Thursday, July 31, 2008

Biết đến bao giờ CSVN mới hết thói tham tàn bạo ngược đây?

Biết đến bao giờ CSVN mới hết thói tham tàn bạo ngược đây?

• Lý Hữu Hạnh

Trước hết, tôi xin được trình bày với quý vị rằng tôi không phải là một vị anh hùng, và tôi cũng không muốn trở thành anh hùng, bởi tôi chỉ là một người Việt nam bình thường như những người Việt nam bình thường khác. Tôi chỉ là một nạn nhân của chế độ cộng sản bạo ngược tham tàn như hàng triệu, hàng triệu đồng bào tôi đã và đang là nạn nhân của chế độ cộng sản bạo quyền.

Tôi đã chống cộng, đang chống cộng và sẽ tiếp tục chống cộng đến cạn lực tàn hơi chỉ vì tôi đã chứng kiến cộng sản đã gây quá nhiều đau thương tang tóc cho đồng bào tôi, mà không ai có thể biết được đến bao giờ cộng sản mới thôi thói bạo ngược tham tàn.

Tôi tên là Lý Hữu Hạnh, sinh năm 1941 tại Gia Định, Sài gòn, là cựu quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tôi đã tùng sự tại sư đoàn 22 bộ binh, là thuộc cấp của Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Võ Hắc Đường. Năm 1969 được bổ nhiệm chức vụ trung đội trưởng trung đội Thám Báo Tiểu Đoàn, và bắt đầu trở thành mục tiêu sát hại của cộng sản. Cuối năm 1969 lực lượng biệt động thành của Việt cộng đã thảm sát cả gia đình tôi, gồm vợ và 3 con của tôi ngay tại tư gia của tôi tại Gia định.

Đầu năm 1975, khi vùng II chiến thuật thất thủ, đơn vị của tôi được điều động về trấn giữ cầu Bến Lức, Long An cho đến ngày miền nam hoàn toàn bị cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm. Nhiều chiến hữu của tôi bị bắt, một số bị giết, một số trở về với gia đình. Riêng tôi một binh sỹ đã nhiều năm không gia đình, nay lại không còn cả tổ quốc nữa, đã cải trang thành một người tàn phế để tạm sống qua ngày bằng “nghề” cái bang, lang thang gần như trên khắp 4 vùng chiến thuật. Cho đến ngày tôi gặp được một lực lượng kháng cộng đầu tiên kể từ sau ngày mất nước:

Đó là dịp tôi gặp được Linh Mục Nguyễn Văn Vàng và bào đệ của Linh Mục Vàng là Thiếu Tá Dù Nguyễn Văn Viên để rồi sau đó tôi trở thành thành viên của Mặt trận Liên Tôn. Nhưng chỉ đến cuối năm 1976 thì Mặt Trận Liên Tôn đã hoàn toàn bị tan rã khi Linh Mục Nguyễn Văn Vàng cùng bào đệ là Thiếu Tá Nguyễn Văn Viên bị bắt và bị kết án tử hình. Một lần nữa tôi lại quay về với kiếp “cái bang” cho đến khi tìm được Mặt Trận Thống Hợp Đông Dương, và tôi lại trở thành thành viên của Mặt Trận để tiếp tục kháng cộng, báo nợ nước, trả thù nhà. Nhưng do thiếu sự phối hợp chặt chẽ, cũng như vấn đề nhân sự và tài chánh, lại quá bức xúc với thời cuộc, quá nôn nóng trong việc phát triển lực lượng, Mặt trận đã sớm bị cộng sản cài cắm mật vụ vào và đánh sụp hoàn toàn vào năm 1979. Cùng các chiến hữu trong mặt trận, tôi đã bị bắt giam giữ, lao cải cho đến năm 1982 mới được phóng thích. Nhưng rồi tôi vẫn là người vô gia cư, vô tổ quốc và vô gia đình, tôi không biết nơi nào là địa phương của mình để về trình diện đành phải tiếp tục cuộc sống lưu lạc bằng nghề bán vé số dạo khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh và tiếp tục tìm kiếm minh chủ cho công cuộc kháng cộng cứu dân.

Đầu năm 2007 khi tổ chức Trà Đàm Dân Chủ Việt Nam ra đời, mặc dầu tuổi đã cao sức đã cạn, nhưng vì mong muốn đóng góp vào công cuộc chung cho nên tôi đã tự nguyên gia nhập Trà Đàm Dân Chủ Việt nam và trở thành Đại Diện của Trà Đàm Dân Chủ Việt nam tại Cần Thơ. Tôi bắt đầu công việc vận động các tầng lớp dân chúng tham gia trà đàm dân chủ, và bắt đầu cổ xúy cho phong trào dân chủ tại Việt nam. Cho đến tháng 4 năm 2008 An Ninh của CSVN đã đánh hơi được hoạt động của Trà Đàm Dân Chủ tại Cần Thơ, chúng theo dõi và lại tìm cách cài người vào tổ chức, để điều tra, chuẩn bị tung mẻ lưới bắt những thành viên cốt cán của phong trào. Do đó tôi đã phải đào thoát sang Cambodia để tỵ nạn chính trị, bởi tôi biết rõ rằng CSVN đã có đủ bằng chứng về những hoạt động chống cộng của tôi suốt từ ngày mất nước cho đến nay, và nếu tôi sa lưới cộng sản lần này thì chắc chắn sẽ phải đền nợ nước một cách thầm lặng như Cha Vàng, như Thiếu Tá Viên và các chí sỹ khác của Mặt Trận Liên Tôn, của Mặt Trận Thống Hợp Đông Dương trong các trại tù của cộng sản.

Thưa quý vị, tôi không sợ chết, nhưng tôi cần phải sống ít nhất là trong những năm cuối đời này, bởi sau hơn 30 năm sống lưu vong trên chính quê hương, tổ quốc của mình, tôi đã chứng kiến quá nhiều tội ác của CSVN đối với đồng bào ruột thịt của mình. Tôi cần có một cơ hội để tố cáo tội ác của CSVN trước công luận của thế giới của như trước lương tri của nhân loại.

Đáng tiếc thay khi đến trình diện với Cao Ủy Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc tại Campuchea thì tôi mới vỡ lẽ ra rằng Việt Cộng cũng đang hiện hữu tại cơ quan quốc tế này để tiếp tục gây tội ác, gieo kinh hoàng đau thương cho dân lành. CSVN cũng đã cài cắm được những tên Việt cộng nằm vùng vào đây để tiếp tục bắt bớ, bức hại những người Việt nam yêu nước. Chính vì vậy mà đã gần 3 tháng kể từ ngày tôi trình diện với Cao Ủy Tỵ Nạn cho đến nay, cơ quan này chưa hề tiến hành bất cứ một cuộc tiếp xúc, phỏng vấn để xem xét cho việc cấp quy chế tỵ nạn cho tôi, mà cứ để cho số phận của tôi treo lơ lững như chỉ mành treo chuông, tạo điều kiện thuận lợi cho mật vụ của CSVN muốn bắt tôi lúc nào thì bắt.

Ngày 10 tháng 07 vừa qua, khi tôi đến trình diện với Cao Ủy Tỵ Nạn theo định kỳ mỗi tháng để gia hạn Thẻ “Person Of Concern” của tôi, thì được một nhân viên người Bắc kỳ tại đây cho biết rằng “Cao Ủy đã chuyển giao công việc này cho Bộ Nội Vụ của Campuchea rồi, nhưng Campuchea đang bận rộn với công việc bầu cử, nên hiện nay họ không giải quyết bất cứ việc gì liên quan đến người tỵ nạn đâu. Ông về đi, sau bầu cử ông đến thẳng Bộ Nội Vụ Campuchea mà gia hạn giấy, và họ cũng sẽ phỏng vấn mà cấp quy chế tỵ nạn cho ông ở đó luôn”.

Chao ôi! Những tên cộng sản khát máu rồi đây sẽ phỏng vấn để cấp quy chế tỵ nạn cho những người chống cộng! Sao mà mỉa mai, mà cay đắng đến vậy. Suốt 3 tháng qua tôi và bao người khác đã mỏi mòn chờ đợi trong sự phập phồng lo sợ mật vụ của CSVN bắt cóc. Nếu không có sự che chở, đùm bọc của Chi Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tại Campuchea và của Hội thánh Tin Lành Mennonite của người Việt tỵ nạn cộng sản tại Campuchea, thì biết đâu chúng tôi cũng đã chết đói chết khát hay cũng đã bị mật vụ của CSVN bắt cóc, thủ tiêu rồi. Thế mà sắp tới đây, chúng tôi sẽ phải đến trình diện với những tên cộng sản khát máu này để được chúng phỏng vấn, để được chúng xem xét cấp quy chế tỵ nạn cho chúng tôi bởi chúng tôi đã chống cộng đang chống cộng và sẽ tiếp tục chống cộng cho đến hơi thở cuối cùng.

