Friday, October 10, 2008

Đỉnh Cao Trí Tuệ của Loài Khỉ


Nguyễn Thanh Ty

Loài khỉ sống hoang dã trong rừng có tính hợp đoàn, quây quần với nhau thành bầy, đàn.

Đứng đầu thường là con khỉ già nhất có nhiều kinh nghiệm tinh ma, ranh mãnh, láu cá để hướng dẫn bầy bọn, con cháu đi bẻ trộm cây trái của nông dân, kiếm ăn.

Đặc tính của khỉ là thông minh, tò mò hay bắt chước và phá phách. Chúng thường kéo bè, kéo lũ xuống các nương rẫy, vườn tược của nông dân để hái trộm trái cây hoăc đôi khi lẽn vào những nhà ven rừng lúc vắng chủ để lục lạo thức ăn.

Khi đến mùa bắp, chúng kéo đến hàng đàn đông đúc, cả trăm con, bứt giây rừng quấn quanh lưng, vào rẫy, bẻ bắp giắt đầy lưng rồi kéo nhau về rừng. Hôm sau lại tái diễn ở nơi khác. Nhiều nơi bị chúng vừa ăn vừa phá gần như tan hoang cả nương rẫy, nhà nông đến phải khốn khổ vì chúng mà không làm sao đánh đuổi được.

Karl Marx đã bỏ công vào rừng sống gần gũi với loài khỉ mười năm, theo dõi và quan sát cách sống và sinh hoạt của khỉ để gom góp tất cả đặc tính của khỉ, viết ra cuốn “Chủ nghĩa Cộng Sản”, chỉ ra cách thức dùng “chuyên chính vô sản” để đi cướp của thiên hạ trên thế giới.

Ban đầu, Marx đặt tên cuốn này là “Chủ nghĩa loài khỉ” nhưng ngẫm nghĩ lại, Marx thấy không ổn. Vì cứ theo như cách của con khỉ già, thì tất cả cây trái hái về buộc phải cất hết trong hang động. Mỗi ngày đến giờ ăn, con khỉ già ra lệnh bộ hạ phân phát, bầy khỉ mới được ăn. Con nào cũng được phần như nhau, mặc dù trước đó khỉ chúa có dụ khị khỉ con rằng chúng mày phải “tích cực lao động để làm ra của cải vật chất, làm giàu cho bầy đàn” nghĩa là “hái tùy sức còn gặm thì tùy cầu”.

Quan sát một thời gian rất lâu cách thức gom chung và phân phối, Marx mới nghĩ ra được hai chữ “cộng sản”. Hai chữ này thật “cực kỳ chính xác” vừa có vẻ trí thức, vừa văn minh dùng cho loài người rất hợp “logic”. Vì vậy Marx quyết định thay tên ban đầu “Chủ nghĩa loài khỉ” bằng tên mới là “Chủ nghĩa cộng sản”.

Giống như “Bác Hồ” thấy tên “Đảng Cộng sản” ban đầu không dụ được ai theo nên đem giấu đi, đổi tên khác thành “Đảng Lao Động” để dễ đánh lừa lòng yêu nước của dân chúng vậy. Chỉ là cái mánh đổi bình chứ rượu dỏm bên trong vẫn y như cũ.

Thật ra nội dung hai cái tên y như nhau, cũng đều là dùng bạo lực để đi ăn cướp mà thôi. Chỉ khác nhau có mỗi cái chữ “đấu tranh giai cấp” để có vẽ như có tính người hơn tính thú một chút.

Và người thì có kèm theo dao găm, mã tấu, lựu đạn chày, súng C.K.C, AK để bắn giết những ai chống lại đảng một cách dễ dàng, mau và nhiều hơn.

Còn thú thì chỉ có cách duy nhất là nhe răng … cắn, hiệu quả đạt rất ít năng suất.

Nhưng Marx không ngờ và cũng không tiên đoán được sau này nhà nông đã tìm ra phương cách hữu hiệu để đuổi được cái loài ăn cướp này.

Và cũng nhờ vào kinh nghiệm của nhà nông Việt Nam mà Mỹ bắt chước phỏng theo, đã làm cho Chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô và Khối Đông Âu theo nhau sụp đổ.

Mỹ gọi đó là chiến lược Domino.

Nhà nông Việt Nam thì quê mùa ít học, chẳng cần biết “mi nô, mi néo” gì hết trơn, hết trọi.

Họ tìm hiểu được cái thói quen cũng là “nhược điểm” của loài khỉ là hay tò mò, bắt chước và rất ưa bắt chí, bắt rận cho nhau. Nắm được cái “cơ bản” đó, họ đuổi bầy khỉ đi xa khỏi nương rẫy của họ một cách thật dễ dàng như sau:

Họ đánh bẫy, chỉ cần bắt sống được một con là đủ. Họ lấy dao, rạch rách một đường trên da đầu con khỉ này, bôi thuốc đỏ, thuốc xanh toè loe lên chổ rạch, rồi thả cho nó nhập bầy trở lại.

Bầy khỉ thấy lạ, tò mò xúm nhau lại bươi chỗ vết thương coi thử cái gì xanh đỏ vậy. Con khỉ bị thương đau quá, bỏ chạy, bầy khỉ hùa nhau rượt theo để coi cho kỳ được. Càng bị rượt, càng bỏ chạy.

