Monday, April 30, 2012

Tháng Tư Còn Nhớ Mãi - Quang Dương

Quang Dương

Dù đã ba mươi bảy năm trôi qua kể từ ngày đau thương tang tóc phủ trùm lên quê hương dân tộc, nhưng trong lòng người dân Việt nói chung, và đặc biệt người dân miền Nam, có bao giờ quên được những thảm cảnh hãi hùng, những thịt nát xương tan, những máu lửa ngụt trời, những bàng hoàng uất nghẹn và những chuỗi năm dài triền miên tăm tối. Mỗi ngày của tháng Tư hàng năm là mỗi nhắc nhở đậm nét, mỗi khơi dậy trùm khắp về bao nỗi kinh hoàng ghê khiếp, đất thảm trời sầu, đớn đau tủi nhục đã ghi khắc và hằn sâu trong tâm khảm của mọi người. Tháng Tư là tháng tưởng niệm cho mùa quốc hận, cho cái tang chung của dân tộc khi nước mất nhà tan, khi miền Nam Việt Nam tự do cuối cùng bị bức tử, rơi vào tay quân cộng sản miền Bắc vào đúng ngày cuối tháng, ngày 30 tháng Tư năm 1975.

Đã có biết bao nhiêu chiến sĩ quân, cán, chính VNCH, hữu danh hoặc vô danh, anh dũng hy sinh nơi trận địa, trong thành phố, tại thị trấn, nơi xóm làng, ở góc rừng, bìa núi, ven sông… trong lúc chống trả lại sức tấn công lấn chiếm tàn bạo của quân thù. Đã có những vị tướng tuẫn tiết theo thành, thà chết vinh hơn sống nhục. Đã có những người lính cùng nhau tự sát bằng lựu đạn chứ không hàng giặc. Đã có biết bao gia đình dân lành phải tan đàn sẻ nghé, vong gia thất thổ, vợ mất chồng, con lạc mẹ, anh chị em tứ tán trên đường di tản chạy dài từ những tỉnh thành địa đầu giới tuyến miền Trung xuống đến tận miền Nam. Hàng đoàn người di tản thuộc đủ lứa tuổi, gồng gánh mang vác chút tài sản còn mang được, dắt díu nối theo nhau di chuyển bằng tất cả mọi phương tiện, mà nhiều nhất là đi bộ, đã nói lên nỗi kinh hoàng của người dân miền Nam trước viễn ảnh đen tối hãi hùng phải kẹt lại trong vùng quân giặc lấn chiếm. Những nỗi đọa đầy thống khổ, oan khiên tức tưởi của quân dân miền Nam trên đường lánh nạn thật không có bút mực nào tả xiết. Quân thù ngăn chận, cắt đoạn rồi pháo kích, nổ súng bắn xối xả vào đoàn người dân vô tội không một tấc sắt trong tay. Những hình ảnh của hai mẹ con nằm chết sõng xoài trong lúc con còn đang tuổi ẵm ngửa hay những em bé ngây thơ gục ngã bên chén cơm bê bết máu cạnh bờ mương, khe rạch, hay nương đồi vẫn còn lưu dấu đời đời. Đã có bao nhiêu người đến được nơi bình yên? Bao nhiêu người đã chết và bao nhiêu người bị thương, tàn tật một đời? Bao nhiêu người mất tích? Bao nhiêu bé thơ bỗng nhiên thành trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ? Bao nhiêu gia đình chia lìa tan nát? Không có thống kê nào đếm xuể, không có sổ sách nào ghi chép hết. Ai đã ôm mộng bành trướng để gây lên thảm cảnh nghiệt ngã oan khiên? Ai đã khơi sâu thù hận cho xương phơi ngập núi? Ai đã chuốc đẫm oán cừu cho biển máu hồng loang? Tất cả chúng ta đều đã rõ.

Rồi sau cái ngày định mệnh đổi đời oan nghiệt 30 tháng Tư, có biết bao người dân miền Nam tiếp tục phải gánh chịu những đòn thù tàn khốc của kẻ xâm chiếm. Đã có bao nhiêu quân, dân, cán, chính, văn nghệ sĩ, trí thức, doanh gia miền Nam bị lừa đi cải tạo tập trung, thực chất là tù đày dài hạn, ở nơi ma thiêng nước độc. Có bao nhiêu người đã đành phải bỏ thây vùi nông một nấm, hoặc chết mất xác vì bị hành hạ đói khát, lao động khổ sai, bệnh tật không thuốc men cứu chữa, hay bị thủ tiêu bắn bỏ tùy tiện. Những người không bị tập trung cải tạo thì cũng sống đói khổ, vất vưởng nhọc nhằn, thần kinh căng thẳng, nơm nớp lo sợ trong vòng kềm kẹp kiểm soát đến từng móng chân sợi tóc bởi cả một guồng máy công an trị, luồn lách đến từng con hẻm, khu phố. Những luật lệ vô lý, những định đặt tùy tiện bất công của kẻ xâm chiếm đưa ra chỉ để trấn áp, hạ nhục, công khai tịch thu, vơ vét, bóc lột đất đai, phương tiện sản xuất, thành quả của người dân miền Nam. Những chiến dịch và chủ trương đánh tư sản, kiểm kê tài sản, tịch thu văn hoá phẩm, ép dân đi kinh tế mới, quốc doanh, hợp tác xã, làm chủ tập thể, tem phiếu lương thực, đổi tiền… là những công cụ để cướp đoạt tài sản của người dân đến trắng tay và đẩy dân xuống hàng bần hàn đói rách ngang nhau. Mục đích của kẻ xâm chiếm là bần cùng hóa người dân miền Nam để triệt hạ mọi ý tưởng phản kháng và hành động chống đối. Từ đó phẩm giá, nhân cách và đạo đức suy đồi nhanh chóng, trong lúc con người chỉ còn sức chạy vạy, giành giựt, lo toan cho từng miếng cơm manh áo. Những nỗi oán khổ, lầm than, điêu đứng của người dân miền Nam trong giai đoạn này cũng không bút mực ngôn từ nào tả xiết. Đã biết bao người, có trường hợp cả gia đình, phải phẫn uất tự vẫn vì không chịu đựng được nỗi uất ức đau khổ bị tước đoạt hết công lao gây dựng bằng chính mồ hôi nước mắt cả cuộc đời. Sống trong một chế độ phi nhân, hiểm ác, bóc lột, đày đọa, trong một guồng máy cai trị bạo tàn bằng nhà tù, súng đạn như thế thì “cái cột đèn nếu có chân cũng sẽ ra đi” là phải lắm. Nhưng trước khi ra đi, nếu cái cột đèn có cả tay, nó cũng sẽ không thể chịu khoanh tay, trói chân đứng lặng yên mà chịu đựng. Có biết bao vị anh hùng không khuất phục, đã âm thầm hoặc công khai chống lại kẻ thù bằng tiếng nói lương tâm hoặc hành động vũ lực. Đã có bao nhiêu chiến sĩ kháng chiến phục quốc anh dũng hy sinh, bao nhiêu người đã bị tra tấn tù đày dài hạn trong niềm cảm phục lẫn thương tiếc của đồng bào do “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”, do nội gián, hoặc do không đủ lực lượng tương xứng.

Là con người, nhất là con người miền Nam quen cuộc sống tự do, phóng khoáng, rõ ràng và chân thật đâu thể nào chấp nhận sống trong nô lệ gông cùm mất tự do nhân phẩm. Vì thế khi không đủ sức chống lại kẻ thù, đã có hàng triệu lượt người chấp nhận bỏ lại tất cả, liều mạng ra đi vượt biên bằng đường bộ qua ngả Campuchia, Thái Lan hay vượt biển Đông trên những con thuyền mành nhỏ bé mong manh thô sơ cũ kỹ, trang bị tối thiểu hay cũng chẳng trang bị thứ gì, đạp sóng kình nghê, thi gan cùng bão táp sang các vùng đất của các nước tự do. Trong cuộc mạo hiểm đầy gian nan trắc trở, sinh mạng như chỉ mành treo chuông đó đã có hàng mấy trăm ngàn người không may bỏ mình nơi rừng sâu, khe suối hay vùi thây dưới lòng biển cả vì đói khát, bệnh hoạn, vì đạn thù, vì phong ba hay cướp biển. Biết bao cô gái Việt Nam đã bị hải tặc hãm hiếp, giết chết hoặc bắt đi mất tích. Những ai may mắn đặt chân được đến bến bờ tự do cũng không ít người mất vợ mất chồng, mất cha mất mẹ, hay mất con mất cháu, mất người thân trên bước đường đầy máu và nước mắt. Không thống kê nào đếm xuể, không sổ sách nào ghi chép được con số chính xác có bao nhiêu oan hồn uổng tử nơi vực sâu núi thẳm hay nơi ngọn sóng đầu ghềnh. Những tưởng trong dòng lịch sử nhân loại, không một dân tộc nào như dân tộc Việt Nam đã phải chịu đựng thảm cảnh đớn đau, mất mát, tủi nhục vô cùng vô lượng đến như vậy.

Tháng Tư ngậm ngùi nhớ lại những đau thương mất mát để tưởng niệm những chiến sĩ QLVNCH đã vị quốc vong thân trong công cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam, hoặc đã bị bức tử tại những trại tù tập trung cải tạo nơi rừng sâu nước độc. Tháng Tư đau xót cũng để đốt lên nén hương thương nhớ những đồng bào, bạn bè và người thân đã bỏ mình trên bước đường trốn chạy cộng sản hoặc trong lúc vượt biên vuợt biển tìm tự do. Tháng Tư uất hận còn là tháng nhắc nhở chúng ta không bao giờ quên những đồng bào trong nước hãy còn rên xiết đau khổ vì không có tự do, dân chủ và quyền làm người tối thiểu. Dưới chế độ độc tài đảng trị, rõ hơn là độc tài đảng cướp, người dân đen luôn bị đàn áp bóc lột dù đã cam lòng chịu đựng cuộc sống lầm than đói nghèo. Tiếng kêu than vang vọng đất trời của bao người dân nơi quê nhà đã và đang bị bạo quyền cướp nhà cướp đất đã quá to và quá rõ. Trải qua hơn bảy mươi năm kể từ ngày đảng cộng sản Việt Nam reo rắc tang thương máu lửa lên quê hương đất nước có bao giờ người dân được sống trong cảnh an bình no ấm. Chỉ thấy những kẻ cầm quyền độc đảng ăn trên ngồi trốc, càng ngày càng vinh thân phì gia, giàu sang tột đỉnh như những ông hoàng bà chúa, còn đại đa số dân đen thì vẫn chân lấm tay bùn, tha phương cầu thực, đói nghèo lê lết mà cũng không được yên thân. Ngày nay những kẻ tội đồ của dân tộc còn vì lợi ích cá nhân đảng phái, âm mưu cấu kết với nhau đem dâng biển đảo, giang sơn tổ quốc cho giặc ngoại xâm truyền đời phương Bắc. Là người dân Việt, nhìn những cảnh tượng đó ai mà không xót xa ngậm ngùi căm phẫn.

Xin hãy đừng quên tại sao chúng ta phải bỏ nước ra đi lưu vong, sống đời tha hương nơi xứ lạ quê người. Xin hãy còn một chút tự trọng để đừng xử sự như những kẻ vô tâm hoặc tệ hơn nữa như những kẻ bất cố liêm sỉ, mang tiếng là nạn nhân của cộng sản, là nhà văn, nhà giáo, nhà văn hóa mà mau quên đi nỗi nhục nước thù nhà, chỉ biết chạy theo đồng tiền, danh vọng, đàn hát vui chơi vào chính những ngày tưởng niệm đại tang chung của cả dân tộc. Những kẻ đó xét ra phẩm cách còn thua cả những ca viên trong câu thơ xưa: “Thương nữ bất tri vong quốc hận. Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa”.

Quốc hận 4/2012
Quang Dương


Bài giảng của Đức cha Vincent Nguyễn Văn Long trong lễ cầu nguyện cho quê hương


VRNs (29.04.2012) - Melbourne, Australia – Lúc 17:00, hôm nay – 29.04.2012 – tại nhà thờ giáo xứ St Margaret Mary, số 51 Mitchell Street, Đức cha Vincent Nguyễn Văn Long, giám mục phụ tá Melbourne, sẽ chủ tế thánh lễ cầu nguyện cho quê hương đất nước, nhân dịp 30.04.

Trong bài giảng soạn trước, do chính Đức cha gởi đến VRNs và cho phép VRNs tuỳ nghi sử dụng, ở đoạn kết, ngài đã viết:

“Ngày 30 tháng 4 không chỉ là một ngày quốc hận hay quốc nạn. Nó là ngày mà chúng ta, nhất là những thế hệ trẻ phải “ôn cố tri tân”. Nó là ngày chúng ta cùng động viên tranh đấu cho một tương lai Việt Nam tươi sáng hơn. Trong tinh thần Phục Sinh, người tín hữu chúng ta nhìn vào biến cố lịch sử đó như là đoạn đường chúng ta phải đi để tiến vào tương lai vinh thắng. Chúng ta phải can trường bước theo con đường mà các anh hùng hào kiệt đã đi trước chúng ta, vững tin vào sự viên mãn của công lý và sự thật trong Chúa Giêsu Kitô, viên đá tảng của niềm tin và niềm hy vọng chúng ta”.

VRNs xin giới thiệu toàn văn bài giảng chiều nay của Đức cha Vincent để quý anh chị em người Việt khắp nơi có cơ hội hiệp thông, và cũng là lời mời gởi đến quý anh chị em ở gần có thể đến tham dự thánh lễ chiều nay.