Rồi đây cá sẽ nằm trong rọ, và một cuộc tàn sát bắt bớ mới sẽ diễn ra trong nay mai.
Biết đến bao giờ CSVN mới hết thói tham tàn, bạo ngược đây?

Campuchea ngày 31 tháng 07 năm 2008
Binh Sỹ Lý Hữu Hạnh, Trung Đội Thám Báo,Tiểu Đoàn 2, Sư Đoàn 22 Bộ Binh
Đại diện Trà Đàm Dân Chủ Việt Nam tại Cần Thơ
Thành viên của Chi Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo Việt Nam tại Campuchea

Tu Hành Thuần Tuý” XHCN Hay Bức Tử Ôn Già Lam: Thích Trí Thủ Lần Nữa Vậy?

Thượng Tọa Thích Tỉnh Thức
Germany, 2007

Tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam theo dự kiến là một loại hình hợp đồng giữa Giáo Hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) với Nhà nước XHCNVN cùng làm. Đây là Hội chứng tín ngưỡng thuần tuý XHCNVN bao gồm: “Tu hành thuần tuý”; “Từ thiện thuần tuý”; “ Giáo dục thuần tuý”. Cụm từ thuần tuý theo cách nói XHCN có nghĩa là quay lưng với mọi loại hình khổ đau của đồng loại, bỏ mặc sự thống khổ của hơn 80 triệu đồng bào đang luống chịu vô vàn đau thương do cơ chế XHCNVN gây nên; một loại hình giáo điều “mũ ni che tai” không hề có trong tàng thư Phật giáo; một loại học thuyết Mác-síc mị dân, bố láo! Nói cách khác, đó là loại hình sinh hoạt tôn giáo theo định hướng XHCN, là chiến lược 3 bước: phân hoá GHPGVNTN, tiếm danh GHPGVNTN và xoá tên GHPGVNTN nhằm đưa đến XHCN hoá toàn dân theo hướng phi nhân bá đạo: Mác-Lê-Mao-Hồ.

Từ sau gánh Hát bội làng Mai về Việt Nam 2005 rồi 2007 trong âm mưu đảo chánh GHPGVNTN không thành, biến cố nầy đưa sự nghiệp cuối đời của Nguyễn Xuân Bảo – Cao Ngọc Phượng (Nhất Hạnh – Chân Không) phải bị cháy tan hoang đến thảm hại. Một khi ván bài tôn giáo vận Hạnh-Phượng không còn tác dụng nữa, cộng Đảng bèn chuyển hướng mới, mượn tay giáo gian mở chiến dịch 2007 Tổng tấn công GHPGVNTN. Được Hà Nội “bật đèn xanh”, đám đặc tình tôn giáo vận trong ngoài nước vốn “lặng sâu-trèo cao” từ lâu trong GHPGVNTN hải ngoại, nay họ vạch ra “đường bay riêng” quay lưng đánh phá Giáo Hội thống nhất. Cầm đầu đám đặc tình nầy là Nhóm Thân Hữu Già Lam “tứ quái” bao gồm; Thân Hữu Già Lam “tứ quái” hải ngoại và Thân Hữu Già Lam “tứ quái” trong nước.

Nhóm Thân Hữu Già Lam “tứ quái” hải ngoại gồm: Tâm – Ba – Siêu – Đạt (Thích Minh Tâm, Thích Quảng Ba, Thích Nguyên Siêu, Thích Bổn Đạt); cùng với Nhóm Thân Hữu Già Lam “tứ quái” trong nước là những: Sĩ – Thát – Liên – Từ (Thích Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Thích Quảng Liên, Thích Nhật Từ), trong-ngoài kết hợp trong vai trò “ hàng trang sức” những mong tẩy rửa bộ mặt nhơ nhuốc XHCNVN trên chính trường thế giới. Bên cạnh đó có còn đám cò mồi chính trị như loại Trần Quang Thuận (Tăng, tu xuất); ăn đong chạy gạo như loại Bùi Ngọc Đường (ma cô chính trị) ; nói năng lưỡi gỗ như loại Thích Thanh Tứ (chùa Quán Sứ, Hà Nội), Thích Thiện Tánh (Chùa Khánh Anh, đường 3 tháng 2, Q 10, Sài Gòn); lao nô cộng đảng như loại Hạnh Mãn (Ni, tu xuất) …

Cuối tháng 08-2007, Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, Thứ trưởng Bộ công an lên tận Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định thẳng thừng đề ra kế hoạch “áp tải” Hoà thượng Thích Huyền Quang, Tăng thống thứ 4, GHPGVNTN về Hà Nội bằng “nhà tù bay” để đưa Ngài lên ngôi Pháp Chủ GHPGVN (Giáo hội Quốc doanh) trong Đại hội kỳ 6 (2007-2012) GHPGVN theo dự kiến vào tháng 11-2007. Biến cố nầy được xem như Hà Nội bậc đèn xanh cho đám đặc tình tôn giáo vận xung trận vào cuộc: Trong ngoài nước kết hợp tổng tấn công, một mặt qua Đại hội kỳ 6 (2007-2012) GHPGVN, nhà nước sẽ “chào hàng” GHPG quốc doanh với cộng đồng Phật giáo thế giới, điều mà hơn 25 năm qua (1981-2007), GHPGVN chưa chính thức có tên trong cộng đồng Phật giáo thế giới, nhằm nâng Giáo Hội quốc doanh lên tầng cao … lao nô cộng đảng mới và mặt kia là qua Tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam dọn đường dư luận nhằm xoá tên GHPGVNTN.

Quốc nội, Thân Hữu Già Lam “tứ quái” trong nước là những: Sĩ – Thát – Liên – Từ cật lực ra sức giáo nô cùng với GHPGVN ráo riếc chuẫn bị Đại hội toàn quốc kỳ 6 (2007-2012) theo hướng lao nô cộng đảng, họ luôn sẳn sàng đem thân làm “con bò sửa” cho Mặt trận tổ quốc “vắt sửa” mỗi khi nhà nước có nhu cầu.

Hải ngoại, Thân Hữu Già Lam: tứ quái hải ngoại gồm: Tâm – Ba – Siêu – Đạt (Thích Minh Tâm, Thích Quảng Ba, Thích Nguyên Siêu, Thích Bổn Đạt) cũng cho người về nước dọn đường cho việc Tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam mà điển hình là việc họ vận động thành viên GHPGVNTN từ bỏ GH Thống Nhất để tham gia Tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam, vốn là một Tổ chức chính trị trá hình, mượn danh nghĩa Phật giáo để củng cố quyền lực XHCNVN. Cầm cờ chạy hiệu của tổ đặc công xâm nhập quốc nội là nhóm Bùi Ngọc Đường (Hoa Kỳ), Trần Quang Thuận (Hoa Kỳ) mà trong số đó Thích Quảng Ba (Úc Châu) là Quân sư chỉ đạo mọi kế hoạch từ xa.

Từ thực trạng trên, liên tưởng lại về cái chết trong ngục tù Chí Hoà cộng sản của Hoà thượng Thích Thiện Minh (Đỗ Xuân Hàng), Cố vấn ban chỉ Đạo Viện Hoá Đạo (VHĐ) vào những năm 1978 mà vụ án oan khuất kia chưa được giải mã; cho đến việc bức tử Ôn Già Lam-Thích Trí Thủ, Chủ tịch Hội đồng trị sự GHPGVN trong bệnh viện Vì Dân, Sài Gòn 1988 cùng những diến biến pháp nạn XHCNVN trong hằng chục năm qua trên cả nước, tất cả đã đưa đến hệ quả pháp nạn tang thương: có đến những 22 Thánh tử đạo đã hy sinh… Những hệ quả pháp nạn tang thương kia đều có bóng dáng đặc tình cộng đảng dính dự vào bằng đủ mọi loại hình. Qua đó thành viên Tăng Ni Phật giáo đồ tự hỏi “Tu hành thuần tuý” XHCN hay bức tử Ôn Già Lam: Thích Trí Thủ lần nữa vậy, thưa cùng 4 chúng: Tăng, Ni, tín đồ nam, nữ.

Nhóm Thân Hữu Già Lam “tứ quái” hải ngoại gồm: Tâm – Ba – Siêu – Đạt (thì đã có Thích Chánh Hạnh, Từ Thân Hữu Già Lam đến Thân hữu già Hồ… nói rồi (www.tin Paris.net), nay xin nói về Thân Hữu Già Lam “tứ quái” trong nước. Thân Hữu Già Lam “tứ quái” trong nước là những Sĩ – Thát – Liên – Từ (Thích Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Thích Quảng Liên, Thích Nhật Từ).

