà tù cộng sản và trong cái-gọi-là trại cải tạo, linh hồn của hơn nửa triệu đồng bào đã bỏ mình trên biển cả, rừng sâu vì đói khát, vì giông bão, vì hải tặc trên đường đi tìm tự do đang réo gọi chúng ta phải hành động, phải tranh đấu để cái chết tức tưởi của họ không vô ích.

- Linh hồn 10 ngàn (10.000) cô gái VN bị hải tặc Thái Lan mang bán trong các nhà chứa và chết dần mòn trên đất Thái, đòi chúng ta phải lấy lại công lý cho họ để hồn họ được ngậm cười nơi chín suối.

- Vong linh của những đồng bào, chiến sĩ bỏ mình nơi đất khách quê người đang đòi chúng ta phải đứng lên chiến đấu để hồn họ được siêu thoát, để xác thân họ được chôn nơi đất Mẹ ngàn đời mến yêu.

- Vong hồn hơn 16 ngàn chiến sĩ VNCH là anh em, đồng đội chúng ta tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa đang đòi chúng ta phải bảo vệ nơi yên nghỉ cuối cùng linh thiêng của họ.

- Những thương phế binh VNCH và con cháu họ đang cần chúng ta chiến đấu cho họ, để sự hy sinh của họ không vô ích, để tương lai con cháu họ không tiếp tục nằm trong những đống rác, những nơi bán máu.

- Tất cả đồng bào, anh em, đồng đội chúng ta sẽ không nhắm mắt yên nghỉ nếu chúng ta không tiếp tục chiến đấu, nếu chúng ta buông xuôi phó mặc đất nước, dân tộc cho bè lũ VC phi dân tộc, tàn ác để chúng tiếp tục làm tay sai, bán đất dâng biển cho kẻ thù ngàn đời của dân tộc là giặc Tàu bắc phương, để chúng tiếp tục nô lệ hóa dân tộc cho ngoại bang.

Không phải ngẫu nhiên mà ông bà ta đã đặt chữ “Nước Mất“ đi trước chữ “Nhà Tan“ trong câu dặn dò con cháu “Nước Mất Nhà Tan“. Ý ông bà ta muốn cảnh cáo chúng ta “Nếu chỉ lo cho cái nhà của mình mà không nghĩ tới dân tới nước, vào một ngày nào đó khi đất nước bị kẻ thù hay tay sai kẻ thù chiếm đoạt thì gia đình của chính chúng ta cũng sẽ tiêu tan”. Câu nhắn nhủ thâm sâu, chí tình này của tổ tiên đã được chứng minh hùng hồn qua biến cố 75. Sau 30/4, 1975 khi cả đất nước tan hoang thì biết bao nhiêu gia đình cũng tan nát theo và đi tới tận cùng đổ vỡ. Sau 30/4, cả đất nước thành trại tù, đói khổ tràn lan thì nền tảng gia đình VN cũng bị VC phá vỡ hoàn toàn có chủ đích. Nền đạo lý ngàn đời của dân tộc đi tới phá sản. Con cái tố cha mẹ, thày cô. Cha mẹ, thày cô sợ con cái, học trò, mọi người nghi kỵ, rình rập lẫn nhau. Vợ bỏ chồng theo cán bộ VC. Mọi người lừa bịp nhau, sống gian trá để mong tồn tại.

Sau 30/4, 75 cả nước biến thành chư hầu của Liên Xô, sau đó lại biến thành chư hầu của Tàu cộng để rồi lãnh đạo VC dâng đất dâng biển, dâng đồng bào cho quan thày Tàu cộng. Đó! Hệ quả thê thảm, khốc liệt của câu “Nước Mất Nhà Tan“ là vậy. Nay câu “Nước Mất Nhà Tan” sẽ lại tiếp diễn ở tại ngay các xứ tạm dung thân này, nếu chúng ta chỉ tiếp tục lo cho căn nhà, cho gia đình, cho bè nhóm của chính mình. Nghị quyết 36 của VC đang đi vào giai đoạn quyết liệt. VC nhất quyết nhuộm đỏ cộng đồng, lũng đoạn con cháu chúng ta. Chúng đang len lỏi tranh các chức vụ trong chính quyền địa phương. Nếu chúng ta có thái độ cầu an, mũ ni che tai thì khi cộng đồng chúng ta bị nhuộm đỏ, khi vài chức vụ thành phố, quận hạt chúng nắm, những tay chân này của VC sẽ mời những phái đoàn VC sang thăm các thành phố có đông người Việt tị nạn để phá rối cộng đồng chúng ta. Lúc đó, chính chúng ta, chính gia đình, chính con cháu chúng ta cũng sẽ khó yên thân được với bọn VC nơi hải ngọai này.