________

Kính thưa toàn thể quý ông bà anh chị em,

Một lần nữa, ngày 30 tháng 4, ngày ghi sâu trong ký ức của toàn dân Việt Nam như một ngày Quốc Nạn lại trở về với chúng ta, nhất là những người Việt tỵ nạn cộng sản ở khắp nơi trên thế giới. Có nhiều người nói rằng chúng ta không nên nhìn về quá khứ nữa, chúng ta không nên tưởng niệm ngày quốc nạn hay quốc hận nữa mà hãy hướng về tương lai. Có không ít người còn nói rằng: “Việt Nam bây giờ đã đổi mới, chính thể Cộng Sản đã thay đổi với thời đại, đâu còn gì để chúng ta phải ôn lại dĩ vãng xa xưa, hãy bắt tay vào việc xây dựng tương lại của đất nước trong tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc”.

Nhưng làm sao chúng ta có thể tiến về tương lai nếu chúng ta không biết nhận ra những bài học của lịch sử? Có “ôn cố mới biết tri tân”. Tôi thiển nghĩ rằng, không ai thiết tha với vận mệnh của dân tộc Việt Nam có thể làm ngơ trước những bài học của lịch sử. Nếu lịch sử là một dòng sông thì những bế tắc trong chiều dài của nó phải được đả thông cặn kẽ. Lúc đó dòng sông mới được chảy đều và làm tươi mát phì nhiêu cho đất Việt thân yêu; lúc đó chúng ta mới mong có tương lai tươi sáng.

Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu một khúc ngoặc quan trọng trong lịch sử Việt Nam cận đại. Nó cũng đánh dấu một bế tắc dẫn đến một sự băng hoại toàn bộ cho cả đất nước và dân tộc Việt Nam. Khi bao nhiêu bom đạn của cuộc chiến ý thức hệ đã gây chết chóc thương tích và tàn phá trên những người dân vô tội; khi bao nhiêu những chiến sĩ bỏ mình nơi chiến trận, phơi thây không một nấm mồ hay chết dần mòn tức tưởi trong các trại cải tạo; khi những phương phế binh bị ruồng bỏ trong một xã hội vô nhân bản; khi cả triệu người phải bỏ nước ra đi, làm nạn nhân trên biển cả trong bao tủi nhục đắng cay; khi cả khối dân Việt tại quốc nội phải sống trong một xã hội hoàn toàn băng hoại, bị cai trị bởi một chính thể đã bị đào thải trong thế giới tiến bộ; khi những người dân lưu vong tại hải ngoại chưa có cơ hội đóng góp vào tiến trình canh tân đất nước. Đây chẳng phải là những mệnh đề của người nhìn dưới lăng kính của kẻ chiến bại hay một nhóm người còn mang đầu óc hận thù chia rẽ. Nhưng đây là những bế tắc của lịch sử mà chỉ khi được khai thông mới mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.

Kính thưa toàn thể quý vị và nhất là các bạn trẻ,

Hôm nay chúng ta cùng “ôn cố tri tân” trong niềm tin vào tiến trình tất yếu của lịch sử. Lịch sử sẽ đào thải những gì không còn thích hợp. Dù có ngoan cố cưỡng lại, không ai có thể ngăn cản thế lực của lịch sử, cũng như không chính thể nào có thể làm ngược lòng dân mà tồn tại. Hôm nay chúng ta tưởng nhớ đến những nạn nhân trước và sau 30 tháng 4 năm 1975. Chúng ta cùng ôn lại những bài học của lịch sử. Nhưng trên hết, chúng ta hãy góp một bàn tay khai thông những bế tắc hầu cùng với toàn thể dân tộc mở ra một kỷ nguyên mới cho quê hương Việt Nam.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta sự an ủi và niềm tin vào một tương lai tươi sáng, một bình minh mà bóng tối của tà thần sẽ không chế ngự được. Thánh Phêrô đã dùng lời Thánh Vịnh để nói với dân chúng về Đức Kitô rằng “Phiến đá mà người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường”. “Người thợ xây” trong bối cảnh này chính là những con người tượng trưng cho thế lực của bóng tối và tội lỗi. “Người thợ xây” đây là Giuda, là quân dữ, là những kỳ mục, là Philatô, là Cêsarê và đồng thời là tất cả những ai đứng về phía của sự dữ. Họ đã loại bỏ Đức Kitô, tức là loại bỏ ánh sáng và sự sống, công lý và sự thật cùng tất cả những giá trị nhân bản và siêu nhiên. Nhưng Đức Kitô là phiến đá bị họ loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường. Ngài đã chiến thắng trên tà thần và tội lỗi. Chiến thắng của Ngài vượt không gian và thời gian, để rồi những ai đứng về phía công lý và sự thật đều được thông phần vào chiến thắng của Ngài. Quả thế, dù cho thế lực của sự dữ lấn án sự lành, dù cho những kẻ cường bạo giết hại những bậc chí nhân, nhưng chúng ta có thể tin chắc vào sự viên mãn của công lý và sự thật trong Chúa Giêsu Kitô, viên đá tảng của niềm tin và niềm hy vọng chúng ta.

Trong bối cảnh của đất nước chúng ta hôm nay, “người thợ xây” là ai nếu không phải là chế độ phi nhân vong bản; “người thợ xây” là ai nếu không phải là những công cụ đàn áp cưỡng chiếm đất đai của người dân vô tội như công an, cảnh sát cơ động và côn đồ. Và “phiến đá bị họ loại bỏ” là ai nếu không phải là những người đấu tranh cho công lý và sự thật, là người giáo dân Thái Hà với lá cây vạn tuế, là Đồng Chiêm với một cây thánh giá, là Cồn Dầu với một nghĩa trang thiêng liêng, là anh Việt Khang với một bài ca ái quốc,hay là dân oan với chỉ những tiếng kêu than vô vọng. Như Thiên Chúa đã thực hiện qua sự khổ nhục, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, Ngài cũng sẽ thực hiện nơi những ai đứng về phía của công lý và sự thật. Chúng ta hãy vững tin và liên đới với nhau trong cùng một lý tưởng, một giấc mơ, một mục đích là ngày khải hoàn của chân thiện mỹ trên quê hương mến yêu.

“Ta là mục tử nhân lành. Ta hiến mạng sống vì chiên ta”. Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay nói lên một chân lý bất hủ là chỉ có tình yêu hiến thân cho người khác mới là lẽ sống của người tín hữu. Sứ mạng của Đức Kitô cũng chính là hiến thân để sự sống viên mãn được thể hiện nơi con người. Hôm nay, một cách đặc biệt, chúng ta tưởng nhớ đến những người con của tổ quốc đã vì nước vong thân. Họ đã chẳng màng danh vọng, vinh quang, phú qúy hay trường thọ. Họ hy sinh chính mạng sống ngay trong tuổi thanh xuân để quê hương có ngày tươi sáng. Chúng ta nghiêng mình kính cẩn trước những gương anh linh của tổ quốc. Chúng ta hãy cùng nhau hướng về mục đích mà chính họ đã làm những viên gạch lót đường: đó là sự sống viên mãn cho tha nhân, sự phục hưng cho dân tộc và sự trường tồn của cơ đồ tổ quốc.

Kính thưa qúy ông bà anh chị em,

Ngày 30 tháng 4 không chỉ là một ngày quốc hận hay quốc nạn. Nó là ngày mà chúng ta, nhất là những thế hệ trẻ phải “ôn cố tri tân”. Nó là ngày chúng ta cùng động viên tranh đấu cho một tương lai Việt Nam tươi sáng hơn. Trong tinh thần Phục Sinh, người tín hữu chúng ta nhìn vào biến cố lịch sử đó như là đoạn đường chúng ta phải đi để tiến vào tương lai vinh thắng. Chúng ta phải can trường bước theo con đường mà các anh hùng hào kiệt đã đi trước chúng ta, vững tin vào sự viên mãn của công lý và sự thật trong Chúa Giêsu Kitô, viên đá tảng của niềm tin và niềm hy vọng chúng ta. Hãy liên kết thành sức mạnh để phá tan xiềng xích của sự bạo tàn, dối trá và gian ác là chế độ cộng sản. Hãy cùng nhau khai thông dòng sông lịch sử để nó được chảy và làm tươi mát phì nhiêu cho đất Việt thân yêu. Xin Thiên Chúa chúc lành và kiện toàn cho mọi hy sinh và nỗ lực của chúng ta, người con dân của tổ quốc trong và ngoài nước đang khát khao và tranh đấu cho công lý. Hãy vững tin tiến về bình minh mới, ngày mùa gặt mới của quê hương, vì “người đi gieo trong đau thương sẽ về giữa vui cười”.

Gm. Vincent Nguyễn Văn Long

Sunday, April 29, 2012

Lịch sử và bằng chứng bán nước cho giặc Tàu của CSVN

Bài phát biểu của ông Nguyễn Thế Phong, Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do liên bang - Úc Châu, trong ngày biểu tình 30 tháng Tư tại Canberra - 28.04.2012


Muôn đời Trung Hoa dù ở chế độ nào, phong kiến, quân chủ, dân quốc hay cộng sản.. thì lập trường trước sau cũng vẫn theo đuổi hai chiến lược cố hữu, dành cho sự ổn định và an ninh lảnh thổ của đất nước mình: Canh chừng bọn Man Di (Mãn, Mông, Hồi, Tạng, Cao Ly, Nga) ở phía Bắc và ra oai trừng phạt hay nuốt chửng các nước nhỏ ở nam phương (Ðại Việt, Lào, Chiêm Thành, Cao Mên, Thái Lan, Miến Ðiện) . Cuối năm 1949 Mao chiếm được Hoa lục, ngoài bộ mặt son phấn cách mạng vô sản đồng môn đồng chí hào nhoáng bên ngoài nhưng thực chất vẫn theo đuổi chính sách thực dân tự ngàn xưa, là phải tìm đủ mọi cách và cơ hội để Hán hóa và chiếm cho được VN, luôn được người Tàu bao đời coi như một đối thủ mạnh nhất trong vùng.

Ngược lại CSVN, ngay từ lúc còn trong trứng nước vào những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ XX cho đến nay, từ Hồ Chí Minh tới Nguyễn Tấn Dũng và hầu hết các chóp bu đảng, vẫn cứ đời đời biết ơn và luôn giữ sự thờ kính với Trung Cộng. Ðiều này cũng không có gì lạ vì hầu hết các cán bộ lớn nhỏ của cộng đảng VN trước khi sang Liên Xô học hỏi kỹ thuật bán nước giết dân tại Ðông Phương Bộ, đều đã trải qua thời gian huấn luyện quân sự và chính trị tại Hoa Lục. Nói cho tận cùng, Tàu đỏ đã nắm hết lý lịch của tập đoàn lảnh đạo CSVN từ HCM tới Nguyễn Tấn Dũng và lấy đó làm con bài lật ngửa trong canh bạc xì phé. Cho nên còn ai trong đảng CSVN dám chống lại chúng để thân bại danh liệt ?

Ngày 11-1-1973 Trung Cộng công khai tuyên bố chủ quyền trên toàn thể các đảo của VN trong biển Ðông. Ngày 26-12-1973 Bắc Kinh bắt đầu thương thuyết việc khai thác dầu-khí tại vịnh Bắc Việt với Ý Ðại Lợi. Tháng 1-1974 giặc Tàu xua hải lục không quân chiếm Hoàng Sa dựa trên công hàm bán nước do Phạm Văn Đồng ký vào ng ày 14-9-1958

Sự suy sụp của đế quốc Liên Xô vào năm 1986 cộng thêm cái chết của Lê Duẩn, đã đưa CSVN vào ngõ cụt về ý thực hệ, kinh tế gần như khánh tận, quân sự bị sa lầy tại Kampuchia.. Nên để cứu đảng, cứu thân, bọn chóp bu tại bắc bộ phủ mới được bầu trong đại hội đảng lần thứ VI (Linh, Hùng, Công, Mười, Kiệt..) qua cố vấn của Chinh, Ðồng, Thọ quyết tâm phấn đấu để sớm được trở lại làm đầy tớ cho Tàu. Trong lúc Trung Cộng vẫn công khai xua quân chiếm thêm nhiều đất đai của ta tại biên giới và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của VN vào ngày 16-3-1988 trước sự phản ứng lấy lệ gần như đầu hàng giặc của chóp bu CSVN.

Từ cuối năm 1989-1990, Ðông Ðức, Ðông Âu và đế quốc Sô Viết tan rã, khối XHCN chỉ còn lại Tàu đỏ, Việt Cộng, Bắc Hàn và Cu Ba. Trước nổi chết gần kề, ngày 10-4-1990 bộ chính trị cộng đảng VN họp khẩn để ‘ nhất trí ‘ quyết tâm bằng mọi giá (kể cả bán nước, bán dân) được theo Tàu để bảo vệ XHCH. Và từ đó tới ngày nay (2-2009), cái giá máu mà dân tộc VN phải đổ ra để CSVN trả nợ cho giặc Tàu là một phần lảnh thổ gồm đất đai, biển, đảo và sự Hán hóa dân tộc Việt của Trung Cộng.

Tháng 1-1285 trước sự xâm lăng lần thứ 2 của Mông Cổ, Ðại Ðế Trần Nhân Tôn đã mời các vị bô lảo khắp nước về hội tại điện Diên Hồng (Thăng Long) để hỏi ý kiến nên ‘hoà hay chiến‘ với giặc.
    - Trước nhục nước nên hoà hay nên chiến ?
    - Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh ?
Tất cả đều trả lời ‘quyết chiến cho dù phải hy sinh tài sản và tính mệnh‘ để bảo vệ non nước Việt. Sau đó người cả nước đều dùng mực thích vào cánh tay hai chữ ‘Sát Thát‘. Nhờ vậy mà nước ta vào thời Trần đã 3 lần chiến thắng giặc Mông Cổ khi chúng sang xâm lăng Ðại việt.

