Đỗ Thái Nhiên
Chủ ở đây là nhân dân Việt Nam. Tớ ở đây là đảng CSVN. Tớ ở đây không do chủ tuyển chọn mà do sự kiện: cách đây nhiều thập niên, tớ đã ngang nhiên cầm mã tấu, lựu đạn, bước vào nhà chủ, buộc chủ phải chấp nhận “quyền làm tớ” của đảng CSVN. Hơn thế nữa, sau khi cướp được “ghế làm tớ” , CSVN liên tục vừa đánh cắp tài sản của chủ vừa mở cửa sau (thông qua các mật ước) để tên trộm Trung Quốc ngang nhiên lấn chiếm đất đai của chủ. Mặc cảm của một tên tôi tớ “nhập lậu” cộng với núi tội ác tham ô và bán nước, CSVN bao giờ cũng lo sợ bị nhân dân Việt Nam lật đổ.
Nhằm chế ngự tâm lý lo sợ kia, CS tìm đủ mọi phương cách để buộc nhân dân phải khiếp sợ nhà cầm quyền Hà Nội, buộc nhân dân phải tuyệt đối không bao giờ dám nghĩ tới hai chữ “lật đổ”. Đi tìm những quỷ kế để có thể buộc nhân dân phải ngoan ngoản phục tùng triều đình Hà Nội, CSVN không thể không chọn con đường khủng bố. Đó là tất cả cội nguồn tâm lý – chính trị của hồ sơ “Tớ Khủng Bố Chủ”. Muốn khảo sát hồ sơ vừa kể, chúng ta cần lần lượt phân tích ba vấn dề sau đây:
_ Các yếu-tố-tội-phạm của tội ác khủng bố.
_ Ý nghĩa pháp lý của hồ sơ “Tớ khủng bố chủ”.
_ Lý do thầm kín đằng sau hồ sơ khủng bố.
I. Các yếu tố tội phạm của tội ác khủng bố.
Vận hành của xã hội là một cuộc đấu tranh bất tận giữa hai nhu cầu vừa mâu thuẫn lẫn nhau vừa phải nương vào nhau để cùng tồn tại: bên này là đời sống tự do và ổn định của cá nhân, bên kia là an ninh và trật tự xã hội. Nhằm giúp cho đôi bên được chung sống trong hòa bình, hình luật bao giờ cũng tuyệt đối đề cao nguyên tắc “vô luật bất thành tội”. Nguyên tắc này có chủ đích ngăn cấm nhà cầm quyền độc tài không được phép tùy tiện bắt bớ giam cầm những công dân bất đồng chính kiến với giới cai trị. Để được gọi là luật thì luật phải là những bản văn có nội dung cụ thể với đầy đủ chi tiết cần thiết. Thiếu chi tiết và cụ thể, luật sẽ trở thành những công cụ nguy hiểm được nhà cầm quyền xử dụng để áp chế giới bị trị. Hãy tham khảo một bằng chứng cụ thể: cuối tháng 6/2006, nhà cầm quyền CSViệt Nam đã ban hành nghị định số 56, hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7/2006. Nghị định này có mục đích trừng phạt nghiêm khắc các nhà báo nào phạm tội: “xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm dân tộc, vĩ nhân, anh hùng dân tộc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức”. Luật 56 không hề nói rõ thế nào là “sự thật lịch sử”? Cá nhân hay đoàn thể nào là giới chức có thẩm quyền xác định sự thật lịch sử? Thế nào là cách mạng? Phải chăng cách mạng là dùng “văn hóa” Marx Lenine để hủy diệt văn hóa dân tộc? Phải chăng cách mạng là âm thầm từ giã giai cấp vô sản để ngạo nghễ bước vào cung điện của tư bản đỏ? Luật 56 chính là một mớ ngôn từ vừa mơ hồ vừa vô nghĩa. Trong mơ hồ và vô nghĩa kia chỉ có một sự kiện xuất hiện rất rõ nét, đó là lưỡi hái của tử thần dành cho quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam.
Nhằm tránh cho việc kết tội “tớ khủng bố chủ” bị rơi vào tình trạng mơ hồ và vô nghĩa kiểu luật 56, bài viết này xin đi ngay vào phần phân tích các yếu- tố- tội- phạm cấu thành tội ác khủng bố theo đúng kỹ thuật lý luận nghiêm túc và khoa học của môn hình luật.