Chúng ta phải làm gì?

Nếu biết kết hợp để cùng nhau làm việc, các chiến sĩ quân lực VNCH sẽ có sức mạnh rất lớn và làm được rất nhiều chuyện hữu ích cho công cuộc phục hưng dân tộc. Các tổ chức chính trị của người Việt hải ngoại không phát triển sâu rộng trong hàng ngũ người Việt tị nạn CS nhưng tập thể chiến sĩ VNCH thì nhất định có ảnh hưởng sâu rộng trong cộng đồng người Việt tị nạn CS vì hầu như gia đình nào cũng có người thân hay bạn bè là chiến sĩ VNCH. Vậy hãy biến những giờ phút trà dư hậu tửu thành những giờ phút gặp gỡ, hàn huyên bổ ích. Hãy bình tĩnh và tỉnh táo để nhìn ra những biến chuyển của thời cuộc. Hãy tỉnh táo nhìn ra “Ai là bạn, ai là thù”, nhận ra những hỏa mù, những đòn hiểm độc nhằm gây chia rẽ cộng đồng từ VC. Hãy tập hợp nhau lại và khi gặp gỡ trao đổi, hãy bàn những chuyện cụ thể cho đất nước trong tinh thần xây dựng, tương kính, lắng nghe nhau để đề ra những sách lược, hành động cụ thể trong việc giữ yên hậu phương hải ngoại trước những đòn tấn công liên tục, thâm hiểm của VC. Có vậy, chúng ta mới tạo được lực thống nhất, mới có đủ sức mạnh để yểm trợ tối đa cho mặt trận tự do, dân chủ, nhân quyền đang đi tới hồi quyết định nơi quốc nội trong thời gian sắp tới. Mỗi người, tùy theo khả năng, hoàn cảnh cụ thể của mình hãy hành động hết sức. Hãy thực hiện câu tổ tiên bao đời truyền dạy “Ai có dao dùng dao, ai có bút dùng bút“. Tất cả hãy tập hợp trong một mặt trận chung. Hãy hướng dẫn con cháu tới nơi tới chốn để chúng cùng tham gia vào công cuộc tranh đấu chung của dân tộc và tránh được những cạm bẫy, dụ dỗ tuyên truyền của VC khi chúng đang muốn lợi dụng kiến thức và tấm lòng yêu nước của con cháu chúng ta mang về VN để phục vụ cho quyền lợi bất chính của đảng CSVN, kéo dài thêm sự khốn khổ của đồng bào.

“Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm” để cứu nước, cứu dân thoát cảnh nô lệ, điêu linh, nghèo đói, đọa đầy, mất đất, mất biển, do nhóm lãnh đạo VC đang làm tay sai cho giặc Tàu gây ra cho dân tộc VN. Chúng ta phải tập hợp nhau lại, cùng đứng lên hành động để rửa mối nhục do nhóm lãnh đạo VC đang cấu kết với ngoại bang Tàu cộng, Tàu Đông Nam Á, Đài Loan, Thái Lan, Đại Hàn gây ra cho dân tộc VN.

Ai sẽ đi tiên phong trong trận chiến đòi tự do, dân chủ cho đồng bào? Ai sẽ đi tiên phong trong trận chiến rửa hờn, rửa nhục cho dân tộc?

Chẳng lẽ con cháu chúng ta sẽ đi tiên phong trong chuyện này, còn chúng ta, những người có đầy kinh nghiệm máu xương với VC, hiểu rõ bản chất dã man, xảo trá của chúng, lại phủi tay nghỉ ngơi? Nhất định không! Chính chúng ta phải làm việc này cùng con cháu chúng ta, cùng đồng bào vì chúng ta chưa được dân tộc cho giải ngũ, vì trong tim chúng ta vẫn còn khắc sâu lời thề:
    Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm
Chúng ta chưa thực hiện xong lời thề linh thiêng này, chúng ta không được quyền nghỉ ngơi. Câu “Bảo Quốc – An Dân” ta vẫn chưa làm tròn. Vì đất, biển - mảnh giang sơn cẩm tú tổ tiên tốn biết bao mồ hôi xương máu để lại cho chúng ta đang rơi vào tay Tàu cộng. Vì đồng bào VN vẫn tiếp tục bị đọa đầy, thống khổ. Vì bình an trong cuộc sống và trong tâm trí, người dân chưa hưởng được một ngày kể từ khi đảng CSVN xuất hiện trên quê hương thân yêu.
    Trách Nhiệm với Tổ Quốc, Dân tộc chỉ được hoàn tất khi quê hương VN không còn bị cai trị bởi bè lũ VC bán dân, hại nước, làm tay sai cho Tàu cộng.