Ngược lại Việt Cộng ngày nay mọi hành động đều lén lút tự chuyện, độc tài quyết đoán. Trong khi đó, trước nhục nước chỉ biết hèn hạ quì lụy cắt đất dâng biên đảo cho Tàu, lập nghĩa trang, xưng tụng đời đời nhớ ơn giặc cướp giết hại đồng bào trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ I vào ngày 17-2-1979. Một chế độ bạo ngược tham tàn có một không hai trong dòng Việt sử, thì sớm muộn gì CSVN cũng bị toàn dân giựt xập và tiêu diệt.

Sau ngày 30-4-1975, hằng năm CSVN đều tổ chức ăn mừng ‘chiến thắng Tết Mậu Thân 1968‘ và ‘đại thắng mùa xuân 1975‘. Nhưng tuyệt đối không nhắc tới một chữ về những đau thương trầm thống mà giặc Tàu đã gây cho Nước Việt và Ðồng Bào Việt trong cuộc chiến biên giới Hoa-Việt khởi sự từ ngày 17-2-1979 và kéo dài tới đầu thập niên 1990 mới tạm dứt sau khi toàn bộ chóp bu VC đầu hàng Tàu đỏ. Ðã vậy VC còn công khai khinh thường và hạ nhục cả nước, khi đảng cùng với Trung Cộng rầm rộ tổ chức ăn mừng đã hoàn thành việc cắm mốc biên giói Việt-Trung tại Ải Nam Quan vào ngày 24-2-2009. Biên bản do Nguyễn tấn Dũng ký vào cuối năm 2008 nhưng đã tuyệt tích vì bị đảng ém nhẹm nên người dân không biết đâu mà mò.

Tháng 2-1999 với tư cách tổng bí thư, Lê Khả Phiêu sang chầu thiên triều, nối lại tình đồng chí giữa hai đảng càng thêm thắm thiết. Tiếp theo Phạm Thế Duyệt, Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Lê Minh Hương, Nguyễn Ðức Bình, Nông Ðức Mạnh, Phan Văn Khải ... cũng sang Tàu để nhận chỉ thị. Ðầu tháng 12-1999 thủ tướng TC Chu Dung Cơ sang kinh lý VN. Ngày 30-12-1999 thỏa hiệp đưòng ranh biên giới Việt-Hoa được ký kết bởi Nguyễn Mạnh Cầm (VC) và Ðường Gia truyền (TC). Nhờ hành động nhượng bộ bán nước trong vụ này (trên bộ lẫn dưới biển), mà Lê Khả Phiêu đã trở thành một trong những tỷ phú đỏ VN như báo chí mới phanh phui vào tháng 2-2009. Tóm lại suốt thời gian Phiêu làm tổng bí thư (1997-2001)CSVN đã cắt đất nhượng biển ký bán một phần lãnh thổ cho TC.

Cũng theo sự tiết lộ từ sau bức màn máu, thì trước khi bầu bán đại hội X, chính thủ tướng Tàu đỏ là Ôn Gia Bảo đã sang VN chỉ thị cho đảng phải cho Dũng làm thủ tướng. Vì vậy chẳng ai ngạc nhiên về sự Dũng ‘bán nước Việt‘ cho giặc Tàu để đền ơn đáp nghĩa chủ. Do đó ngày 15-11-2006 Dũng sang Bắc Kinh chầu để nhận lệnh mở cửa cho Tàu vào VN qua hai ngỏ ‘Côn Minh-Lào Kai-Hà Nội‘ và ‘Nam Ninh-Lạng Sơn-Hà Nội’ cùng toàn bộ bờ biển Bắc Việt. Cùng lúc Dũng gặp Ôn Gia Bảo, thì Nông Ðức Mạng cũng tới triều kiến hoàng đế Hồ Cẩm Ðào vào tháng 8-2006 để nâng quan hệ đồng chí giữa hai đảng thêm thắm nồng.

Tóm lại thành tích của Nguyễn Tấn Dũng qua thời gian làm thủ tướng VC từ 2006-2/2009 là phục vụ quyền lợi cho chủ là TC. Bằng chứng ‘bán nước‘ rõ ràng nhất của Dũng là ‘Ký hoàn tất việc cắm mốc biên giới Việt-Trung ‘vào ngày 31-12-2009, để nhượng bán cho giặc Tàu một phần lảnh thổ của đất nước, trong đó có nhiều vị trí chiến lược quan trọng cũng như các di tích ngàn đời của dân tộc như Ải Nam Quan, Núi Ðất, Thác Bản Giốc, Bãi Tục Lãm.... Ngoài ra còn có hải phận Vịnh Bắc Việt, các đảo lớn nhỏ trong hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dũng và đồng bọn Mạnh, Triết, Trọng ... giống như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng ngày trước, bất chấp sự ta thán, oán hờn, căm thù và sôi sục máu, trước nổi lầm than của đồng bào, nhục hèn bán nước cho giặc.

Nhưng quan trọng nhất là sự kiện Dũng đã ký lệnh ‘cấm báo chí trong nước không được bàn ra tán vào vụ Trung Cộng tới Quảng Ðức, Lâm Ðồng, Phước Long để khai thác quặng Bau-Xít‘. Ngày 13-1-2009 Dũng đã ký thông báo số 17/TB-VPCP cho Tàu đỏ được thăm dò, khai thác bauxite dùng luyện alumin và nhôm. mặc cho dư luận cả trong và ngoài nước cực lực lên án phản đối với hai lý do ‘tổn hại môi trường, giết chết sông Ðồng Nai và trên hết rước giặc Tàu vào nội địa VN‘.

Kính thưa toàn thể đồng bào,

Hơn 4000 năm qua, Việt-Nam (VN) luôn luôn là cái gai trước mắt, là chướng ngại vật và là cửa ải duy nhất ngăn chặn Trung Quốc (TQ) thực hiện mộng bá chủ vùng Đông Nam Á. Suốt các triều đại trong lịch sử Việt chưa bao giờ chúng ta để mất một tấc đất nào cho TQ. Có chăng chỉ là trong những lúc ta thất thế khi hai nước giao tranh. Thế mà giờ đây, khi cộng đồng nhân loại đã văn minh hơn, khi mà tình giao hảo giữa VN và TQ được Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đánh giá là "giao hảo hữu nghị tốt đẹp", thì CSVN lại cam tâm cúi đầu xin dâng phần lãnh thổ, lãnh hải cho TQ để cầu vinh, mong sự bảo trợ cho quyền lãnh đạo độc tôn của họ.

Tháng 12/1999 VN và TQ thông qua Hiệp Định Biên Giới Trên Bộ và Tháng 12/2000 thông qua hai hiệp ước nhượng đất và biển cho Trung Quốc, bạo quyền Hà Nội đã hiện nguyên hình là một bè lũ vô Tổ Quốc, tôn thờ chủ nghĩa ngoại lai và đặt quyền lợi Xã Hội Chủ Nghĩa lên trên cả quyền lợi của Tổ Quốc, Dân Tộc.

Việc bạo quyền CSVN dâng nạp lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam cho Cộng Sản Trung Quốc không chỉ đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại và khôn lường cho dân tộc, đất nước VN mà còn cho toàn thể khu vực Đông Nam Á và thế giới tự do nói chung.

Gần đây nhất, hành động bắt bớ, bỏ tù, đàp áp một cách dã man và liên tục những cuộc biểu tình, lên tiếng và cã tác giả của những bài hát yêu nước kêu gọi mọi người đứng lên chống giặc Tàu xâm lược mà tiêu biểu nhất là ca sĩ Việt Khang và bà Bùi Thị Minh Hằng là một bằng chứng không chối cãi về hành vi và thái độ bán nước của CSVN. Một khi đã xem hành động bày tỏ lòng yêu nước của dân là một tội hình sự và coi những lời nhạc kêu gọi cứu quốc là phản động, chống chính quyền, đảng CSVN đã lộ nguyên hình là một bè lủ Thái thú của Tàu không hơn không kém.

Nhục nhã hơn nữa là việc đài truyền hình chính thức của CSVN, gần đây nhất, đã cho phát hình liên tục 2 lần lá cờ Trung Cộng với 6 ngôi sao và tà quyền CSVN bắt trẻ em VN mặc y phục Tàu và cầm cờ 6 sao để chào đón Quan Thầy TC sang viếng thăm VN. Chúng cũng công bố sẽ cho trẻ em tiểu học VN học tiếng Tàu và cho xuất bản những đạo luật của VN sang tiếng Tàu. Còn cần bằng chứng gì thêm nữa để xác quyết việc bán nước của đảng và nhà nước CSVN hôm nay.

Ta vẫn thường được ông bà tổ tiên nhắc nhở: "Không ai thương đất nước VN của chúng ta ngoại trừ chính chúng ta ra". Hơn 4000 năm qua, TQ đã thể hiện bản chất đế quốc và xâm lăng đối với VN. Chúng sẽ không từ bỏ một cơ hội nào để nuốt trọn và đồng hoá nước ta. Giang sơn, đất nước của tổ quốc VN chỉ quý với chúng ta, chứ đối với bọn giặc xâm lăng chỉ là nơi để mà khai thác, càn quét và phá hoại. Nhưng tất cả hiểm họa này đều có thể tránh được, như cha ông chúng ta đã làm trong suốt chiều dài lịch sử Dân Tộc, nếu VN được lãnh đạo bởi người VN yêu nước thật sự.

Than ôi, đất nước của Tổ Tông đang bị một bọn vô Tổ Quốc, vô Thần, vong thân và nô lệ của chủ nghĩa ngoại lai Mác Xít cai trị. Đối với chúng không có tổ quốc VN mà chỉ có Tổ Quốc XHCN nên chúng đã đem đất dâng cho Tàu Cộng. Tội ác này, trời không dung, đất không tha.
Mỗi người VN chúng ta, bao lâu còn hơi thở, bao lâu còn hậu duệ, phải quyết tâm giành lại cho bằng được đất Tổ đã mất dẫu có phải trả bằng xương máu của chính mình để không bị coi là bất Trí, Bất Trung và Bất Dũng với Đất Nước như trong câu nói sau đây của Hàn Phi Tử:
    Đất Nước mất mà không biết là Bất Trí
    Biết mà không làm gì cả là Bất Trung
    Làm mà không liều chết là Bất Dũng.
Do những điều kiện nghiệt ngã về địa dư và lịch sử, mà bao đời VN vẫn coi việc chống giặc Tàu như một thứ tôn giáo trong nhân sinh quan của người Việt. Có thể nói nước Việt tồn tại bao nhiêu năm cũng là bấy nhiêu năm đấu tranh máu lệ với giặc Tàu để giành giựt sự sinh tồn. Chiến tranh đối với dân tộc Việt là cuộc đổ máu vì lý tưởng và bổn phận. Chiến tranh là cơ hội để tồn vong trước sự xâm lược của ngoại bang. Nên đối với giặc Tàu chỉ có chiến tranh ‘ ăn miếng trả miếng ‘ mới làm chúng chùm bước xâm lược VN như lịch sử đã minh chứng. Thế nhưng lẽ phải và quyền lực ở trên đầu súng. Nên chỉ khi nào đảng CSVN bị tiêu diệt, chừng đó đất nước mới có hy vọng đứng dậy chống Tàu để sống còn -/-



Saturday, April 28, 2012

CUỘC CHIẾN GIỮA HAI KHUYNH HƯỚNG THEO CS ĐỂ GIỮ ĐẠO VÀ DIỆT CS ĐỂ CỨU ĐẠO - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


(Theo tin trên NET, Gm Nguyễn Văn Khảm trong một buổi giảng thuyết đã ca tụng Marx, ông nói: Nhiều người nghĩ rằng Marxist là một hệ tư tưởng vô thần, cho nên không có một Cánh Chung Luận. Không phải thế! Trái lại Marx có một Cánh Chung Luận rất hấp dẫn, rất cụ thể. Marx đã trình bầy điểm tới của lịch sử nhân loại là một xã hội Cộng sản hoàn hào trong đó:

- không còn cảnh người bóc lột người.

- mỗi người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng, còn nhu cầu có bao nhiêu cứ việc sài.

- người ta sống với nhau trong tình huynh đệ. Một thiên đường tại thế.

Trong bài thuyết giảng, ông giám mục đã đánh lận chữ “cánh chung” (có nghĩa là cuối cùng chết rồi ……) với mơ ước của Marx là xây dựng một xã hội lý tưởng trong đời sống trần thế. Một luận điểm là chết rồi con người đi đâu, và luận điểm của Marx là xây dựng một thiên đường ngay tại trần thế. Rõ ràng cả hai hoàn toàn khác nhau và không ăn nhập gì với nhau cả. Gm Khảm đã có gian ý và trí trá. Ý của ông là biện hộ cho học thuyết của Marx và cố ý muốn đưa giáo dân VN đi đến chỗ chấp nhận công giáo và cộng sản giống nhau và có thể sống chung hòa bình với nhau được.

Sự thể đã làm bộc phát bất mãn trong giáo dân CG. Nó biểu hiện sự chia rẽ càng ngày càng trầm trọng giữa giáo dân và hàng ngũ lãnh đạo trong Giáo Hội. Người viết trước đây đã có lần viết về thực trạng này. Nhận thấy đề tài vẫn còn tính thời sự nên xin repost, mong gởi tới bạn đọc bốn phương để cùng suy nghĩ. Xin thành thật cám ơn.)
___________
    CÔNG GIÁO VN: CUỘC CHIẾN GIỮA HAI KHUYNH HƯỚNG THEO CS ĐỂ GIỮ ĐẠO VÀ DIỆT CS ĐỂ CỨU ĐẠO
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Trong một bài viết trước đây, chúng tôi có đưa ra nhận định rằng “rất có thể Giáo Hội Việt Nam (GHVN), cả hai thành phần trong và ngoài nước, sẽ đi đến một cuộc nội chiến vì ý thức hệ trong một ngày không xa. Một bên là chủ trương đi theo CS để giữ lấy GH, còn bên kia là phải tiêu diệt CS để cứu GH và cứu đất nước”. Hôm nay, chúng tôi muốn mượn ý này, đặt thành một đề tài và khai triển thêm để chia sẻ với quý bạn đọc.