Nói về Thầy Thích Tuệ Sĩ

Thầy Thích Tuệ Sĩ sinh năm 1953?, thọ giới Tỳ kheo năm 1973 tại Đại giới Đàn Phước Huệ, Phật Học Viện Hải Đức, Thành phố Nha Trang. Là nhà văn nghệ sĩ tài hoa, sớm trèo lên ngôi thần tượng trong hàng Tăng Ni trẻ PGVN từ những năm 1970 nhất là sau khi Thầy cho ra đời dịch phẩm: Phật Giáo Việt Nam của Trần Văn Giáp; Thiền Luận của Suzuki, (Thích Tuệ Sĩ dịch quyền 2, 3); Tô Đông Pha, một phương trời viễn mộng của Thích Tuệ Sĩ, v.v…

1979 Thầy ra đời lấy vợ, đến 1982 thọ giới Tỳ kheo lại, lúc đó Thầy có mời Đại Tăng chùa Ấn Quang (Chợ Lớn) sang chùa Già Lam làm lễ thọ giới lại, Tăng chúng Sài Gòn nói chung, Ấn Quang nói riêng bấy giờ đều nghe, biết việc nầy. Việc Thượng toạ Thích Tuệ Sĩ trở lại với Tăng đoàn là điều đáng ca ngợi vạn phần.

Tác phẩm Thích Tuệ Sĩ, Triết học về Tánh không không là sáng tác mà là cóp nhặt, xào nấu lại từ sách The Central Philosophy of Buddhism của T.R.V. Muti, xuất bản tại Luân Đôn; sách Thích Tuệ Sĩ, Tô Đông Pha một phương trời viễn mộng, xuất xứ từ sách chữ Hán của một tác giả người Hoa, được Tuệ Sĩ cóp nhặt, pha trộn lấy làm của mình. Nói về giảng dạy thì Thầy Tuệ Sĩ thiếu kiến thức sư phạm, trường lớp, chỉ nói tràng giang đại hải không đầu đuôi, lớp lang hay thứ tự chi cả, chỉ tuỳ hứng, nhớ đâu nói đó. Với Tăng trẻ PGVN, sở học của Thầy Tuệ Sĩ_kể cả Thích trí Siêu (Lê Mạnh Thát) thật đáng thọ học theo hầu; còn về nhân cách ứng xử với Giáo Hội thì thuộc loại mạt hạng như bèo nước trôi sông. Thế nhưng Ngài không tự bằng lòng với những gì đang có trong tầm tay, lại bị nhóm cơ hội chủ nghĩa tâng bốc lên ngôi thần tượng nhằm phục vụ ý đồ con buôn chính trị của họ. Chính vì thế, đám chính trị theo chiều gió đã cường điệu đến ngớ ngẫn khi tô nét Tuệ Sĩ lên hàng thần tượng: Đạo Sư Tuệ Sĩ; Thiền Sư Tuệ Sĩ. trong khi đó thực chất Thích Tuệ Sĩ cũng như Lê mạnh Thát, chỉ là Thần tượng phù phiếm, hư ảo. Cho nên phải nói rằng:

Thầy Thích Tuệ Sĩ thuộc mẫu người 6 N: Non Nớt trong chính trị; Nông Nỗi trong việc làm và Ngớ Ngẫn trước phù phép tâng bốc của bọn hoạt đầu chính trị.

Thích Tuệ Sĩ Non Nớt trong chính trị

Cùng dòng máu “Hoàng triều cương thổ” mà bên cạnh đó lại còn có quan hệ thân tộc: cậu-cháu, cho nên cả hai: TTQ* “thượng nhân bàn Phật xuống đường” với Thầy Thích Tuệ Sĩ càng gắn bó nhau hơn. Vì vậy, dàn dựng kế sách cho Thầy Thích Tuệ Sĩ lên ngôi Viện trưởng Viện Hoá Đạo đó cũng là cao vọng chiếc ghế Tăng thống GHPGVNTN của Ngài Thượng nhân: người “một thời làm rung rinh nước Mỹ”. Bởi một khi Thầy Tuệ Sĩ lên ghế Viện trưởng Viện Hoá Đạo thì bảo toạ Tăng thống GHPGVNTN còn ai chen chân vào đó nữa ngoài Thái Thượng Hoàng.

Vào thời điểm GHPGVNTN bị phân hoá cũng chính là cơ hội chẳng bỏ lở cho cao vọng làm lãnh tụ Phật giáo của nhóm Đạo sư nầy. Bên cạnh đó, nhà nước đã từ lâu muốn xoá tên GHPGVNTN mà chưa thực hiện được, nay họ đánh hơi biết cao vọng làm Tăng thống của Thượng nhân Già Lam, 2 âm mưu lớn gặp nhau, cho nên nhà nước với “ông râu” cùng làm trong chiến dịch xoá tên GHPGVNTN mà Tuệ Sĩ chỉ là con cờ trong tay của bọn họ. Bên trên thì có thượng nhân “vẽ đường hưu chạy, ngoài nước thì đám chính trị theo chiều gió lại tâng bộc Tuệ Sĩ lên tận mây xanh, bao vây vòng ngoài tổng thể thì có nhà nước XHCN “lo liệu trọn gói”. Một khi chiến lược xoá tên GHPGVNTN mà đạt được thì chiếc ghế Viện trưởng Viện Hoá đạo GHPGVNTN có trọn phần dành cho Tuệ Sĩ không, hay bấy giờ bậc Đạo Sư Tuệ Sĩ chỉ là trái bóng chuyển lăn theo sự chỉ đạo của nhà nước theo hướng nhà nước XHCNVN mượn tay tôn giáo thống trị 80 triệu đồng bào mình. Tự đặt mình theo lộ đồ “nhập chủ xuất nô” (vào là chủ mà ra là tớ) trên quỹ đạo chính trị như thế thì Thích Tuệ Sĩ không thuộc loại Non Nớt trong chính trị thì là gì?

Thích Tuệ Sĩ Nông Nỗi trong việc làm

Chưa hết 2 nhiệm kỳ (4 năm) GH mà Thầy đã gióng trống từ chức ba lần với những lý do vu vơ nhằm làm áp lực lên lãnh đạo. Ba lần từ chức rồi lại nhờ 3 người ra tận Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định xin với đức Tăng thống Thích Huyền Quang để Thầy làm việc lại. Vào một dịp Trần Quang Thuận về nước, Ông Thuận kết hợp với bà Hạnh Mãn (Ni, tu xuất) chung chuyến du thuyết, ra tận Tu viện Nguyên Thiều, “uống ba tất lưỡi” xin Đức Tăng thống Thích Huyền Quang cho Thầy Tuệ Sĩ trở lại chức vụ, nhưng hai sứ giả đã lên đường mà việc cũng không thành. Tiếp theo, Thầy Tuệ Sĩ lại nhờ đến người thứ ba: Thượng toạ TVĐ, vốn là bạn đồng liêu cũng là đồng chức vụ GH với Thầy, để người nầy ra Nguyên Thiều, Bình Định gặp đức Tăng thống để … xin phục chức cho Thầy Tuệ Sĩ. Sau tuần trà thân mật, Thượng toạ TVĐ vừa trình bày chủ ý xong, Đức Tăng thống liền bảo: Hai người trước, mới ra đây, con đường biện luận, chữ nghĩa xin việc cho Tuệ Sĩ đã không xong, nay lại đến lược Thầy, đây là con đường tình cảm của Tuệ Sĩ. Vậy Thầy nói cách nào cho tôi nghe được thì tôi thuận ngay.

Theo thân hữu nhận định: bản chất Thầy Tuệ Sĩ rất là nghệ sĩ. Trong vai lãnh đạo GH mà Thầy tuỳ tiện, ứng xử bất nhất, thuận thời thì tạo vây, thêm cánh, đến khi GH đứng trước thời thế khó khăn thì Thầy lại đẫy việc sang cho Thầy Thích Không Tánh (chùa Liên Trì) rồi tuyên bố nhập thất. Đến khi cộng đồng Liên Âu lên tiếng can thiệp giúp đở GHPGVNTN thì Thầy đứng ra vận động tài vật kêu gọi cứu trợ mà chi thu tài chánh không rõ ràng. Chính vì thế cho nên người thứ ba xin phục chức cho Thầy Tuệ Sĩ cũng đành quay về mà không được việc gì hơn. Từ đó cho thấy Thầy Tuệ Sĩ chỉ thích hợp với vai trò làm văn hoá, văn nghệ sĩ hơn là làm hành chánh, lãnh đạo Giáo Hội.

Thích Tuệ Sĩ Ngớ Ngẫn trước phù phép tâng bốc của bọn hoạt đầu chính trị.

