Tình hình trước khi xảy ra cuộc đảo chánh:
Những tháng giữa năm 1960, Ông Diệm với tư cách Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa, đi thăm các Bộ Tư lệnh Vùng I – 2 – 3 – 4 Chiến Thuật và Biệt Khu Thủ Ðô để nói chuyện với các Sĩ Quan thuộc các Quân Binh Chủng về một vấn đề vô cùng quan trọng.
Người Mỹ muốn đưa các đơn vị tác chiến (Combatant Units) của họ vào lãnh thổ Nam Việt Nam để đảm nhiệm vai trò chủ yếu trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản trên chiến trường này… Tại Hội trường Bộ Tư lệnh Vùng I Chiến Thuật (Ðà Nẵng), trước mặt rất đông Sĩ Quan: cấp Tướng, cấp Tá và cấp Úy, Ông Diệm đã nói rõ ý chí của Ông là nhất định không chấp nhận cho người Mỹ đổ quân tác chiến vào Nam Việt Nam mà chỉ chấp nhận vai trò của người Mỹ trong nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà.
Ông nói: “Chúng ta cần có sự cố vấn và huấn luyện cuả Mỹ, chúng ta cần có sự viện trợ quân sự, kinh tế cuả người Mỹ, nhưng chúng ta không cần, và nhất định không chấp nhận để cho người Mỹ chiến đấu thay thế cho chúng ta trong công cuộc bảo vệ Quê Hương, Ðất Nước này. Cuộc chiến đấu này không thể thuần túy giải quyết bằng sức mạnh của vũ khí chiến tranh, nhất là bằng một đạo quân viễn chinh từ một quốc gia khác kéo đến.
Nếu người Mỹ làm việc đó, chúng ta sẽ mất hết chính nghiã, mất sự hậu thuẫn cuả nhân dân, tôi sẽ trở thành Tổng Thống bù nhìn và anh em, các Sĩ Quan sẽ chỉ còn là những kẻ đánh thuê cho ngoại quốc... “ Ông nói thật nhiều, với tất cả tấm lòng và trái tim cuả Ông. Rồi ông kêu gọi tất cả các Sĩ Quan Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoa, đã từng nêu cao tinh thần anh dũng, can đảm trên mọi chiến truờng khắp các Vùng Chiến Thuật (Tactical Areas), hãy cùng Ông bằng mọi giá, giữ vững lập trường, đi đúng đường lối lãnh đạo chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc mà ông đã vạch ra và quyết tâm theo đuổi, bất chấp mọi sức ép bất cứ từ đâu đến ! Những cánh tay giơ lên, những tiếng hô vang làm rung chuyển cả Hội Trường Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I & Vùng I Chiến Thuật: “Quyết tâm ủng hộ Tổng Thống ! Quyết tâm giữ vững lập truờng chiến đấu của Tổng Thống để bảo vệ Tổ Quốc ! “
Tôi lúc đó chỉ là một Chuẩn Uý hiện dịch, nhưng với cái vốn kinh nghiệm gần 7 năm kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ, 2 lần bị Tây bắt nhốt đầu vào tù, và hơn 6 năm chống cộng sản, tôi cũng đủ trí khôn để thông cảm với những khó khăn, nguy hiểm đang đợi chờ Ông Diệm, vị Tổng Thổng đầu tiên của nền Cộng Hoà non trẻ tại Nam Việt Nam.
Tôi nhìn các Sĩ Quan đàn anh đứng chung quanh, hình như ai nấy đều linh cảm thấy có một cái gì nặng nề, nguy hiểm đang đợi chờ vị Tổng Thống khả kính và can đảm của mình. Phải thành thực mà công nhận rằng: vào thời gian đó, dưới sự lãnh đạo của Ông Diệm, Quân Ðội ra Quân Ðội, Tướng Tá ra Tướng Tá, Sĩ Quan ra Sĩ Quan, chớ không có … hổ lốn, bát nháo như một số khá đông của những thời gian sau này, sau khi Ông Diệm không còn nữa... Tôi không phải là người công giáo như Ông Diệm, mà chỉ là một quân nhân hiện dịch thuần tuý, nhưng cũng thấy mắt mình nhoà đi. Tôi cầu xin Ơn Trên phù hộ, che chở cho Ông, cũng như cho Ðất Nước này…
Ngày 19/6/1960: Ðại Sứ Mỹ tại Sài Gòn Elbridge Durbrow, gửi cho ngoại trưởng Mỹ, Christian Herter ở Hoa Thịnh Ðốn 1 điện văn mật thông báo tình hình Sài Gòn: Có thể có 1 cuộc đảo chánh nhằm lật đổ chính quyền cuả Ông Diệm, trong khi đó ở nông thôn, hoạt động của cộng sản gia tăng mạnh mẽ… Phần cuối, bản văn kết thúc “Nếu thế đứng cuả Ông Diệm tiếp tục giảm sút, không còn phù hợp với tình thế chính trị, tâm lý, kinh tế và an ninh tại đây nưã thì có thể là điều mà chính phủ Hoa Kỳ nên tính đến những phương cách khác để hành động và thay thế người lãnh đạo hầu đạt đến những mục tiêu cuả chúng ta …
(If Diem’s position in the country continues to deteriorate as result failure adopt proper political, psychological, economic and security measures, it may become necessary for US Government to begin consideration for alternative courses of action and leaders in order to achieve our objectives…).
Ngày 11 – 12 tháng 11/1960: Ðại Tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Lữ Ðoàn Nhảy Dù và Trung Tá Vương Văn Ðông (nhưng ban đầu chủ yếu lại là Vương Văn Ðông) chỉ huy một lực lượng quân sự gồm nhiều Tiểu Ðoàn Nhảy Dù và 1 đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến, bao vây dinh Tổng Thống để làm một cuộc đảo chánh với lý do được công bố trên đài phát thanh Sài Gòn đã bị quân đảo chánh chiếm giữ “… Ông Diệm đã tỏ ra không đủ khả năng cứu đất nước khỏi họa cộng sản cũng như bảo vệ sự đoàn kết quốc gia… - Diem has shown himself incapable of saving the country from Communism and protecting national unity… “
Biết rằng cuộc âm mưu đảo chánh này không do những nhân vật chính trị có danh tiếng, không có hậu thuẫn chính trị thực sự cuả dân chúng, không có sự tham gia cuả các Tướng Lãnh cũng như lực lượng quân đội dưới quyền cho nên Ông Diệm tạo thế trì hoãn, thoái thác nhượng bộ trước sự đòi hỏi cuả phe đảo chánh là từ bỏ chính quyền và đợi cho các lực lượng quân đội, hầu hết vẫn còn trung thành với ông, từ các nơi kéo về dẹp loạn. Cuộc đảo chánh bất thành vì quá non kém về tổ chức, lãnh đạo cũng như đường lối chinh trị và quân sự. Tuy nhiên cuộc đảo chánh bất thành này đã đem lại cho chính quyền cuả Ông Diệm những bài học quan trọng:
A. Cộng sản càng tích cực tung cán bộ vào thành phố khai thác những mâu thuẫn, bất đồng giưã chính quyền và các nhân vật, các nhóm chống đối tại thành thị. Những mâu thuẫn này tất nhiên phải có trong hoàn cảnh miền Nam Việt Nam đang phải thực hiện một xã hội tương đối tự do, dân chủ, phồn thịnh (hơn hẳn miền Bắc), cùng một lúc phải đối phó với cuộc chiến tranh xâm lăng, phá hoại toàn diện cuả cộng sản Hà Nội, được chỉ đạo và yểm trợ từ Mạc-Tư-Khoa cũng như từ Bắc Kinh, theo “Ðường lối cách mạng vô sản toàn cầu cuả Ðệ Tam Quốc tế – Global Proletarian Revolution Policy of the Third International“.