Bài viết này sẽ lần lượt đề cập đến hai đề mục nằm trong chủ đề trên:

- Một là cuộc xung đột trong các tôn giáo tại Việt Nam hiện nay, và cuộc xung đột vì ý thức hệ trong Giáo Hội Công Giáo.

- Hai là Giáo Hội Công Giáo giữa hai khuynh hướng theo CS để giữ Đạo và diệt CS để cứu Đạo: nguyên nhân và những xung đột.

I. Nội Chiến Tôn Giáo Và Sự Xung Đột Vì Ý Thức Hệ

1. Nội Chiến Trong Các Tôn Giáo

Sợ rằng nói đến chữ “chiến tranh” hay “xung đột” trong tôn giáo, nhiều người, và nhất là người công giáo không hiểu và không tin được nên sẽ bị dội ngược, người viết vì thế buộc lòng phải dài dòng một chút để giải tỏa những nghi ngờ trong tâm trí bạn đọc về những từ ngữ dùng có thể bị coi là cuồng ngôn loạn ngữ này.

Chiến tranh là sự xung đột, xẩy ra dưới muôn hình vạn trạng. Chẳng hạn những nỗ lực đẩy lui sự dốt nát thường gọi là “giặc dốt”, người ta nói là cuộc chiến chống nạn mù chữ. Chính sách của một chính quyền nhằm tiêu trừ bọn tham quan sâu dân mọt nước gọi là cuộc chiến chống tham nhũng. Hai nhà văn, hay hai văn đàn tranh cãi nhau trên báo chí về một quan điểm nhân sinh hay văn học, trong chừng mục nào đó sự việc mang ý nghĩa xung đột, người ta gọi là bút chiến. Hai chánh khách vận động ứng cử, cãi nhau tóe lửa trước cử tri về các chánh sách quốc gia gọi là khẩu chiến. Từ đó suy ra, khái niệm về một cuộc xung đột hay chiến tranh không chỉ giới hạn trong ý nghĩa là phải có những đoàn quân ăn mặc uniform, trang bị súng ống, xe tăng, tầu chiến, máy bay bắn giết nhau loạn xạ, máu đổ đầu rơi. Hễ cứ có hai bên tranh dành nhau mà kết quả là kẻ thắng người thua, kẻ còn người mất thì đều có thể gọi là xung đột hay chiến tranh cả. Tiếng Anh cũng dùng chữ như vậy. Chẳng hạn trên tờ San Jose Mercury News số phát hành ngày 26-9 vừa qua, ngay trên cuối trang nhất, người ta gọi là “War of Words” hai bài diễn văn của hai đối thủ là Tổng Thống Mỹ George W. Bush và Tổng Thống Iran Mahmoud Ahmadinejad đọc trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.

Chuyện cụ Lý Văn Hợp bị lôi cổ ra khỏi bữa tiệc tiếp đón G/M Châu Ngọc Tri, chuyện bài viết Mục Vụ Xin Tiền của Lm Nguyễn Hữu Lễ, chuyện các vị Thượng Tọa Tuệ Sĩ và Trí Siêu đầu quân vào hệ thống Phật Giáo quốc doanh, chuyện Đại Hội Phật Giáo quốc doanh sắp tới tại Hànội âm mưu thôn tính và sát nhập Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất, vân vân và vân vân, chuyện nào cũng kéo theo những bài viết, những ý kiến đóng góp gay gắt trên các diễn đàn điện tử và báo chí, tất cả đều được coi là những trận bút chiến. Chưa hết, các vấn đề đó đôi khi cũng khuấy lên những cuộc đấu khẩu dữ dội trong các buổi hội họp của các hội đoàn hay từng nhóm bạn bè. Các cuộc đấu võ mồm này không thể nói gì khác hơn là những trận khẩu chiến.

Mỗi chuyện đáng tiếc kia, theo cách nhìn của con nhà lính, có thể coi là một trận đánh (battle). Nếu liên kết những trận đánh lẻ tẻ rời rạc lại, đặt chúng vào trong toàn cảnh của đất nước ta dưới chế độ cai trị của bọn thảo khấu ngoại hạng lưu manh và xảo quyệt hiện nay, chúng ta sẽ có thể kết luận rằng các tôn giáo chính của người VN đang thực sự lâm vào một cuộc chiến tranh (war) có thật. Cuộc chiến giới hạn trong nội bộ một tôn giáo, gọi là cuộc nội chiến tôn giáo tưởng cũng không phải là ngoa ngữ. Hình thức nội chiến này xẩy ra trong tất cả các giáo hội của các tôn giáo có mặt tại Việt Nam hiện nay. Đáng chú ý nhất trong lúc này là cuộc chiến giữa hai phe Phật Giáo. Tin tức dồn dập trong những ngày gần đây cho thấy đã đến lúc tình hình có thể là một mất một còn giữa hai Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất và Giáo Hội Phật Giáo VN thường được gọi là Phật Giáo quốc doanh. Các giáo hội Tin Lành, Cao Đài và Hòa Hảo cũng không thoát khỏi tình trạng bi đát tương tự. Kẻ gây nên tình trạng thương đau này chính là đảng CSVN. Có thể khẳng định rằng tình trạng xung đột trong nội bộ các giáo hội nhất định sẽ không còn nữa nếu CS bị tiêu diệt. Nói cách khác, bao lâu còn CS tại VN, bấy lâu các tôn giáo còn xào xáo nhau không dứt, và đó là lý do chúng tôi phải xử dụng đến cụm từ “Nội chiến tôn giáo” để nói đến tình trạng này. Nghĩ mà coi, thời phong kiến không thế, thời thực dân không thế, các thời Cộng Hòa không thế. Tại sao thời CS lại xẩy ra như thế, xẩy ra đều khắp trong tất cả các tôn giáo, chứ không riêng một tôn giáo nào. Sự thật rõ ràng đây là một chính sách rất thâm độc và nham hiểm của CS: không tiêu diệt được tôn giáo thì gây ra loạn để trị loạn. Hay còn nói là dùng địch đánh địch hầu làm tiêu hao thế lực địch. Trước sau gì thì vẫn là nằm trong kinh điển CS: tôn giáo là thuốc phiện, cần phải tiêu diệt. Hoặc: Xóa bỏ tôn giáo, một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đòi hỏi hạnh phúc thật sự của nhân dân. Tùy hoàn cảnh và tùy thời gian, chính sách không thay đổi, chỉ thay đổi phương thức hành động.

Cũng nên biết thêm, không phải chỉ có các tôn giáo mới gặp cảnh nội chiến, mà các tổ chức, các đoàn thể, các cộng đồng ở hải ngoại, các nhóm đấu tranh ở trong nước đều lâm vào tình trạng tương tự toàn là do bàn tay ác độc của CS gây ra.

Cuộc chiến trong lòng các tôn giáo tại VN hiện nay gọi là “nội chiến Tôn Giáo” tuy miễn cưỡng một tý, nhưng đó là sự diễn tả đúng và thực tế nhất. Bởi vì, nếu nói đây chỉ là một sự chia rẽ nội bộ, thì sự việc không đáng quan ngại lắm. Sự chia rẽ thường chỉ gây nên bởi những bất đồng nhỏ nhặt về hình thức, có thể là phương thức điều hành cơ cấu, hay đường lối thực hiện chánh sách. Loại bất đồng như thế còn có thể hàn gắn được, miễn là hai bên biết tương nhượng nhau. Nhưng một khi đôi bên đã đối nghịch nhau trên căn bản tư tưởng thì nhất định chuyện ngã ngũ là phải có kẻ thắng người thua. Nó thực sự là một cuộc đấu tranh, một cuộc chiến.

Riêng đối với đạo Công Giáo có thể nói là một GH có kỷ cương và kỷ luật nhất, tình trạng xung đột có hơi khác về hình thức, nhưng tựu chung vẫn là nằm trong chủ trương tiêu diệt Công Giáo của CS. Cuộc nội chiến trong GHCG là điều có thể tránh được nếu các thành phần trong GH biết nhìn vào sự thực, nhưng vẫn cứ để xẩy ra thật là một điều đáng buồn.

2. Nội Chiến Vì Ý Thức Hệ Trong Công Giáo

Nằm trong hệ ý thức, tức giáo lý của GHCG là niềm tin vào sự trường tồn vĩnh cửu của Hội Thánh do chính Chúa lập nên. Chính Chúa đã khẳng định: Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi (Mt 16,18).

Không người CG nào lại không tin như thế. Ngoài đức tin ra thì thực tế và lịch sử 2000 năm nay đã chứng minh rằng đạo CG tuy có lúc thịnh lúc suy, nhưng vẫn tồn tại và lan rộng. Chính đức tin và giáo lý của đạo đã biến người CG, mỗi cá nhân trở thành một người chiến sĩ có nhiệm vụ bảo vệ và phát triển GH. Nhưng có lẽ không mấy ai ngờ rằng cuộc nội chiến cay đắng hiện nay trong GHVN lại nằm ngay trong chính cái tinh thần hăng say bảo vệ và phát triển GH của người công giáo VN. Thật vậy, cũng là để bảo vệ và phát triển GH, một bên mà đa số thuộc hàng giáo phẩm, chủ trương quy thuận và đi theo CS để đạt mục đích giữ lấy đạo và phát triển đạo. Còn bên kia là phần đông đảo giáo dân cùng với một số ít ỏi trong hàng lãnh đạo, chủ trương ngược lại, phải tiêu diệt CS để cứu lấy GH và cứu đất nước. Phe chủ trương “giữ lấy đạo trước đã” không đưa ra một lời giải thích nào (chứ chưa nói đến một lý thuyết) cho đường lối của mình. Phe chủ trương “chống CS để cứu đạo” cũng vậy, nhưng qua những bài viết của nhiều người, người ta có thể đọc được hai luận điểm như sau của phe này:
    - Một là CS là một tập đoàn bán nước hại dân.GH cũng là một thành phần của dân tộc nên phải đứng trên lập trường dân tộc trước sự suy vong của đất nước. GH đi theo CS khó khỏi mang tiếng đồng lõa, đắc tội với Tổ Quốc. - Hai là nhiều hiện tượng coi là phản chứng của đường lối Phúc Âm xẩy ra trong GH nhưng không thấy hàng lãnh đạo sửa sai. Vì thế giáo dân không đồng ý và không hiểu nổi nên không thể đồng tình với lãnh đạo GH. Họ lên tiếng mạnh mẽ để phản đối.
Không ai không biết rằng trên căn bản học thuyết, CG và CS là hai ý thức hệ đối nghịch nhau tuyệt đối, một bên hữu thần, một bên vô thần, một bên tự do, một bên độc tài. Chúng phủ định nhau tự bản thân. Do đó không thể có vấn đề sống chung hòa hợp với nhau được. Trước kia toàn thể khối người CGVN theo đuổi cùng một học thuyết đứng chung cùng một lập trường, thực hành cùng một đường lối đối với CS. Nay các nhà lãnh đạo GH đi theo một hướng khác ngược lại với hướng đi cũ và với đại đa số giáo dân. Do đó, sự việc làm phát sinh một cuộc xung đột giữa hai khuynh hướng như nói trên. Những chuyện xẩy ra giữa hàng giáo phẩm và giáo dân thường xẩy ra mới đây là những thí dụ về tình trạng xung đột. Nói đây là một cuộc xung đột, hơn nữa là cuộc xung đột vì ý thức bảo tồn và phát huy GH nên gọi là cuộc nội chiến ý thức hệ có lẽ cũng không phải là vô lý.

Chủ trương sống chung hòa bình với CS như hiện nay của GH phát sinh từ lúc chế độ CS nằm trên bờ vực của sự sụp đổ vào khoảng năm 1979 sau khi CS xua quân tấn công nước láng giềng Campuchea. Năm sau tức 1980, HĐGMVN họp và đưa ra đường lối “sống Phúc Âm trong lòng dân tộc”, và khẳng định “GH đồng hành cùng dân tộc”. Đây rõ ràng là một thông điệp chính trị ngụ ý mời gọi gởi cho đảng CS. GH đã nhận ra rằng CS không còn đủ nội lực để cùng một lúc chống lại tất cả mọi kẻ thù nên đã nhanh tay nắm lấy cơ hội đi bước trước trong cái thế hai kẻ thù phải bám lấy nhau để tồn tại. Sau đó ít năm, tức là từ 1986 khi VN mở cửa, lúc CS đứng vững trở lại cũng là lúc GH bắt đầu được thong dong hơn để phát triển. Thực tại này được nhận thấy qua các cơ sở vật chất được thiết lập, các tiện nghi được trang bị, nhân sự được bổ xung dồi dào, và việc xuất ngoại của các chức sắc được tự do thoải mái.

Có người hỏi rằng đi với CS có phải là GH đã thực hành chủ trương của Tòa Thánh có từ thời đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII không ?. Câu trả lời là không hẳn như thế. Các triều đại Giáo Hoàng Gioan XXIII và PhaoLô VI, Tòa Thánh hòa hoãn với CS và thường tỏ ra thiên vị CS. Nhưng dưới triều đức cố Giáo Hoàng Gioan Phalô II thì khác. Không ai nói được là Đức Gioan PhaoLô II đi theo đường lối của hai vị tiền nhiệm. Ngài là người chống cộng triệt để ai cũng biết. Ngài đã khuyên các giám mục VN chấp nhận những thách đố mà Phúc Âm đem lại, noi gương các Thánh Tử Đạo đi trên con đường Đức Tin khi các vị này sang triều kiến Roma theo lệ Ad Limina Apostolorum. Đức Thánh Cha còn mạnh dạn thúc dục các vị hãy “ra khơi”, nhưng nào có ai nghe đâu.