    Trách Nhiệm với Tổ Quốc, Dân tộc chỉ được hoàn tất khi từng tấc đất linh thiêng của dân tộc do VC dâng cho quan thầy, được lấy lại.

    Trách Nhiệm với Tổ Quốc, Dân tộc chỉ được hoàn tất khi hoa dân chủ, hạnh phúc nở khắp quê hương.

    Danh dự của dân tộc VN chỉ được lấy lại khi người ngoại quốc không còn dám coi thường dân tộc VN.

    Danh dự của dân tộc VN chỉ được lấy lại khi người ngoại quốc biết nể trọng dân tộc VN chúng ta - những con cháu của giống Tiên - Rồng kiên cường, bất khuất.
Nguyễn Bách Việt


Biển-Đảo Việt Nam Còn Đâu Nữa Để Nguyễn Tấn Dũng Xác Nhận Chủ Quyền! - Mường Giang

Mường Giang

Ngày thứ Sáu (25-11-2011), lần đầu tiên Nguyễn Tấn Dũng (thủ tuớng việt cộng) khi trả lời những câu hỏi trước Quốc hội VC tại Hà Nội, đã công khai xác nhận “Trung Cộng đã dùng vũ lực để cưởng đoạt Quần Đảo Hoàng Sa của VN vào năm 1956 và 1974, lúc đó thuộc chủ quyền của VNCH. Nguyễn Tấn Dũng còn nói thêm “Trường Sa cũng bị Tàu đỏ cưỡng đạt bằng vũ lực...”

Nhưng có điều Dũng đã không bao giờ dám nhắc tới động cơ nào đã giúp giặc Tàu công khai xâm lấn lãnh thổ của một nước khác, mà không bị Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc chế tài và lên tiếng phản đối. Cũng không thấy nói tới chuyện lấy lại hai quần đảo trên bằng cách nào ?

Theo bản tin của UPI-AFB ngày 23-9-1958 được báo chí của Trung Cộng lẫn Việt Cộng đăng tải - những tài liệu này, hiện vẫn được lưu trữ tại các thư viện quốc tế như Luân Ðôn, Paris, Hoa Thịnh Ðón, Bắc Kinh ... kể cả Hà Nội - ta mới biết được, vào ngày 14-9-1958, Phạm Văn Ðồng lúc đó là thủ tướng, theo lệnh của chủ tịch nước và đảng VC là Hồ Chí Minh, đã cam kết với Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng, bằng văn kiện xác quyết như sau “Chính phủ VNDCCH, tôn trọng quyết định, lãnh hải 12 hải lý cũng như hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, là Tây Sa-Nam Sa, của Trung Cộng”. Ngày 22-9-1958, đại sứ VC tại Bắc Kinh là Nguyễn Khang, dâng văn kiện xác nhận điều trên, do Phạm Văn Ðồng ký, lên Thiên Triều. Ngay cả khi đã cướp chiếm được hoàn toàn miền Nam VN vào tháng 5-1976, trên tờ Sài Gòn Giải Phóng của VC nằm vùng Ngô Công Ðức, Lý Quý Chung.. vẫn còn đăng lời xác nhận của đảng VC “Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Cộng”. Khôi hài hơn, VC nói “vì ta và Tàu sông liền sông, núi dính núi, nên Hoàng Sa-Trường Sa, của ai cũng thế thôi, nên VC muốn lấy lại đảo, lúc nào Trung Cộng vẫn sẵn sàng giao trả”. Luận điệu trên rõ ràng VC đã xác nhận VN là thuộc địa của Tàu Cộng. Dù ngày 14-3-1988, Trung Cộng đã tàn sát dã man những bộ đội VC trong cuộc giao tranh không công bằng (vì quân ta không có vũ khí trong tay và được lệnh cấm chống trả) tại Trường Sa. Ngay sau đó, trên tờ Nhân Dân, số ra ngày 26-4-1988, VC vẫn xác nhận sự kiện Hồ Chí Minh bán hai đảo cho Tàu năm 1958 là đúng. Bởi có vậy, Trung Cộng mới viện trợ súng đạn, gạo tiền và cả triệu quân để VC đánh chiếm VNCH từ 1955-1975.

