Ngày thứ Sáu (25-11-2011), lần đầu tiên Nguyễn Tấn Dũng (thủ tuớng việt cộng) khi trả lời những câu hỏi trước Quốc hội VC tại Hà Nội, đã công khai xác nhận “Trung Cộng đã dùng vũ lực để cưởng đoạt Quần Đảo Hoàng Sa của VN vào năm 1956 và 1974, lúc đó thuộc chủ quyền của VNCH. Nguyễn Tấn Dũng còn nói thêm “Trường Sa cũng bị Tàu đỏ cưỡng đạt bằng vũ lực...”
Nhưng có điều Dũng đã không bao giờ dám nhắc tới động cơ nào đã giúp giặc Tàu công khai xâm lấn lãnh thổ của một nước khác, mà không bị Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc chế tài và lên tiếng phản đối. Cũng không thấy nói tới chuyện lấy lại hai quần đảo trên bằng cách nào ?
Theo bản tin của UPI-AFB ngày 23-9-1958 được báo chí của Trung Cộng lẫn Việt Cộng đăng tải - những tài liệu này, hiện vẫn được lưu trữ tại các thư viện quốc tế như Luân Ðôn, Paris, Hoa Thịnh Ðón, Bắc Kinh ... kể cả Hà Nội - ta mới biết được, vào ngày 14-9-1958, Phạm Văn Ðồng lúc đó là thủ tướng, theo lệnh của chủ tịch nước và đảng VC là Hồ Chí Minh, đã cam kết với Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng, bằng văn kiện xác quyết như sau “Chính phủ VNDCCH, tôn trọng quyết định, lãnh hải 12 hải lý cũng như hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, là Tây Sa-Nam Sa, của Trung Cộng”. Ngày 22-9-1958, đại sứ VC tại Bắc Kinh là Nguyễn Khang, dâng văn kiện xác nhận điều trên, do Phạm Văn Ðồng ký, lên Thiên Triều. Ngay cả khi đã cướp chiếm được hoàn toàn miền Nam VN vào tháng 5-1976, trên tờ Sài Gòn Giải Phóng của VC nằm vùng Ngô Công Ðức, Lý Quý Chung.. vẫn còn đăng lời xác nhận của đảng VC “Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Cộng”. Khôi hài hơn, VC nói “vì ta và Tàu sông liền sông, núi dính núi, nên Hoàng Sa-Trường Sa, của ai cũng thế thôi, nên VC muốn lấy lại đảo, lúc nào Trung Cộng vẫn sẵn sàng giao trả”. Luận điệu trên rõ ràng VC đã xác nhận VN là thuộc địa của Tàu Cộng. Dù ngày 14-3-1988, Trung Cộng đã tàn sát dã man những bộ đội VC trong cuộc giao tranh không công bằng (vì quân ta không có vũ khí trong tay và được lệnh cấm chống trả) tại Trường Sa. Ngay sau đó, trên tờ Nhân Dân, số ra ngày 26-4-1988, VC vẫn xác nhận sự kiện Hồ Chí Minh bán hai đảo cho Tàu năm 1958 là đúng. Bởi có vậy, Trung Cộng mới viện trợ súng đạn, gạo tiền và cả triệu quân để VC đánh chiếm VNCH từ 1955-1975.
Dựa theo các nguồn sử liệu hiện nay, khi viết về nguồn gốc của dân tộc VN, đều cho rằng Người Việt là một trong những dân tộc dũng cảm và thông minh nhất trên thế giới, vì đã được hưởng nhiều đặc tính quý báu của các chủng tộc pha trộn. Họ là hậu duệ của nòi giống Mông Cổ, Bách Việt và Nam Á Ða Ðảo qua quá trình thiên di từ Trung Á tới đồng bằng Bắc Việt. Nhờ vậy suốt dòng lịch sử mấy ngàn năm, tổ tiên ta mới đương đầu nổi với nhiều cuộc xâm lăng diệt chủng của Tàu, Chiêm Thành, Lào-Thái, Cao Miên, thực dân Pháp-Nhật và nay là chủ nghĩa vô thần của đảng cọng sản đệ tam quốc tế. Bởi thế ngay từ buổi bình minh dựng nước, người Việt rất thạo thủy chiến, quen dùng thuyền, thời gian sống trên cạn ít hơn dưới nước, vì biển rạch sông hồ, vốn là những nơi chốn thân thương của linh hồn đất Việt.