Cũng có người cho rằng đường lối của HĐGMVN hiện nay đặt căn bản trên quan điểm của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII về CS. Điều này tuy là đúng nhưng cũng sai. Quả thật Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong Thông Điệp Hòa Bình Trên Trái Đất (Pacem in Terris) đã chỉ dậy rằng phải sáng suốt phân biệt và công bình đối với những lý thuyết và phong trào phản lại con người. Thông Điệp viết:
    “Cũng vậy, không thể đồng hóa những thứ triết thuyết sai lầm về bản tính, nguồn gốc, và cứu cánh của vũ trụ và con người, với những phong trào lịch sử được thiết lập vì mục đích kinh tế, xã hội, văn hóa, hay chính trị, dù cho các phong trào ấy bắt nguồn hay khởi hứng từ các triết tuyết ấy. Một học thuyết một khi đã thành hình và cố định thì không thay đổi nữa, trong khi các phong trào thì lấy hoàn cảnh cụ thể và biến đổi của cuộc sống làm đối tượng, nên không thể không bị ảnh hưởng vì sự biến đổi …”.
Lời dậy của Đức Giáo Hoàng ngụ ý là lý thuyết CS thì mãi mãi sai, nhưng những người thực hành lý thuyết đó là các đảng CS thì họ có thể thay đổi. Để tránh bị mang tiếng là quá khích và cố chấp trong cách phát biểu về GH cũng như về CSVN, chúng tôi xin minh định việc thừa nhận là đúng lời dậy bảo của Đức Thánh Cha. Nhưng chúng tôi cũng tin tưởng rằng lời dậy của Ngài chỉ đúng về mặt lý luận, và chưa bao giờ được chứng minh là đúng về mặt thực hành đối với đảng và chế độ CS. Người VN quen nói “chó đen giữ mực”, nghĩa là con chó lông đen cho đến chết vẫn là đen, không thể đổi thành mầu khác được. CS cho dù thành hình dưới hình thức là một đảng phái hay phong trào, qua thời gian, nó vẫn luôn luôn mang bản chất vô thần với đặc tính độc đoán, lưu manh và thảo khấu (predatory). Thực tế tại VN hơn 6 chục năm qua đã chứng minh điều đó. Đảng CSVN xem ra có thay đổi, nhưng thay đổi từ nham hiểm tàn ác đến nham hiểm tàn ác hơn, từ lưu manh điếm đàng đến lưu manh điếm đàng hơn. Tóm lại CSVN có thay đổi, nhưng thay đổi từ tình trạng đã tệ hại tiến đến tình trạng càng ngày càng tệ hại hơn rất nhiều. Cứ thử so sánh nội dung 2 văn kiện trước và sau về tôn giáo của CSVN ta sẽ thấy. Pháp Lệnh Tôn Giáo ban hành ngày 15-11-2004 còn độc ác và bóp nghẹt ghê gớm hơn gấp trăm gấp ngàn lần Sắc Lệnh về Tôn Giáo Hồ Chí Minh ký ban hành 49 năm trước, tức vào ngày 14-6-1955. Chính HY Phạm Minh Mẫn cũng đã phải xác nhận Pháp Lệnh Tôn Giáo 2004 khắt khe hơn Sắc Lệnh Tôn Giáo 1955 của Hồ Chí Minh nhiều, và ngài kết luận: “Đừng nên ban hành Pháp Lệnh này thì hơn”. Kinh nghiệm về CS thì ngay một tay đầu sỏ CS Nga là ông Boris Yelsin đã phải nhìn nhận: CS dứt khoát phải thay thế thôi chứ không thể thay đổi được. Chúng tôi không nghi ngờ rằng bảo đảm vững vàng nhất cho sự tin tưởng của mình là việc Đức Thánh Cha Benedicto XVI trong bài giảng lễ Đức Mẹ Lên Trời ngày 15-8-2007, đã xác định Con Rồng Đỏ với các đặc tính của nó trong sách Khải Huyền chính là chế độ toàn trị Stalin. Ngài nói: “……. there is the immemsely strong, red dragon with a striking and disturbing manifestation of power without grace, without love, of absolute selfishness, terror and violence …” (tạm dịch: ….. con rồng đỏ mạnh khủng khiếp, nó phô trương sức mạnh thô bạo và bất nhân một cách quyến rũ và khuấy đảo, tính ích kỷ tuyệt đối, sự kinh hoàng và bạo lực …). CSVN là con đẻ của chế độ ghê tởm này. Đức Thánh Cha đã chỉ đích danh con rồng đỏ là CS. Do đó không còn nghi ngờ gì nữa, nghĩ rằng CSVN đã thay đổi bản chất nên có thể hòa hợp và sống chung được với nó là một sai lầm nghiêm trọng không thể tưởng tượng được. Đáng tiếc là GHVN đang ở trong vũng lầy sai lầm đó.

II. Giáo Hội Giữa 2 Khuynh Hướng Giữ Đạo và Cứu Đạo

Cách tốt nhất để hiểu được sự khác biệt giữa hai khuynh hướng “Giữ Đạo” và “Cứu Đạo” là so sánh giữa hai đường lối sống đạo trong lòng chế độ CS của GH miền Bắc trước năm 1975 và của GH toàn quốc sau 1975, và nhất là hiện nay.

Hiệp Định Genève 1954 chia cắt Tổ Quốc VN cũng đồng thời chia cắt GHCGVN. Tại miền Bắc, GH rơi vào tình trạng sống không nổi mà chết cũng không xong, người ta gọi là GH sau bức màn sắt. Đức khâm sứ Tòa Thánh và các linh mục thừa sai ngoại quốc lần lượt bị trục xuất. Hàng giáo phẩm trong nước một số bị tù, bị đầy ải biệt tích, còn lại tất cả đều bị cô lập và quản chế tại chỗ. Nhiều thánh đường và hầu hết các cơ sở giáo dục và xã hội của GH bị tịch thu. Tại nhiều vùng quê xa tỉnh thành, giáo dân không được phép tụ họp đọc kinh xem lễ, hoặc bị cấm cản tinh vi bằng cách bị lùa đi lao động vào các giờ kinh lễ. Việc dậy giáo lý bị cấm tuyệt đối. Không còn chủng viện. Không có đào tạo linh mục. Không còn truyền chức. Nhiều linh mục, kể cả giám mục như đức cha Đinh Đức Trụ, giám mục Thái Bình phải tự túc sinh nhai bằng cách tăng gia sản xuất. Tóm lại có thể nói CG miền Bắc là một GH chết về mặt sinh hoạt. Dùng chữ “tê liệt” coi như còn quá nương tay.

Thế nhưng lạ lùng thay, GH đó vẫn không chết. Trái lại nó sống rất hào hùng và sinh động. Không có thánh đường huy hoàng, nhưng thánh đường trong tâm hồn của mỗi giáo dân luôn tưng bừng thờ phượng Chúa. Có nhiều chuyện kể trong dân gian về cách sống đạo đầy ấn tượng của giáo dân và chủ chăn miền Bắc. Nhiều cá nhân nêu gương sống đức tin đáng khâm phục. Cái gì CS cấm thì chịu vậy. Cái gì còn làm được thì làm. Tuyệt đối từ thuợng tầng lãnh đạo xuống đến người giáo dân bình thường không bao giờ ngửa tay xin xỏ hay cầu khẩn bạo quyền bất cứ ơn huệ nào. Thành ra duới chế độ CS tại miền Bắc, GH không lệ thuộc vào cơ chế Xin/Cho để phải đánh đổi quyền lợi như ta thấy ngày nay. Nói đúng ra GH miền Bắc đã bị tước đoạt sạch sẽ nên chẳng còn gì để đổi chác. Cái mất mát là những quyền lợi vật chất. Nhưng ít ra GH miền Bắc còn giữ được những quyền lợi tinh thần như quyền tuyển chọn và giáo dục chủng sinh, quyền truyền chức và bổ nhiệm linh mục v.v. Các quyền tự do cao quý này chỉ trong tình trạng đông lạnh nhưng không mất. Bị đàn áp nặng nề như thế, nhưng trong GH không xẩy ra một vụ bê bối nào làm mất thanh danh của GH. Đám linh mục theo CS, một con số rất nhỏ nhưng họ cũng không có hành động gì quá đáng làm thương tổn nặng nề đến GH.

Những cái mất đi của GH miền Bắc là những cái GH toàn quốc hiện nay phải ngửa tay xin lại từ CS. Ngược lại những cái còn giữ được của GH miền Bắc trước kia là những cái mà GH ngày nay đã để mất vào tay CS. Đó là hậu quả hay nói đúng hơn là hệ lụy của 2 đường lối ứng xử đối với CS của GH trước và bây giờ. Đường lối tại miền Bắc trước đây được gọi là đường lối “bất hợp tác”. Đường lối hiện nay của GH được sơn phết hoa hòe hoa sói dưới cụm từ “đồng hành cùng dân tộc”. Ngày nay, khuynh hướng bất hợp tác với CS không phải đã chết đi, mà nó biến thành một phong trào phản kháng vừa thụ động vừa tích cực. Người trong nước dưới chế độ kìm kẹp nên hầu hết đều thụ động, nhưng cũng không thiếu những cá nhân đứng lên công khai phản kháng như các linh mục Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi v.v. Ở hải ngoại, người CG tỵ nạn đứng lên phản kháng một cách công khai và mạnh bạo hơn. Sụ thể cho thấy khuynh hướng này hiển nhiên đi theo chủ trương phải tiêu diệt CS mới cứu được GH và đất nước, ngược lại với khuynh hướng đồng hành với đảng CS để giữ lấy GH mà HĐGM đang theo đuổi.

Đã rõ ràng là GH miền Bắc ngày trước thà chịu bắt bớ đàn áp nhưng mà còn giữ được cái “hồn” của đạo. Ngược lại, GH hiện nay dễ dãi thỏa hiệp với CS thì chỉ giữ được cái “xác” đạo mà bỏ mất đi cái “hồn” của đạo rồi. Như vậy người CG tốt nhất là phải tiêu diệt CS thì mới giữ được GH của mình toàn vẹn cả hồn lẫn xác.

1. Những Nguyên Nhân Tạo Xung Đột

Nguyên Nhân 1: GH Tự Tách Mình Ra khỏi Cộng Đồng Dân Tộc

“GH đồng hành cùng Dân Tộc” là khẩu hiệu chiến lược của GH được đưa ra trong môi trường CSVN Bolshevik hóa toàn dân. Điều này có nghĩa là GH cũng chấp nhận mình bị Bolshevik hóa. Việc khó có thể tưởng tượng được nếu chữ nghĩa cứ được hiểu trần trụi như thế. Nếu không hiểu được ý nghĩa bên trong thì chỉ còn cách nhìn và đánh giá những hành động bên ngoài để hiểu mà thôi.

Đồng hành nói nôm na là cùng đi chung với nhau trên một con đường. Nhưng không phải cứ đi với nhau là đồng hành theo ý nghĩa sâu xa của từ ngữ. Một ông đồ nho đi hát cô đầu hay đến nhà bạn chơi tổ tôm có dăm ba chú tiểu đồng lếch thếch theo sau, đứa cầm ô (dù), đứa cắp tráp, đứa sách giỏ trầu, đứa mang bầu rượu. Họ đi với nhau nhưng không phải đồng hành, vì ông đồ đi du hí, còn đám tiểu đồng đi hầu hạ phục dịch cho ông. Trong ý nghĩa sâu xa của từ ngữ này, những người đi với nhau phải là những người tự do và trong nhiều trường hợp còn phải đồng đẳng nữa. Mục tiêu tiến tới cũng phải là mục tiêu chung. Chữ đồng hành còn hàm ý một sự ràng buộc tinh thần giữa những người cùng đi. Nghĩa là, nói theo người bình dân, có vui cùng chia, có khổ cùng chịu, sống chết có nhau. Tinh thần đó đáng lẽ GH nên chia sẻ chung với các thành phần dân tộc khác. Nhưng không, GH lại tìm cách gắn bó với đảng CS. Với đảng CS, Giáo Hội không phải là một thực thể tự do, cũng chẳng đồng đẳng, và dĩ nhiên mục tiêu tiến tới của cả hai cũng khác nhau, và cuối cùng GH không thể sống chết với CS. Chế độ CS sẽ qua đi, nhưng GH phải mãi mãi tồn tại với dân tộc.