B. Thi hành 1 đường lối vô cùng khó khăn khả dĩ đáp ứng được nhu cầu của tình thế:
Giữ vững chính quyền đang bị âm mưu khuynh đảo từ bên ngoài do bọn tài phiệt quốc tế, ở bên trong thì do cộng sản chỉ đạo. Ngay trong nội bộ hàng ngũ quốc gia cũng có những phần tử ham danh, hám lợi cũng như quyền lực đang chờ đợi thời cơ để hành động.
Giữ vững tinh thần kỷ luật và lòng trung thành cuả quân đội, là sức mạnh bảo vệ chính quyền, chế độ. Ðồng thời giữ vững sự đoàn kết các tôn giáo là sức mạnh hậu thuẫn cuả nhân dân, nhưng cả hai: Quân Ðội và Tôn giáo lại là những mục tiêu quan trọng nhất mà cả 3 lực lượng chống phá nói trên đang nhắm vào để làm nổ bùng một cuộc đảo chánh khác, có tầm vóc quy mô, có tổ chức tinh vi hơn cuộc đảo chánh đã thất bại một cách dễ dàng ngày 11 tháng 11 năm 1960.
Ngày 20/12 /1960: Ðể đánh lừa dư luận quốc tế, để thu hút các nhóm chống đối và lôi kéo nhân dân Miền Nam, cộng sản Hà Nội tuyên bố chính thức cho ra mắt công khai Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam tại 1 Chiến Khu (Strategic War Zone) của cộng sản tại phía Ðông của Nam Việt Nam, thành phần bao gồm chừng 100 nhân vật nói là đại diện cho các nhóm chính trị đối lập với chính quyền, đại diện cho các tôn giáo có mặt tại Nam Việt Nam, các lực lượng vũ trang còn sót lại sau khi bị quân chính phủ đánh tan trong các chiến dịch hành quân tại miền Tây trước đó vài ba năm. Mặt trận này thực sự đặt dưới quyền lãnh đạo của một cán bộ cao cấp của Hà Nội, thuộc Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng (Political Bureau of the Party’s Central Committee).
Ngày 1 tháng 4/1961: Cộng sản tung 1 Tiểu Ðoàn chủ lực quân, có du kích địa phương tăng cường, gồm hơn 400 quân, tấn công thử sức vào 1 ngôi làng chiến đấu kiểu mẫu cuả “Quốc sách ấp chiến lược – National policy of Strategic Hamlets“ thuộc Tỉnh Kiến Hoà, nhưng bị quân đội Cộng Hoà đánh tan và bị thiệt hại nặng nề. Hai ngày sau, cộng sản thử sức lần nữa bằng cách tấn công vũ bão và bất ngờ vào khu vực Bến Cát tỉnh Bình Dương, phía Bắc Sài Gòn, nhưng hơn 100 quân cộng sản bị quân Cộng Hoà tiêu diệt, bỏ xác tại trận. Cộng sản buộc phải đổi hướng, tập trung nỗ lực vào những hoạt động võ trang phá hoại tại các thành phố, tung cán bộ len lỏi vào trong các tầng lớp nhân dân, hàng ngũ tôn giáo có đông đảo quần chúng nhưng hệ thống tổ chức ít chặt chẽ, để tìm cơ hội gây xáo trộn chính trị tại các thị trấn, nơi tập trung đông đảo dân cư, làm suy yếu chính quyền Miền Nam thay vì nôn nóng giành chiến thắng quân sự để hỗ trợ cho các hoạt động chính trị và ngoại giao.
Ngày 12/5/1961: Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson, trong cuộc viếng thăm Á Châu, đã gặp Tổng Thống Diệm tại sài Gòn. Ông Johnson ca tụng Tổng Thống Diệm là một Churchill của Á Châu và nói, “Ðối với thế đứng cuả Hoa Kỳ tại Á Châu, Tổng Thống Diệm là nhân vật, là người bạn không thể thiếu được”. Tuy nhiên, khi trở về Mỹ, ông Johnson lại báo cáo cho Tổng Thống Kennedy cũng như cho các nhân vật chính trị cao cấp biết rằng: Ông Diệm vẫn giữ vững lập trường không cho quân chiến đấu cuả Hoa Kỳ vào Việt Nam, trừ phi cộng sản Hà Nội xua quân tràn qua vĩ tuyến 17 một cách đại quy mô như cộng sản Bắc Hàn đã xua quân tràn qua vĩ tuyến 38 hồi 1950.
Ngày 18 /9 /1961: Cộng sản bất thần mở trận đánh lớn cấp Trung Ðoàn (Regiment), tung 1,500 quân bao vây và đành chiếm Tỉnh Lỵ Phước Vĩnh (tỉnh Phước Thành), sau khi đã mở chiến dịch gồm 41 trận đánh lớn nhỏ trên khắp lãnh thổ Miền Nam để áp đảo và chia xẻ lực lượng đối phương. Sau đó 3 tuần lễ, tại diễn đàn Quốc Hội, Tổng Thống Diệm chính thức tuyên bố với quốc dân và thế giới là Việt Cộng, với sự chỉ đạo và yểm trợ của cộng sản quốc tế đã chính thức biến cuộc chiến tranh du kích trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà thành một thứ chiến tranh xâm lăng quy mô thực sự, có sự tham chiến của quân chính quy cộng sản Bắc Việt, được trang bị tối tân và hùng hậu… Bọn tài phiệt quốc tế, buôn bán chiến tranh, càng thêm cơ hội để tung tiền và thủ đoạn để đưa đám “Lobbyists“ vào các hành lang, ngõ ngách của Quốc Hội, hệ thống truyền thông Hoa Kỳ, dọn đường cho một kế hoạch ào ạt đổ quân tác chiến của Mỹ và lôi kéo một số đơn vị quân đội Ðồng Minh vào chiến trường Nam Việt Nam.