Chúng ta là con cháu của Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ, theo cha ra biển và lâp thành nước Văn Lang, có nền văn minh phát triển từ sông nước. Do trên ngoài nông nghiệp, việc khai thác hải sản trên sông biển, vẫn là tiềm năng kinh tế muôn đời của dân tộc.
Nên biển miên viễn vẫn là không gian sinh tồn của nòi giống Hồng Lạc, là bức trường thành “nước“ bảo vệ non sông gấm vóc Việt. Vì vậy trong suốt lịch sử giữ nước chống ngoại xâm, sức mạnh của Thủy Quân Ðại Việt qua các triều đại Ngô, Ðinh, Tiền Lê, Hậu Lý và nhất là Nhà Trần ... đã tạo nên những chiến công hiển hách, làm vẻ vang người Việt, đất Việt, khiến cho con cháu ngày nay, mỗi lần đọc lại những trang sử cũ, đều cảm nhận sự hãnh diện trân quý, đối với tổ tiên mình. Những đia danh Như Nguyệt, Chương Dương, Hàm Tử, Hội An, Lô Giang, Rạch Gầm, Nhật Tảo, Hoàng Sa.. và đặc biệt là dòng sông thiêng Bạch Ðằng nơi xứ Bắc, muôn đời sống đẹp trong hồn người như nhà thơ Phạm Sư Mạnh đời Trần, đã không ngớt lời khen tặng:
“Vũ trụ kỳ quan, Dương Cốc nhật.
Giang san vượng khí Bạch Ðằng thâu”
Ngày nay đảng CSVN đã và đang bán dần mòn non sông gấm vóc cho giặc Tàu, chẳng những là biển, bờ, hải đảo, đất đai biên giới mà ngay tới làng mạc, phường phố tại Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Bình Dương, Đà Nẳng, Cần Thơ nơi nào cũng đã bị Hán hoá từ trong chữ nghĩa ra tới thực tế của cuộc đời. Tất cả đều do tổ tiên đã dựng và gìn giữ qua bao đời, bằng xương máu và nước mắt. Nhờ vậy mới có một nước Việt xinh đẹp bao đời, trải dài trên bờ Thái Bình Dương hơn 3300km, với non xanh nước biếc thật hữu tình. Sau lưng là bức tường thành Trường Sơn hùng vỹ, còn đất đai thì chạy suốt từ Ải Nam Quan tới tận Mui Cà Mâu, Hà Tiên ngút ngàn ruộng đồng vườn tược, nơi nào cũng đẹp xinh ngập tràn hồn quê trong nổi nhớ.
Biển VN còn có một thềm lục địa rộng trên 2 triệu km2 và 4000 hòn đảo, mà lớn nhất là Phú Quốc (Kiên Giang) và Phú Quý (Bình Thuận), có diện tích gần bằng Tân Gia Ba. Nơi nào trên biển cũng đều có một triển vọng to lớn về khả năng khai thác khí đốt và dầu thô. Tóm lại, nếu là những vị lãnh đạo yêu nước, thương dân thưở trước như Trần Nhân Tôn, Lê Thánh Tôn, các Chúa Nguyễn Hoàng, Sải Vương, Hiền Vương, Quốc Chúa, Minh Mạng ... cho tới cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu ... chắc chắc sẽ nhận ra ngay thực trạng của nước ta, người đông đất ít, tương lai của xứ sở đều do biển quyết định, nên phải dồn hết năng lực và sức mạnh quân sự, để bảo vệ biển, đảo như Nhà Nguyễn và gần nhất là VNCH đã từng làm suốt 20 năm tồn tại (1955-1975).