Bầy khỉ, cứ thế, rượt theo con khỉ kia, càng lúc đi càng xa khỏi nương bắp.

Từ khi con khỉ đầu đàn Liên xô bị bôi thuốc đỏ, chạy bán sống bán chết, rồi sụp chân xuống hố, chết không kịp giẫy, khối cộng như rắn mất đầu, bao nhiêu chủ thuyết, lý thuyết cộng sản của Marx để lại đều như “thuyền không lái trôi dạt lông bông, như ngựa không cương chạy lung tung”, chẳng biết đường nào mà mò đến nước thiên đàng cộng sản.

Vì thế, đàn em, thủ hạ, chư hầu của Liên Xô khi trước, nay mạnh ai nấy phải tự lo thân, tìm đường cứu đảng, cứu lấy bản thân của mình.

Cộng sản Trung Quốc, bắt đầu bằng lão già có cái tên rất thô tục là “được bình đái”, đọc âm theo tiếng Hán Việt là Đặng Tiểu Bình, thì chủ trương rằng “mèo trắng hay mèo đen” mèo nào bắt được chuột thì là “hẩu xực” tuốt, “mậu xìn, mậu lũ” ba cái chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa tư bản cái con mẹ gì sất!

Cái thuyết thực dụng mèo trắng, mèo đen đó Tàu khựa gọi là “Chủ nghĩa dân tộc”.

Cộng sản Việt Nam thì may mắn hơn, trong lúc Bộ Chính trị đang loay hoay lo són trong quần, không biết phải moi móc ở đâu ra cái chủ thuyết khác để quăng cái khẩu hiệu “Chủ nghĩa Mác LêNin bách chiến bách thắng” vào cầu tiêu cho khuất mắt nhân dân thì vớ được một miếng da người, mỏng te, (miếng da người này có lẽ đã lột được từ da lưng của một địa chủ bất đắc dĩ nào đó cho đủ chỉ tiêu của Đội Cải cách của ông Tô Hoài đề ra, từ cái dạo phát động phong trào Cải Cách Ruộng Đất) trên đó có chép cái chi chi đó, bằng thứ chữ loằng ngoằng, lèo ngoèo không giống chữ của Tàu ô, cũng không giống chữ của Phú Lãng Sa, chẳng hạn như chữ “cách mạng” viết thành “kách mệnh”, chữ “phải dóng” viết thành “fải dóng” rất kỳ … cục, từ trong hòm kiếng ướp xác “bác” Hồ.

Bộ Chính trị vội họp khẩn, lấy kính lúp loại phóng đại 300 lần soi vào để đọc cho rõ mấy hàng chữ trên đó. Hóa ra đó là bí kíp “Cửu âm chân kinh” của Bác đã cuỗm được khi theo thọ giáo học nghề sát thủ của Giáo chủ Xít Ta Lin ở xứ Nga La Sát.

Năm 1968, Tết Mậu Thân, bác ôm cuốn “chân kinh” định chơi xả láng một ván “Mậu Binh”, nên vét hết thanh thiếu niên miền Bắc đem vào miền Nam, quyết ăn thua đủ.

Ai dè bác thua tàn mạt, thua cháy sạch túi.

Ôm đầu máu về lại hang Pắc Pó, quá uất ức, bác hộc máu ba lần như Chu Du thời Tam Quốc, trong trận Xích Bích, rồi nằm liệt giường, liệt chiếu, chuẩn bị chuyển sang từ trần. Khi Bác sắp đi chuyến tàu suốt để theo hầu cụ Mác, cụ Lê ở thiên đàng … Mù, Bộ Chính trị thay nhau bám sát từng phút, từng giây bên cạnh để hỏi nơi cất cuốn kinh này.

Lúc bác khò khè gần hết hơi, ráng lắm mới phều phào được ba tiếng, bà Bình phải kê sát tai vào miệng bác để nghe, bị hàm râu của bác đâm vô lỗ tai, nên nghe không rõ, hình như là “kim trong dầu”.

Tổng bí thư Lê Duẫn lập tức ra lệnh bắt tất cả những người buôn dầu, nói thác đi là để “kiểm tra” dầu, nhưng thực ra là để kiếm cuốn bí kiếp.

Lệnh bắt dầu ban ra, đám thủ hạ thi hành rất sốt sắng, (có cớ để làm tiền) đã gây ra một cuộc khủng bố, náo động hoảng loạn trong đời sống nhân dân một thời gian dài.

Nhất là quãng thời gian từ 1976 đến 1986 lệnh lùng xét dầu càng gắt gao.

Ghe, tàu vượt biên bị chận bắt vô số, dầu bị tịch thu và khám xét trước tiên, vẫn không tìm ra cuốn kinh. Chỉ tìm thấy vàng và kim cương của người chạy trốn nhiều lắm.

Đảng ta được một phen vớ bẩm, bỏ vàng, kim cương vô túi riêng mệt nghỉ.