Ta hãy thử xem GH đã đồng hành cùng Dân Tộc Việt Nam như thế nào. Chỉ xét đến thời gian sau Thư Chung tuyên bố việc đồng hành, tức từ năm 1980 tới nay.
    - Trong phong trào vượt biên, vượt biển, CS bán bến, bán bãi, lừa gạt tiền bạc của đồng bào rồi đẩy con người vào chỗ may rủi. Bao nhiêu đau thương và chết chóc. GH đã làm gì để giảm bớt dòng lệ của con chiên và của đồng bào? - Im lặng!
    - Sau khi thôn tính miền Nam, CS bắt đi cải tạo 300.000 quân, dân, cán, chính VNCH trong đó có cả hàng ngàn linh mục tuyên úy, gây ra bao nhiêu thảm cảnh: cuộc sống điêu đứng, gia đình tan vỡ, trẻ thơ thất học v.v. Trước tình trạng này GH làm gì? - Im lặng.
    - Trưóc việc các tôn giáo bạn như Tin Lành Mennonite, Phật Giáo VN Thống Nhất, Phật Giáo Hòa Hảo bị đàn áp và xách nhiễu, việc Đức TGM Nguyễn Kim Điền bị CS đầu độc, Lm Nguyễn Văn Lý bị cần tù v.v. GH làm gì để ngăn bàn tay tội ác lại? - Im lặng.
    - Trước cảnh xã hội bị băng hoại, đạo đức suy đồi, cán bộ CS mau chóng trở thành đại tư bản, trong khi đó, dân nghèo càng ngày càng nghèo mạt đến nỗi cha mẹ phải bán con vị thành niên đi làm đĩ tứ xứ, thiếu nữ ham lấy chồng ngoại quốc chỉ vì nghèo đói, cả dân quê lẫn thành thị bị cán bộ, đảng viên dựa vào quyền lực để cướp nhà cướp đất tạo thành phong trào dân oan trên cả nước. GH làm gì để vơi đi những bất công kia? – Im lặng.
    - Nạn phá thai tại VN được ghi nhận là cao nhất thế giới. Mỗi năm trung bình có từ 2 triệu rưởi đến 3 triệu phụ nữ phá thai. Trước vấn đề nhức nhối này, GH cũng chỉ im lặng.
Còn nhiều, rất nhiều nữa. GH vẫn không làm gì, mà chỉ một mực im lặng. GH đã đồng hành với Dân Tộc VN như thế đấy. Nếu GH chỉ dám nói lên tiếng nói vì nhân quyền, vì công lý trong điều kiện được tự do thoải mái thì việc đó dễ dàng quá, ai mà không làm được, cứ gì phải là tông đồ của Chúa?

Tôn giáo được lập ra cho con người. Cái gốc gác của con người là tổ tiên. Tổ tiên sống hợp quần trong một khu vực với văn hóa, văn minh, phong tục tập quán và tiếng nói riêng gọi là tổ quốc. Giới răn thứ 4 trong 10 giới răn của Chúa là thảo kính cha mẹ. Từ cha mẹ tính ngược lên là tổ tiên đến tổ quốc. Người công giáo không yêu và phụng sự tổ quốc thì làm sao giữ trọn được giới răn thảo kính cha mẹ. Trong thân thể của một GHCG, phần “Công Giáo”, tạm coi như phần hình nhi thượng là phần của Vatican. Còn phần “Giáo Hội”, tức phần hình nhi hạ là phần thuộc về dân tộc. Nếu GH chỉ coi trọng phần hình nhi thượng mà coi phần hình nhi hạ như không có, thì nên gọi là GH Vatican thì hơn. Gọi là GHVN thật chẳng hợp lý tý nào. Một GH Vatican như vậy sẽ phát sinh ra hệ quả là người CGVN sẽ là người ngoại quốc sống trên đất nước của mình chứ không còn phải là những công dân VN nữa. Nên nhớ rằng văn hóa VN ta lấy chữ Hiếu làm đầu. Do đó không thể quên sự thật lịch sử là trước kia, một trong những nguyên nhân khiến vua chúa cấm đạo là vì cho rằng CG cấm người ta thờ kính cha mẹ, tổ tiên, và các bậc anh hùng dân tộc. Ngày nay, nếu GH không đau được cái đau của các thành phần dân tộc khác, không chịu nhục được nỗi nhục của họ thì đúng là GH đang đứng bên lề dòng lịch sử của dân tộc, điều mà Hội Nghị Các Giám Mục Á Châu đã cảnh giác ngay từ khi CS chiếm miền Nam. GH đang đồng hành cùng đảng CSVN chứ không phải với dân tộc VN. Cái đảng chính trị này theo lịch sử đảng ghi chép, thực chất chỉ là một chi bộ của đảng CS Liên Sô, chứ không phải một đảng chính trị của người VN. Nó đấu tranh để xích hóa dân tộc VN cho Đệ Tam Quốc Tế CS, tức đế quốc Liên Sô, chứ không phải với mục đích đem lại độc lập, tự do và phú cường cho dân tộc VN. Vì thế bản chất của nó là bán nước.

Một khía cạnh khác, nếu GH cho rằng lên tiếng vạch trần những tội ác của đảng CS và báo động trước những tai họa của đất nước là làm chính trị, thì không biết GH hiểu chữ chính trị là cái gì. Đức cố HY Jaime Sin của Phi Luật Tân, TGM Pius Ncube của Zimbabwe, TGM Oscar Romero của El Salvador v.v. đều là các chức sắc cao cấp tại các GH địa phương đã công khai lên tiếng và hoạt động chống lại các chính quyền tham nhũng và đàn áp dân chúng. Trường hợp các ngài phải giải thích thế nào: làm chính trị hay không làm chính trị? Hơn nữa nếu coi hành động ái quốc là làm chính trị thì việc Vatican phong thánh cho cô gái Jeanne d’Arc của nước Pháp đáng gọi là cái gì, một trò đùa chăng?

Nguyên Nhân 2: Những Hành Động Cụ Thể

Chuyện giáo dân chống đối HĐGM nói chung xuất phát từ nguyên nhân xa là việc GH tự tách mình ra khỏi công đồng dân tộc, đi theo CS như đã trình bầy trên. Nhưng cũng có những nguyên nhân gần và cụ thể trực tiếp dẫn đến tình trạng này.

- Một vị giám mục sang Mỹ xin tiền từ chối bước vào nơi tiếp đón có treo cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Đó phải chăng là một thái độ chính trị: ngài chọn chỗ đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng nên từ chối bước vào nơi có lá cờ của con chiên tỵ nạn? Nếu không thì cũng biểu lộ một cử chỉ thiếu lịch sự và khinh mạn đối với những người tiếp đón mình, không đếm xỉa đến tâm tư tình cảm và lối sống của con chiên. Người lãnh đạo thiết tưởng phải biết như thế hơn những người khác mới phải.

- Nhiều vị khác, giám mục có, linh mục có, sơ siếc có cố đấm ăn xôi mặc luôn lễ phục cầm bịch nylon đứng nơi cửa nhà thờ trước mặt ông đi qua bà đi lại vì không được phép giám mục địa phương quyên tiền trong nhà thờ. Chuyện thật là khó coi nhưng các vị vẫn làm được. Có phải vì đồng tiền con người đã mất hết cả tự trọng và nhân cách? Con chiên tỵ nạn đã quen sống trong xã hội văn minh nên cảm thấy ngượng ngùng và khó chịu. Các vị đã không chịu học câu “nhập gia tùy tục” trước khi đi.

- Ở trong nước, có nơi trước tòa giám mục dựng bia Mân Côi bằng đá quý mua từ ngoại quốc khắc kinh Mân Côi bằng đủ 150 ngôn ngữ trên thế giới. Để làm gì? Sùng đạo hay chơi nổi?

- Có nơi giám mục phá bỏ nhà thờ cổ kính và kiên cố đã tồn tại hàng trăm năm để xây nhà thờ mới lớn nhất VN với những công trình tự khoe là hoành tráng và nghệ thuật, bàn thờ mạ toàn vàng ròng 24 carat. Để làm gì, trong khi Thiên Chúa chỉ muốn ngự nơi đền thờ “tâm hồn con người”?

- Có nơi đã chịu chi (đấm mõm bọn CS) 4 triệu dollars (khoảng 70 tỷ tiền Hồ) để được mở chủng viện. Đi với ma mặc áo giấy là lẽ thế gian thường tình, nhưng vấn đề là giáo lý Phúc Âm có cho phép các tông đồ của Chúa điều hành công việc GH theo cung cách thế gian như thế không. Không lẽ xử dụng đường lối ma quỉ để mở nước Chúa được coi là chính đáng?

- Một số giám mục kết án cha Lý làm chính trị nhưng lại thả cho các linh mục thuộc quyền tham gia phỉ quyền các cấp của CS. Như vậy là giáo lý áp dụng hai tiêu chuẩn luân lý, và giáo luật thi hành hai tiêu chẩn hành động? Thời nào kỷ cương nấy. Thời CS ta theo kỷ cương CS mới hợp thời? Khổ nỗi cái kỷ cương của thời xã hội chủ nghĩa là vô kỷ cương, là xài luật rừng.

- Quốc doanh Phan Khắc Từ có vợ con công khai mà vẫn thi hành chức linh mục. Ông Vatican không cho phép nhưng HY Phạm Minh Mẫn không cấm. Làm gì được nhau đây? Có phải phép vua chịu thua lệ làng? Ông cha có vợ con không bị cấm làm mục vụ. Nhưng bổn đạo để cho con cái lấy vợ, lấy chồng khác tôn giáo bị ông cha rút phép thông công, chết không được xưng tội, xức dầu, không được chôn trong đất thánh (Lm Pio Ngô Đức Hậu, Nhật Ký Truyền Giáo p. 41-42). Rừng nào cọp nấy hay luật rừng chăng?

Trên đây chúng tôi chỉ nêu một số những việc điển hình. Những chuyện tương tự thì vô vàn vô số không sao kể ra cho xiết được. Toàn là những chuyện giáo dân không hiểu nổi. Có những chuyện xẩy ra phản chứng Tin Mừng không thể chối cãi được, nhưng vẫn không được hàng giáo phẩm lên tiếng biện minh hay giải thích. Vì thế khó tránh được sự bất mãn trong GH. Điều nguy hiểm nhất là giáo dân VN ngày nay, kể cả một số giáo sĩ và tu sĩ, hầu như đã đánh mất ý thức về sự sai trái, thậm chí về tội lỗi. Đút lót để được xây nhà thờ, để được chịu chức linh mục, để xin đi ngước ngoài, nhận đút lót, hối lộ, ăn gian nói dối v.v. đều được coi là chuyện bình thường trong xã hội ngày nay, không có gì phải thắc mắc. Người ta giải thích: gặp thời thế thế thời phải thế là chuyện đương nhiên. Ông cha có vợ con công khai vẫn cứ làm mục vụ, vẫn làm lễ, giải tội cho bổn đạo có sao đâu. Cũng vẫn là chuyện gặp thời thế thế thời phải thế, có gì phải bận tâm. Lương tâm con người ngày nay vẫn yên ổn với những chuyện như thế. Nếu có gì không ổn thì các cha đã nói, giáo dân biện luận. Tôn giáo biến thành mê tín khi người có đạo cho những việc làm trái đạo lý là chuyện bình thường.

Trưóc việc GH quay lưng với các khổ đau của Dân Tộc và chỉ lo trau chuốt vẻ bề ngoài của mình như thế, và trước một xã hội loạn với những việc suy thoái đạo đức như thế, ai còn chút lương tri mà không đau lòng. Có những người giỏi nín nhịn, họ âm thầm chịu đựng nhưng trong bụng không khỏi bất mãn. Những người kém sức chịu đựng, họ phản ứng bằng lời nói, có khi bằng hành động. Hành động thông thường nhất là viết bài đăng báo, phóng lên internet. Những gì họ nói đều là những việc có thật, nói có sách mách có chứng chứ không phải là những vu cáo hàm hồ. Nhưng những con chiên mê tín thấy vậy thì bất kể phải trái, nổi sùng lên. Thế là có chuyện. Cuộc chiến bắt đầu.

Trong khi đánh phá những người chống sai lầm xẩy ra trong GH, và nhắm mắt bênh vực GH bất kể phải trái, những con chiên mê tín phơi bầy ra 3 cái khuyết tật trong lối sống đạo cằn cỗi của họ. Trước hết là sự bất lực tư duy, thứ đến là cái não trạng ông bình vôi, và cuối cùng là thói quen phản ứng lưỡi gỗ.

- Sự bất lực tư duy: Về nhận thức, những kẻ mê tín không đủ khả năng phân biệt thế nào là GH, và thế nào là hàng giáo phẩm. Họ tự nhiên đồng hóa hàng giáo phẩm với GH y chang như bọn Việt gian CS đồng hóa đảng CS của chúng với dân tộc VN. Vì thế họ cho rằng chống những sai lầm trong GH là chống GH, thậm chí chống Thiên Chúa. Cũng như người dân VN đụng tới bất cứ cái gì của đảng CS cũng đều bị ghép vào tội phản quốc.

- Não Trạng ông bình vôi: Những kẻ mê tín không nhìn thấy những người chống đối đứng trên vị trí nào để chống đối và người ta chống đối với mục đích gì. Họ phải biết rằng người tín hữu đồng thời cũng là công dân của đất nước nên có quyền và có bổn phận chống những tên phản quốc và những kẻ tán trợ tội phản quốc. Cứ xem những nguyên nhân đưa đến chống đối, người ta có thể biết những người chống đối đứng ở vị trí nào và hành động cho mục đích gì. Họ không chống đối hoặc phê phán bất cứ một giáo điều hay luật lệ nào của GH, mà chỉ chống đối đường lối và những hành động của HĐGM liên quan đến đất nước gây tác hại cho Dân Tộc. Như vậy rõ ràng là những người chống đối họ đứng trên cương vị công dân để hành động, chứ không phải trên cương vị người tín hữu. Và mục đích của họ là để bảo vệ đất nước và đồng thời cũng bảo vệ GH. Đồng bào khác tôn giáo cũng chia sẻ quan điểm của những người chống đối, nhưng vì sự tế nhị của vấn đề, họ không lên tiếng.