Từ sau ngày CSVN làm chủ cả nước, đảng chưa bao giờ nghiên cứu hay lo lắng bảo vệ lãnh hải của mình, dù biết rằng “cái ăn của toàn dân phần lớn đều nhờ vào biển trước mắt”. Ðó là thực trạng của sự khai thác hải sản bừa bãi trên Ðông Hải, gần như lạm phát vô kỹ luật, từ sau năm 1975 tới bây giờ. Tóm lại tất cả đều là nỗi đau lòng, ngậm ngùi non nước, từ sự kê khai tổng trọng tải của hàng chục ngàn ngư thuyền cả nước, nhưng thực tế chưa bằng 1/10 tàu thuyền đánh cá của các nước trong vùng.
Về sản lượng khai thác trên biển hiện nay của ngư dân VN theo các nguồn tin quốc tế, còn thua xa các nước Nhật, Péru, Ðài Loan, Ðại Hàn cả Thái Lan từ 25 năm về trước. Trong lãnh vực kinh tế, VN hiện có 62 hải cảng lớn nhỏ cả nước, nhưng con số chỉ nhằm phô trương, vì nhiều cảng cá xây lên, để có cơ hội cho cán bộ đảng từ nhỏ tới lớn, chia nhau ăn xén ngân khoản, sau đó bỏ hoang như ở Cà Mâu. Thực chất đã làm lu mờ cái uy thế hiển hach của một nước VN từ bao đời “là một vị trí trung tâm của hải đạo bắc-nam, vùng Châu Á Thái Bình Dương”. Ðồng thời cũng là cửa ngõ ra biển của Lào và nhiều tỉnh miền Nam Trung Hoa như Quý Châu, Vân Nam và Quảng Tây, qua các đường sông Hồng Hà, Mã và sông Cả.
Từ năm 1995, VN đã bắt đầu sản xuất dầu khí của các mỏ trên thềm lục địa nước ta, tại biển Nam quanh Côn Ðảo và quần đảo Trường Sa. Việc khai thác khí đốt cũng đã bắt đầu tiến hành từ đầu thập niên thế kỷ XXI. Ðây là nguồn lợi to lớn nuôi sống cả nước, sau lúa gạo và hải sản. Nhưng vì cần chỗ dựa lưng be bờ để giữ đảng tồn tại, sau khi Liên Xô và Ðông Âu sụp đổ, nên CSVN chẳng những đã không lo bảo vệ non sông gấm vóc của dân tộc, trái lại còn bí mật ký kết bán nhượng biển nhiều lần với Tàu đỏ, đặc biệt là Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ lâu đời của Ðại Việt có từ thời vua Lê Thánh Tôn vào thế kỷ XVII.
Ngày 25-12-2000, CSVN qua Lê Khả Phiêu, Ðỗ Mười, Trần Ðức Lương, Võ Văn Kiệt ... tới Bắc Kinh để âm thầm ký kết bán đảo chia biển với Trung Cộng, qua cái gọi là Hiệp Ðịnh Phân Ðịnh Vịnh Bắc Bộ. Sự kiện trên đã bị dân chúng trong và ngoài nước phanh phui, công phẫn và phản đối dữ dội. Ðặc biệt là báo chí Pháp cũng lên tiếng phê phán và cười chê CSVN cả gan, khi dám nhân danh kẻ cầm quyền, để ký với giặc thù truyền kiếp của dân tộc là Trung Cộng, trong tình trạng bình thường của hai quốc gia độc lập. Ðây là một hiệp định vô lý, man rợ và bất bình đẳng nhất thế giới, mà chỉ có bè lũ bán nước buôn dân như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng (1958), cùng với băng nhóm không còn nhân tính, thiên luân và tim óc trong Bắc Bộ Phủ mới dám lỳ lợm hành động một cách mù quáng, mặc kệ cho cuộc tồn vong của dân tộc Việt.