Mãi về sau, nhờ một dịp tình cờ cực kỳ may mắn, đó là một ngày trọng đại, ngày 6 tháng 11 năm 2000, Đại vương xứ Hồng mao là Biêu Cờ Lin Tông nổi hứng bất tử, sang thăm chơi xứ cộng sản Việt Nam, để coi thử mặt mũi anh hùng chống Mỹ ba đầu sáu tay ra sao. Đồng chí Chủ tịch nước Trần đức Lương nghe tin, mừng như cha chết sống lại, không phải, chưa xứng, phải nói mừng như bác Hồ sống lại mới đúng, đã dùng quốc lễ cung kính đón rước rất trọng thể linh đình, đàn ca sáo thổi inh ỏi.

Hôm BCT đặc biệt mời đại vương Hồng mao đến thăm lăng Ba Đình, xác khô của bác từ dưới hầm sâu được đưa lên mặt đất để cho Mít tơ Biêu Cờ Lin Tông tận mắt chiêm ngưỡng long nhan “người anh hùng cộng sản” có thành tích vô địch thế giới, đã giết ba triệu thanh niên của mình chỉ trong thời gian 10 năm để đưa Việt Nam đến thế giới đại đồng.

Lúc đứng trước hòm kính, thấy cái xác héo queo của bác, đại vương Cờ Lin Tông vừa cười cười, vừa đọc hai câu chót trong bài thơ mà bác Hồ đã làm khi tới thăm đền thờ Đức Trần Hưng Đạo. Câu sau có sửa đôi chút:

Bác có linh thiêng cười một tiếng,
Rằng đế quốc Mỹ đã thành công!

thì cái xác của bác bỗng chuyển động, hai mắt bác mở ra trừng trừng, trông ghê rợn như quỉ Dracula hiện hồn.

Cờ Lin Tông sợ quá, tái xanh mặt mũi, hét to lên một tiếng rồi … té xỉu. Hộ vệ đi theo bèn vội vàng lấy “nước đái quỉ” dí vào mũi cho tỉnh lại rồi khiêng ra xe, dông về khách sạn.

Khi kẻ thù đi khỏi hồi lâu, hai mắt bác mới chịu nhắm lại, đầu ngoẹo sang môt bên.

Lúc này Bộ Chính trị mới chợt thấy sau ót của bác có vật gì đen đen thò ra.

Nắm kéo thử, hóa ra là miếng da người.

Nhắc lại, sau khi soi kính lúp đọc được chữ trên miếng da, bấy giờ mọi người mới vỡ lẽ ra rằng, ba tiếng bác đã trối lại là “kinh trong hầu” chứ không phải như bà Bình đã nghe nhầm là “kim trong dầu”.

Chuyện nghe y như truyện “Cô gái đồ long” của Kim Dung!

Nhưng những khẩu quyết trong cuốn kinh toàn là chỉ dẫn kỹ thuật dùng sọ người để luyện bàn tay thành bàn tay sắt để có thể giết người bằng cách bấu lủng sọ đầu của nạn nhân.

Cách này chỉ có thể giết từng người, mất nhiều thời gian, với thời đại Internet, đã lỗi thời, thành ra vô dụng.

Ngày nay, Bộ Chính trị dưới sự lãnh đạo anh minh của hai bác Đỗ Mười và Lê Đức Anh cùng đám lâu la Nông Đức Mạnh, Nguyễn minh Triết, Võ văn Kiệt, Nguyễn Tấn Dũng … đã phát minh ra nhiều cách giết người siêu cấp hơn nhiều.

Giết hàng loạt năm, bảy ngàn người một lúc như ở Huế Việt Nam, hàng triệu người như ở Cánh đồng Chum Căm Pu Chia.

Nhưng Bộ Chính trị cũng còn rất rành ngón tráo bài ba lá, biết vận dụng “sự cố” bất ngờ này, đã hô phong hoán vũ, biến miếng da vô dụng thành vật đắt dụng.

Bộ Chính trị lại họp khẩn để bàn suốt đêm.

Sáng hôm sau, đồng loạt 600 tờ báo cùng với hệ thống truyền hình, truyền thanh trên khắp nước đều “hồ hởi phấn khởi” loan tin rôm rả rằng “đảng ta và nhà nước ta đã tìm ra được tư tưởng Hồ chí Minh rất tuyệt cú mèo để thay thế cho triết lý Mắc Xịt”.

Thế là, sau đó chiến dịch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức bác Hồ được phát động rầm rộ trong cả nước.

Cán bộ nhà nước hễ nghe học tập là ai nấy đều mừng rơn trong bụng. Vì mỗi lần học tập là có ăn nhậu. Ăn nhậu lễ khai mạc rồi lễ bế mạc và nhất là ai cũng được trao cái phong bì nằng nặng gọi là “bồi dưỡng”. Đó là lý do rất chính đáng để các cơ quan nhà nước ta xài tiền chùa thoải mái được cấp giấy chứng nhận hợp pháp.

Nhiều ngàn, triệu tỷ đồng tiền thuế của dân nghèo è lưng đóng góp được đảng bỏ ra để tổ chức, in ấn, xuất bản cuốn “Bí kiếp tư tưởng Hồ Chí Minh” để làm kim chỉ nam, tuyên tuyền cho phong trào hoc tập này.