Cho đến tháng 03-2004 nhóm cơ hội chủ nghĩa hải ngoại, phường đón gió bẻ măng, qua những cuộc ra mắt thi, ca, cũng như kỷ niệm sinh nhật, đám chính trị theo chiều gió đã tâng bốc Thầy Tuệ Sĩ lên hàng Đạo Sư Tuệ Sĩ chỉ vì họ nghỉ rằng một mai Thầy Tuệ Sĩ được phần trong hợp đồng bán đứng GHPGVNTN cho cộng sản thì họ cũng kiếm được ghế-giường trong quốc hội cộng sản đó mà. Hay nói theo Bùi Ngọc Đường (Hoa Kỳ) thì một khi Đạo Sư được phần lãnh tụ … giáo gian thì chúng em cũng được “sơ múi” canh thừa cơm cặn XHCN chứ đời nào lại không ư. Đứng đầu danh sách đạo diễn vỡ tuồng tâng bốc Tuệ Sĩ lên tận chân mây đó là cao đệ Thích Nguyên Siêu (Chơn Trí) Hoa Kỳ. Việc nầy ngoài dây mơ rễ má trong quan hệ thầy trò ra, còn có ý đồ riêng: Thầy mình: Tuệ Sĩ lên hàng Đạo Sư thì mình: Nguyên Siêu cũng được gần bên “chín bệ” vào hàng giáo gian … đạo chích. Thần tượng Tuệ Sĩ, “bên trong còn lắm điều hay”.

Mẫu người Thầy Tuệ Sĩ càng rõ nét hơn khi lắng nghe thêm đôi nét ứng xử tình người của Thầy Tuệ Sĩ, một trong số đó là:

Giao tình Thầy Quảng Độ với Thầy Tuệ Sĩ

Sau vụ cứu trợ bảo lụt miền Tây Việt Nam không thành (do nhà nước ngăn cấm, bắt bớ), những năm 1994 về sau, sức khoẻ Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo bước sang giai đoạn đáng quan ngại, phải vào bệnh viện mỗ tim. Ngài tỏ ra lo lắng, như có mệnh hệ vô thường thì GHPGVNTN không người kế thế. Cho nên thay vì tiến cử Thầy Thích Tuệ Sĩ vào chức vụ Tổng thư ký Viện Hoá Đạo thì Thầy Thích Quảng Độ lại tiến cử Tuệ Sĩ một lúc 2 chức vụ: Phó viện trưởng kiêm Tổng thư ký Viện Hoá Đạo. Việc tiến cử nầy, ngay Đức Tăng thống Thích Huyền Quang lúc đầu cũng còn dè dặt. Thế nhưng Thầy Quảng Độ kính trình giải thích, cân nhắc trước sau với đức Tăng thống, Thầy Quảng Độ nói:

Ôn đã niên cao, tôi thì sức khoẻ ngày càng kém sút, nếu chỉ cử Tuệ Sĩ chức Tổng thư ký không thôi thì GH trống ghế Phó Viện trưởng. Nếu như tôi có mệnh hệ gì thì Tổng thư ký không thể kế vị Viện trưởng để tiếp tục lãnh đạo GH. Từ cách suy nghĩ như thế đủ thấy ngoài việc bổ nhiệm nhân sự GH, Thầy Quảng Độ đã tỏ tình riêng, tin tưởng giao GH cho Tuệ Sĩ một khi ngài mãn duyên cõ̉i thế. Đủ thấy Thầy Quảng Độ một đời vun bồi GH không có chút cố vị hay bè phái, địa phương. Thế nhưng Tuệ Sĩ đối với Thầy Quảng Độ, người lãnh đạo của mình ra sau?

Vào một dịp, Thầy Thích Quảng Độ, Thanh Minh Thiền viện nhận được thư tay từ chùa Già Lam, Sài Gòn do Thầy Tuệ Sĩ gởi, Thầy Thích Nguyên Vương (đệ tử Thích Tuệ Sĩ) mang thư sang. Nội dung thư, Tuệ Sĩ xin từ chức! mà không nói lý do, Thầy Thích Quảng Độ cũng chưa rõ hết lý do từ chức của Thầy Tuệ Sĩ.

Ngày nọ Hoà Thượng Viện trưởng Thích Quảng Độ cho mời Thầy Tuệ Sĩ sang Thanh Minh Thiền viện, lúc tiếp chuyện cùng Tuệ Sĩ, Thầy Quảng Độ nói: Gìa Lam (nơi Tuệ Sĩ ở) sang đây (Thiền viện Thanh Minh, nơi Thầy Quảng Độ ở) không xa, mình làm việc với nhau, có gì không bằng lòng thì Thầy nói để tìm cách giải quyết, đàng nầy Thầy từ chức mà không nói lý do, hơn nữa việc Thầy xin từ chức, tôi không có quyền nhận hay không nhận, chức vụ Thầy là do Hội đồng viện cử thì Hội đồng viện mới có thẩm quyền giải quyết mà thôi. Về sau Thầy Quảng độ lại được nghe nguồn tin Tuệ Sĩ từ chức là để “ngả giá” với Thầy Quảng Độ, việc là như vầy,

Thầy Tuệ Sĩ có ý muốn loại Ông Võ Văn Ái, Tổng vụ trưởng, Tổng vụ Truyền thông GHPGVNTN ra khỏi Giáo Hội việc nầy có nhiều nguyên do: Một là, buổi đầu mới đặt chân đến Paris vào những năm 1967, Nhất Hạnh được ông Võ Văn Ái bảo bọc, về sau Dòng Tiếp Hiện của làng Mai do Nhất Hạnh chủ trương, phát triển, tự nó đã tách rời con đường truyền thống Phật giáo Việt Nam và do đó, giữa Nhất Hạnh với Ông Võ Văn Ái không đồng quan điểm tôn giáo kể cả quan điểm chính trị (nhóm Hạnh-Phượng là đặc tình cộng sản hạng nào thì nay 2005-2007 đã lộ nguyên hình rồi).Trong khi đó Thầy Tuệ Sĩ lại nhận tài trợ lâu dài từ Nhất Hạnh theo kiểu “mưa dầm thấm đất” và do đó sợ mất lòng Nhất Hạnh cho nên Tuệ Sĩ muốn loại Ông Võ Văn Ái ra khỏi Giáo Hội. Hai là, loại Ông Võ Văn Ái để đưa Trần Quang Thuận (Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giao tế Hội đồng Điều hành, GHPGVNTN-HN Hoa Kỳ 2003-2007) vào thay thế, hầu lái cuộc đấu tranh giải trừ pháp nạn XHCNVN của Giáo hội lệch sang hướng khác, để bước tiếp theo là thoả hiệp, hoà hợp với nhà nước. Và Ba là loại bỏ Ông Võ Văn Ái với mục đích đưa Phòng thông tin PG quốc tế Paris về Hoa Kỳ cho Trần Quang Thuận điều hành, bởi Phòng thông tin PG quốc tế Paris là cái loa đã làm “nhức nhối” Hà Nội từ nhiều năm nay rồi.

Cho nên mọi thông tin Pháp nạn GHPGVNTN trong nước chuyển ra nước ngoài thay vì phải chuyển cho Ông Võ Văn Ái, Phòng thông tin Phật giáo quốc tế thì Thầy Tuệ Sĩ lại chuyển sang cho Trần Quang Thuận (Hoa Kỳ). Một vài việc điển hình như thế cho thấy, Thầy Tuệ Sĩ đã tuỳ tiện ra ngoài nguyên tắc phân nhiệm truyền thông của Giáo hội như thế. Việc nầy Thầy Thích Quảng Độ đã có lần nhắc nhở, chẳng những Thầy Tuệ Sĩ không nghe lời lãnh đạo trái lại còn tỏ bất bình, yêu sách áp lực lên hàng lãnh đạo bằng việc xin từ chức mà không nói lý do.