Một người hay một tổ chức sẽ phạm tội khủng bố nếu hành động của các đương sự gồm đủ ba yếu- tố- tội- phạm sau đây:
• Yếu tố thứ nhất: phạm nhân xử dụng bạo lực bất hợp pháp. Bất hợp pháp là trái với luật pháp hoặc trái với công bằng và lẽ phải thông thường. Bạo lực thể chất: bắt cóc, tra tấn, giam cầm, sát hại nạn nhân. Bạo lực tinh thần đe dọa gây nguy hại cho sinh mạng hay uy tín của nạn nhân. Các loại bạo lực này làm cho nạn nhân cảm thấy thực sự sợ hãi.
• Yếu tố thứ hai: khai thác tâm lý sợ hãi nói ở yếu tố thứ nhất, phạm nhân buộc nạn nhân phải làm hay phải không làm một số công việc nào đó. Phải giao nạp tài sản cho phạm nhân là một thí dụ của nhóm chữ “phải làm”. Phải chấm dứt vĩnh viễn hành động đòi hỏi dân chủ đa nguyên là một thí dụ của nhóm chữ “phải không làm”.
• Yếu tố thứ ba: phạm nhân thực hiện yếu tố thứ nhất và thứ hai nhằm đoạt thủ một quyền lợi rõ rệt. Quyền lợi ở đây có thể là một món tài sản, một quyền thống trị.
II. Ý nghĩa pháp lý của hồ sơ “Tớ khủng bố Chủ”
A. Trần thuật nội vụ.
Sau hai thập niên thống trị miền Bắc, ba thập niên thống trị toàn VN, tội ác khủng bố nhân dân của CSVN là lọai tội ác chồng chất thành nhiều lớp núi đồi trùng điệp. Bài viết này chỉ nêu ra một trường hợp điển hình để cụ thể hóa hồ sơ “Tớ khủng bố chủ”.
Ngày 29/04/2008, tại Saigon, chế độ Hà Nội long trọng tổ chức đón- rước đuốc Olympic Bắc Kinh 2008. Tại chợ Đồng Xuân Hà Nội, lúc 9 giờ sáng cùng ngày, một số đồng bào VN biểu tình chống Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa cùa VN, giết hại ngư dân VN trên biển Đông. Cuộc biểu tình vừa mới khai diễn, công an lập tức bắt giữ các người có tên sau đây: sinh viên Nguyễn Tiến Nam, sinh viên Ngô Quỳnh, sinh viên Nguyễn Văn Nhất, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà giáo Vũ Hùng ở Hà Tây, ông Vi Hồi Đức ở Lạng Sơn. Sáu người này bị đánh đập tàn tệ đi kèm với lời răn đe của công an: cấm người dân không đươc biểu tình chống Trung quốc.
B. Ý nghĩa pháp lý của hồ sơ “tớ khủng bố Chủ”
Bây giờ chúng ta hãy sử dụng ba yếu tố tội phạm của tội khủng bố để phân tích và đánh giá hồ sơ “Tớ khủng bố Chủ”
1) Yếu tố thứ nhất: sử dụng bạo lực bất hợp pháp
Ngày 01/05/2008, trong cuộc phỏng vấn của ký giả Trà Mi, đài Á Châu Tự Do, sinh viên Nguyễn Tiến Nam cho biết nguyên văn như sau: “Đầu tiên là một công an tên là Minh, làm việc ở A38 của bộ công an đã dánh tôi rất dã man, đấm liên tục vào ức tôi. Thấy vậy nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa phản đối. Lập tức, công an này quay ra đánh nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa đến xưng mặt. Phẫn uất thấy bạn bị đánh trọng thương, nhà giáo Vũ Hùng lên tiếng ngăn cản công an: “Anh ấy già rồi, sao các anh lại nỡ thế. Anh Nghĩa đáng tuổi chú, tuổi anh các anh mà các anh làm những trò như thế sao?”. Ngay sau lời nói phải quấy của thầy giáo Vũ Hùng, công an cho ông thầy giáo trẻ tuổi này một trận đòn chí tử. Sau đó họ bắt chúng tôi phải viết lời khai, họ còn nhấn mạnh: “Chúng mày mà viết không thành thật thì chúng tao sẽ có biện pháp mạnh với chúng mày. Chúng mày thấy người Trung Quốc đánh tội phạm như thế nào chứ?”
Qua lời trình bày của sinh viên Nguyễn Tiến Nam, rõ ràng là công an CSVN đã sử dụng bạo lực bất hợp pháp. Bất hợp pháp bởi lẽ không điều luật nào trong luật pháp cho phép công an được quyền đánh dập người dân chỉ vì người dân biểu tình chống Trung Quốc xâm lược.