- Phản ứng lưỡi gỗ: Trong một xã hội văn minh và có văn hóa, nguyên tắc đi tìm sự thật cho các vấn đề tranh cãi là tranh luận dân chủ và ngay thẳng. Đám con chiên mê tín không biết lý luận. Họ chỉ biết chửi rủa những gì mà đầu óc đặc sệt của họ cho là chống GH. Điều làm ngạc nhiên là có cả một số linh mục cũng làm như thế. Các linh mục này không giảng giải điều hơn lẽ thiệt, không phân tích cái đúng cái sai cho con chiên, mà cũng chỉ chửi. Họ chửi bới những người không mê tín như họ là kiêu căng, thiếu lòng đạo, ngu dốt, vô giáo dục, hạ cấp. Thậm chí họ chửi người khác là đồ chó săn, quân súc sanh, loài cầm thú, “bọn bất lương nhất thế gian, quỷ sẽ đưa cả nhà chúng mày xuống hỏa ngục”. Ôi, tinh thần Phúc Âm, lòng đạo đức của những “con chiên ngoan đạo” là như thế!. Quý bạn đọc cần kiểm chứng cứ vào các trang web công giáo sẽ thấy. Hiện nay những bài chửi đểu, đã được lấy bớt xuống rồi không biết vì lý do gì. Nếu là người đạo hạnh, có văn hóa, họ nên viết lách đàng hoàng, dùng cái đầu để suy nghĩ, dùng ngòi bút để lý luận, để phản biện những người không mê tín như họ. Sự thể cho thấy một khi lòng đạo mất đi lý trí và sự khôn ngoan, niềm tin tôn giáo nơi con người sẽ trở thành mê tín. Người tín hữu dễ trở thành cuồng tín nếu có bàn tay nào đó thọc vào khích động. Nguy hiểm nhất là có những linh mục có học hành đàng hoàng, lợi dụng tính mê tín của con chiên để củng cố địa vị hoặc thủ lợi riêng. Hậu quả càng thê thảm hơn gấp bội.

Thay Cho Lời Kết

Chúng tôi xin mượn một mẩu chuyện nhỏ trong trong cuốn Nhật Ký Truyền Giáo của Lm Piô Ngô Phúc Hậu làm phần kết cho bài viết này. Chuyện như sau:
    Cái Răng, … (Thời VNCH, Cái Răng là một quận lỵ cách thị xã Cần Thơ 5 km trên đường Cần Thơ đi SócTrăng. Ghi chú của người viết)
    Hôm nay mình (cha Hậu) ghé chủng viện Cái Răng. Phòng đầu tiên mà mình bấm chuông là phòng cha giáo Chương. Cha giáo đang duyệt phim.
    - Cha Piô coi phim Les Missions chưa?
    - Về phim ảnh thì mình dốt đặc cán mai, dài cán thón. Bác tóm tắt dùm em coi. Hết sức vắn tắt thôi.
    - Phim mô tả thực dân da trắng tấn công các bộ lạc da đỏ. Các cha truyền giáo thì có hai thái độ: Thái độ một: đứng hẳn về phía người da đỏ, cầm vũ khí chống lại thực dân. Thái độ hai: khước từ bạo lực, chỉ rao giảng và cầu nguyện. Nhưng cuối cùng thì thực dân tấn công và tiêu diệt tất cả. Hàng giám mục địa phương báo cáo về Tòa Thánh như sau:
    “Hàng giáo sĩ của chúng tôi đã đứng ra bênh vực người da đỏ, chống lại thực dân. Có người dùng bạo lực. Có người dùng lời cầu nguyện. Cả hai đều đã chết, nhưng dường như họ vẫn sống. Còn chúng tôi, hàng giám mục thì vẫn còn đang sống. Chúng tôi đang sống, nhưng dường như chúng tôi đã chết.”
    Nội dung chuyện phim cùng với giọng truyền cảm của cha giáo Chương làm mình bị xúc động. Có lẽ mình còn phải suy nghĩ về đề tài này nhiều năm nữa (Lm Ngô Phúc Hậu, Nhật Ký Truyền Giáo trang 78-79).
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Tiên sư Bố! - Trần Văn Giang

Trần Văn Giang

Ông Nguyễn Cao Kỳ (NCK) đã hui nhị tì từ ngày 23/7/2011 (trên hai tháng rồi còn gì!) vậy mà chuyện đi theo sau cái chết của ông loại “chó chết hết chuyện” vẫn chưa thể hết chuyện… Đã từ lâu lắm rồi, tôi không hề quan tâm đến chuyện ông NCK sống như thế nào; thì nay chuyện ông ta chết cũng y như chuyện ông ta sống vậy thôi; Nhưng vì lẽ “cây muốn lặng mà gió không để yên.” “Phe nhà ta” cứ liên tục thay phiên nhau quẳng lên mạng (internet) những câu chuyện khá buồn cười, đánh bóng “thành tích” của ông NCK. Thật ra, chuyện “phe nhà ta” đánh bóng nhau kể cho (giới bình dân gọi là “gắp mắm cho nhau”) cùng cũng chẳng có chết thằng tây nào! Nhưng oan trái là ở chỗ “phe nhà ta” lại nhân cái chuyện “hui nhị tì” và “đánh bóng” này quàng thêm những lời chửi xiên chửi xéo cộng đồng tị nạn cs thì tôi thấy hơi “quá độ.” Tôi đã đọc liên tục 5-6 bài loại này (xin xem bảng liệt kê ở phần tham khảo). Mặc dù tôi không nói rành tiếng Đan Mạch (ĐM); thế mà bây giờ tôi đành phải tìm cách học thêm tiếng Đan Mạch để biết còn cách dùng ngôn ngữ đặc biệt này mà góp vài tiếng vào dòng dư luận chung; trước hết để “gọi là” (so called) tỏ tinh thần “đoàn kết cộng đồng tị nạn cs” sau đó để giới thiệu vài mẩu “sự thật” mong “ơn trên” nhắn nhủ “phe nhà ta” bớt hung hăng con bọ xít…

Và lời chào tiếng Đan Mạch mở hàng cho bài viết này là:

“Tiên sư Bố nó?!”

Một mặt “phe nhà ta” cứ ra rả “nghĩa tử là nghĩa tận;” “phải biết tha thứ,” “không nhốt mình trong tù đầy căn hận,” (*) trong khi mặt khác vợ cũ, con gái, con trai, con rể, và đám đàn em tà loọc… cứ thay phiên nhau chơi đòn “sấm động nam bang:” liên tiếp thả bom thối nổ rất to giữa đám đông trời sáng làm thối um cả trời đất chẳng giống con giáp nào; không còn nể mặt nể mũi ai? Các bài viết “nổ sảng” có chung một công thức đánh bóng ông bố “Bú đà chai” (Buddha‘s Child) tới bến - chỉ còn một tấc nữa là tới trời… Nhưng “sự thật” cho thấy là chưa tới trời (chẳng đi đến đâu cả!) vì vẫn chỉ còn thiếu đúng một tấc.

Bà vợ hơi cũ – vì ông NCK có bà vợ còn cũ hơn bà vợ cũ này! - người vợ mà bàn dân thiên hạ được biết là người đẹp “hoa soan bên thềm cũ,” chính “người,” không biết vô tình hay cố ý, đã mỉa mai binh chủng Không quân, dùng binh chủng oai hùng của QLVNCH như một cái “catwalk” biểu diễn thời trang qua các bộ đồ bay may thật chẽn vào thân thể, khăn quàng cổ mầu tím (?) hoa cà, mắt kiếng mát “à la mode” và giầy da dạ hội. Bà ta đã ly dị ông NCK từ năm Ất dậu nào (hu ke?), đã có lần bà tuyên bố tuyên mẹ những lời “Điệp ơi Lan đã cắt đứt dây chuông,” khá cạn tầu ráo máng như “…chính tôi đã bỏ anh! Tim còn nặng trĩu giận hờn, thù nghịch,” “đã cảm thấy quá mệt mỏi; ngỡ ngàng đến thù hận” hay “giọt nước cuối cùng đã trào khỏi ly!…” Lúc này bà ta lại đem cái “máng” cũ đi rửa lại; đổ bớt nước trong cái ly cũ đầy nước ra và ca rằng (?):

“Anh ơi anh đâu dzồi…’Đã mất anh thật dzồi (!)’”

Bà vợ hơi cũ đánh bóng ông chồng cũ thì chuyện đó, có thể vì thông lệ ngoại giao trước mắt công chúng, cũng không có gì lạ. Chẳng hạn như:

“Anh Kỳ có lỗi riêng với tôi. Nhưng riêng về lý tưởng và lòng yêu nước của anh vẫn chiếm trọn sự ngưỡng mộ của tôi.”

Tuy vậy, bà vợ hơi cũ cũng nhân cái dịp “hui nhị tì” của ông NCK, khai chuyện riêng tư là:

“Tôi thật sự ao ước, có một lần nào đó, gập lại anh và cho anh biết là tôi đã hết giận hờn.”

Lý do bà khai như vậy chỉ tại vì thấy ông NCK lúc gần đây đã có những “thay đổi” làm bà thấy mát lòng mát dạ, nhưng lại làm cộng đồng người Việt tị nạn thấy rõ khuôn mặt thật của ông NCK sau bao nhiêu năm ông chịu khó “nín thở qua sông”:

“…quay về bắt tay với người ngày xưa ở bên kia chiến tuyến, đã chĩa mũi súng vào anh…,” “anh đã chủ trương hòa giải,’ “nên xin trả lại sự thật cho sự thật.”
(xin xem thêm về cái “sự thật của sự thật” của ông NCK sẽ đề cập ở phần dưới).

Cô con gái út “rượu” – cái tên do ông chồng “cũng hơi cũ” của cô đặt cho cô Nguyễn Cao Kỳ Duyên (KD) - KD có lẽ là người hăng tiết vịt và muốn ăn thua đủ nhất! Bởi vì, thứ nhất, cô KD là người có học (học luật?) và là một “em-xi” nổi tiếng có duyên (chưa nói đã cười!) Cô ta lại có một trang mạng cá nhân riêng (KyDuyen house) cho nên cô tha hồ “múa gậy vườn hoang.”

Trong “Điếu văn cho Bố” mà cô đọc trước đám tang ở Mã lai ngày 27/7/2011, ngay sau khi nói vài lời ngoại giao cám ơn mọi người, cô nhanh tay không bỏ lỡ cơ hội đánh bóng ông bố NCK:

“… chúng con thấy rất hãnh diện về lý tưởng, về lòng yêu nước cũng như ‘tinh thần khởi bước hòa bình’ của bố.”(?)

(người viết sẽ viết thêm về cái vụ “tinh thần khởi bước hòa bình của bố” cũng ở phần dưới).

Cô KD đã nêu ra một vấn đề dễ gây tranh luận, chỉ nghe thôi đã thấy không ổn chút nào:

“Bố đúng hay sai, sau này sử xanh sẽ phán xét.”

Vào thời buổi “mì ăn liền,” “thức ăn nhanh” “drive thru services” này, thiên hạ đâu có hưởn mà chờ đến “ngày sau, năm sau, sau này….” Hãy nghe chú Lưu Trọng Văn một văn công cs, con trai của bác “Tiếng thu” Lưu Trọng Lư, từng “giải bầy” về cái vụ “sau này” là:

“… thôi
Làm gì có trăm năm mà đợi
Làm gì có kiếp sau mà chờ...”
(“Về thôi” – Lưu Trọng Văn)

Chưa kể với “cách mạng tin học,” tin tức được truyền đi rộng rãi khá chính xác và sự kiện được ghi lại bằng hình ảnh và âm thanh rất rõ ràng trắng đen không phải phí thời giờ võ đóan chi cả đến bàn dân thiên hạ chỉ trong một vài giây đồng hồ… “Bố đúng hay sai?” thì các “video clips” bố láo của bố đã cho câu trả lời nhãn tiền rồi còn gì nữa? Sử xanh nào (?) (ngoại trừ cái loại sửa xanh “Lê Văn Tám” của cs) vào đây mà phán xét bố nó sau này?

Khoảng cuối tháng 8/2011, khi Thầy Thích Minh Mẫn của chùa Huệ quang (thuộc thành phố Westminster, Orange County, California, USA) từ chối làm lễ giỗ 49 ngày cho ông NCK, thì cô KD cho báo chí biết là gia đình ông NCK đã in giấy mời với thời giờ và địa chỉ (chùa Huệ Quang) về buổi giỗ này đến quan khách rồi. Thầy Minh Mẫn cũng giải thích (và xác nhận) với nhật báo “Người Việt” như sau:

“Lý do phải hủy bỏ lễ cầu siêu của bác Kỳ vì khóa tu học tại chùa trong dịp lễ Lao Ðộng đã kéo dài tới hôm Thứ Hai. Sau đó thì các thầy cô phải trở lại trường học hoặc đi làm. Chùa không có đủ nhân sự để làm lễ cầu siêu và lo thức ăn chay cho 200 người.

Chúng tôi (Chùa Huệ Quang) đã đề nghị với anh Nguyễn Cao Ðạt, con trai của ông Nguyễn Cao Kỳ, rằng nếu gia đình làm ở chùa Tây Lai hay mướn hội trường công cộng nào đó, thầy sẽ làm lễ cầu siêu cho bác Kỳ. Ngày nào cũng được, không nhất thiết là phải đúng 49 ngày. Nhưng cho đến nay, gia đình chưa cho biết gì về ý kiến này.”

Thầy Minh Mẫn đã có “nhận lỗi” với cô KD:

"Thầy không làm lễ cho ông cụ là Thầy thấy tự hổ thẹn với lương tâm lắm rồi… "

Cô KD cho là, theo báo Người Việt, “bỏ qua vấn đề chính trị,” chùa đã nhận đặt cọc $1000.00 từ gia đình cô, thì đây là chuyện vi phạm luật pháp:

“…khi Thầy tự ý ‘cancel’ mà không có một lý do chính đáng (!) thì Thầy đã vi phạm luật gọi là ‘in breach of oral contract.’ ”

Nếu cô KD bớt nóng giận, dừng lại ở lời nói này thì thật đẹp đẽ; có lẽ sẽ có không ít người chịu khó tạm “bỏ qua vấn đề chính trị,” đồng ý với cô KD là chùa “có vấn đề” vì đã không thi hành cái mà cô KD gọi là “oral contract”… Nhưng (chữ “nhưng” tai hại!) cô KD đã nổi dóa, “cả giận mất khôn,” hơi vội vã xổ ra tiếp theo một lô các danh từ “luật (?)” khá cẩu thả chứng tỏ rõ ràng cô KD là luật sư không (hề) hành nghề luật sư đã lâu (!) Cô KD “có cái cảm tưởng” thật tài tình, phong phú, đầy vẻ sáng tạo như sau:

“Không biết có Phật tử nào trong chùa (?) hay một thế lực nào đó (?) trong cộng đồng làm áp lực nên Thầy phải hủy bỏ. Tôi có cảm tưởng (!) như một ‘undercover mafia’.”