Hơn nữa, Thầy Tuệ Sĩ là loại người ngông ngạo, tự cho mình là làm ra GHPGVNTN nầy mà nếu không có mình thì GH sẽ tiêu liền. Từ suy nghĩ như thế, Tuệ Sĩ chẳng những cao ngạo trên suy nghĩ mà còn tiếm quyền lãnh đạo GH nhiều phen, một trong những việc tiếm quyền đó là tự ý bổ nhiệm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh niên cho Thượng toạ Thích Thanh Huyền; bổ nhiệm Vụ trưởng Gia đình Phật tử vụ cho Nguyên Tín-Nguyễn Châu mà không thông qua Thầy Thích Quảng Độ, Viện trưởng hay Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo. Tiếp sau đó 2005 Thầy Tuệ Sĩ lại cầm đầu nhóm Gia Đình Phật tử Việt Nam trên thế giới trong nước (Ngoài nước do Thượng toạ Thích Như Điển, ở Đức đở đầu), áp lực buộc Thầy Thích Quảng Độ phải phê chuẩn việc lập hội của họ nữa. Âm mưu của nhóm Gia Đình Phật tử Việt Nam trên thế giới là gì, là muốn biến Gia Đình Phật tử Việt Nam thành tổ chức phi chính phủ, có qui chế tham vấn tại Liên Hiệp Quốc để tổ chức nầy một khi có đủ pháp lý sẽ sẳn sàng phản bác GHPGVNTN trên diễn đàn quốc tế theo sự chỉ đạo của Hà Nội. Việc Thầy Tuệ Sĩ tiếm quyền lãnh đạo với: Hoà thượng Thích Quảng Độ như những điển hình trên, đó là nằm trong chiến lược dùng “con đại bàng nầy khống chế con đại bàng khác” của Hà Nội. Tuy nhiên, con bài Thân hữu Già Lam bay theo lộ đồ Thân hữu già Hồ đã bị phát hiện từ lâu. Đó cũng là lý do giải thích vì sao mà Giáo Chỉ 02-2005/ Viện Tăng thống đã loại nhóm Tuệ Sĩ ra khỏi danh sách thành viên Viện Hoá Đạo 2005-2007.

Nói về Thầy Thích Tuệ Sĩ với Thầy Thích Thiện Hạnh

Giáo Chỉ 02-2005/ Viện Tăng Thống chấn chỉnh nhân sự Hai viện GHPGVNTN ban hành, từ đó nhóm Thầy Tuệ Sĩ không còn trong Viện Hoá đạo. Tiếp sau đó, đôi ba phen Thầy Tuệ Sĩ cố thuyết phục Hoà thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh thư ký Viện Tăng thống từ chức, việc nầy đã bị Hoà thượng từ chối. Đến tháng 08-2007 Bùi Ngọc Đường (Hoa Kỳ) về nước, tiếp xúc, thuyết phục Hoà thượng Thích Thiện Hạnh (chùa Báo Quốc, Huế) từ chức cũng không xong, thì Thầy Tuệ Sĩ lại “vỡ chứng bệnh cũ”, xin Hoà thượng Thích Thiện Hạnh từ chức lần nữa. Lần nầy đã bị Hoà thượng quát mắng: Thầy đã nghỉ việc GH lại còn kéo người khác nghỉ theo đó là phá hoại Giáo hội, nay lại còn bảo tôi nghỉ, Thầy làm thế là tội ác lắm đó.

Bấy nhiêu đó để cho thấy rằng một khi Thầy Tuệ Sĩ bước sang thuyền khác là cố nhận chìm luôn con thuyền GHPGVNTN. Bài học hôm nay 2007 của Thầy Tuệ Sĩ với bài học Thích trí Thủ, Trưởng ban vận động Thống Nhất Phật giáo 1981 ngày xưa, xem ra thì cả 2 có cùng một thông số như nhau.

Đại Hội Nguyên Thiều 2003, sách lược “mượn củi đậu nấu đậu” của Viện Hoá Đạo đối phó với đặc tình nội gián.

Chung quanh, trước và sau Đại hội Nguyên Thiều, Bình Định 2003 có nhiều diễn biến cam go, để đi đến thành công, đại hội đã vượt qua muôn vàn gian nan thử thách! với cả ngoại chướng, nội ma, nhất là đối phó với tôn giáo vận đánh phá. Mượn tay đặc tình nội gián sắp xếp nhân sự, tiến hành đại hội (mượn củ đậu) để rồi thông qua Đại hội, Viện Hoá Đạo (VHĐ) ra mắt Hội đồng Hai viện và suy tôn Tăng thống thứ 4, GHPGVNTN (nấu đậu), điều mà nếu không có bóng dáng đặc tình trong Đại hội Nguyên Thiều thì nhà nước cũng không dễ “buông lõng” cho VHĐ tiến hành Đại hội để Đại hội đi đến thành công. Cho nên có thể nói chiến lược “mượn củi đậu nấu đậu” là sách lược VHĐ, GHPGVNTN đối phó với đặc tình nội gián trong Đại hội Nguyên Thiều, Bình Định 2003.

Sau những năm 1992, trong dịp lễ tang ngài Thích Đôn Hậu, Tăng thống thứ 3 GHPGVNTN dù GHPGVNTN chính thức công bố phục hoạt, thế nhưng sau đó nhân sự GH thật sự thiếu vắng, trong bối cảnh Giáo Hội cần người như thế cũng là lúc thuận lợi cho đặc tình xâm nhập Giáo Hội. Có thể nói giai đoạn 1992-2003 là thời điểm GHPGVNTN bị đặc tình tôn giáo vận tràn ngập trong hàng lãnh đạo Giáo Hội.

Âm mưu Phân hoá Giáo Hội từ lâu, thông qua nhóm đặc tình, Hà Nội đã chọn thời điểm Đại hội Nguyên Thiều, Bình Định 2003 là lúc vô hiệu hoá GHPGVNTN. Nhận định tình hình nầy, bước một, VHĐ dự kiến mở Đại hội Nguyên Thiều, Bình Định 2003 cũng cố nhân sự Hai viện: Viện Tăng thống và Viện Hoá Đạo (VTT và VHĐ) để thanh hoá nhân sự, kiện toàn tổ chức. Đồng thời, bước hai quan trọng hơn cả là Hai viện đồng suy tôn Hoà thượng Thích Huyền Quang lên cương vị Tăng thống thứ 4, GHPGVNTN. Giai đoạn 2 của Đại hội nầy được Văn phòng 2 hải ngoại Hoa Kỳ đứng ra tổ chức, địa điểm được chọn là Tu viện Quảng Đức, Úc Châu nhằm hợp thức hoá thành quả đại hội Nguyên Thiều trong nước với đơn vị Phật giáo các châu lục hải ngoại. Chiến lược Đại hội Nguyên Thiều, Bình Định 2003 bước hai được bảo mật cho đến giờ phút chót mà Đặc tình nội gián Giáo Hội chưa hề hay biết.

Thời điểm năm 2000, Thầy Tuệ sĩ tuy nhận 2 chức vụ cùng lúc: Phó viện trưởng kiêm Tổng thư ký VHĐ nhưng Thầy không thiết tha việc sinh hoạt Giáo Hội, trái lại còn e dè nhà nước vì Hà Nội chưa bật đèn xanh cho hoạt động. Cho nên Thầy bèn giao hết việc cho Thầy Thích Không Tánh rồi Thầy lui về nhập thất. Đến những năm 2003 Liên Âu ủng hộ lớn mạnh, hải ngoại giúp đỡ̉, Thầy Tuệ sĩ lại ra Thông Tư kêu gọi cứu trợ bão lụt miền trung, khắp nơi hưởng ứng. Thích Nguyên Trí (Hoa Kỳ) cho người đưa về Việt Nam 15, 000 dollar USD với yêu cầu Hoà thượng Thích Quảng Độ ký nhận là 20, 000 USD việc nầy đã bị Hoà thượng Thích Quang Độ từ chối và số tiền đó đưa về Tuệ Sĩ-Già Lam. Nhóm Tuệ Sĩ vốn có ý riêng từ lâu, trước tình thế đó, Thầy Tuệ Sĩ đã biến thủ công quỹ Giáo hội, xử dụng sai mục đích tài chánh, đưa tiền cứu trợ bã̉o lụt miền Trung (số tiền lên đến cả tỷ đồng VN mà việc thu, chi nhân sách không có một chứng từ nào cả) vào việc bảo trợ nhân sự̣ Giáo Hội tạo vây, cánh cho riêng mình, nhóm nầy về sau làm áp lực lại Giáo Hội. Khi phóng viên báo, đài hải ngoại chất vấn hỏi về việc thu chi cứu trợ bảo lụt nầy thì Thầy Tuệ Sĩ lại giải thích quanh co theo kiểu “phương trời viễn mộng” … cò trắng bay… bay…

Khi nhân sự trong nước đông đủ mạnh, Thích Tuệ Sĩ (trong nước) với Thích Quảng Ba (hải ngoại), trong - ngoài kết hợp theo chỉ đạo của nhà nước, thực hiện kế hoạch: GHPGVNTN “không Huyền Quang với Quảng Độ”.

Trong nước, Thích Tuệ Sĩ, một mặt chỉ đạo sắp xếp danh sách nhân sự mới, mặt khác Thầy còn bảo với Thượng toạ Thích Không Tánh: Việc sắp xếp nhân sự hải ngoại, đã có người lo liệu, Tây phương họ rất dân chủ, cứ để họ tự làm, Ngài đừng có xen vào.