Dựa theo các nguồn sử liệu hiện nay, khi viết về nguồn gốc của dân tộc VN, đều cho rằng Người Việt là một trong những dân tộc dũng cảm và thông minh nhất trên thế giới, vì đã được hưởng nhiều đặc tính quý báu của các chủng tộc pha trộn. Họ là hậu duệ của nòi giống Mông Cổ, Bách Việt và Nam Á Ða Ðảo qua quá trình thiên di từ Trung Á tới đồng bằng Bắc Việt. Nhờ vậy suốt dòng lịch sử mấy ngàn năm, tổ tiên ta mới đương đầu nổi với nhiều cuộc xâm lăng diệt chủng của Tàu, Chiêm Thành, Lào-Thái, Cao Miên, thực dân Pháp-Nhật và nay là chủ nghĩa vô thần của đảng cọng sản đệ tam quốc tế. Bởi thế ngay từ buổi bình minh dựng nước, người Việt rất thạo thủy chiến, quen dùng thuyền, thời gian sống trên cạn ít hơn dưới nước, vì biển rạch sông hồ, vốn là những nơi chốn thân thương của linh hồn đất Việt.

Chúng ta là con cháu của Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ, theo cha ra biển và lâp thành nước Văn Lang, có nền văn minh phát triển từ sông nước. Do trên ngoài nông nghiệp, việc khai thác hải sản trên sông biển, vẫn là tiềm năng kinh tế muôn đời của dân tộc.

Nên biển miên viễn vẫn là không gian sinh tồn của nòi giống Hồng Lạc, là bức trường thành “nước“ bảo vệ non sông gấm vóc Việt. Vì vậy trong suốt lịch sử giữ nước chống ngoại xâm, sức mạnh của Thủy Quân Ðại Việt qua các triều đại Ngô, Ðinh, Tiền Lê, Hậu Lý và nhất là Nhà Trần ... đã tạo nên những chiến công hiển hách, làm vẻ vang người Việt, đất Việt, khiến cho con cháu ngày nay, mỗi lần đọc lại những trang sử cũ, đều cảm nhận sự hãnh diện trân quý, đối với tổ tiên mình. Những đia danh Như Nguyệt, Chương Dương, Hàm Tử, Hội An, Lô Giang, Rạch Gầm, Nhật Tảo, Hoàng Sa.. và đặc biệt là dòng sông thiêng Bạch Ðằng nơi xứ Bắc, muôn đời sống đẹp trong hồn người như nhà thơ Phạm Sư Mạnh đời Trần, đã không ngớt lời khen tặng:

“Vũ trụ kỳ quan, Dương Cốc nhật.
Giang san vượng khí Bạch Ðằng thâu”

Ngày nay đảng CSVN đã và đang bán dần mòn non sông gấm vóc cho giặc Tàu, chẳng những là biển, bờ, hải đảo, đất đai biên giới mà ngay tới làng mạc, phường phố tại Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Bình Dương, Đà Nẳng, Cần Thơ nơi nào cũng đã bị Hán hoá từ trong chữ nghĩa ra tới thực tế của cuộc đời. Tất cả đều do tổ tiên đã dựng và gìn giữ qua bao đời, bằng xương máu và nước mắt. Nhờ vậy mới có một nước Việt xinh đẹp bao đời, trải dài trên bờ Thái Bình Dương hơn 3300km, với non xanh nước biếc thật hữu tình. Sau lưng là bức tường thành Trường Sơn hùng vỹ, còn đất đai thì chạy suốt từ Ải Nam Quan tới tận Mui Cà Mâu, Hà Tiên ngút ngàn ruộng đồng vườn tược, nơi nào cũng đẹp xinh ngập tràn hồn quê trong nổi nhớ.