Riêng tiền “nhuận bút” cho việc “biên tập” cuốn kinh đã mất 27 tỷ đồng tiền cụ.

Ông Đào Hiếu, cán bộ biên tập nhà xuất bản Tuổi Trẻ trong nước có lẽ không được dính phần nên nhận xét một cách mỉa mai rằng: “Trong đời tôi chưa từng thấy có cuốn sách nào dày có vài ba trăm trang gì đấy mà lại có “nhuận bút” cao như vậy. Đó là cái nhuận bút giả tạo, dành để trả cho một cuốn sách giả tạo”.

Có kẻ “bức xúc”: - Hồi ông Hồ còn sống đã từng nói với đám bầy tôi trong triều rằng “Bác đâu có tư tưởng gì! Tất cả tư tưởng hay, đẹp Bác Mao và Bác Xít đã nói hộ cả rồi”. Sao bây giờ BCT đào ở cái xó xỉnh nào ra cái gọi là tư tưởng Hồ chí Minh thế?

Tất cả những ai dại dột có thắc mắc hay “bức xúc” như trên, lần lượt bị tó vào trại “cải tạo” để học tập tốt, lao động tốt mút mùa lệ thủy.

Kể từ lúc “tư tưởng Hồ Chí Minh” được tuyên truyền, rao giảng đại trà khắp nơi, khắp chốn để dân chúng được học tập thấm nhuần “lời vàng ý ngọc, lý lẽ cao siêu” của bác thì tài kinh bang tế thế của 14 ủy viên của Bộ Chính trị bỗng nhiên tăng cao đột ngột giống như người yếu sinh lý được cho uống thuốc “Tam tinh Hải cẩu bổ thận hoàn”.

Đảng ta bỗng nhiên vươn vai lớn lên y như được thổi bằng ống đu đủ vào đít, làm cho cả thế giới nhìn vào lé con mắt luôn. Nào là “chấp cánh bay cao”, nào là “bơi ra biển lớn”… vân vân và vân vân.

Khỏi nói, dĩ nhiên nhân dân trong nước nhìn vào “thành quả” của đảng lớn lao như vậy cũng sướng tá hỏa tam tinh, đui con mắt luôn chẳng cần phải “kinh qua quá trình” lé.

Cái sự bay cao lên trời và bơi xa ra biển của đảng ta có “chất lượng cao”giống như kiểu tăng vọt của vật giá và lạm phát mà báo chí truyền thông trong nước đã so sánh và bốc thơm lên trời xanh là “bão giá, bão lạm phát” vậy.

Nhưng cao siêu, tuyệt vời hơn cả vẫn là khẩu hiệu treo trước lăng Ba Đình và Bắc Bộ phủ mang dòng chữ: “Đảng ta là đỉnh cao trí tuệ loài người”.

Đỉnh cao trí tuệ loài người! Ghê chưa! Oai hách xì xằng chưa! Hãnh diện dân tộc gớm chưa!

Ôi! Đảng ta đã là đảng tiên phong độc quyền cai trị đất nước muôn đời rồi, nhất trên cõi đời rồi, nay còn đeo thêm cái “đỉnh cao trí tuệ loài người” nữa thì chao ôi, thế giới này chịu đời làm sao cho thấu, chỉ còn có nước xếp hàng quì gối trước Bắc Bộ phủ mà bái sư xin theo xách dép làm đệ tử…

Vinh quang và hãnh diện thay được làm người Việt Nam dưới thời cộng sản!

Nhưng thôi, tạm thời ta hãy đè nén cái vinh quang, oai hách, hãnh diện xuống một chút, để nêu lên một ít thành quả sau khi toàn dân được học tập tư tưởng của bác Hồ “muôn vàn kính yêu”. Bởi dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống khiêm cung, ít khi nào “nổ” lắm.

Thủ Dũng của ta chẳng đã từng chứng tỏ “on lai” bản chất thật thà của người cộng sản đó ư: “Tôi ưa sự thật và rất ghét dối trá”.

Thiệt là câu nói để đời đáng trao giải “Bông lúa đỏ” của trung tâm băng nhạc Thúy Nga Paris và ghi vào sử sách để cho đời sau học tập, giá trị không thua gì câu nói của ông Triết “quyết ôm điều 4” và của ông Thiệu “đừng nghe những gì cộng sản nói …”.

Đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí Minh được áp dụng thử vào đám tang tướng Trần Độ đã cho thấy hiệu quả rất cao. Tất cả những vòng hoa phúng điếu của người thân, bạn bè, đồng chí … mang đến kính viếng ông có hàng chữ “Vô cùng tiếc thương Tướng Trần Độ” đều được cán bộ đảng ưu ái xé bỏ những chữ “Vô cùng tiếc thương Tướng …” chỉ để lại hai chữ “Trần Độ” trơ trọi để cho Tướng Trần Độ nằm trong quan tài kia biết thế nào là lễ độ một khi dám chống đảng. Thêm nữa, bài “điếu văn” của đảng đọc trước linh cửu đã hài tội người quá cố đã thể hiện rõ nét văn hóa tam vô “nghĩa tử (chưa) là nghĩa tận”. Đảng quyết truy sát đến ba đời. Chết rồi vẫn không buông tha!