Bên Úc, Thích Quảng Ba sắp xếp nhân sự nhịp nhàng theo dàn dựng của Thích Tuệ Sĩ trong nước. Thích Quảng Ba (Úc Châu) bay sang tận Hoa Kỳ ngụ chùa Ni sư Thích Nữ NT (San Femando St San Jose, CA 95116) hằng 3 tháng trời ròng rã̉ để bôn ba vận động các tự viện. Theo kế hoạch, đến Đại hội Nguyên Thiều, Bình Định 2003 họ sẽ dùng lá phiếu đa số áp đảo để đảo chánh GH theo kế sách dự kiến. Trong nước truất phế Thầy Thích Quảng Độ; hải ngoại truất phế Văn phòng 2 (tại Hoa Kỳ).

Chiến lược đề ra là lật đổ Thầy Thích Chánh Lạc, thay vào bằng Thầy Thích Huyền Dung (tu xuất trở lại, trước 1975 sống tại Anh, sau sang định cư Hoa Kỳ), cũng như thay Thầy Thích Viên Lý (ghế Tổng thư ký VP 2 GH) bằng Thầy Thích Viên Dung. Theo mô hình thay đổi nhân sự nầy là bởi Thích Huyền Dung là người cùng Thầy với Hoà thượng Tăng thống Thích Huyền Quang; trong khi đó Thích Viên Dung lại là cùng Thầy với Thích Thích Viên Lý. Với bộ mặt nhân sự mới: huynh đệ thay huynh đệ như thế cũng không qúa “sốc” trước dư luận. Tất cả đã được dự kiến, theo hướng dùng lá phiếu áp đảo để lập lại chức danh nhân sự Giáo Hội mới theo bài bản của Hà Nội đề ra.

Một khi Giáo hội mới với nhân sự mới do nhà nước đặt để vào được thành hình thì trong thực tế tên gọi GHPGVNTN đã bị xoá tên mất rồi. Kế sách đảo chánh GHPGVNTN trên đây được toan đi, tính lại đều do quân sư Thích Quảng Ba làm ra hết cả. Tham khảo: Quách thị Hương Giang, Âm mưu một cuộc đảo chánh GHPGVNTN không thành (www.ghpgvntn.net) Thông qua Thích Quảng Ba, chiến lược nhà nước xoá tên GHPGVNTN được dàn dựng như thế. Tuy nhiên âm mưu một cuộc đảo chánh GHPGVNTN thành công hay không lại là chuyện khác.

Sớm phát hiện âm mưu cuộc đảo chánh GHPGVNTN trên đây, Viện Tăng Thống với VHĐ đã có sẵ̉n kế sách tương kế tựu kế, theo chiến lược “mượn củi đậu, nấu đậu”, bằng cách lờ đi âm mưu đảo chánh của nhóm Tuệ Sĩ như chưa biết gì cả. VHĐ cứ để Thầy Tuệ Sĩ tiến cử danh sách nhân sự mới Hai viện GH xong (bởi bấy giờ nhân sự nằm trong tay Tuệ Sĩ), qua đó Giáo Hội từ chỗ thiếu người, nay lại được thêm người mới, vô hình trung Đại hội Nguyên Thiều mở đường cho Giáo Hội hồi sinh trở lại. Mãi đến giờ phút chót khi Đại hội Nguyên Thiều 2003 sắp hoàn mãn mà nhóm âm mưu đảo chánh của Tuệ Sĩ cũng không dò ra được đường truyền “mượn củi đậu, nấu đậu” nầy của VHĐ.

Một khi nhóm Tuệ Sĩ dò không ra “tầng sóng” lưu nhiệm nhân sự cùng suy tôn Tăng thống của Đại hội Nguyên Thiều của VHĐ, điều nầy cũng có nghĩa là Nhà nước chưa hay biết gì về nội dung cùng diễn tiến Đại hội Nguyên Thiều 2003. Chính vì thế cả Nhóm Tuệ Sĩ cũng như nhà nước XHCNVN lúc bấy giờ cứ đinh ninh rằng Đại hội Nguyên Thiều 2003 đang trong tầm khống chế của Tuệ Sĩ-Quảng Ba, là người của Ta. Do đó nhà nước “thả giàn” cho Đại hội Nguyên Thiều cúng kiến, hội họp, bầu bán trong 3 ngày liền kể cả dùng loa phóng thanh trong cuộc lễ mà không ngăn chận sinh hoạt của GHPGVNTN như những năm trước kia.

Đến khi Đại hội Nguyên Thiều 2003 giai đoạn 2 diễn ra tại Úc Châu, Ông Võ Văn Ái cho công bố Đạo Từ (đây là bản sao không có dấu ấn và chữ ký) Viện Tăng thống lưu nhiệm nhân sự cùng với Huấn từ VHĐ tán trợ Đạo Từ Viện Tăng Thống khiến âm mưu bầu bán theo dự kiến dùng số phiếu áp đảo Đại hội của Nhóm Thích Quảng Ba đã không thực hiện được và âm mưu đảo chánh của nhóm “tứ quái’ cũng không thành.

Mãi cho đến giờ phút cuối Đại hội sắp hạ màn, nhóm Thích Quảng Ba vỡ mộng mà còn cố chống chế, Thích Quảng Ba tự ý gọi điện thoại về Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định, xin Đức Tăng thống Thích Huyền Quang ban Đạo Từ lại. Bởi vì nhóm “tứ quái” phản bác Đạo Từ, Huấn Từ của Ông Võ Văn Ái đưa ra là giả mạo, do Võ Văn Ái đạo diễn ra. Đức Tăng thống từ chối cú điện yêu cầu của Thích Quảng Ba, ngài đáp rằng: “đã Đạo Từ rồi còn Đạo Từ gì nữa”. Lúc bấy giờ Ông Võ Văn Ái mới đưa ra nguyên bản gốc Đạo Từ Đức Tăng thống với Huấn Từ Ngài Viện trưởng, cả nhóm “tứ quái” mới vỡ lẽ ra thì mọi việc đã rồi.

Hoà thượng Thích Như Huệ Chủ tọa Đại hội, đã phản đối việc Thích Quảng Ba áp đảo hội nghị, tuỳ tiện vượt qua nguyên tắc, nội qui Đại Hội, khi chưa có uỷ quyền của Đại Hội mà tuỳ tiện nhân danh Đại hội gọi về trong nước xin Đạo Từ lại cùng yêu cầu nọ kia với VHĐ trong nước.

Tin Đại hội Phật giáo Úc Châu 2003 thành công bay về trong nước, nhiều người vui mừng khôn xiết. Vốn là người trực tính, thẳng ngay, bày tỏ vẻ vui mừng với mọi người trong một buổi họp mặt, có Thượng Toạ Thích Minh Tâm (đệ tử Ngài Thích Trí Quang); có cả Thượng Toạ Thích Tuệ Sĩ v.v… Thượng toạ Thích Không Tánh nói: Mừng quá, Đại hội Úc Châu thành công tốt đẹp rồi. Nghe thế, Thích Tuệ Sĩ bổng quát lên: “thành công cái gì mà thành công, người ta sắp xếp đâu đó hết cả rồi, bổng Đạo Từ, Huấn Từ ở đâu từ trên trời rơi xuống làm hỏng hết việc”. “Rồi đây sẽ từ chức hết cho mà xem”. Úi trời ạ. GH thành công tốt đẹp trong củng cố nhân sự, kiện toàn tổ chức, suy tôn Tăng Thống, thế mà với nhóm Tuệ Sĩ lại là nỗi đau thương rồi còn đe doạ sẽ từ chức hết, thế là thế nào vậy?? Một khi âm mưu ly khai GHPGVNTN không thành, nhóm Tuệ Sĩ, Quảng Ba, Quang Thuận, Ngọc Đường thảm bại, cuốn cờ, họ còn hẹn lại nhiệm kỳ 4 năm sau, đến 2007 sẽ … đánh tiếp.

Đại Hội Nguyên Thiều 2003, sách lược “mượn củi đậu nấu đậu” của Viện Hoá Đạo đối phó với đặc tình nội gián; cùng phá vỡ âm mưu XHCNVN xoá tên GHPGVNTN, đây là thành quả lớn lao đưa pháp nạn XHCNVN sang trang , Giáo Hội vượt qua nguy nan trong gan tất. Nhà nước thật là cay cú trước thảm bại nầy bèn đổ tất cả sự thịnh nộ lên thành viên GHPGVNTN qua Sự Biến Lương Sơn (đọc thêm: Thích Tuệ Sĩ, Sự Biến Lương Sơn 2003). Đại Hội Nguyên Thiều 2003, sách lược “mượn củi đậu nấu đậu” của Viện Hoá Đạo đối phó với đặc tình nội gián là một cay cú hằn sâu trong tâm thức nhà nước tỉnh Bình Định, để họ tự nhủ với lòng là “không bao giờ để Đại hội Nguyên Thiều xảy ra một lần nữa” như lời Ông Chế Trường, Giám đốc công an tỉnh Bình Định mới tuyên thệ lần nữa nhân dịp Ông cùng phái đoàn Bộ công an Hà Nội lên Tu viện Nguyên Thiều ngày 23 tháng 08 năm 2007 vừa qua.