Biển VN còn có một thềm lục địa rộng trên 2 triệu km2 và 4000 hòn đảo, mà lớn nhất là Phú Quốc (Kiên Giang) và Phú Quý (Bình Thuận), có diện tích gần bằng Tân Gia Ba. Nơi nào trên biển cũng đều có một triển vọng to lớn về khả năng khai thác khí đốt và dầu thô. Tóm lại, nếu là những vị lãnh đạo yêu nước, thương dân thưở trước như Trần Nhân Tôn, Lê Thánh Tôn, các Chúa Nguyễn Hoàng, Sải Vương, Hiền Vương, Quốc Chúa, Minh Mạng ... cho tới cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu ... chắc chắc sẽ nhận ra ngay thực trạng của nước ta, người đông đất ít, tương lai của xứ sở đều do biển quyết định, nên phải dồn hết năng lực và sức mạnh quân sự, để bảo vệ biển, đảo như Nhà Nguyễn và gần nhất là VNCH đã từng làm suốt 20 năm tồn tại (1955-1975).

Từ sau ngày CSVN làm chủ cả nước, đảng chưa bao giờ nghiên cứu hay lo lắng bảo vệ lãnh hải của mình, dù biết rằng “cái ăn của toàn dân phần lớn đều nhờ vào biển trước mắt”. Ðó là thực trạng của sự khai thác hải sản bừa bãi trên Ðông Hải, gần như lạm phát vô kỹ luật, từ sau năm 1975 tới bây giờ. Tóm lại tất cả đều là nỗi đau lòng, ngậm ngùi non nước, từ sự kê khai tổng trọng tải của hàng chục ngàn ngư thuyền cả nước, nhưng thực tế chưa bằng 1/10 tàu thuyền đánh cá của các nước trong vùng.

Về sản lượng khai thác trên biển hiện nay của ngư dân VN theo các nguồn tin quốc tế, còn thua xa các nước Nhật, Péru, Ðài Loan, Ðại Hàn cả Thái Lan từ 25 năm về trước. Trong lãnh vực kinh tế, VN hiện có 62 hải cảng lớn nhỏ cả nước, nhưng con số chỉ nhằm phô trương, vì nhiều cảng cá xây lên, để có cơ hội cho cán bộ đảng từ nhỏ tới lớn, chia nhau ăn xén ngân khoản, sau đó bỏ hoang như ở Cà Mâu. Thực chất đã làm lu mờ cái uy thế hiển hach của một nước VN từ bao đời “là một vị trí trung tâm của hải đạo bắc-nam, vùng Châu Á Thái Bình Dương”. Ðồng thời cũng là cửa ngõ ra biển của Lào và nhiều tỉnh miền Nam Trung Hoa như Quý Châu, Vân Nam và Quảng Tây, qua các đường sông Hồng Hà, Mã và sông Cả.

Từ năm 1995, VN đã bắt đầu sản xuất dầu khí của các mỏ trên thềm lục địa nước ta, tại biển Nam quanh Côn Ðảo và quần đảo Trường Sa. Việc khai thác khí đốt cũng đã bắt đầu tiến hành từ đầu thập niên thế kỷ XXI. Ðây là nguồn lợi to lớn nuôi sống cả nước, sau lúa gạo và hải sản. Nhưng vì cần chỗ dựa lưng be bờ để giữ đảng tồn tại, sau khi Liên Xô và Ðông Âu sụp đổ, nên CSVN chẳng những đã không lo bảo vệ non sông gấm vóc của dân tộc, trái lại còn bí mật ký kết bán nhượng biển nhiều lần với Tàu đỏ, đặc biệt là Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ lâu đời của Ðại Việt có từ thời vua Lê Thánh Tôn vào thế kỷ XVII.

Ngày 25-12-2000, CSVN qua Lê Khả Phiêu, Ðỗ Mười, Trần Ðức Lương, Võ Văn Kiệt ... tới Bắc Kinh để âm thầm ký kết bán đảo chia biển với Trung Cộng, qua cái gọi là Hiệp Ðịnh Phân Ðịnh Vịnh Bắc Bộ. Sự kiện trên đã bị dân chúng trong và ngoài nước phanh phui, công phẫn và phản đối dữ dội. Ðặc biệt là báo chí Pháp cũng lên tiếng phê phán và cười chê CSVN cả gan, khi dám nhân danh kẻ cầm quyền, để ký với giặc thù truyền kiếp của dân tộc là Trung Cộng, trong tình trạng bình thường của hai quốc gia độc lập. Ðây là một hiệp định vô lý, man rợ và bất bình đẳng nhất thế giới, mà chỉ có bè lũ bán nước buôn dân như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng (1958), cùng với băng nhóm không còn nhân tính, thiên luân và tim óc trong Bắc Bộ Phủ mới dám lỳ lợm hành động một cách mù quáng, mặc kệ cho cuộc tồn vong của dân tộc Việt.