Con dê tế thần thử nghiệm tiếp theo của bài học “tư tưởng HCM” là ông Hoàng Minh Chính, cựu Viện trưởng Viện Mác Lê, đã bỏ đảng, bỏ Viện, chối bỏ chủ thuyết Mác Lê, được đảng thực thi chương thứ 2 trong “Hồng thư Hồ Chủ Tịch” là “văn hóa bốc ném”. Một thứ văn hóa thần sầu quỉ khốc, rất “đậm đà bản sắc dân tộc”, chỉ có nhờ học tập tư tưởng của bác mới nghĩ ra được.

Lúc ông Hoàng Minh Chính còn đang nằm trên giường bệnh, chuẩn bị xuống địa ngục để chất vấn mấy tên đầu sỏ cộng sản thì đảng cho đoàn quân xưng là “cựu chiến binh, thương phế binh” mệnh danh là “nhân dân tự phát” đông cả trăm tên, ngày ngày tụ tập trước nhà, bốc đồ dơ như cứt, đái, mắm tôm trộn dầu nhớt ném vào nhà ông, kèm theo lời chửi bới thô tục rất nặng mùi cộng sản để cho ông mau mau đi theo bác.

Khi chết rồi, tro cốt của ông cũng bị đảng chận đường bít ngõ, không cho người thân của ông đi rãi xuống sông xuống biển. Thật đúng là cộng sản triệt để.

Càng lúc, oai lực của tư tưởng Hồ Chí Minh càng tỏ ra phát huy cao độ đạt đến “đỉnh cao trí tuệ của loài người”. Nó có thể “nhứt động ứng vạn biến”, nghĩa là chỉ dùng một chiêu thức sơ đẳng mà có thể khắc chế mọi “vọng động” của những ai không chịu theo ngón tay chỉ đường của đảng.

Nghị định 31/CP của Võ văn Kiệt là một trong những chiêu thức ấy, cho phép bắt bỏ tù vô thời hạn bất cứ ai mà đảng thấy không ưa, khỏi cần lý do, khỏi cần kết án.

Quyết định cấm dân ra báo của Thủ Dũng để bóp họng, khóa miệng nhân dân không được ho he phát ra ngôn luận cũng là được rút ra từ tư tưởng của bác.

Những chiêu thức trên tuy thấy “giản đơn” bên ngoài như vậy, nhưng bên trong nó biến hóa vô cùng khiến cho nạn nhân tối tăm mặt mũi, không thể nào chống đỡ nổi.

Đơn cử vài ví dụ cụ thể xem cho biết mùi:

- Dàn dựng tai nạn cho xe hơi, xe gắn máy đụng hay cán xe nạn nhân (ai không chịu vâng lời đảng) dọc đường, cho từ chết đến bị thương.

- Công an giả dạng đầu gấu (có chó lửa lận lưng) gây hấn, đánh lộn giữa đường để có cớ cho công an mặc sắc phục đến bắt giam.

- Gắp lửa bỏ tay người, vu oan giá họa, ( như bán xì ke) để bắt nhốt.

- Bắt người thân như cha mẹ già, trẻ thơ để làm con tin trao đổi, thương lượng với những người bất khuất.

- Lập chốt bao vây trí thức phản kháng. Dùng bọn đá cá lăn dưa, xã hội đen hợp tác với công an ngồi trước cửa nhà họ để canh chừng suốt ngày đêm.

- Huy động đám bồi bút báo chí bịa chuyện để lăng mạ, bôi bẩn cá nhân bị đảng đưa vào bảng phong thần.

Vân vân và vân vân.

Tư tưởng của Hồ Chí Minh thiên biến vạn hóa không thể nào biết hay kể cho xiết.

Nhưng những “thành quả to lớn” vừa nêu sơ lượt ở trên chỉ là những ngón đòn đánh dưới thắt lưng, được thực thi lẻ tẻ, mỗi nơi một ít, không được tập trung cùng một thời gian, một không gian, khiến cho nhân dân đa số là lao động lo miếng ăn hàng ngày, có thể không biết đến công ơn của đảng nó tích cực và to lớn đến nhường nào.

May thay, vừa rồi các sự việc đang diễn ra ở Thái Hà và Tòa Khâm Sứ Hà Nội đã là cơ hội ngàn năm một thuở để cho Bộ Chính trị được dịp “nêu bật” chói lọi cái “đỉnh cao trí tuệ loài người” của mình.

Ở hai địa điểm này, đảng ta đã áp dụng toàn bộ sách lược của “tư tưởng Hồ Chí Minh” một cách toàn bích, vừa phẩm lẫn lượng.

Nói theo văn hóa mới là có “chất lượng cao”.

Chẳng là, chỉ vì một mảnh đất bé xíu có mấy ngàn thước vuông của nhà thờ dùng để cho giáo dân đứng hành lễ, cầu kinh trong những ngày lễ lớn, đảng và nhà nước ta muốn lấy làm của riêng để chia năm xẻ bảy ra từng lô, bán lấy tiền tỷ bỏ túi.

Mà ảnh đất này 50 năm về trước, khi đảng mới cướp được chính quyền Bảo Đại, đảng “mượn đở” của Nhà thờ, nói là để làm việc công ích cho dân.

