(website của U.S. Department of State)
Bản Điều Trần của Ô. Scot Marciel – Phụ Tá Thứ Trưởng Ngọai Giao
trước Ủy Ban Đối Ngọai của Thượng Viện Hoa Kỳ
ngày 15/07/09 về:
Maritime Issues and Sovereignty Disputes in East Asia
(Những Vấn Đề Về Biển và Những Tranh Chấp Chủ Quyền Tại Đông Á)
Bản dịch của Đào Văn Bình
Thưa TNS Chủ Tịch Jim Web và quý vị trong Tiểu Ban. Tôi rất hân hạnh được điều trần trước quý vị ngày hôm nay về vấn đề biển và những tranh chấp chủ quyền tại Đông Á. Hải đồ chạy xuyên qua Đông Á là một trong vài thủy lộ tấp nập và quan trọng nhất về mặt chiến lược của thế giới. Nó là huyết mạch chính yếu đã và đang tiếp sức vào sự phát triển kinh tế to lớn của các quốc gia trong vùng và đồng thời cũng đem lại sự phồn thịnh kinh tế cho Hoa Kỳ. Hằng tỷ đô la về thương mại - hầu hết ngọai thương của Á Châu với thế giới, trong đó có Hoa Kỳ - hằng năm đều thông qua thủy lộ này. Hơn phân nửa số hạm đội thương thuyền của thế giới mỗi năm đều dong buồm qua Biển Nam Hải.
Hoa Kỳ từ lâu đã có quyền lợi sinh tử trong việc duy trì sự ổn định, tự do đi lại và quyền có những họat động thương mại hợp pháp tại những thủy lộ của Đông Á. Trong nhiều thập niên, việc Hoa Kỳ tích cực can dự vào Đông Á – kể cả việc triển khai sự hiện diện của Hải Quân Hoa Kỳ trong vùng- là yều tố trung tâm gìn giữ hòa bình và duy trì những quyền quyền lợi nói ở trên. Điều đó tiếp tục đúng cho tới ngày hôm nay. Thông qua ngọai giao, thương mại và sự hiện diện quân sự chúng ta đã bảo vể những quyền lợi sinh tử của Hoa Kỳ. Những mối liên hệ với đồng minh của chúng ta vẫn mạnh, khu vực này vẫn yên ổn, và như quý vị đã biết, Hải Quân Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ cần thiết với tất cả khả năng của mình (full range) đề bảo vệ đất nước và duy trì quyền lợi.
Sự hiện diện (về quân sự) và chính sách của chúng ta nhằm hỗ trợ cho việc tôn trọng luật hàng hải quốc tế, kể cả Công Ước của LHQ về Luật Biển. Mặc dù Hoa Kỳ không phê chuẩn công ước đó, như TNS chủ tịch đã biết, nội các hiện hành và các tổng thống tiền nhiệm cũng đều hỗ trợ việc tôn trọng những quy ước này và tàu bè của chúng ta cũng tuân thủ những quy định theo truyền thống về việc xử dụng các đại dương.
Vấn đề về biển và những tranh chấp chủ quyền tại Đông Á rất đa diện và phức tạp. Nếu được phép của TNS chủ tịch, tôi xin tập trung vào ba chủ đề:
- Trước hết, việc tranh chấp chủ quyền đa phương tại Biển Nam Hải.
- Thứ hai, những biến cố liên quan đến Trung Quốc và những họat động của tàu chiến Hoa Kỳ trong vùng biển quốc tế và trong Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của quốc gia đó.
- Và sau hết, khuôn khổ chiến lược của những vấn đề rất hiển nhiên và Hoa Kỳ phải phản ứng như thế nào.
Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương và Brunei đều tuyên bố chủ quyền của mình trên Biển Nam Hải, kể cả những phần đất phụ thuộc của nó (land features). Bề rộng mỗi bên đòi về phần mình khác biệt rất xa, cũng như cường độ đòi hỏi. Việc tuyên bố chủ quyền tập trung vào khu vực gồm trên 200 đảo nhỏ, đá và đá ngầm của hai Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cho dù có tranh chấp chủ quyền, Biển Nam Hải vẫn yên tĩnh (at peace). Sự căng thẳng giữa các bên lên xuống bất thường. Cho đến ngày hôm nay, sự tranh chấp chưa đưa tới xung đột về quân sự. Năm 2002, các quốc gia ASEAN và Trung Quốc đã ký vào “Bản Hướng Dẫn Cho Các Bên Trong Vùng Biển Nam Hải”. Dù không có hiệu lực cưỡng hành nhưng nó cũng đề ra những nguyên tắc hữu ích, chẳng hạn như các quốc gia cần “giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa bình” và “cố gắng tự chế” và “tái khẳng định tôn trọng và cam kết quyền tự do lưu thông trên mặt biển cũng như trên không của vùng Biển Nam Hải theo đúng những nguyên tắc của luật quốc tế đã được thế giới công nhận, kể cả Công Ước 1982 về Luật Biển của LHQ.”
Quan trọng hơn nữa, Bản Hướng Dẫn năm 2002 đã bày tỏ thiện chí của các quốc gia tìm cách hợp tác đa phương để giải quyết các tranh chấp. Chúng ta hoan nghênh thỏa thuận này vì nó hạ bớt căng thẳng giữa các quốc gia và cũng cố thêm vị trí của tổ chức Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN). Thỏa hiệp đó không lọai bỏ được những căng thẳng cùng những hành động đơn phương của các quốc gia trong vùng - nhưng nó là bước khởi đầu, một căn bản tốt qua đó để nói lên những tranh chấp ở trong vùng bằng hình thức ngọai giao.
Chính sách của chúng ta tiếp tục là không đứng về phía nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền tại Biển Nam Hải. Nói khác đi, chúng ta không ngả theo bên nào trong việc tuyên bố chủ quyền trên các đảo và những phần phụ thuộc. Tuy nhiên chúng ta quan ngại về những lời tuyên bố về “hải phận” hoặc bất kỳ vùng biển nào không bắt nguồn từ lãnh thổ. Những tuyên bố như thế không phù hợp với luật quốc tế cũng như Công Ước Về Luật Biển.
Chúng ta còn quan ngại tới sự căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc vì cả hai đang tìm cách khai thác trữ lượng dầu và hơi đốt nằm dưới Biển Nam Hải. Bắt đầu từ mùa hè 2007 Trung Quốc yêu cầu Hoa Kỳ và những công ty dầu khí ngọai quốc ngưng công việc thăm dò với Việt Nam nếu không - sẽ phải gánh chịu những hậu quả không báo trước trong việc buôn bán với Trung Quốc.
Chúng ta phản đối bất cứ hành động nào nhằm đe dọa các công ty Hoa Kỳ. Trong chuyến thăm viếng Việt Nam năm 2008, Thứ Trưởng Ngoại Giao lúc bấy giờ là John Negroponte đã xác nhận quyền của các công ty Hoa Kỳ đang hoạt động tại Biển Nam Hải và ông tin rằng những tranh chấp phải được giải quyết bằng giải pháp hòa bình chứ không phải bằng biện pháp cưỡng ép. Chúng ta cũng đã trực tiếp nêu quan tâm đó với Trung Quốc. Tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia không thể giải quyết bằng cách gây áp lực với các công ty không có liên quan gì tới các bên tranh chấp.
Chúng ta cũng thúc dục các bên tự chế, tránh những hành động gây hấn để giải quyết các tương tranh. Chúng ta cũng chỉ rõ rằng chúng ta phản đối sự đe dọa hoặc dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp cũng như bất cứ hành vi nào ngăn cản quyền tự do đi lại trên biển. Chúng ta mong muốn một giải pháp phù hợp với luật quốc tế kể cả Công Ước Của LHQ Về Luật Biển.
Ngòai ra cũng còn một số những tranh chấp liên quan đến biển ở Đông Á. Nhật Bản và Trung Quốc có những khác biệt về giới hạn của Vùng Đặc Quyền Khai Thác Kinh Tế cũng như chủ quyền trên Đảo Senkaku. Những tranh chấp này ít gây chú ý hơn là những tranh chấp ở Biến Nam Hải. Chúng ta tiếp tục theo dõi diễn biến của tất cả những tranh chấp này khi mà những tranh cãi có thể leo thang rất nhanh ở một khu vực mà tinh thần quốc gia biểu lộ mạnh mẽ.