Bá ngọ! Giá mà cô KD là luật sư (thiệt hôn?) mà nói vung vít với quan tòa là cô “không biết” rõ nhưng lại đưa ra “cái cảm tưởng” loại này thì cô và vụ kiện của cô chắc chắn sẽ ăn một bát kim chi no nê (nếu cô đưa chùa ra tòa). Luật sư của chùa sẽ “rebut” cái “cảm tưởng” kỳ lạ “hearsay” này và chùa sẽ thắng kiện dễ dàng… Đó là chưa kể là có thể sẽ có một số Phật tử “fanatic” (tôn giáo nào mà chẳng có một số không ít tín hữu loại “quá tích cực” này! Chẳng hạn, tín hữu hồi giáo còn dám đeo cả bom trong người giữa đám đông cho nổ banh càng mọi người chung quanh, có kể gì mạng sống của chính mình!) của chùa Huệ quang cảm thấy họ bị hạ nhục. Ai biết đâu nào? Họ có thể cũng sẽ liều mình bất chấp, “bỏ qua vấn đề luật pháp” đòi “làm việc” với cô cho ra trò thì kể cũng hơi phiền cho cô… Lớn cả rồi; chớ dại dột!

Vâng, thưa cô KD! Xin tạm “bỏ qua vấn đề chính trị,” và “bỏ qua vấn đề luật pháp,” người viết có một đề nghị nho nhỏ: Khi gởi thiệp mời, hay loan báo qua báo chí cho các buổi lể sắp tới của gia đình cô (giỗ 100 ngày, giỗ đầu của bố cô chẳng hạn...) xin cô KD làm phước thêm một hàng nhỏ vào đâu đó trên thiệp mời một cái danh sách chữ nổi mạ vàng tên các quan chức của lãnh sự quán csvn, những người cũng được gia đình cô mời tham dự hôm đó, để một số người Việt quốc gia tị nạn cs thành tâm còn chút tình riêng với ông NCK biết trước mà tránh cái cảnh “bẽ bàng,” “khó xử,” “lúng túng,” “ngỡ ngàng…” như đã từng xẩy ra trong lần lể truy điệu ông NCK tại khu nghĩa trang Rose Hill, California ngày Chủ nhật 7/8/2011 nhe Cô…

Kế tiếp, đến lượt cậu ấm Nguyễn Cao Trí rõ thật là cao trí. Nhân ngày giỗ 49 ngày của bố “Bú đà chai” NCK (vào ngày 8/9/2011), sau khi theo thông lệ sẵn có của gia đình Nguyễn-Cao, đánh bóng bố như sau:

“Bố đã tận tụy cả đời cho tổ quốc. Cho đến lúc chết bố vẫn còn trong sạch (?)” (Chời đất! Thiệt hôn?)

Và:

“Bố đã tận hết sức với mấy chục triệu người Việt và chúng con cũng hãnh diện là Bố đã làm như thế (?)” (Hết biết!)

Nếu cậu Cao trí này cứ thong thả dừng bút “un-point-final” ở đây thì mọi người dầu sao cũng thông cảm cho vai trò con cái, lúc nào / con ai cũng vậy, cần phải biểu lộ sự kính trọng đối với đấng sinh thành; Nhưng (lại nhưng!) đằng này, cậu lại “ngựa con háu đá;” tính phóng một cú đá giò lái vào chỗ vị trí nằm khoảng bên dưới thắt lưng cộng động tị nạn cs – một cộng đồng khá phức tạp xưa nay vốn dĩ không có nhiều thiện cảm cho lắm với ông bố NCK:

“Thưa Bố, con thấy một số nhỏ người Việt ở đây ‘hèn hạ’ lắm Bố ơi (!)”(OMG!?)

Chờ một chút (“Wait a minute!”) Cậu Cao trí có hiểu nghĩa của chữ “hèn” là gì không? Cậu hình như đã quên bẵng đi là “bố nó” đã công khai giữa ban ngày ban mặt đưa, đẩy ý nghĩa của chữ “hèn” này lên một đẳng cấp mới… Nếu lỡ cậu chưa có dịp, hay “không biết” thi xin cậu làm ơn mở xem lại cái “video clip” “sự thật” đã được thâu hình từ lâu rồi mà bây giờ sau khi “bố nó đã đi dzồi,” chính quyền Hà nội (qua đài truyền hình vi-xi) vừa mới cho phát tán trên mạng: http://www.youtube.com/watch?v=3GzYOkgS-fw&feature=related



Nếu phải che cái màn ảnh nhỏ TV đi, không xem hình mà chỉ nghe âm thanh thôi (phần audio) thì người nghe, nếu không lãng tai, sẽ nghe thật đúng, thật rõ ràng các ngôn từ, bài bản mà chính quyền csvn vẫn ra rả chửi người Việt tị nạn cs ở ngòai nước; chứ có ai tin đó là lời nói của một ông cựu tướng lãnh QLVNCH, một ông cựu thủ tướng, một ông cựu phó tổng thống của chính phủ VNCH??? Ông NCK đã không thèm đâm sau lưng mà ông NCK đã ngang nhiêm đâm vào ngay trước ngực những người dân, quân, cán chính đã hy sinh cả cuộc đời họ để ông được sống lâu thêm, lấy thêm vợ, có dịp về Việt Nam sủa bậy. Ông NCK tự bôi đen mặt mình, không hề ngượng mồm (mà lại còn làm mặt với giọng nói tỏ vẻ tức giận cho thêm “ấn tượng” !!!) Ông NCK gọi những người bị ông đâm (trước ngực) là “một lũ côn đồ, một lũ phản quốc, hám danh hám lợi, lường gạt???” rồi sau đó ông xin vi-xi cho phép cho ông được tham gia vào việc “hòa giải dân tộc…” Nhìn lại, cho đến khi ông hui nhị tì, ông NCK đã về Việt Nam hơn 7 năm; Ông NCK đã làm được những gì mà vợ con ông đã vội “đánh bóng” là: “… đã chủ trương hòa giải,” “tinh thần khởi bước hòa bình???” chết tiệt của ông?

Nếu gọi ông NCK là “hèn” thì đây là một sỉ nhục lớn cho những người thật sự “hèn” vì ông còn “xuống cấp” thấp hơn cái cấp “hèn…” bình thường.

Sau chót, nhưng chưa phải là hết chuyện! Có anh chàng con rể luật sư hơi cũ Trịnh Hội (vì còn có anh con rễ cũ hơn anh này nữa kìa – thiệt tình! gia đình ông NCK sao có nhiều đồ cũ quá há?) viết một bài “trải lòng mình” nhưng thực ra cũng lại để “đánh bóng” ông bố vợ cũ rất tuyệt với tựa đề là “Bố Kỳ.” Theo phong tục, người Việt thường xem rể là người ngoài, nhất là rể đã “legally” ra rìa rồi, có nghĩa là ngòai của bên ngoài? thì rể có nói trời nói đất về bên nhà vợ cũng khó lấy được sự thông cảm (credits) của nhà vợ cũ. Nên biết chính cái bài “giải độc” của anh chàng lục sự (typo?) này viết mà anh gọi là “muốn viết đôi dòng cho những ai chưa hiểu về Bố!” là “giọt nước làm cho ly nước đầy” của tôi (người viết) tràn… Anh Trịnh Hội đem “4 năm làm con rể bố” ra so sánh với trên 30-40 năm và một chục cái “video clips” mà dân tị nạn cs đã biết bố anh ta, rồi nói:

“Tôi nghĩ đối với bất cứ trường hợp nào chính chúng ta phải sống và phải trải qua những kinh nghiệm của người mà chúng ta muốn phê phán, chúng ta phải bước qua những khổ đau của họ, phải biết khóc cười với thân phận của chính họ từ lúc họ mới ra đời cho đến ngày họ trưởng thành, thấy những gì chỉ có họ đã thấy, nghe những câu chuyện chỉ có họ được nghe, chỉ đến khi ấy tôi nghĩ họa chăng chúng ta mới có thể hiểu được tại sao và trong hoàn cảnh nào họ đã chọn con đường mà họ đã chọn, xử sự theo cách mà chỉ có họ mới có đủ thẩm quyền để quyết định cho riêng họ.

Còn không thì tất cả chỉ là đoán… mò.” (Ậy! Láo lếu vừa vừa thôi cha nội lục sự!)

Muốn “spin,” giải độc, hay chữa lửa miễn phí thì cũng biết điều, biết người biết ta một tí. Tôi cũng “đoán mò” là lúc này anh Trịnh Hội đang thất nghiệp, có nhiều thời giờ huởn thì thế nào chẳng có dịp xem mấy cái “video clips” của “Bố Kỳ?” Nếu có xem và nghe rồi thì nhìn lại bản thân anh… có lẽ anh Trịnh Hội cũng nhận ra phần nào chính anh là một trong những thành viên của cái “lũ côn đồ, một lũ phản quốc, hám danh hám lợi, lường gạt???” mà ông Bố cũ đã gọi đám người tị nạn cs. Phần anh, anh cũng đã từng bị bàn dân tị nạn ác ý vin cho cái tội “hám” cái danh hão nhẩy bàn độc mà phí đi cả một cái tương lai sán lạn cá nhân anh để lấy cô con gái út rượu đã có cái “resumé” hơi dài rồi.

Sau phần giải độc thì anh Trịnh Hội không quên đánh bóng ông Bố cũ một phát cho nó có vẻ thấm nhuần văn hóa nhà vợ (cũ):

“… tôi thật sự khâm phục cái ‘Dũng’ (viết hoa) ở nơi bố. Đó là ông dám làm, dám nói.” (Tuyệt chiêu!)

Thật buồn cười. “Dám làm và đám nói” chuyện phải thì mới khá… chứ nói bậy và làm bậy thì, như ông anh vợ cũ Cao trí đã nói ở trên rồi (‘hèn hạ’ lắm Bố ơi! ) chứ “Dũng,” có vẻ hơi kẹt đạn…

Nói tóm lại qua hình ảnh và âm thanh sống thực đã được ghi lại, chúng ta thấy không còn có lý do gì an toàn để biện hộ cho ông NCK nữa. Ông ta chỉ là một người phản bội, hèn hạ, vô liêm sỉ, một thứ cặn bã của người Việt quốc gia chống cs. Già đầu cỡ này mà ông vẫn còn chẳng hiểu “son mother” gì ráo! Vẫn còn quá khờ khạo tin là ông có thể cảm hoá, có thể hòa giải được với cs. Ông có cần được ở “tù cải tạo” một thời gian để có thể khôn hơn không? Mẹ kiếp! Miền Nam có Tư lịnh Không quân. Thủ tướng, Phó tổng thống mà như vậy hèn chi đám dân đen miền Nam Việt Nam “see mother” gần hết ráo trọi…

Riêng “phe nhà ta” thật sự còn nghĩ đến bố NCK thì chuyện đâu còn có đó, cứ thong thả để cho “bố” nó nằm yên trong “lọ tro cốt” đặt ở chùa tầu Tây lai (Hsi Lai Temple), hằng ngày được nghe kinh tầu; đừng có dại mà lôi cái lọ (tro cốt) mà đánh bóng để người ta lại có dịp phải chửi ông thêm nữa có tội.

Cầu mong linh hồn ông NCK tiếp tục “bám trụ” chùa tầu Tây lai cho đến ngàn thu; vì ở “cuối trời thênh thang…” nào đó đang có cái đám người mà ông đã gọi là “một lũ côn đồ, một lũ phản quốc, hám danh hám lợi, lường gạt…” đã vắn số hơn ông; và những người quân cán chính VNCH đã bỏ mình ngoài mặt trận cũng như tại những nhà tù cs; những người đi tị nạn cs đã chết trên đường tìm tự do đang xếp hàng chờ ông từng giây từng phút để họ sẽ thay phiên nhau “làm việc” với ông ???

Trên trời có… Tiên
Ở chùa có … sư
Ở chùa (tầu) cũng có… Bố
Ở đây chỉ có… nó!!!

Thiện tai… thiện tai… Hay là cứ mặc kệ nó… cho đỡ đau dầu?

Cẩn cáo.

Trần Văn Giang
_______
Ghi chú: (*) Những chữ in nghiêng trong ngoặc kép được trích “nguyên văn” từ các bài viết truy cập trên mạng.
________
Tài liệu tham khảo:

Qua các bài viết sau đây (đọc giả có thể tìm đọc thêm trên mạng – dùng “Google search” cái tựa bài):

- “Đã mất anh thật rồi” – Đặng Tuyết Mai.
- “Điếu Văn của Nguyễn Cao Kỳ Duyên đọc cho Bố Nguyễn Cao Kỳ” - Nguyễn Cao Kỳ Duyên.
- “Kỳ Duyên phát biểu về việc chùa không cho làm giỗ 49 ngày tướng Nguyễn Cao Kỳ” – Nhật báo người Việt.
- “Cửa Chùa Khép Kín” – Nguyễn Cao Kỳ Duyên.
- “Ngày sinh nhật của Bố`” – Nguyễn Cao Trí.
- “Bố Kỳ” – Trịnh Hội.