Thời gian qua, đảng tưởng để lâu cứt trâu hóa bùn, Nhà thờ quên, bèn hè nhau xẻ nai đem bán. Ai dè Nhà thờ không quên, lên tiếng khiếu nại, nhứt quyết đòi lại.

Hai bên giằng co cả tám tháng trời.

Bên Nhà thờ thì nói lý lẽ, pháp luật, trưng dẫn giấy tờ để chứng minh quyền sở hữu của mình.

Bên đảng thì dùng bạo lực và luật rừng ra áp chế rằng “đất đai là tài sản của nhà nước” không một ai, cá nhân hay đoàn thể nào có quyền chiếm giữ.

Tiếp tay với đảng còn có cả hệ thống truyền thông tay sai, yểm trợ, xuyên tạc sự thật và vu cáo.

Dưới những bài tường thuật của các cơ quan thông tin nhà nước thì Tòa Tổng Giám mục và Dòng Chúa Cứu thế đúng là những kẻ gây rối, coi thường pháp luật.

Người dân thấy rõ đây là một cuộc tranh chấp rõ ràng không cân sức.

Một bên chỉ dùng phương cách duy nhất là cầu nguyện bất bạo động để chống trả.

Một bên dùng tất cả sức mạnh và mưu lược để áp chế và cưỡng bức.

Cách xử thế khôn ngoan ở đời có câu “phù thịnh hơn phù suy”, ta cũng nên bắt chước, đứng về phe Nhà nước vừa (ỷ) mạnh lại vừa (thô) bạo mà dương cao ngọn cờ đen có hình sọ người với hai cái xương trắng hếu bắt chéo, để phô trương những thành quả của đảng ta cho thế giới coi chơi cho biết mặt và noi gương học tập.

Bác Hồ đã có thơ hô hào rằng:

Tòa Khâm ( Sứ) ta thắng vẻ vang,
Thái Hà giáo xứ phải càng thắng to.
Vì cộng sản, vì tam vô,
Đánh cho Chúa ngã, đánh cho Phật nhào!
Tiến lên chiến sĩ đồng bào!
Bắc Nam dâng hết cho Tàu! Vui thay!

(Nếu ai có ý nghi ngờ mấy câu trên đây không phải của bác, sẽ bị bắt đi cải tạo cho chừa.)

Những kế sách được đảng ta thực thi đúng theo “tư tưởng Hồ chí Minh” chỉ dẫn là “tiên lễ hậu binh” sau đó là “tiền pháo hậu xung” với chiến thuật “biển người” của bác Mao.

Trước tiên, đảng ta làm giấy tờ nhượng đất giả để làm bằng tưởng chắc ăn ai dè bị bên Nhà thờ lật tẩy, chỉ rõ ngày tháng không phù hợp, chữ ký giả. Một phen tẽn tò.

Ăn gian không được thì bỏ. Cãi chày cãi cối, nói lý không xong, thì dùng hạ sách.

Bước tiếp theo, thả đám tù hình sự, xì ke, ma túy cả trăm tên, mặt mày hung ác trà trộn trong giáo dân để gây rối. Trong lúc giáo dân đọc kinh cầu nguyện thì đám này chửi tục và hò hát “Như có bác Hồ ” trộn chung với “Một con vịt xòe ra hai cánh” ỏm tỏi lên. Hể ai chống đối liền bị đám côn đồ này đánh đập, chửi mắng, phun nước miếng vào mặt. Có nhiều bà giáo dân già đã bị bọn này đánh phun máu đầu rồi.

Để hỗ trợ đám côn đồ làm càng, làm bậy này, có đám an ninh chìm làm “tào kê”. Xin lỗi đã nói nhầm. Công an đâu có chứa gái đĩ đâu mà làm “tào kê”. Công an nhân dân chỉ “bảo kê” cho lưu manh để ăn chia thôi.

Cho nên khi giáo dân bị hành hung kêu cứu thì đám công an này lờ đi, giả điếc, giả mù, không can thiệp.

Giáo dân đi vấn kế luật sư. Luật sư cho biết “Trong Bộ luật Hình sự, điều 82 qui định quyền tự vệ cho phép bất cứ ai cũng có quyền bắt giữ kẻ hành hung gây rối, phạm pháp quả tang, giải giao cho chính quyền, chính quyền phải lập biên bản để xử lý…”.

Hôm sau, giáo dân ra tay, đám hình sự côn đồ chạy te cò, không dám manh động nữa.

Không quấy rối được bằng đám côn đồ hung hãn thì đảng ta quấy nhiễu bằng hệ thống âm thanh.

Đảng cho bắt một dàn loa công suất cực lớn trên các trụ đèn, chỉa về phía Nhà thờ. Khi giáo dân bắt đầu cầu nguyện thì bên này đảng bắt bác Hồ đọc đi, đọc lại “Bản tuyên ngôn độc lập” mệt nghĩ. Âm thanh của bác nghe rổn rảng, chát chúa, đinh tai nhức óc, khiến giáo dân đầu hàng, chịu không nỗi lời bác khoe “độc lập” nữa. Đảng ta thắng keo này.

Thật là một sáng kiến tuyệt vời trên cả tuyệt vời.