Giờ đây tôi xin trình bày về diễn biến mới xảy ra liên quan đến Trung Quốc và tàu chiến của Hoa Kỳ họat động tại vùng hải phận quốc tế bên trong Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của quốc gia đó. Vào Tháng Ba 2009, tàu khảo sát Impeccable tiến hành nhiệm vụ thường lệ phù hợp với luật quốc tế và ở trong hải phận quốc tế ở Biển Nam Hải. Những hành vi khiêu khích của tàu đánh cá Trung Quốc khiến cho cả hai phía ở vào tình trạng nguy hiểm, ngăn cản việc tự do đi lại trên biển và không phù hợp với nghĩa vụ của các tàu di chuyển trên biển là phải tôn trọng sự an tòan của các tàu khác. Chúng ta lập tức phản đối những hành động đó với nhà cầm quyền Trung Quốc và đòi hỏi rằng những dị biệt phải được giải quyết bằng phương thức đối thoại chứ không phải bằng cách tàu-đối diện-tàu khiến thủy thủ và tàu ở vào tình trạng hiểm nguy.
Điều lo ngại của chúng ta tập trung vào điểm mà Trung Quốc cho rằng họ có thẩm quyền hợp pháp đối với những tàu khác đang đi lại trong Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của họ và phương thức nguy hiểm mà Trung Quốc xử dụng để xác định thẩm quyền của họ.
Quan điểm về quyền hạn này của Trung Quốc không phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng ta đã trình bày rõ điều đó trong những cuộc thảo luận với Trung Quốc và nhấn mạnh rằng các tàu của Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tuần hành một cách hợp pháp trong các hải phận quốc tế như đã từng làm trong quá khứ.
Tôi có thể nói rằng từ giữa Tháng Năm đã không có thêm cuộc khiêu khích nào của tàu đánh cá Trung Quốc.
Để kết thúc, tôi muốn nhìn vào cả hai mối lo ngại của chúng ta- những lo ngại về Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của Trung Quốc và những tuyên bố về lãnh hải lấn qua/choàng qua (overlapping) vùng của các quốc gia khác trong một khuôn khổ chiến lược rộng lớn hơn. Nói một cách cụ thể, những điều này có ý nghĩa gì đối với công pháp quốc tế và cho sự triển khai quyền lực mạnh mẽ (tại vùng này) và Hoa Kỳ phải phản ứng như thế nào?
Biến cố Impeccable và những tranh chấp chủ quyền trong vùng Biển Nam Hải là những vấn đề hiển nhiên và đòi hỏi phản ứng rõ ràng từ Hoa Kỳ. Ở tầm mức chiến lược, trên một mức nào đó cả hai vấn đề đã làm nổi bật quyết tâm của Trung Quốc trong vấn đề khẳng định chủ quyền trên biển của họ. Trong một vài trường hợp, chúng ta không đồng quan điểm hoặc thậm chí không hiểu nổi sự giải thích về luật biển của Trung Quốc.
Tuy vậy, chúng ta tin rằng còn có những giải pháp xây dựng để giải quyết những vấn đề khó khăn này. Chúng ta tôn trọng quyền tự do đi lại của các chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ trong Vùng Đặc Quyền Khai Thác Kinh Tế, chúng ta đã thúc giục Trung Quốc trình bày những dị biệt qua đối thoại. Tuần rồi trong các buổi Đàm Luận Tư Vấn Về Quốc Phòng (Defense Conslultative Talks) tại Bắc Kinh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Michele Flournoy đã đưa ra vấn đề này và Trung Quốc đồng ý tổ chức một buổi hội luận đặc biệt trong khuôn khổ Thỏa Hiệp Tư Vấn Về Hàng Hải Quân Sự (ký năm 1988) để bàn thảo và tìm cách giải quyết những dị biệt.
Còn đối với việc tranh chấp chủ quyền trên Biển Nam Hải, chúng ta đã khuyến khích các bên tìm kiếm giải pháp trong khuôn khổ Công Uớc LHQ Về Luật Biển cùng những thỏa hiệp đã có giữa ASEAN và Trung Quốc.