Chậm chân là thiệt hại cả … núi đô la chớ không phải chuyện đùa. Nhưng, lại tiếng nhưng ở chỗ này ! Nhưng Ông Diệm nhất định không chấp nhận cho quân đội tác chiến của Mỹ chiến đấu tại Nam Việt Nam. Còn Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy thì cũng không hăng hái, thiết tha cho lắm với việc đổ quân tác chiến cuả Mỹ vào chiến trường Miền Nam trong hoàn cảnh lúc này vì nó không như lúc cộng sản Bắc Hàn xua quân cấp Quân Ðoàn (Army Corps) tràn qua vĩ tuyến hồi năm 1950… Ông Kennedy vẫn trung thành với “Ðường lối ngăn chặn – Containment Policy“ để chống lại sự bành trướng cuả phong trào cộng sản trên thế giới từ sau Ðệ Nhị Thế Chiến, bằng những phương cách ít tốn sinh mạng người Mỹ nhất, trừ trường hợp nền an ninh của Mỹ bị đe dọa trực tiếp, nghĩa là ông Kennedy chỉ chấp nhận hy sinh nhân mạng của Mỹ trong trường hợp bất khả kháng - In case of absolute necessity“. Thế thì “chúng nó“ bắt buộc phải loại trừ Ông Diệm khỏi ngôi vị lãnh đạo Nam Việt Nam trước đã, và sau đó bất cứ kẻ nào làm ngăn trở việc đổ quân tác chiến của Mỹ vào Nam Việt Nam cũng đều bị “chúng nó“ xoá sổ hết (kể luôn cả Tổng Thống Mỹ).
Ngày 2/1/1963: Tại Ấp Bắc xã Tân Hội thuộc quận Cai Lậy tỉnh Định Tường, cách Sài Gòn 40 dậm về phía Ðông Nam, Trung Đoàn Đồng Tháp, một đơn vị chủ lực quân của cộng sản Bắc Việt đã tấn công một đơn vị thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa.
Thật là một cơ hội bằng vàng để bọn tài phiệt quốc tế dùng ảnh hưởng, sức mạnh của đồng đô la để lái các cơ quan truyền thông, hướng dẫn dư luận, gây áp lực tại Hoa Kỳ, từ Quốc Hội cho đến chính phủ phải bằng mọi giá đổ quân tác chiến của Mỹ vào Việt Nam ngay lập tức. Nếu không, “Tiền đồn chống cộng“ của Mỹ tại Á Châu sẽ sụp đổ và “Chính sách ngăn chặn cộng sản“ cuả Mỹ trên thế giới sẽ thất bại và … nền anh ninh của chính nước Mỹ cũng sẽ bị lâm nguy …
Chúng đem câu nói của Lenin, Sư Tổ của cách mạng vô sản 1917 tại Nga, người đã mở đường cho phong trào cộng sản thế giới bùng ra hết cách ngăn cản sau thế chiến thứ 2, mà dọa cả nước Mỹ “Trước hết, chúng ta hãy chiếm giữ Ðông Âu, rồi nắm lấy khối quần chúng khổng lồ ở Á Châu, sau đó bao vây Hoa Kỳ là thành lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản. Chúng ta khỏi phải đánh đấm chi cả, Hoa Kỳ cũng sẽ rơi vào tay chúng ta như một trái cây đã chín rữa.
First, we will take eastern Europe, then the masses of Asia, then we will encircle the United States which will be the last bastion of Capitalism. We will not have to attack, it will fall into our hands like an overipe fruit.”(The Death of A Nation – John A. Stormer – The Liberty Bell Press – Florissant Missouri, July 1978, Page 14). Thế là “người ta“ phải tính đến 2 điều quan trọng nhất để lật đổ chính quyền Ngô Ðình Diệm: Thứ nhất: Phải giao cuộc đảo chính vào tay nhân dân miền Nam làm lực lượng chính yếu thì nó mới có chính nghĩa (just cause). Ai có thể huy động được đông đảo dân chúng ? - Phải cần đến một tôn giáo nào đó, có khả năng lôi kéo được nhiều người nhẩy vào cuộc. Thứ hai: Phải đẩy được đông đảo Tướng Lãnh có quân trong tay đứng ra ... cứu dân, bảo vệ đất nước trước sự rối loạn bên trong và quân thù
(cộng sản) đang rình rập, chờ đợi 1 cơ hội thuận lợi ở bên ngoài....
Ngày 8/5/1963: Bùng nổ vụ rối loạn, chống đối ở Cố Ðô Huế, giữa hàng chục ngàn tín đồ Phật Giáo do cộng sản giật dây với nhân viên chính quyền địa phương và các lực lượng an ninh. Tổng Thống Diệm tuyên bố trên đài phát thanh quốc gia là vụ này có bàn tay của cộng sản nhúng vào, gây thêm tình trạng khó khăn cho địa phương, tạo thêm sự mâu thuẫn trầm trọng giữa chính phủ và 1 tôn giáo lớn trong nước.
Cuộc rối loạn ngày càng gay go, dữ dội, quyết liệt và biến sang hình thức “Một tôn giáo lớn nhất trong nước – thường kể luôn cả những người chỉ thờ cúng Ông Bà, không được đào tạo, huấn luyện, sinh hoạt tôn giáo chặt chẽ- chống lại một hệ thống chính quyền được lãnh đạo bởi 1 Tổng Thống và các nhân vật cao cấp, trọng yếu, đa số là người thuộc Giáo Hội Công Giáo La Mã“.
Phía chính phủ thì lên tiếng: Tổng Thống Diệm sử dụng người theo nguyên tắc thông thường của các nhà lãnh đạo là căn cứ vào tài năng, đức độ, sự tin cậy, thích hợp cho công việc và lợi ích quốc gia, chớ không phải vì kỳ thị tôn giáo…(Sau 1975, Cộng sản Việt Nam đàn áp tôn giáo, kềm kẹp kẻ đối lập, áp bức dân chúng gấp triệu lần Ông Diệm, mà sao chưa thấy biểu tình, chống đối để lật đổ chính quyền ? Hay nhỉ ! Chẳng lẽ cộng sản nó tài, nó giỏi !).
Sự rối loạn càng bùng lên dữ đội và lan mạnh tới các thành phố lớn rồi di chuyển trung tâm đấu tranh chống chính phủ về ngay tại Thủ Ðô Sài Gòn, nơi tập trung các cơ quan quyền lực quốc gia, các Toà Ðại Sứ ngoại quốc, cũng như các cơ sở truyền thông quốc tế. Tại đây, Thượng Toạ Thích Trí Quang, cán bộ cao cấp của cộng sản, một trong những vị lãnh đạo cao cấp Phật Giáo, gốc người Bắc Việt, 2 lần bị Pháp bắt vì tình nghi có liên lạc với Việt Minh (cộng sản) được dư luận coi là một nhân vật tôn giáo đặc biệt trong hoạt động chính trị, đứng ra phát động và lãnh đạo cuộc đấu tranh của dân chúng.