Nguyễn Tâm Bảo, một cán bộ kiều vận của Việt Cộng, đặc trách vùng Bắc Mỹ, trong một bức thư tối mật gửi đảng (Sever Ever Been Top Secret), đề ngày 30-6-2008, qua ám số i86 photobucket.com, đã viết “.. thứ hai là quan hệ tế nhị với người anh lớn đã để lộ những kẽ hở. Việc chúng ta nhượng đất nhượng biển là một sai lầm, đụng chạm đến tinh thần dân tộc từ ngàn đời nay. Làm sao để lèo lái tinh thần dân tộc theo hướng có lợi cho chúng ta, để thanh niên vẫn có chỗ xả xú pắp, mà vẫn tin rằng chúng ta không hề hèn nhát trước Trung Quốc, đồng thời việc đó không làm cho Trung Quốc tức giận…”

Ngày xưa, Hồ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung và Chúa Trịnh, chỉ vì trong thế kẹt vạn bắt đắc dĩ, nên bó buộc phải ký dâng đất cho giặc. Thời nhà Nguyễn, Vua Tự Ðức cũng chỉ vì thua kém quân sự, nên buộc lòng phải ký kết những hiệp ước bất bình đẳng với kẻ thù nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để chuộc lại. Thực dân Pháp trong thời gian đô hộ nước ta, vì quyền lợi của chúng, cũng cắt nhiều đất của VN cho Tàu tại biên giới, đó là điều không thể tránh được với một quốc gia đã mất chủ quyền. Thời VNCH luôn luôn phải đương đầu với thù trong giặc ngoài, suốt 20 năm tồn tại, từ cố TT Diệm tới TT Nguyễn Văn Thiệu, đã không hề bán nhượng hay làm mất một phân đất của tổ tiên. Tháng 1-1974, chỉ vì đồng minh Mỹ bán đứng, VC đồng lỏa với Tàu đỏ, đâm sau lưng nên đành để mất quần đảo Hoàng Sa trong máu hận, sau khi Hải Quân Miền Nam đã tử chiến với Trung Cộng và gây cho chúng nhiều thương vong thiệt hại.

VC chỉ biết có đảng và quyền lợi cá nhân gia đình, đã công khai đầu hàng giặc Tàu, làm tổn hại đất nước, khiến dân tộc mất danh dự và trên hết là tạo sự bất hạnh cho ngư phủ VN phải hành nghề trên biển cả, bị giặc Tàu bắn chết qua tội danh xâm phản lãnh hải của chính nước mình. Hỡi ôi, chỉ vì muốn được làm nô lệ cho Trung Cộng để giữ đảng, mà VC đã làm mất của VN hơn 11.930 km2 biển. Riêng Hiệp Ðịnh gọi là Hợp Tác Nghề Cá, chưa hề được quốc hội thảo luận cũng như biểu quyết phê chuẩn, nhưng VC lẫn Trung Cộng vẫn tuyên bố, cùng có hiệu lực như Hiệp Ðịnh Vịnh Bắc Bộ vào ngày 30-6-2004, mà hậu quả trước mắt là thảm cảnh đồng bào VN ngày ngày bị Tàu đỏ cướp bóc, hảm hiếp và giết hại trên biển Đông, kể cả những lãnh hải thuộc chủ quyền VN sát bờ như Bán Ðảo Sơn Chà (Quảng Nam-Ðà Nẳng) mới đây vào tháng 6-2008.

Tóm lại, từ việc Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng và đảng cộng sản, thừa nhận Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng vào năm 1958, cho tới những hiệp ước bất bình đẳng về việc phân định và hợp tác đánh cá trong vịnh Bắc Việt, đảng CSVN coi như đã dâng hiến toàn bộ hải sản, dầu khí của quốc gia cho giặc Tàu. Nên không ai ngạc nhiên khi nguồn tin Nông Ðức Mạnh sang Tàu về và phổ biến tấm dư đồ rách VN ngày nay trong đó không có các địa danh Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Hang Pắc Pó, Núi Tô Thị và hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, nay đã biến thành Huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam của Trung Cộng.