Sự khẳng định chủ quyền của một số các quốc gia trong vùng Biển Đông đã đưa tới những câu hỏi quan trọng đôi khi rắc rối cho cộng đồng thế giới liên quan đến việc thông quá các thủy lộ và nguồn tài nguyên. Có rất nhiều mù mờ (ambiguity) trong sự tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Nam Hải, vừa về mặt biên giới thực sự và liệu đó có phải là sự khẳng định lãnh hải của mình trên tòan bộ vùng biển hay chỉ trên các phần đất phụ thuộc (land features). Trong quá khứ, mù mờ này tác động không bao nhiêu đối với quyền lợi của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nó đã trở thành mối lo ngại khi các công ty năng lượng của chúng ta phải chịu áp lực từ Trung Quốc cũng như một vài khối/mô nằm xa ở ngòai khơi
(offshore blocks) cũng nằm trong đòi hỏi của Trung Quốc khi những khối/mô này không nằm trong công bố chủ quyền của họ. Sẽ là điều lợi ích cho tất cả các bên khi Trung Quốc làm sáng tỏ hơn về bản chất (nội dung) trong những công bố của họ.
Chúng ta cần phải cảnh giác để quyền lợi của chúng ta được bảo vệ và tăng tiến. Khi chúng ta có những lo ngại, chúng ta sẽ nêu ra một cách thẳng thắn như chúng ta đã làm khi Trung Quốc áp lực các công ty Hoa Kỳ.
Chúng ta ghi nhận Trung Quốc đã có những biện pháp hòa giải để giải quyết những tranh chấp về biên giới. Chẳng hạn, năm ngoái, Việt Nam và Trung Quốc đã ký thỏa hiệp phân định lại biên giới. Chính sách tổng quát của Trung Quốc đối với Đông Nam Á đề cao tình hữu nghị và láng giềng tốt (* cái này phải xét lại). Cũng lại như thế, việc triển khai chống hải tặc của Trung Quốc tại Vịnh Aden đã đóng góp tích cực vào mối lo chung của thế giới. Chúng ta phấn khởi trước những bước như vậy và hy vọng Trung Quốc sẽ ứng dụng tiến trình xây dựng như thế trong việc công bố chủ quyền trên biển và biên giới của họ.
Thưa TNS chủ tịch, chúng ta có quan hệ rộng rãi với Trung Quốc nó bao gồm rất nhiều nhiều vấn đề chiến lược sinh tử trọng yếu cho cả hai quốc gia. Chúng ta đồng ý chặt chẽ (agree closely) với họ trên một số vấn đề; còn những vấn đề khác chúng ta có những khác biệt hòan tòan. Mối liên hệ song phương đó khiến chúng ta có thể dàn xếp và tôn trọng những khác biệt và trình bày trong tinh thần trách nhiệm qua đối thọai.
Bản dịch của Đào Văn Bình
(Dấu * là phụ chú của người dịch)
Hoa Kỳ từ lâu đã có quyền lợi sinh tử trong việc duy trì sự ổn định, tự do đi lại và quyền có những họat động thương mại hợp pháp tại những thủy lộ của Đông Á. Trong nhiều thập niên, việc Hoa Kỳ tích cực can dự vào Đông Á – kể cả việc triển khai sự hiện diện của Hải Quân Hoa Kỳ trong vùng- là yều tố trung tâm gìn giữ hòa bình và duy trì những quyền quyền lợi nói ở trên. Điều đó tiếp tục đúng cho tới ngày hôm nay. Thông qua ngọai giao, thương mại và sự hiện diện quân sự chúng ta đã bảo vể những quyền lợi sinh tử của Hoa Kỳ. Những mối liên hệ với đồng minh của chúng ta vẫn mạnh, khu vực này vẫn yên ổn, và như quý vị đã biết, Hải Quân Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ cần thiết với tất cả khả năng của mình (full range) đề bảo vệ đất nước và duy trì quyền lợi.
Sự hiện diện (về quân sự) và chính sách của chúng ta nhằm hỗ trợ cho việc tôn trọng luật hàng hải quốc tế, kể cả Công Ước của LHQ về Luật Biển. Mặc dù Hoa Kỳ không phê chuẩn công ước đó, như TNS chủ tịch đã biết, nội các hiện hành và các tổng thống tiền nhiệm cũng đều hỗ trợ việc tôn trọng những quy ước này và tàu bè của chúng ta cũng tuân thủ những quy định theo truyền thống về việc xử dụng các đại dương.