Thích Trí Quang thông báo cho phía Mỹ biết là người Mỹ phải chịu trách nhiệm về những hoạt động của chính quyền Sài Gòn do Mỹ ủng hộ… (Thich Tri Quang, a politically sophisticated monk of North Vietnamese origin, twice arrested by French on suspicion of Vietminh connections, stirs the people against Diem and informs US officials, whom he holds responsible for Diem because of US support…). Sau này, người ta mới biết Phòng Nhì (2ème Bureau) của Pháp đã theo dõi không sai, và biết rõ sự liên hệ chặt chẽ của nhân vật này với cộng sản Việt nam từ năm 1946 trở đi...
Ngày 7/6/1963: Bà Ngô Ðình Nhu lên tiếng tố cáo trước dư luận là người Mỹ đã cố tình nhúng tay vào, tạo nên vụ biến động này và thúc đẩy cho ngày một thêm trầm trọng, phức tạp thêm, nhằm khuynh đảo chính quyền của Tổng Thống Diệm vì Tổng Thống Diệm cương quyết không chấp nhận chính sách can thiệp chính trị và quân sự cuả người Mỹ, là chính sách đi ngược lại ý nguyện và quyền lợi của dân chúng Nam Việt Nam.
Ngày 11/6/1963: Thượng Toạ Thích Quảng Ðức do cộng sản giật dây tự thiêu ngay tại trung tâm thủ đô Sài Gòn, để phản đối chính phủ. Dư luận dân chúng trong nước và thế giới bị xúc động mạnh. Báo chí trong và ngoài nước, các cơ quan truyền thông khác, nhất là tại Mỹ (đã bị lâm trận hoả mù của bọn Lobbyists nói ở trên) khai thác tối đa vụ này theo chiều hướng “Phải thay thế ngay người lãnh đạo chính quyền Nam Việt Nam“. Ðang cơn dầu sôi lửa bỏng như thế thì Bà Ngô Ðình Nhu, vì tức giận người Mỹ và lực lượng chống chính phủ nên đã nóng giận, mất sự khôn ngoan, bình tĩnh cần thiết trước tình thế bất lợi cho chính phủ. Bà Nhu lên tiếng mạt sát, thoá mạ cuộc tự thiêu của Thượng Toạ Quảng Ðức do cộng sản giật dây. Thật là “Lửa đã đỏ lại đổ thêm dầu“. Ðiều này làm cho dư luận dân chúng thêm phẫn nộ, nghiêng hẳn về phía lực lượng chống chính phủ.
Ngày 27/6/1963: Thấy tình hình Sài Gòn rối loạn, khó gỡ được ra, Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy bổ nhiệm Ông Henry Cabot Lodge, thuộc Ðảng Cộng Hoà, sang Sài Gòn giữ chức vụ Ðại Sứ Hoa Kỳ, thay thế cho Ðại Sứ Nolting, người đang tỏ ra bất lực trong việc gỡ rối cho tình hình Sài Gòn theo chiều hướng có lợi cho chính sách của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Thực tâm Tổng Thống Kennedy là chỉ gỡ rối sao cho êm đẹp, thuận lợi cho đường lối, chính sách của Hoa Kỳ, của Ông Kennedy, chớ Ông Kennedy lúc này không hề nghĩ đến việc lật đổ Ông Diệm, nhất là không bao giờ nghĩ đến việc phải giết Ông Diệm. Ông Cabot Lodge được giới chính trị và truyền thông Hoa Kỳ coi là “Một con cáo già chính trị“ và đồng thời là một “Chuyên viên đảo chánh”, và hiện đang theo đuổi một chính sách mang tính cách “Diều hâu“ khác hẳn với Ông Kennedy về vấn đề Việt Nam. Một Cabot Lodge, cáo già chính trị, chuyên viên đảo chánh, không cùng 1 Ðảng với Ông Kennedy, thuộc Ðảng Cộng Hòa, có nhiều liên hệ với quyền lợi của bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh, mà sang làm Ðại Sứ Mỹ tại Sài Gòn thì tình hình sẽ ra sao ?
Cabot Lodge được cử sang Sài Gòn với nhiệm vụ “gỡ rối – Untangling“ tình hình, nhưng Cabot Lodge lại quyết định chọn “phương cách gỡ rối“ bằng một “Cuộc đảo chánh – Coup d’état“ êm ái, nhẹ nhàng, không chọc giận Ông Kennedy, sinh trưởng trong 1 gia đình theo đạo Thiên Chúa, nghĩa là chỉ cần đẩy Ông Diệm ra khỏi ngôi vị lãnh đạo chính quyền Nam Việt Nam, đưa Ông Diệm đi sống lưu vong ở một quốc gia nào đó nằm trong “Quỹ đạo chính trị – Political circle“ của Hoa Kỳ, như Ðài Loan, Thái Lan chẳng hạn là đủ rồi. Sau đó, Cabot Lodge sẽ dựng lên một thứ chính quyền mới hoàn toàn biết vâng phục theo ý muốn của Hoa Kỳ, hay đúng ra trong lúc này, là ý muốn cuả “Giới tài phiệt – Financial Oligarchy“ của Mỹ đang tính chuyện kiếm lời thật lớn lao trong cuộc chiến tranh đang xẩy ra trên đất nước Việt nam nhỏ bé nhưng đầy đau khổ, máu xương và nước mắt này…
Ðó ! Câu trả lời cho cái đầu đề của bài viết này “Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Ðình Diệm ?“ tưởng đã đủ rõ ràng, khả dĩ góp phần nhỏ bé vào việc làm sáng tỏ 1 trang lịch sử cận đại của một đất nước, một dân tộc anh hùng, nhưng quá bé nhỏ trước nanh vuốt của một bầy thú dữ khổng lồ ...
San Diego, California
Phan Ðức Minh
-----------------
Tài liệu tham khảo:
* The Death of A Nation.- John A. Stormer.- Liberty Bell Press – Missouri, 1978.
* The World Almanac of The Vietnam War.- John S. Bowman (General Editor).- Bison Books Corp.- New York,1985.
* Vietnam: The History & The Tactics.- Ahsley Brown & Adrian Gilbert.- Orbis Publishing Limited.- London,1982.
* The Final Days.- Bob Woodward & Carl Bernstein.- The Hearst Corporation.- New York, 1976.