Đó là bước đầu “tiên lễ”.

Tiếp theo là “hậu binh”, coi thử phen này đám giáo dân với mấy Cha nhà thờ sẽ làm sao mà chống nổi với đảng ta.

Bước 1. Rào kẻm gai, ngựa sắt ba ri e, cảnh sát cơ động, công an chìm, nổi kể cả ngàn người với chó nghiệp vụ, xe phá sóng điện thoại … được rầm rộ kéo tới bủa vây khu đất kín như thiên la địa võng. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Giáo dân đói khát, dầm mình dưới mưa gió suốt mấy ngày liền, chỉ biết lâm râm đọc kinh cầu xin Đức Mẹ Bề trên cứu giúp.

Lực lượng của đảng ta kiên quyết bao vây, siết chặt hàng ngũ, không cho một ai trong vòng vây tẩu thoát.

Bước 2. Xua đám côn đồ khác đã được đảng ta huấn luyện, mặc đồng phục, là “đoàn thanh niên Cộng sản HCM”, đảng ta nói trớ đi là “lực lượng quần chúng tự phát”, chống lại sự bất hợp tác của Nhà thờ, xông vào bên trong, ra tay đập phá khu vực linh địa Đức Bà, đập đổ cổng Đền Thánh.

Bước 3. Hăm dọa và đe nẹt. Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội ra công văn cảnh cáo Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt, người đứng đầu giáo phận Hà Nội. Trong công văn này, thành phố Hà Nội nói rằng Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt có “ý đồ lợi dụng việc vi phạm pháp luật tại giáo xứ Thái Hà để tạo dư luận tác động đến việc đòi đất tại 42 Nhà Chung.”

Trong bài phát biểu trước Ủy Ban Nhân Dân Hà Nội ngày 20/9/09, Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt nói rằng “không tranh chấp với nhà nước nếu những cơ sở thuộc quyền quản lý của Tòa Tổng Giám mục mà nay nhà nước xử dụng vào những việc lợi ích thì Giáo phận không đòi lại”.

- Ấy là chính ông nói đấy nhé!

Vớ được câu nói của người đứng đầu giáo phận, nhà nước ta bám chốt ngay. Ủy Ban Nhân dân Hà Nội ra lệnh: - Cố bám lấy thắt lưng “địch”mà đánh.

Ngay ngày hôm sau, giữa đêm khuya, hàng chục xe cơ giới và nhân công hùng hậu kéo đến khu đất giáo xứ Thái Hà “thực thi lợi ích công cộng xây dựng công viên cây xanh” ngay tức khắc. Hỗ trợ đội xây dựng có lực lượng công an cơ động với chó nghiệp vụ bao vây vòng ngoài, chận đường, bít lối, không một ai có thể ra vào.

Từ xưa đến giờ chưa có công trình nào được nhà nước ta sốt sắng thi công ngày đêm đến như thế. Vừa đập phá các cơ sở, vừa san ủi, vừa trồng cây… chỉ có mấy ngày mà một công viên xanh tươi có đầy đủ đường đi lối lại, ghế đá cho thanh niên nam nữ từng cặp kéo nhau vào đây tình tự.

Chiếc đũa thần của bà tiên trong truyện cổ tích ngày xưa cũng phải chào thua “cái sự” quyết tâm và công sức của đảng ta trong “sự nghiệp”phục vụ công ích cho nhân dân.

Rồi đây, Tòa Khâm sứ chỉ trong vài ngày nữa cũng sẽ được san bằng thành bình địa để dựng nên phòng đọc sách, và cũng sẽ nói là để phục vụ nhân dân nữa.

Thế là coi như đảng ta giải quyết vấn đề rất “ổn định chính trị”, rất “đỉnh cao trí tuệ”. Nhà thờ mất đất, không có chổ cho giáo dân tụ tập cầu nguyện, mà đành phải cắn răng, trơ mắt ra nhìn, chịu thua trí lớn đảng ta, không mở miệng ra nói cái gì được nữa.

Cái “đỉnh cao trí tuệ” của đảng ta ở chổ là “vừa đàm vừa đánh”.

Trong lúc bên trong họp bàn với các linh mục Nhà thờ để tìm giải pháp ổn thỏa cho vấn đề tranh chấp đất đai thì bên ngoài ta “áp la xô” tấn công dành đất.

Đây là một thắng lợi hết sức vẻ vang không uổng công bác Hồ đã phải thức đêm, thức hôm, vắt óc suy nghĩ để làm thơ cổ võ đám đàn em tay sai hậu duệ của mình phải quyết tâm tiêu diệt tôn giáo.

An cư mới lạc nghiệp! Chổ ở không yên ổn thì công việc nào cũng vậy dù cho làm ăn hay hành đạo cũng khó bề thành tựu. Đảng biết rõ điều này nên các cơ sở tôn giáo là mục tiêu đảng nhắm đến trước tiên để cướp hoặc đập phá quấy rối.

Không riêng gì đạo Chúa, đạo Phật , Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài … cũng gặp nạn như nhau.