Vấn đề về biển và những tranh chấp chủ quyền tại Đông Á rất đa diện và phức tạp. Nếu được phép của TNS chủ tịch, tôi xin tập trung vào ba chủ đề:
- Trước hết, việc tranh chấp chủ quyền đa phương tại Biển Nam Hải.
- Thứ hai, những biến cố liên quan đến Trung Quốc và những họat động của tàu chiến Hoa Kỳ trong vùng biển quốc tế và trong Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của quốc gia đó.
- Và sau hết, khuôn khổ chiến lược của những vấn đề rất hiển nhiên và Hoa Kỳ phải phản ứng như thế nào.
Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương và Brunei đều tuyên bố chủ quyền của mình trên Biển Nam Hải, kể cả những phần đất phụ thuộc của nó (land features). Bề rộng mỗi bên đòi về phần mình khác biệt rất xa, cũng như cường độ đòi hỏi. Việc tuyên bố chủ quyền tập trung vào khu vực gồm trên 200 đảo nhỏ, đá và đá ngầm của hai Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cho dù có tranh chấp chủ quyền, Biển Nam Hải vẫn yên tĩnh (at peace). Sự căng thẳng giữa các bên lên xuống bất thường. Cho đến ngày hôm nay, sự tranh chấp chưa đưa tới xung đột về quân sự. Năm 2002, các quốc gia ASEAN và Trung Quốc đã ký vào “Bản Hướng Dẫn Cho Các Bên Trong Vùng Biển Nam Hải”. Dù không có hiệu lực cưỡng hành nhưng nó cũng đề ra những nguyên tắc hữu ích, chẳng hạn như các quốc gia cần “giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa bình” và “cố gắng tự chế” và “tái khẳng định tôn trọng và cam kết quyền tự do lưu thông trên mặt biển cũng như trên không của vùng Biển Nam Hải theo đúng những nguyên tắc của luật quốc tế đã được thế giới công nhận, kể cả Công Ước 1982 về Luật Biển của LHQ.”
Quan trọng hơn nữa, Bản Hướng Dẫn năm 2002 đã bày tỏ thiện chí của các quốc gia tìm cách hợp tác đa phương để giải quyết các tranh chấp. Chúng ta hoan nghênh thỏa thuận này vì nó hạ bớt căng thẳng giữa các quốc gia và cũng cố thêm vị trí của tổ chức Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN). Thỏa hiệp đó không lọai bỏ được những căng thẳng cùng những hành động đơn phương của các quốc gia trong vùng - nhưng nó là bước khởi đầu, một căn bản tốt qua đó để nói lên những tranh chấp ở trong vùng bằng hình thức ngọai giao.
Chính sách của chúng ta tiếp tục là không đứng về phía nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền tại Biển Nam Hải. Nói khác đi, chúng ta không ngả theo bên nào trong việc tuyên bố chủ quyền trên các đảo và những phần phụ thuộc. Tuy nhiên chúng ta quan ngại về những lời tuyên bố về “hải phận” hoặc bất kỳ vùng biển nào không bắt nguồn từ lãnh thổ. Những tuyên bố như thế không phù hợp với luật quốc tế cũng như Công Ước Về Luật Biển.
Chúng ta còn quan ngại tới sự căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc vì cả hai đang tìm cách khai thác trữ lượng dầu và hơi đốt nằm dưới Biển Nam Hải. Bắt đầu từ mùa hè 2007 Trung Quốc yêu cầu Hoa Kỳ và những công ty dầu khí ngọai quốc ngưng công việc thăm dò với Việt Nam nếu không - sẽ phải gánh chịu những hậu quả không báo trước trong việc buôn bán với Trung Quốc.
Chúng ta phản đối bất cứ hành động nào nhằm đe dọa các công ty Hoa Kỳ. Trong chuyến thăm viếng Việt Nam năm 2008, Thứ Trưởng Ngoại Giao lúc bấy giờ là John Negroponte đã xác nhận quyền của các công ty Hoa Kỳ đang hoạt động tại Biển Nam Hải và ông tin rằng những tranh chấp phải được giải quyết bằng giải pháp hòa bình chứ không phải bằng biện pháp cưỡng ép. Chúng ta cũng đã trực tiếp nêu quan tâm đó với Trung Quốc. Tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia không thể giải quyết bằng cách gây áp lực với các công ty không có liên quan gì tới các bên tranh chấp.