* Kennedy.- Theodore Sorensen.- Harper & Row.- New York, 1965.-
* A Book of U.S. Presidents.- George Sullivan.- Scholastic Incorporation.- New York,1984.-
Những tháng giữa năm 1960, Ông Diệm với tư cách Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa, đi thăm các Bộ Tư lệnh Vùng I – 2 – 3 – 4 Chiến Thuật và Biệt Khu Thủ Ðô để nói chuyện với các Sĩ Quan thuộc các Quân Binh Chủng về một vấn đề vô cùng quan trọng.
Người Mỹ muốn đưa các đơn vị tác chiến (Combatant Units) của họ vào lãnh thổ Nam Việt Nam để đảm nhiệm vai trò chủ yếu trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản trên chiến trường này… Tại Hội trường Bộ Tư lệnh Vùng I Chiến Thuật (Ðà Nẵng), trước mặt rất đông Sĩ Quan: cấp Tướng, cấp Tá và cấp Úy, Ông Diệm đã nói rõ ý chí của Ông là nhất định không chấp nhận cho người Mỹ đổ quân tác chiến vào Nam Việt Nam mà chỉ chấp nhận vai trò của người Mỹ trong nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà.
Ông nói: “Chúng ta cần có sự cố vấn và huấn luyện cuả Mỹ, chúng ta cần có sự viện trợ quân sự, kinh tế cuả người Mỹ, nhưng chúng ta không cần, và nhất định không chấp nhận để cho người Mỹ chiến đấu thay thế cho chúng ta trong công cuộc bảo vệ Quê Hương, Ðất Nước này. Cuộc chiến đấu này không thể thuần túy giải quyết bằng sức mạnh của vũ khí chiến tranh, nhất là bằng một đạo quân viễn chinh từ một quốc gia khác kéo đến.
Nếu người Mỹ làm việc đó, chúng ta sẽ mất hết chính nghiã, mất sự hậu thuẫn cuả nhân dân, tôi sẽ trở thành Tổng Thống bù nhìn và anh em, các Sĩ Quan sẽ chỉ còn là những kẻ đánh thuê cho ngoại quốc... “ Ông nói thật nhiều, với tất cả tấm lòng và trái tim cuả Ông. Rồi ông kêu gọi tất cả các Sĩ Quan Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoa, đã từng nêu cao tinh thần anh dũng, can đảm trên mọi chiến truờng khắp các Vùng Chiến Thuật (Tactical Areas), hãy cùng Ông bằng mọi giá, giữ vững lập trường, đi đúng đường lối lãnh đạo chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc mà ông đã vạch ra và quyết tâm theo đuổi, bất chấp mọi sức ép bất cứ từ đâu đến ! Những cánh tay giơ lên, những tiếng hô vang làm rung chuyển cả Hội Trường Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I & Vùng I Chiến Thuật: “Quyết tâm ủng hộ Tổng Thống ! Quyết tâm giữ vững lập truờng chiến đấu của Tổng Thống để bảo vệ Tổ Quốc ! “
Tôi lúc đó chỉ là một Chuẩn Uý hiện dịch, nhưng với cái vốn kinh nghiệm gần 7 năm kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ, 2 lần bị Tây bắt nhốt đầu vào tù, và hơn 6 năm chống cộng sản, tôi cũng đủ trí khôn để thông cảm với những khó khăn, nguy hiểm đang đợi chờ Ông Diệm, vị Tổng Thổng đầu tiên của nền Cộng Hoà non trẻ tại Nam Việt Nam.
Tôi nhìn các Sĩ Quan đàn anh đứng chung quanh, hình như ai nấy đều linh cảm thấy có một cái gì nặng nề, nguy hiểm đang đợi chờ vị Tổng Thống khả kính và can đảm của mình. Phải thành thực mà công nhận rằng: vào thời gian đó, dưới sự lãnh đạo của Ông Diệm, Quân Ðội ra Quân Ðội, Tướng Tá ra Tướng Tá, Sĩ Quan ra Sĩ Quan, chớ không có … hổ lốn, bát nháo như một số khá đông của những thời gian sau này, sau khi Ông Diệm không còn nữa... Tôi không phải là người công giáo như Ông Diệm, mà chỉ là một quân nhân hiện dịch thuần tuý, nhưng cũng thấy mắt mình nhoà đi. Tôi cầu xin Ơn Trên phù hộ, che chở cho Ông, cũng như cho Ðất Nước này…
Ngày 19/6/1960: Ðại Sứ Mỹ tại Sài Gòn Elbridge Durbrow, gửi cho ngoại trưởng Mỹ, Christian Herter ở Hoa Thịnh Ðốn 1 điện văn mật thông báo tình hình Sài Gòn: Có thể có 1 cuộc đảo chánh nhằm lật đổ chính quyền cuả Ông Diệm, trong khi đó ở nông thôn, hoạt động của cộng sản gia tăng mạnh mẽ… Phần cuối, bản văn kết thúc “Nếu thế đứng cuả Ông Diệm tiếp tục giảm sút, không còn phù hợp với tình thế chính trị, tâm lý, kinh tế và an ninh tại đây nưã thì có thể là điều mà chính phủ Hoa Kỳ nên tính đến những phương cách khác để hành động và thay thế người lãnh đạo hầu đạt đến những mục tiêu cuả chúng ta …
(If Diem’s position in the country continues to deteriorate as result failure adopt proper political, psychological, economic and security measures, it may become necessary for US Government to begin consideration for alternative courses of action and leaders in order to achieve our objectives…).
Ngày 11 – 12 tháng 11/1960: Ðại Tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Lữ Ðoàn Nhảy Dù và Trung Tá Vương Văn Ðông (nhưng ban đầu chủ yếu lại là Vương Văn Ðông) chỉ huy một lực lượng quân sự gồm nhiều Tiểu Ðoàn Nhảy Dù và 1 đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến, bao vây dinh Tổng Thống để làm một cuộc đảo chánh với lý do được công bố trên đài phát thanh Sài Gòn đã bị quân đảo chánh chiếm giữ “… Ông Diệm đã tỏ ra không đủ khả năng cứu đất nước khỏi họa cộng sản cũng như bảo vệ sự đoàn kết quốc gia… - Diem has shown himself incapable of saving the country from Communism and protecting national unity… “
Biết rằng cuộc âm mưu đảo chánh này không do những nhân vật chính trị có danh tiếng, không có hậu thuẫn chính trị thực sự cuả dân chúng, không có sự tham gia cuả các Tướng Lãnh cũng như lực lượng quân đội dưới quyền cho nên Ông Diệm tạo thế trì hoãn, thoái thác nhượng bộ trước sự đòi hỏi cuả phe đảo chánh là từ bỏ chính quyền và đợi cho các lực lượng quân đội, hầu hết vẫn còn trung thành với ông, từ các nơi kéo về dẹp loạn. Cuộc đảo chánh bất thành vì quá non kém về tổ chức, lãnh đạo cũng như đường lối chinh trị và quân sự. Tuy nhiên cuộc đảo chánh bất thành này đã đem lại cho chính quyền cuả Ông Diệm những bài học quan trọng:
A. Cộng sản càng tích cực tung cán bộ vào thành phố khai thác những mâu thuẫn, bất đồng giưã chính quyền và các nhân vật, các nhóm chống đối tại thành thị. Những mâu thuẫn này tất nhiên phải có trong hoàn cảnh miền Nam Việt Nam đang phải thực hiện một xã hội tương đối tự do, dân chủ, phồn thịnh (hơn hẳn miền Bắc), cùng một lúc phải đối phó với cuộc chiến tranh xâm lăng, phá hoại toàn diện cuả cộng sản Hà Nội, được chỉ đạo và yểm trợ từ Mạc-Tư-Khoa cũng như từ Bắc Kinh, theo “Ðường lối cách mạng vô sản toàn cầu cuả Ðệ Tam Quốc tế – Global Proletarian Revolution Policy of the Third International“.