Nguyễn Tâm Bảo, một cán bộ kiều vận của Việt Cộng, đặc trách vùng Bắc Mỹ, trong một bức thư tối mật gửi đảng (Sever Ever Been Top Secret), đề ngày 30-6-2008, qua ám số i86 photobucket.com, đã viết “.. thứ hai là quan hệ tế nhị với người anh lớn đã để lộ những kẽ hở. Việc chúng ta nhượng đất nhượng biển là một sai lầm, đụng chạm đến tinh thần dân tộc từ ngàn đời nay. Làm sao để lèo lái tinh thần dân tộc theo hướng có lợi cho chúng ta, để thanh niên vẫn có chỗ xả xú pắp, mà vẫn tin rằng chúng ta không hề hèn nhát trước Trung Quốc, đồng thời việc đó không làm cho Trung Quốc tức giận…”
Ngày xưa, Hồ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung và Chúa Trịnh, chỉ vì trong thế kẹt vạn bắt đắc dĩ, nên bó buộc phải ký dâng đất cho giặc. Thời nhà Nguyễn, Vua Tự Ðức cũng chỉ vì thua kém quân sự, nên buộc lòng phải ký kết những hiệp ước bất bình đẳng với kẻ thù nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để chuộc lại. Thực dân Pháp trong thời gian đô hộ nước ta, vì quyền lợi của chúng, cũng cắt nhiều đất của VN cho Tàu tại biên giới, đó là điều không thể tránh được với một quốc gia đã mất chủ quyền. Thời VNCH luôn luôn phải đương đầu với thù trong giặc ngoài, suốt 20 năm tồn tại, từ cố TT Diệm tới TT Nguyễn Văn Thiệu, đã không hề bán nhượng hay làm mất một phân đất của tổ tiên. Tháng 1-1974, chỉ vì đồng minh Mỹ bán đứng, VC đồng lỏa với Tàu đỏ, đâm sau lưng nên đành để mất quần đảo Hoàng Sa trong máu hận, sau khi Hải Quân Miền Nam đã tử chiến với Trung Cộng và gây cho chúng nhiều thương vong thiệt hại.
VC chỉ biết có đảng và quyền lợi cá nhân gia đình, đã công khai đầu hàng giặc Tàu, làm tổn hại đất nước, khiến dân tộc mất danh dự và trên hết là tạo sự bất hạnh cho ngư phủ VN phải hành nghề trên biển cả, bị giặc Tàu bắn chết qua tội danh xâm phản lãnh hải của chính nước mình. Hỡi ôi, chỉ vì muốn được làm nô lệ cho Trung Cộng để giữ đảng, mà VC đã làm mất của VN hơn 11.930 km2 biển. Riêng Hiệp Ðịnh gọi là Hợp Tác Nghề Cá, chưa hề được quốc hội thảo luận cũng như biểu quyết phê chuẩn, nhưng VC lẫn Trung Cộng vẫn tuyên bố, cùng có hiệu lực như Hiệp Ðịnh Vịnh Bắc Bộ vào ngày 30-6-2004, mà hậu quả trước mắt là thảm cảnh đồng bào VN ngày ngày bị Tàu đỏ cướp bóc, hảm hiếp và giết hại trên biển Đông, kể cả những lãnh hải thuộc chủ quyền VN sát bờ như Bán Ðảo Sơn Chà (Quảng Nam-Ðà Nẳng) mới đây vào tháng 6-2008.
Tóm lại, từ việc Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng và đảng cộng sản, thừa nhận Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng vào năm 1958, cho tới những hiệp ước bất bình đẳng về việc phân định và hợp tác đánh cá trong vịnh Bắc Việt, đảng CSVN coi như đã dâng hiến toàn bộ hải sản, dầu khí của quốc gia cho giặc Tàu. Nên không ai ngạc nhiên khi nguồn tin Nông Ðức Mạnh sang Tàu về và phổ biến tấm dư đồ rách VN ngày nay trong đó không có các địa danh Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Hang Pắc Pó, Núi Tô Thị và hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, nay đã biến thành Huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam của Trung Cộng.
Mấy ngàn năm mở và dựng nước, linh hồn của dân tộc Việt là rừng thẳm biển xanh như đã ăn sâu vào ánh mắt nụ cười của mọi người. Nay thì rừng đã trụi còn biễn cũng đã phụ người. Chúng ta con cháu ngày nay khi nghĩ tới, chỉ còn đi tìm thuở vàng son của quá khứ, được lưu lại trong hồn biển trên đât cá đẳm đầy nước mắt, nắng gió và cái đói lạnh miên trường của kiếp người bất hạnh trên quê hương nhược tiểu VN.