Chúng ta cũng thúc dục các bên tự chế, tránh những hành động gây hấn để giải quyết các tương tranh. Chúng ta cũng chỉ rõ rằng chúng ta phản đối sự đe dọa hoặc dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp cũng như bất cứ hành vi nào ngăn cản quyền tự do đi lại trên biển. Chúng ta mong muốn một giải pháp phù hợp với luật quốc tế kể cả Công Ước Của LHQ Về Luật Biển.
Ngòai ra cũng còn một số những tranh chấp liên quan đến biển ở Đông Á. Nhật Bản và Trung Quốc có những khác biệt về giới hạn của Vùng Đặc Quyền Khai Thác Kinh Tế cũng như chủ quyền trên Đảo Senkaku. Những tranh chấp này ít gây chú ý hơn là những tranh chấp ở Biến Nam Hải. Chúng ta tiếp tục theo dõi diễn biến của tất cả những tranh chấp này khi mà những tranh cãi có thể leo thang rất nhanh ở một khu vực mà tinh thần quốc gia biểu lộ mạnh mẽ.
Giờ đây tôi xin trình bày về diễn biến mới xảy ra liên quan đến Trung Quốc và tàu chiến của Hoa Kỳ họat động tại vùng hải phận quốc tế bên trong Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của quốc gia đó. Vào Tháng Ba 2009, tàu khảo sát Impeccable tiến hành nhiệm vụ thường lệ phù hợp với luật quốc tế và ở trong hải phận quốc tế ở Biển Nam Hải. Những hành vi khiêu khích của tàu đánh cá Trung Quốc khiến cho cả hai phía ở vào tình trạng nguy hiểm, ngăn cản việc tự do đi lại trên biển và không phù hợp với nghĩa vụ của các tàu di chuyển trên biển là phải tôn trọng sự an tòan của các tàu khác. Chúng ta lập tức phản đối những hành động đó với nhà cầm quyền Trung Quốc và đòi hỏi rằng những dị biệt phải được giải quyết bằng phương thức đối thoại chứ không phải bằng cách tàu-đối diện-tàu khiến thủy thủ và tàu ở vào tình trạng hiểm nguy.
Điều lo ngại của chúng ta tập trung vào điểm mà Trung Quốc cho rằng họ có thẩm quyền hợp pháp đối với những tàu khác đang đi lại trong Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của họ và phương thức nguy hiểm mà Trung Quốc xử dụng để xác định thẩm quyền của họ.
Quan điểm về quyền hạn này của Trung Quốc không phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng ta đã trình bày rõ điều đó trong những cuộc thảo luận với Trung Quốc và nhấn mạnh rằng các tàu của Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tuần hành một cách hợp pháp trong các hải phận quốc tế như đã từng làm trong quá khứ.
Tôi có thể nói rằng từ giữa Tháng Năm đã không có thêm cuộc khiêu khích nào của tàu đánh cá Trung Quốc.
Để kết thúc, tôi muốn nhìn vào cả hai mối lo ngại của chúng ta- những lo ngại về Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của Trung Quốc và những tuyên bố về lãnh hải lấn qua/choàng qua (overlapping) vùng của các quốc gia khác trong một khuôn khổ chiến lược rộng lớn hơn. Nói một cách cụ thể, những điều này có ý nghĩa gì đối với công pháp quốc tế và cho sự triển khai quyền lực mạnh mẽ (tại vùng này) và Hoa Kỳ phải phản ứng như thế nào?
Biến cố Impeccable và những tranh chấp chủ quyền trong vùng Biển Nam Hải là những vấn đề hiển nhiên và đòi hỏi phản ứng rõ ràng từ Hoa Kỳ. Ở tầm mức chiến lược, trên một mức nào đó cả hai vấn đề đã làm nổi bật quyết tâm của Trung Quốc trong vấn đề khẳng định chủ quyền trên biển của họ. Trong một vài trường hợp, chúng ta không đồng quan điểm hoặc thậm chí không hiểu nổi sự giải thích về luật biển của Trung Quốc.