B. Thi hành 1 đường lối vô cùng khó khăn khả dĩ đáp ứng được nhu cầu của tình thế:
Giữ vững chính quyền đang bị âm mưu khuynh đảo từ bên ngoài do bọn tài phiệt quốc tế, ở bên trong thì do cộng sản chỉ đạo. Ngay trong nội bộ hàng ngũ quốc gia cũng có những phần tử ham danh, hám lợi cũng như quyền lực đang chờ đợi thời cơ để hành động.
Giữ vững tinh thần kỷ luật và lòng trung thành cuả quân đội, là sức mạnh bảo vệ chính quyền, chế độ. Ðồng thời giữ vững sự đoàn kết các tôn giáo là sức mạnh hậu thuẫn cuả nhân dân, nhưng cả hai: Quân Ðội và Tôn giáo lại là những mục tiêu quan trọng nhất mà cả 3 lực lượng chống phá nói trên đang nhắm vào để làm nổ bùng một cuộc đảo chánh khác, có tầm vóc quy mô, có tổ chức tinh vi hơn cuộc đảo chánh đã thất bại một cách dễ dàng ngày 11 tháng 11 năm 1960.
Ngày 20/12 /1960: Ðể đánh lừa dư luận quốc tế, để thu hút các nhóm chống đối và lôi kéo nhân dân Miền Nam, cộng sản Hà Nội tuyên bố chính thức cho ra mắt công khai Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam tại 1 Chiến Khu (Strategic War Zone) của cộng sản tại phía Ðông của Nam Việt Nam, thành phần bao gồm chừng 100 nhân vật nói là đại diện cho các nhóm chính trị đối lập với chính quyền, đại diện cho các tôn giáo có mặt tại Nam Việt Nam, các lực lượng vũ trang còn sót lại sau khi bị quân chính phủ đánh tan trong các chiến dịch hành quân tại miền Tây trước đó vài ba năm. Mặt trận này thực sự đặt dưới quyền lãnh đạo của một cán bộ cao cấp của Hà Nội, thuộc Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng (Political Bureau of the Party’s Central Committee).
Ngày 1 tháng 4/1961: Cộng sản tung 1 Tiểu Ðoàn chủ lực quân, có du kích địa phương tăng cường, gồm hơn 400 quân, tấn công thử sức vào 1 ngôi làng chiến đấu kiểu mẫu cuả “Quốc sách ấp chiến lược – National policy of Strategic Hamlets“ thuộc Tỉnh Kiến Hoà, nhưng bị quân đội Cộng Hoà đánh tan và bị thiệt hại nặng nề. Hai ngày sau, cộng sản thử sức lần nữa bằng cách tấn công vũ bão và bất ngờ vào khu vực Bến Cát tỉnh Bình Dương, phía Bắc Sài Gòn, nhưng hơn 100 quân cộng sản bị quân Cộng Hoà tiêu diệt, bỏ xác tại trận. Cộng sản buộc phải đổi hướng, tập trung nỗ lực vào những hoạt động võ trang phá hoại tại các thành phố, tung cán bộ len lỏi vào trong các tầng lớp nhân dân, hàng ngũ tôn giáo có đông đảo quần chúng nhưng hệ thống tổ chức ít chặt chẽ, để tìm cơ hội gây xáo trộn chính trị tại các thị trấn, nơi tập trung đông đảo dân cư, làm suy yếu chính quyền Miền Nam thay vì nôn nóng giành chiến thắng quân sự để hỗ trợ cho các hoạt động chính trị và ngoại giao.
Ngày 12/5/1961: Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson, trong cuộc viếng thăm Á Châu, đã gặp Tổng Thống Diệm tại sài Gòn. Ông Johnson ca tụng Tổng Thống Diệm là một Churchill của Á Châu và nói, “Ðối với thế đứng cuả Hoa Kỳ tại Á Châu, Tổng Thống Diệm là nhân vật, là người bạn không thể thiếu được”. Tuy nhiên, khi trở về Mỹ, ông Johnson lại báo cáo cho Tổng Thống Kennedy cũng như cho các nhân vật chính trị cao cấp biết rằng: Ông Diệm vẫn giữ vững lập trường không cho quân chiến đấu cuả Hoa Kỳ vào Việt Nam, trừ phi cộng sản Hà Nội xua quân tràn qua vĩ tuyến 17 một cách đại quy mô như cộng sản Bắc Hàn đã xua quân tràn qua vĩ tuyến 38 hồi 1950.
Ngày 18 /9 /1961: Cộng sản bất thần mở trận đánh lớn cấp Trung Ðoàn (Regiment), tung 1,500 quân bao vây và đành chiếm Tỉnh Lỵ Phước Vĩnh (tỉnh Phước Thành), sau khi đã mở chiến dịch gồm 41 trận đánh lớn nhỏ trên khắp lãnh thổ Miền Nam để áp đảo và chia xẻ lực lượng đối phương. Sau đó 3 tuần lễ, tại diễn đàn Quốc Hội, Tổng Thống Diệm chính thức tuyên bố với quốc dân và thế giới là Việt Cộng, với sự chỉ đạo và yểm trợ của cộng sản quốc tế đã chính thức biến cuộc chiến tranh du kích trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà thành một thứ chiến tranh xâm lăng quy mô thực sự, có sự tham chiến của quân chính quy cộng sản Bắc Việt, được trang bị tối tân và hùng hậu… Bọn tài phiệt quốc tế, buôn bán chiến tranh, càng thêm cơ hội để tung tiền và thủ đoạn để đưa đám “Lobbyists“ vào các hành lang, ngõ ngách của Quốc Hội, hệ thống truyền thông Hoa Kỳ, dọn đường cho một kế hoạch ào ạt đổ quân tác chiến của Mỹ và lôi kéo một số đơn vị quân đội Ðồng Minh vào chiến trường Nam Việt Nam.