2). Yếu tố thứ hai: cưỡng bách nạn nhân phải tuân phục mệnh lệnh của can phạm.
Mệnh lệnh ở đây là mệnh lệnh cấm biểu tình chống Trung Quốc.
3). Yếu tố thứ ba: Khủng bố nhằm đoạt thủ một quyền lợi.
Như mọi người đã biết từ nhiều thập niên qua, CSVN không ngừng tìm đủ mọi phương cách làm Trung Quốc hài lòng. Bù lại, Trung Quốc sẽ bảo vệ ngôi vị cầm quyền của CSVN trên đất nước việt Nam. Tóm lại, quyền lợi của hành động khủng bố trong hiện vụ là ngai vàng Hà Nội được bảo vệ.
III. Lý do thầm kín đàng sau hồ sơ “tớ khủng bố Chủ”
Ngay sau 30/4/1975, với lá bùa “chủ nghĩa Marx Lenine vô địch muôn năm” với sự hỗ trợ của “phe xã hội chủ nghĩa”, CSViệt Nam đã cai trị Việt Nam bằng chính sách khủng bố công khai. Bắt giam tất cả những thành phần bị CSViệt Nam nghi là phản động, đánh tư sản mại bản, đánh văn nghệ sĩ, tống giam phi pháp và vô thời hạn những người bị CS gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”, tùy nghi cưỡng đoạt tài sản của nhân dân qua những lần đổi tiền v.v... Các sự kiện vừa nêu được gọi là khủng bố công khai, khủng bố trắng.
Ngày nay do tình hình thế giới thay đổi, CSViệt Nam bắt buộc phải chạy theo kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là kinh tế của lòng tin, của tín dụng. Kinh tế thị trường và khủng bố chính trị như nước với lửa. Vì vậy bước vào kinh tế thị trường của thế giới, CSViệtnam phải đối mặt với hai vấn đề:
_ Một là làm thế nào để quốc tế có thể chấp nhận CSViệt Nam như một nhà cầm quyền tự do dân chủ.
_ Hai là làm thế nào để nhân dân trong nước không có khả năng tố cáo tự do dân chủ của CS là loại hàng giả?
Muốn giải quyết hai vấn đề trên, CSViệt Nam quyết định vừa tô màu chế độ dân chủ giả hiệu, vừa biến “khủng bố trắng” của những năm sau 1975 thở thành khủng bố đen của những năm đầu thế kỷ 21. Khủng bố đen là khủng bố trong bóng tối, khủng bố bí mật, khủng bố dấu mặt. Hồ sơ “Tớ khủng bốp chủ” là một trường hợp điển hình của chính sách khủng bố đen do CSViệt Nam chủ trương trong giai đoạn hiện tại.
Mặc dầu đã chuyển đổi từ khủng bố trắng qua khủng bố đen, bản chất dân chủ giả hiệu của CSViệt Nam vẫn bị quốc tế nhận diện và chỉ trích. Nhằm biên minh cho hành động giả mạo dân chủ của mình, nhà cầm quyền Hà Nội vẫn thường nêu luận cứ rằng dân chủ Á châu khác với dân chủ Âu Mỹ và rằng mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng cho nên Hà Nội có quyền xây dựng tại Việt Nam một chế độ dân chủ đặc biệt.
Nêu ra các luận cứ mơ hồ và phản lý luận kia, CSViệt Nam có chủ ý đẩy hai chữ “dân chủ” rơi vào tình trạng khó hiểu đến tối tăm. Trong tối tăm và khó hiểu đó, Hà Nội lặng lẽ tiếp tục chính sách cai tri độc tài và tham ô. Công việc phân tích hồ sơ “Tớ khủng bố chủ” đã dẫn đến nhận định nghiêm túc rằng: dân chủ là dân chủ, không có vấn đề dân chủ Á châu khác với dân chủ Âu Mỹ. Dân chủ chỉ có một nội dung thống nhất.
Nội dung đó là: dưới chế độ dân chủ, quan hệ giũa người dân và nhà cầm quyền là quan hệ đồng thuận và hợp tác. Quan hệ giũa Nhà cầm quyền Hà Nội và người dân Việt Nam hiện nay là quan hệ giữa phạm nhân tội khủng bố và nạn nhân của hành động khủng bố. Chừng nào CSViệt Nam không còn khả năng khủng bố, khủng bố trắng cũng như khủng bố đen, chừng đó Việt Nam thực sự có tự do dân chủ. Đó là nội dung cốt lõi của bài viết “Tớ khủng bố chủ” vậy.
Đỗ Thái Nhiên
No comments:
Post a Comment