Tuy vậy, chúng ta tin rằng còn có những giải pháp xây dựng để giải quyết những vấn đề khó khăn này. Chúng ta tôn trọng quyền tự do đi lại của các chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ trong Vùng Đặc Quyền Khai Thác Kinh Tế, chúng ta đã thúc giục Trung Quốc trình bày những dị biệt qua đối thoại. Tuần rồi trong các buổi Đàm Luận Tư Vấn Về Quốc Phòng (Defense Conslultative Talks) tại Bắc Kinh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Michele Flournoy đã đưa ra vấn đề này và Trung Quốc đồng ý tổ chức một buổi hội luận đặc biệt trong khuôn khổ Thỏa Hiệp Tư Vấn Về Hàng Hải Quân Sự (ký năm 1988) để bàn thảo và tìm cách giải quyết những dị biệt.
Còn đối với việc tranh chấp chủ quyền trên Biển Nam Hải, chúng ta đã khuyến khích các bên tìm kiếm giải pháp trong khuôn khổ Công Uớc LHQ Về Luật Biển cùng những thỏa hiệp đã có giữa ASEAN và Trung Quốc.
Sự khẳng định chủ quyền của một số các quốc gia trong vùng Biển Đông đã đưa tới những câu hỏi quan trọng đôi khi rắc rối cho cộng đồng thế giới liên quan đến việc thông quá các thủy lộ và nguồn tài nguyên. Có rất nhiều mù mờ (ambiguity) trong sự tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Nam Hải, vừa về mặt biên giới thực sự và liệu đó có phải là sự khẳng định lãnh hải của mình trên tòan bộ vùng biển hay chỉ trên các phần đất phụ thuộc (land features). Trong quá khứ, mù mờ này tác động không bao nhiêu đối với quyền lợi của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nó đã trở thành mối lo ngại khi các công ty năng lượng của chúng ta phải chịu áp lực từ Trung Quốc cũng như một vài khối/mô nằm xa ở ngòai khơi
(offshore blocks) cũng nằm trong đòi hỏi của Trung Quốc khi những khối/mô này không nằm trong công bố chủ quyền của họ. Sẽ là điều lợi ích cho tất cả các bên khi Trung Quốc làm sáng tỏ hơn về bản chất (nội dung) trong những công bố của họ.
Chúng ta cần phải cảnh giác để quyền lợi của chúng ta được bảo vệ và tăng tiến. Khi chúng ta có những lo ngại, chúng ta sẽ nêu ra một cách thẳng thắn như chúng ta đã làm khi Trung Quốc áp lực các công ty Hoa Kỳ.
Chúng ta ghi nhận Trung Quốc đã có những biện pháp hòa giải để giải quyết những tranh chấp về biên giới. Chẳng hạn, năm ngoái, Việt Nam và Trung Quốc đã ký thỏa hiệp phân định lại biên giới. Chính sách tổng quát của Trung Quốc đối với Đông Nam Á đề cao tình hữu nghị và láng giềng tốt (* cái này phải xét lại). Cũng lại như thế, việc triển khai chống hải tặc của Trung Quốc tại Vịnh Aden đã đóng góp tích cực vào mối lo chung của thế giới. Chúng ta phấn khởi trước những bước như vậy và hy vọng Trung Quốc sẽ ứng dụng tiến trình xây dựng như thế trong việc công bố chủ quyền trên biển và biên giới của họ.
Thưa TNS chủ tịch, chúng ta có quan hệ rộng rãi với Trung Quốc nó bao gồm rất nhiều nhiều vấn đề chiến lược sinh tử trọng yếu cho cả hai quốc gia. Chúng ta đồng ý chặt chẽ (agree closely) với họ trên một số vấn đề; còn những vấn đề khác chúng ta có những khác biệt hòan tòan. Mối liên hệ song phương đó khiến chúng ta có thể dàn xếp và tôn trọng những khác biệt và trình bày trong tinh thần trách nhiệm qua đối thọai.
Bản dịch của Đào Văn Bình
(Dấu * là phụ chú của người dịch)
No comments:
Post a Comment