*. Chú thích : TTQ = Thích trí Quang

Thân hữu Già lam “tứ quái” trong nước gồm Sĩ – Thát – Liên – Từ (Thích Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Thích Quảng Liên, Thích Nhật Từ). Trong tình thế XHCNVN Tổng tấn công GHPGVNTN, ngoài Tuệ Sĩ trong vai Chủ soái giáo gian còn có Lê Mạnh Thát, Thích Quảng Liên, Thích Nhật Từ và bên cạnh đó còn có nhóm giao gian thuộc loại “cầm đèn chạy trước ô tô” trong lao nô cộng sản nữa. Nay nói về Thân Hữu Già Lam “tứ quái” thứ hai.

Lê Mạnh Thát: Tiến sĩ kiêm cư sĩ kiêm tu sĩ

Vào một dịp năm 2000 về thăm quê hương, nghe Thầy Thát mới tù về (1998), hai chúng tôi tìm lên Trường Cao cấp Vạn Hạnh thăm Thầy. Sau câu chuyện Thiên hạ sự, tôi còn nhớ Thầy Thát “rao giảng đức tin: Bài giảng tám ngày trên núi” cho chúng tôi. Thầy tự sánh ví mình ngang với Thái Hư của Trung Quốc, Mộc Thôn Thái Hiền của Nhật Bản, cùng những danh nhân Phật giáo thế giới khác rồi đi đến kết luận rằng: vai trò cư sĩ đóng góp rộng lớn cho Phật giáo hơn là Tăng sĩ, Thầy đưa thí dụ: Hoà thượng Thích Thiện Hoa, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, trên bình diện thế giới ảnh hưởng sao bằng Suzuki của Nhật Bản v.v… Xin thưa thật, lúc đó hai chúng tôi bị cú xốc không nhỏ.

Cũng xin thưa với bàng dân thiên hạ rằng, phục vụ Đạo pháp - Dân tộc … XHCN thì có tóc hay không tóc thì có can chi. Đúng thế, với XHCN thì “không luận là mèo trắng hay mèo đen, con nào bắt chuột được thì dùng”. Thế nhưng với Lê Mạnh Thát thì sự việc là vầy: Sau lễ quốc tế Phật Đản tại Thái Lan tháng 05-2007 vừa rồi, là nước quốc giáo, theo truyền thống, hoàng gia Thái Lan có cúng dường Trai Tăng cho Chư Tăng, chỉ mời trưởng đoàn Phật giáo các nước được dự. Buổi lễ trang trọng diễn ra, hoàng cung, với cả Vua Thái Lan phải quì lạy Chư Tăng để dâng lễ cúng dường. Thế nhưng nhìn lại trên bàn chư Tăng chứng trai, chỉ duy nhất có Phật giáo XHCNVN, trưởng đoàn là Anh có tóc (không đâu có nét đặc thù như Phật Giáo XHCNVN cả). Cho nên Ban tổ chức lễ Trai Tăng đôi ba phen yêu cầu phái đoàn Phật giáo XHCNVN phải thay người đại diện bằng một nhà sư, vì nhà vua Thái Lan không thể bái lạy cư sĩ có tóc. Việc nầy gây nên chú ý cho báo chí, các hãng thông tấn nước ngoài vụ xì-căn-đan về nét “đặc thù” của Phật giáo Việt Nam: trưởng đoàn chư Tăng lại là một cư sĩ. Thật là đời đạo đánh lộn sòng, bộ mặt Giáo Hội Phật giáo Việt Nam vốn đã lấm lem XHCN, thì qua Phật Đản tháng 05-2007 tại Thái Lan lại càn loang lỗ đạo đời đến phát rét, thật quá kinh khủng đi mất.

Vụ xì căn đan trên đây nhanh chóng được Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam tại Thái Lan báo về Hà Nội qua đường giây nóng. Chính vì thế, theo chỉ thị “trên giao” thì Tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam sắp tới đây, Lê Mạnh Thát chỉ có 2 cách để chọn: Một là theo lệnh đảng cạo tóc làm sư trở lại để ngồi ghế Trưởng ban tổ chức; hai là bằng như Anh Thát bụi trần chưa nở dứt đi, mái “tóc thề” kia không nở cạo bỏ thì đảng ta đành phải xử lý nội bộ theo phương án 2 là đẩy chiếc ghế Trưởng ban tổ chức Phật đản kia sang cho Thượng toạ Thích Quảng Ba, Úc Châu, hiện đang là Phó trưởng ban ngoại vụ, Ban tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam; là thành viên quốc tế Phật Đản của Liên Hiệp Quốc và đặc biệt hơn nữa là mới đây Thượng toạ Thích Quảng Ba lại là người được Thượng tướng Nguyễn văn Hưởng, Thứ trưởng Bộ công an hết lời khen ngợi. Ông Hưởng đã “thành thật khai báo” với Thượng toạ Thích Không Tánh tại Hà Nội, nhân chuyến phái đoàn Viện Hoá Đạo cứu trợ dân oan ngày 22-08-2007 vừa rồi rằng Thượng toạ Thích Quảng Ba “làm tốt” công tác “trên giao”. (http://www.webwarper.net/ww/~av/www.queme.net/vie/). Do đó, ví như cộng sản mà xỏ mũi được Tiến sĩ kiêm Cư sĩ kiêm Tu sĩ nhà mình chịu “cạo tóc, chừa râu” để lên ghế Trưởng ban tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam thì tôi đây phải “tam bộ nhất bái mà tung hô vạn tuế XHCNVN. Bởi vì lúc còn sinh thời, Ôn Già Lam: Thích Trí Thủ (Thầy của Lê Mạnh Thát) đôi phen, gọi bảo Anh Thát cạo tóc trở lại với chiếc áo Tăng sĩ, thế nhưng Anh Thát không ưng. Nay chẳng lẽ vì “có-chức” (xin đừng đọc láy lại, đa tạ) Phó viện trưởng Viện Đại học Khuông Việt với Trưởng ban tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam theo dự kiến cùng với đủ loại huê hồng hậu hỉ từ vận động tài chánh hải ngoại về xây dựng Viện Đại học Khuông Việt do nhà nước hứa miệng theo kiểu “mua đất không có chứng từ” mà Anh Thát phải “một bảo ba vâng” nghe theo cộng đảng mà cạo tóc trở lại ư? Nếu làm như thế, thì với Lê tiến sĩ, lệnh nhà QUỈ thiêng hơn lệnh nhà THẦY rồi.

Chả biết rồi đây, tiến sĩ nhà mình nghe theo ai đây nữa. Nghe theo Thầy Trí Thủ hay là nghe theo Việt cộng cũng còn “bên tám lạng, bên nữa cân”. Nghe đảng phải chịu trọc đầu; bằng nghe Thầy tổ, còn gì lợi danh, tính sao đây? Xin ai đó xủ dùm cho một quẻ Khổng Minh để Tiến sĩ kiêm Cư sĩ kiêm Tu sĩ nhà ta qua cơn đại hạn nầy thì … thật là vô vàn đa tạ lắm thay.

Trên đời có 4 cái ngu, Già Lam “tứ quái” thuộc ngu thượng thừa. Vì sao? Vì cái câu : “điểu tận, cung tàn” (chim hết thì cũng dứt cung tên đi) ; hay “thố tử cẩu phanh” (thỏ chết thì chó cũng làm thịt luôn) là bài học gối đầu giường cho lớp trẻ mới bước chân vào đấu trường xã hội phải nên biết. Ấy thế mà bài học kia không đủ làm tỉnh thức nhóm Già Lam “tứ quái” rằng không phải là lời thánh xưa không thiêng mà là Quỷ Ám hồn thiêng cho nên chân giả không nhận ra, mà có nhận ra cũng chả dám vượt thoát bởi vì họ, Già Lam “tứ quái” trong nước là: Sĩ – Thát – Liên – Từ (Thích Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Thích Quảng Liên, Thích Nhật Từ) đã tự “sa bẩy vào tròng” lao nô cộng đỏ từ lâu rồi.

Với nạn tai kiểu nầy thì chỉ có Linh Đơn Đạt Ma Tổ Sư may ra mới cứu được mấy gã mà thôi. Còn nữa, Linh dược “hồi đầu thị ngạn” thì lúc nào cũng sẳn, có điều là tự họ có chịu há miệng hay không mà thôi. Thật là đáng thương vô vàn, vô lượng cái mà vô số đi thôi. Tiếp đến là Thân Hữu Già Lam “tứ quái” thứ ba:

“Con chiên ghẻ” Sư Cầu Muối: Thích Quảng Liên
Đứng hàng “top ten” trong danh sách những “con dê tế thần” trong ván bài Hoà Hợp XHCN đó là Thích Quảng Liên. Thích Quảng Liên với hỗn danh Sư Cầu Muối, đó là cái tên “sáng giá” với thế hệ 1965 kìa, chứ ngày nay mọi người gọi Ông là Sư Quảng Chôm; hay Sư Quảng Chui.