Với sự việc xãy ra ở Thái Hà và Tòa Khâm sứ Hà Nội trong những ngày qua, hệ thống truyền thông trong nước rất “phấn khởi tự hào” về sự thành công của đảng ta và nhà nước ta, đám văn nô bồi bút đã gò lưng, cong cổ viết nhiều bài tường thuật ca tụng “đỉnh cao trí tuệ loài người” của đảng ta kể cả dùng thủ đoạn cắt xén, vo tròn bóp méo câu nói của Tổng Giám mục Ngô quang Kiệt nói về sự nhục nhã khi cấm cái hộ chiếu của Việt Nam mỗi lần qua các cửa hải quan ngoại quốc.

Nhưng theo những thong tin ngược lại từ các mạng tự do, cho thấy nhà nước đang trấn áp Giáo hội bằng tất cả sức mạnh của mình.

Ông Nguyễn Viện, nhà văn, hiện đang sống tại Sài Gòn, không chịu hùa theo bầy đàn của chủ nuôi mà bẻ cong ngòi viết để viết sai sự thật, kiếm chút xương bố thí của chủ nuôi, ông viết theo lương tâm của mình. Lối viết mà ông Đỗ quí Doãn, Thứ trưởng Bộ Thông tin, được ông Đinh Tấn Lực một blogger trong nước âu yếm gọi “Doãn ơi ta bảo Doãn này”, gọi là “đi lề bên trái”.

Xin trích một đoạn trong bài viết “Từ Sài Gòn nhìn ra điểm nóng Hà Nội” của ông gửi cho đài BBC:

“… Người ta có thể đặt ra những câu hỏi khác nhau xung quanh sự kiện này. Một diễn tiến của cách mạng cam nhằm lật đổ chế độ hay đơn giản chỉ là giáo hội Công giáo đang buộc chính quyền phải đối diện với Sự thật và Công lý?

Nhà nước có can đảm đối diện với Sự thật và Công lý không?

Câu trả lời rõ ràng là không.

Xuyên tạc câu nói của Tổng Giám mục Kiệt trên hệ thống thông tin đại chúng về nỗi ô nhục Việt Nam và những hành vi hạ cấp vô văn hóa ở Thái Hà, cũng như cách thức cưỡng chiếm Tòa Khâm sứ giữa đêm khuya với lực lượng an ninh hung hậu cùng chó nghiệp vụ, chỉ cho người ta thấy chính quyền không còn chính nghĩa, không thực sự mạnh và không có luật pháp.

Và người dân lại chép miệng: “Đúng là Cộng sản!”.

Những ngày này, đảng đã biểu dương một lực lượng trấn áp, vừa người vừa chó, rất hung hăng để cho đám dân đen thấy được sức mạnh nằm trong tay đảng ghê gớm như thế nào để hù dọa. Nhưng tiếc thay, đối với người dân trong nước, đảng ta rất là bạo hành với bàn tay sắt, rất cương quyết đánh nam, dẹp bắc, huy động binh hùng tướng mạnh, vũ khí trang bị tận răng cùng với đủ loại mánh khóe mưu mô của cái “đỉnh cao trí tuệ” của mình.

Ngược lại, đối với quân xâm lược Tàu ô cướp đất, cướp biển thì đảng ta lại sợ co vòi, rúm lại như con sâu róm rất là hèn hạ, im re nín thít không dám ho he một điều phản đối dù là yếu ớt cho có lệ.

Sự việc diễn ra ở Thái Hà và Tòa Khâm sứ Hà Nội mấy hôm nay với cách hành xử của nhà nước và của đảng cộng sản vừa thô bạo, hung hãn vừa lén lén, lút lút đã cho thấy nỗi bật lên hai vấn đề xã hội:

Đạo đức quá suy đồi và uy quyền nhà nước đã suy yếu đến độ tệ hại quá mức.

Đảng đã bất chấp công lý và pháp luật, bất chấp sự thật hiển nhiên, lấy điều dối trá che mặt để hành động, đạt cho được mục đích bằng mọi giá.

Một nhà nước có cả triệu bộ đội, công an, với súng ống rầm rộ mà sợ một nhúm giáo dân tay không một tất sắt tự vệ, đã phải lén lút cướp đất giữa đêm khuya, hối hả làm trò bẩn trong đêm tối thì chứng tỏ cái chính quyền ấy đã suy yếu, rệu rã lắm rồi.

Cho nên, cái mà nhà nước và đảng ta đã tự phong cho mình “đỉnh cao trí tuệ loài người” qua sự kiện vừa xảy ra đã chứng minh ngược lại.

Rõ ràng đó không phải của loài người mà là của loài vượn.

Từ vượn lên tới người phải mất một ngàn năm.

Từ người xuống vượn lại chỉ mất có 72 giờ đồng hồ.

Hai cái công viên cây xanh xây vội vã, lén lút giữa đêm khuya ở giáo xứ Thái Hà và Tòa Khâm sứ Hà Nội, ngày khánh thành mở cổng cho dân chúng đến dạo chơi chắc sẽ có hai tấm bảng thật lớn ghi hàng chữ:

“Công trình xây dựng của đỉnh cao trí tuệ loài hầu” để đời đời ghi nhớ công ơn của đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước CHXHCN Việt Nam.

Nguyễn Thanh Ty


No comments:

Post a Comment