Chậm chân là thiệt hại cả … núi đô la chớ không phải chuyện đùa. Nhưng, lại tiếng nhưng ở chỗ này ! Nhưng Ông Diệm nhất định không chấp nhận cho quân đội tác chiến của Mỹ chiến đấu tại Nam Việt Nam. Còn Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy thì cũng không hăng hái, thiết tha cho lắm với việc đổ quân tác chiến cuả Mỹ vào chiến trường Miền Nam trong hoàn cảnh lúc này vì nó không như lúc cộng sản Bắc Hàn xua quân cấp Quân Ðoàn (Army Corps) tràn qua vĩ tuyến hồi năm 1950… Ông Kennedy vẫn trung thành với “Ðường lối ngăn chặn – Containment Policy“ để chống lại sự bành trướng cuả phong trào cộng sản trên thế giới từ sau Ðệ Nhị Thế Chiến, bằng những phương cách ít tốn sinh mạng người Mỹ nhất, trừ trường hợp nền an ninh của Mỹ bị đe dọa trực tiếp, nghĩa là ông Kennedy chỉ chấp nhận hy sinh nhân mạng của Mỹ trong trường hợp bất khả kháng - In case of absolute necessity“. Thế thì “chúng nó“ bắt buộc phải loại trừ Ông Diệm khỏi ngôi vị lãnh đạo Nam Việt Nam trước đã, và sau đó bất cứ kẻ nào làm ngăn trở việc đổ quân tác chiến của Mỹ vào Nam Việt Nam cũng đều bị “chúng nó“ xoá sổ hết (kể luôn cả Tổng Thống Mỹ).
Ngày 2/1/1963: Tại Ấp Bắc xã Tân Hội thuộc quận Cai Lậy tỉnh Định Tường, cách Sài Gòn 40 dậm về phía Ðông Nam, Trung Đoàn Đồng Tháp, một đơn vị chủ lực quân của cộng sản Bắc Việt đã tấn công một đơn vị thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa.
Thật là một cơ hội bằng vàng để bọn tài phiệt quốc tế dùng ảnh hưởng, sức mạnh của đồng đô la để lái các cơ quan truyền thông, hướng dẫn dư luận, gây áp lực tại Hoa Kỳ, từ Quốc Hội cho đến chính phủ phải bằng mọi giá đổ quân tác chiến của Mỹ vào Việt Nam ngay lập tức. Nếu không, “Tiền đồn chống cộng“ của Mỹ tại Á Châu sẽ sụp đổ và “Chính sách ngăn chặn cộng sản“ cuả Mỹ trên thế giới sẽ thất bại và … nền anh ninh của chính nước Mỹ cũng sẽ bị lâm nguy …
Chúng đem câu nói của Lenin, Sư Tổ của cách mạng vô sản 1917 tại Nga, người đã mở đường cho phong trào cộng sản thế giới bùng ra hết cách ngăn cản sau thế chiến thứ 2, mà dọa cả nước Mỹ “Trước hết, chúng ta hãy chiếm giữ Ðông Âu, rồi nắm lấy khối quần chúng khổng lồ ở Á Châu, sau đó bao vây Hoa Kỳ là thành lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản. Chúng ta khỏi phải đánh đấm chi cả, Hoa Kỳ cũng sẽ rơi vào tay chúng ta như một trái cây đã chín rữa.
First, we will take eastern Europe, then the masses of Asia, then we will encircle the United States which will be the last bastion of Capitalism. We will not have to attack, it will fall into our hands like an overipe fruit.”(The Death of A Nation – John A. Stormer – The Liberty Bell Press – Florissant Missouri, July 1978, Page 14). Thế là “người ta“ phải tính đến 2 điều quan trọng nhất để lật đổ chính quyền Ngô Ðình Diệm: Thứ nhất: Phải giao cuộc đảo chính vào tay nhân dân miền Nam làm lực lượng chính yếu thì nó mới có chính nghĩa (just cause). Ai có thể huy động được đông đảo dân chúng ? - Phải cần đến một tôn giáo nào đó, có khả năng lôi kéo được nhiều người nhẩy vào cuộc. Thứ hai: Phải đẩy được đông đảo Tướng Lãnh có quân trong tay đứng ra ... cứu dân, bảo vệ đất nước trước sự rối loạn bên trong và quân thù
(cộng sản) đang rình rập, chờ đợi 1 cơ hội thuận lợi ở bên ngoài....
Ngày 8/5/1963: Bùng nổ vụ rối loạn, chống đối ở Cố Ðô Huế, giữa hàng chục ngàn tín đồ Phật Giáo do cộng sản giật dây với nhân viên chính quyền địa phương và các lực lượng an ninh. Tổng Thống Diệm tuyên bố trên đài phát thanh quốc gia là vụ này có bàn tay của cộng sản nhúng vào, gây thêm tình trạng khó khăn cho địa phương, tạo thêm sự mâu thuẫn trầm trọng giữa chính phủ và 1 tôn giáo lớn trong nước.
Cuộc rối loạn ngày càng gay go, dữ dội, quyết liệt và biến sang hình thức “Một tôn giáo lớn nhất trong nước – thường kể luôn cả những người chỉ thờ cúng Ông Bà, không được đào tạo, huấn luyện, sinh hoạt tôn giáo chặt chẽ- chống lại một hệ thống chính quyền được lãnh đạo bởi 1 Tổng Thống và các nhân vật cao cấp, trọng yếu, đa số là người thuộc Giáo Hội Công Giáo La Mã“.
Phía chính phủ thì lên tiếng: Tổng Thống Diệm sử dụng người theo nguyên tắc thông thường của các nhà lãnh đạo là căn cứ vào tài năng, đức độ, sự tin cậy, thích hợp cho công việc và lợi ích quốc gia, chớ không phải vì kỳ thị tôn giáo…(Sau 1975, Cộng sản Việt Nam đàn áp tôn giáo, kềm kẹp kẻ đối lập, áp bức dân chúng gấp triệu lần Ông Diệm, mà sao chưa thấy biểu tình, chống đối để lật đổ chính quyền ? Hay nhỉ ! Chẳng lẽ cộng sản nó tài, nó giỏi !).
Sự rối loạn càng bùng lên dữ đội và lan mạnh tới các thành phố lớn rồi di chuyển trung tâm đấu tranh chống chính phủ về ngay tại Thủ Ðô Sài Gòn, nơi tập trung các cơ quan quyền lực quốc gia, các Toà Ðại Sứ ngoại quốc, cũng như các cơ sở truyền thông quốc tế. Tại đây, Thượng Toạ Thích Trí Quang, cán bộ cao cấp của cộng sản, một trong những vị lãnh đạo cao cấp Phật Giáo, gốc người Bắc Việt, 2 lần bị Pháp bắt vì tình nghi có liên lạc với Việt Minh (cộng sản) được dư luận coi là một nhân vật tôn giáo đặc biệt trong hoạt động chính trị, đứng ra phát động và lãnh đạo cuộc đấu tranh của dân chúng.