Mấy ngàn năm mở và dựng nước, linh hồn của dân tộc Việt là rừng thẳm biển xanh như đã ăn sâu vào ánh mắt nụ cười của mọi người. Nay thì rừng đã trụi còn biễn cũng đã phụ người. Chúng ta con cháu ngày nay khi nghĩ tới, chỉ còn đi tìm thuở vàng son của quá khứ, được lưu lại trong hồn biển trên đât cá đẳm đầy nước mắt, nắng gió và cái đói lạnh miên trường của kiếp người bất hạnh trên quê hương nhược tiểu VN.

Có còn nỗi buồn nào hơn nỗi buồn của người ngư phủ VN, đứng trước quê hương mình trong nổi lặng im cay đắng, nhìn những tia nắng ráng chiều còn vương trên biển như tiếng vọng của ngày về một thời oai hùng trên sóng nước. Giờ chỉ còn lại hai bàn tay trắng của phận người nơi biển bạc sau những đợt xăng dầu lên giá, bão táp bất thường và nạn Tàu Ô, Tàu Ðỏ hoành hành khắp Ðông Hải. Biên ôi, biển đã phụ Người !

Tóm lại bọn cướp biển đang hoành hành trong hải phận VN ngày nay, rất đa dạng, phía bắc là bọn Tàu Ô-Tàu đỏ (Trung Cộng), còn ở mạn Nam là đám hải tặc Kampuchia. Chúng thường đội lớp hải quân, có tàu thuyền rất tối tân, loại Hino gắn thủy động cơ 6 bloc và còn chở thêm nhiều canô, chạy máy 50 ngựa. Trên tàu được trang bị đủ loại vũ khí như súng phóng lựu M79, đại liên M60, tiểu liên AK47, lưu đạn Mini, thủy pháo và máy bộ đàm HT10, liên lạc với nhau để báo động, ăn hàng hay chém vè khi bị nguy cấp.

Nhưng đâu phải chỉ có hải tặc Kampuchia, mà còn có bọn cướp biển quốc tế, trong đó có lũ Tàu Ô cũng tới cướp bóc giết ngư dân VN trong vùng biển Kiên Giang. Năm 1996, biên phòng tỉnh này qua nguồn tin từ Mả Lai Á, đã chận bắt được một tàu cướp xuyên quốc gia của Trung Công, mang số D4460 với 25 tên cướp do một sĩ quan chỉ huy, tại vùng biển gần đảo Thổ Châu. Hà Nội sau đó, đã trả lại 25 tên cướp Tàu cho Bắc Kinh.

Ngày nay Trung Cộng là một trong 17 nước hiện diện trong vùng biển Thái Bình Dương có tàu đánh cá với trọng tải trên 100 tấn và xếp hàng đầu vì số lượng tàu chiếm tới 40%, bỏ xa Hoa Kỳ (chỉ có 5%), Nhật (3%) và Nam Hàn (2%). Ngoài ra tất cả tàu đánh cá của Trung Cộng, đều được trang bị các loại lưới có tầm bắt cá tới 50 hải lý. Do trên, tàu đánh cá Trung Cộng, chỉ cần tới những vùng biển, mà VC đã ký nhượng dâng bán cho giặc Tàu, được gọi qua danh từ hoa mỹ là “vùng đánh cá chung”, để neo tàu, bủa lưới, là có thể tóm gọn hết hải sản toàn vùng của VN, từ Thái Bình vào tới Quảng Trị. Ngư dân VN chỉ còn biết khóc vì không biết làm gì hơn để kiếm nuôi sống mình và gia đình.

Tại Bình Thuận, vùng biển giàu có và lớn nhất hiện nay của nước ta, tàu đánh cá Trung Cộng được địa phương gọi là “hung thần trên biển cả”, ngày ngày cào, vơ, quét sạch những gì có trong biển, làm cho ngư dân bản địa xác xơ vì thu hoạch không đủ trả tiền xăng dầu, nói chi tới kiếm gạo nuôi miệng.

Biển Đông và các ngư trường cá Hoàng Sa, Trường Sa nay đã thuộc chủ quyền của Trung Cộng ... nên Nguyễn Tấn Dũng hay Chủ Tịch Nhà nước VC Trương Tấn Sang có lên tiếng xác nhận hay đòi chủ quyền, chẳng qua cũng chỉ để “đánh giặc miệng” cho vui lòng người trong nước đang lúc “ai cũng muốn ăn tươi nuốt sống đảng bán nước và giặc Tàu xâm lăng cướp nước VN” thế thôi !

Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 11-2011
Mường Giang