Có còn nỗi buồn nào hơn nỗi buồn của người ngư phủ VN, đứng trước quê hương mình trong nổi lặng im cay đắng, nhìn những tia nắng ráng chiều còn vương trên biển như tiếng vọng của ngày về một thời oai hùng trên sóng nước. Giờ chỉ còn lại hai bàn tay trắng của phận người nơi biển bạc sau những đợt xăng dầu lên giá, bão táp bất thường và nạn Tàu Ô, Tàu Ðỏ hoành hành khắp Ðông Hải. Biên ôi, biển đã phụ Người !
Tóm lại bọn cướp biển đang hoành hành trong hải phận VN ngày nay, rất đa dạng, phía bắc là bọn Tàu Ô-Tàu đỏ (Trung Cộng), còn ở mạn Nam là đám hải tặc Kampuchia. Chúng thường đội lớp hải quân, có tàu thuyền rất tối tân, loại Hino gắn thủy động cơ 6 bloc và còn chở thêm nhiều canô, chạy máy 50 ngựa. Trên tàu được trang bị đủ loại vũ khí như súng phóng lựu M79, đại liên M60, tiểu liên AK47, lưu đạn Mini, thủy pháo và máy bộ đàm HT10, liên lạc với nhau để báo động, ăn hàng hay chém vè khi bị nguy cấp.
Nhưng đâu phải chỉ có hải tặc Kampuchia, mà còn có bọn cướp biển quốc tế, trong đó có lũ Tàu Ô cũng tới cướp bóc giết ngư dân VN trong vùng biển Kiên Giang. Năm 1996, biên phòng tỉnh này qua nguồn tin từ Mả Lai Á, đã chận bắt được một tàu cướp xuyên quốc gia của Trung Công, mang số D4460 với 25 tên cướp do một sĩ quan chỉ huy, tại vùng biển gần đảo Thổ Châu. Hà Nội sau đó, đã trả lại 25 tên cướp Tàu cho Bắc Kinh.
Ngày nay Trung Cộng là một trong 17 nước hiện diện trong vùng biển Thái Bình Dương có tàu đánh cá với trọng tải trên 100 tấn và xếp hàng đầu vì số lượng tàu chiếm tới 40%, bỏ xa Hoa Kỳ (chỉ có 5%), Nhật (3%) và Nam Hàn (2%). Ngoài ra tất cả tàu đánh cá của Trung Cộng, đều được trang bị các loại lưới có tầm bắt cá tới 50 hải lý. Do trên, tàu đánh cá Trung Cộng, chỉ cần tới những vùng biển, mà VC đã ký nhượng dâng bán cho giặc Tàu, được gọi qua danh từ hoa mỹ là “vùng đánh cá chung”, để neo tàu, bủa lưới, là có thể tóm gọn hết hải sản toàn vùng của VN, từ Thái Bình vào tới Quảng Trị. Ngư dân VN chỉ còn biết khóc vì không biết làm gì hơn để kiếm nuôi sống mình và gia đình.
Tại Bình Thuận, vùng biển giàu có và lớn nhất hiện nay của nước ta, tàu đánh cá Trung Cộng được địa phương gọi là “hung thần trên biển cả”, ngày ngày cào, vơ, quét sạch những gì có trong biển, làm cho ngư dân bản địa xác xơ vì thu hoạch không đủ trả tiền xăng dầu, nói chi tới kiếm gạo nuôi miệng.
Biển Đông và các ngư trường cá Hoàng Sa, Trường Sa nay đã thuộc chủ quyền của Trung Cộng ... nên Nguyễn Tấn Dũng hay Chủ Tịch Nhà nước VC Trương Tấn Sang có lên tiếng xác nhận hay đòi chủ quyền, chẳng qua cũng chỉ để “đánh giặc miệng” cho vui lòng người trong nước đang lúc “ai cũng muốn ăn tươi nuốt sống đảng bán nước và giặc Tàu xâm lăng cướp nước VN” thế thôi !
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 11-2011
Mường Giang
No comments:
Post a Comment