Thích Trí Quang thông báo cho phía Mỹ biết là người Mỹ phải chịu trách nhiệm về những hoạt động của chính quyền Sài Gòn do Mỹ ủng hộ… (Thich Tri Quang, a politically sophisticated monk of North Vietnamese origin, twice arrested by French on suspicion of Vietminh connections, stirs the people against Diem and informs US officials, whom he holds responsible for Diem because of US support…). Sau này, người ta mới biết Phòng Nhì (2ème Bureau) của Pháp đã theo dõi không sai, và biết rõ sự liên hệ chặt chẽ của nhân vật này với cộng sản Việt nam từ năm 1946 trở đi...
Ngày 7/6/1963: Bà Ngô Ðình Nhu lên tiếng tố cáo trước dư luận là người Mỹ đã cố tình nhúng tay vào, tạo nên vụ biến động này và thúc đẩy cho ngày một thêm trầm trọng, phức tạp thêm, nhằm khuynh đảo chính quyền của Tổng Thống Diệm vì Tổng Thống Diệm cương quyết không chấp nhận chính sách can thiệp chính trị và quân sự cuả người Mỹ, là chính sách đi ngược lại ý nguyện và quyền lợi của dân chúng Nam Việt Nam.
Ngày 11/6/1963: Thượng Toạ Thích Quảng Ðức do cộng sản giật dây tự thiêu ngay tại trung tâm thủ đô Sài Gòn, để phản đối chính phủ. Dư luận dân chúng trong nước và thế giới bị xúc động mạnh. Báo chí trong và ngoài nước, các cơ quan truyền thông khác, nhất là tại Mỹ (đã bị lâm trận hoả mù của bọn Lobbyists nói ở trên) khai thác tối đa vụ này theo chiều hướng “Phải thay thế ngay người lãnh đạo chính quyền Nam Việt Nam“. Ðang cơn dầu sôi lửa bỏng như thế thì Bà Ngô Ðình Nhu, vì tức giận người Mỹ và lực lượng chống chính phủ nên đã nóng giận, mất sự khôn ngoan, bình tĩnh cần thiết trước tình thế bất lợi cho chính phủ. Bà Nhu lên tiếng mạt sát, thoá mạ cuộc tự thiêu của Thượng Toạ Quảng Ðức do cộng sản giật dây. Thật là “Lửa đã đỏ lại đổ thêm dầu“. Ðiều này làm cho dư luận dân chúng thêm phẫn nộ, nghiêng hẳn về phía lực lượng chống chính phủ.
Ngày 27/6/1963: Thấy tình hình Sài Gòn rối loạn, khó gỡ được ra, Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy bổ nhiệm Ông Henry Cabot Lodge, thuộc Ðảng Cộng Hoà, sang Sài Gòn giữ chức vụ Ðại Sứ Hoa Kỳ, thay thế cho Ðại Sứ Nolting, người đang tỏ ra bất lực trong việc gỡ rối cho tình hình Sài Gòn theo chiều hướng có lợi cho chính sách của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Thực tâm Tổng Thống Kennedy là chỉ gỡ rối sao cho êm đẹp, thuận lợi cho đường lối, chính sách của Hoa Kỳ, của Ông Kennedy, chớ Ông Kennedy lúc này không hề nghĩ đến việc lật đổ Ông Diệm, nhất là không bao giờ nghĩ đến việc phải giết Ông Diệm. Ông Cabot Lodge được giới chính trị và truyền thông Hoa Kỳ coi là “Một con cáo già chính trị“ và đồng thời là một “Chuyên viên đảo chánh”, và hiện đang theo đuổi một chính sách mang tính cách “Diều hâu“ khác hẳn với Ông Kennedy về vấn đề Việt Nam. Một Cabot Lodge, cáo già chính trị, chuyên viên đảo chánh, không cùng 1 Ðảng với Ông Kennedy, thuộc Ðảng Cộng Hòa, có nhiều liên hệ với quyền lợi của bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh, mà sang làm Ðại Sứ Mỹ tại Sài Gòn thì tình hình sẽ ra sao ?
Cabot Lodge được cử sang Sài Gòn với nhiệm vụ “gỡ rối – Untangling“ tình hình, nhưng Cabot Lodge lại quyết định chọn “phương cách gỡ rối“ bằng một “Cuộc đảo chánh – Coup d’état“ êm ái, nhẹ nhàng, không chọc giận Ông Kennedy, sinh trưởng trong 1 gia đình theo đạo Thiên Chúa, nghĩa là chỉ cần đẩy Ông Diệm ra khỏi ngôi vị lãnh đạo chính quyền Nam Việt Nam, đưa Ông Diệm đi sống lưu vong ở một quốc gia nào đó nằm trong “Quỹ đạo chính trị – Political circle“ của Hoa Kỳ, như Ðài Loan, Thái Lan chẳng hạn là đủ rồi. Sau đó, Cabot Lodge sẽ dựng lên một thứ chính quyền mới hoàn toàn biết vâng phục theo ý muốn của Hoa Kỳ, hay đúng ra trong lúc này, là ý muốn cuả “Giới tài phiệt – Financial Oligarchy“ của Mỹ đang tính chuyện kiếm lời thật lớn lao trong cuộc chiến tranh đang xẩy ra trên đất nước Việt nam nhỏ bé nhưng đầy đau khổ, máu xương và nước mắt này…
Ðó ! Câu trả lời cho cái đầu đề của bài viết này “Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Ðình Diệm ?“ tưởng đã đủ rõ ràng, khả dĩ góp phần nhỏ bé vào việc làm sáng tỏ 1 trang lịch sử cận đại của một đất nước, một dân tộc anh hùng, nhưng quá bé nhỏ trước nanh vuốt của một bầy thú dữ khổng lồ ...
San Diego, California
Phan Ðức Minh
-----------------
Tài liệu tham khảo:
* The Death of A Nation.- John A. Stormer.- Liberty Bell Press – Missouri, 1978.
* The World Almanac of The Vietnam War.- John S. Bowman (General Editor).- Bison Books Corp.- New York,1985.
* Vietnam: The History & The Tactics.- Ahsley Brown & Adrian Gilbert.- Orbis Publishing Limited.- London,1982.
* The Final Days.- Bob Woodward & Carl Bernstein.- The Hearst Corporation.- New York, 1976.
* Kennedy.- Theodore Sorensen.- Harper & Row.- New York, 1965.-
* A Book of U.S. Presidents.- George Sullivan.- Scholastic Incorporation.- New York,1984.-
No comments:
Post a Comment