Thích Quảng Liên: Sư Quảng Chôm.

Nói Thích Quảng Liên: Sư Quảng Chôm là vì sư đã chiếm đoạt Trường trung học Bồ đề, Cầu Muối (Chợ Lớn) của GHPGVNTN làm của riêng (cơ sở nầy do Ông Nguyễn Văn Khuê cúng cho Giáo Hội để làm trường học), qua đổi chác, bán chia, ăn chịu với nhà nước XHCNVN mà có được động sản, bất động sản hơn người như lời sư vênh váo trong Tâm Thư (Thích Quảng Liên, Tâm Thư. http://www.tinparis.net/vn_index.html) nhờ cướp đoạt tài sản GHPGVNTN mà làm nên “sự nghiệp chôm chỉa vĩ đại” làm nên Tu viện Thích Quảng Đức, Thủ Đức ngày nay. Còn nói,

Thích Quảng Liên là Sư Quảng Chui, thì chuyện là vầy:
Có một dạo vào năm 1982, Sư Cầu Muối: Thích Quảng Liên ghi tên trong danh sách vượt biên chính thức bằng hình thức đóng vàng cây cho nhà nước. Sư Cầu Muối: Thích Quảng Liên, ngoài việc Chạy-Chi-Chè-Chén-Chia-Chác-Cho bọn mafia, Sư còn đóng gấp 3 lần số tiền qui định. Cho nên ngày tiển đưa Sư vượt biên, được mở ra như ngày hội, qui tụ thân hữu ồn ào chè chén, việc nầy bay ra đến Hà Nội, “đấng bề trên” bèn “rút phép thông công” rồi thành phố mang tai tiếng Bác cũng “xù luôn” tên sư trong vụ án chiến dịch XHCNVN đánh tư sản người Hoa, nhờ đó mà sư cũng được xoá tên trong bản án sư vượt biên - phản quốc đó mà.

Ngày nay giới Tăng Ni một khi phải nhắc đến Thích Quảng Liên thì dễ nhằm tên với những bậc danh đức, cao Tăng khác chứ nói “con chiên ghẻ” Sư Cầu Muối: Thích Quảng Liên thì không thể nhằm vào đâu được cả. Đó là con đường bước lên đài cao danh vọng của Sư Cầu Muối: Thích Quảng Liên, một loại “con chiên ghẻ” lẫn trong hàng Tăng Ni Việt Nam.

Thích Quảng Liên với vận động Hoà hợp 2 Giáo Hội

2001, được Hà Nội chóp đèn xanh, Thích Quảng Liên mở chiến dịch Hoà hợp Giáo hội quốc doanh với GHPGVNTN theo hướng XHCN. Sư bôn ba, trong ngoài nước, ra Tâm Thư kêu gọi Hoà hợp 2 Giáo Hội mà qua đó lên án những nhà đấu tranh dân chủ Việt Nam, xem Tâm Thư: Thích Quảng Liên và đệ tử vận động các chùa qui hàng CSVN (Tạp chí Hoa Sen năm 2001 - số 43 - tr.180 đến tr. 187. Phát hành tại Hoa Kỳ http://www.tinparis.net/vn_index.html)); cùng đọc lại bài viết: Thích Quảng Liên, một kẻ “vọng ngữ”, một tay sai cùa CSVN để thấy rằng sư cũng thuộc hạng “chính trị theo mùa vụ”; cũng thuộc vào hàng top ten trong danh sách những “con dê tế thần” trong ván bài Hoà Hợp XHCN.

Sư Cầu Muối - Thích Quảng Liên, 2001 sau nhiều tháng du hí trong ngoài nước rao hàng hoà hợp XHCN, được “đấng bề trên” Hà Nội ban cho chút “phép thông công” để hiện tiền vui vầy cùng các Em của đoàn hát Quan Họ Bắc Ninh mà vì ngưỡng mộ một danh sư Bồ Đề Cầu Muối ngày nào nên các Em chiêu đãi sư rất mực miệt mài; rồi cũng để một khi hậu sự cưỡi hạt về suối Lênin thì Sư cũng được tấm bằng: dày công hạng mã cùng tiên sư Mác-Lê-Mao-Hồ trong sự nghiệp lao nô Hồ cộng. Tiếp đến là Thân hữu Già Lam “tứ quái” thứ tư:


Lao nô cộng đỏ: Thích Nhật Từ.
Đại đức Thích Nhật Từ, chùa Giác Ngộ, đường Nguyễn Chí Thanh, quận 10, Sài gòn. Thời điểm 10 năm trước kia (1997) Thầy Thích Pháp Châu đi về Việt Nam-Hoa Kỳ mỗi năm trên 23 lần (theo Thích Pháp Châu trả lời phỏng vấn trên báo - đài hải ngoại) thì nay con bài Pháp Châu đã thân bại danh liệt ra sao, cứ hỏi Thầy về vụ Thầy về Việt Nam “làm lại cuộc đời” qua dự kiến xây chùa ở Vũng Tàu đưa đến Hội chứng giấy phép xây dựng mà “trên bảo dưới không nghe” thì đủ biết Thầy thấm thía mùi vị XHCN là như thế nào rồi.

Nay 2007, nhà nước XHCNVN “thay ngựa giữa dòng” Thích Pháp Châu về vườn và thay vào đó là Thích Nhật Từ. Tiến sĩ Thích Nhật Từ nhà ta, đi về Hoa Kỳ - Việt Nam dễ dàng như đi siêu thị bách hoá mà chẳng có quỉ lớn, quỉ nhỏ nào hỏi giấy… hỏi tờ cái mà chi mô răn rứa cả. Thế thì đủ biết vai trò Trí vận của Thích Nhật Từ cung phụng cộng đảng … cái mà rất mực đến cở nào rùi.

Nghe đâu, vào những năm 1996, Học chúng khoá 3, Cao cấp Phật Học Vạn Hạnh phẩn nộ về vụ tác phẩm Đường Tăng, vì truyện có nội dung bôi bác Phật giáo lại do Hội Văn nghệ thành phố (thuộc cơ quan văn hoá XHCN) xuất bản. Được sự dàn dựng từ Thích Thiện Tánh, Phó thường trực Thành hội Phật giáo Thành Phố HCM, có sự chỉ đạo từ Ban Dân Vận TW, nhằm dàn dựng ra đám biểu tình cò mồi để nhân đó nhà nước quay phim phổ biến sứ quán các nước và tuyên truyền có tự do tôn giáo tại Việt nam. Do đạo diễn không chuyên, diễn viên (Thích Nhật Từ là con bài chủ trong nhóm biểu tình nầy) quá vụng khiến sản phẩm “tự do biểu tình” không lừa được mọi người. Cho nên cả nhóm, họ hàng nhà bác đành phải chung nhau cụn ly một chầu rồi xếp lại tuồng tích vào kho lưu trử: văn hoá vận cộng sản mà Thích Nhật Từ là thành viên đắc lực đó nghen.

Đầu năm 2007 Trí vận Nhật Từ hô hào thuyết pháp trong chốn lao tù ở Bến tre, đây thực chất là để phủ dụ cho cái đạo … chích HCM mà thôi.

Như thế đủ thấy nhóm cơ hội chủ nghĩa nầy chung nhau hùn vốn dựng ra Thân Hữu Già Lam để từ Thân Hữu Già Lam đến Thân hữu già Hồ chỉ cách nhau một lằn tơ. Từ Thân hữu già Hồ, nhóm nầy đã bức tử Ôn Già Lam một lần nữu khi họ dàn dựng lên nào là thư viện Thích trí Thủ, nào là xây dựng Viện Đại học nọ kia mà thực chất thì cái Học Đại nầy chỉ dành đào tạo chương trình học thuyết Mác-Lê-Mao-Hồ mà thôi.

Thích Quảng Ba với Thích Nhật Từ cũng là thành viên của Tổ chức quốc tế Phật Đản Liên Hiệp Quốc. Nay họ lại hợp đồng cùng nhau trong vai trò thành viên ban Tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam, thế đủ biết 2 cái đầu cơ hội chủ nghĩa gặp nhau, tuy dị mộng mà đồng sàn, cùng nhau âm mưu ra sức ly khai - tiếm danh - xoá sổ GHPGVNTN theo bài bản XHCN… bán nước hại dân.
Cho nên Thích Nhật Từ chính là loại người:

Trăm năm trong cõi người ta,
Hô hào hòà hợp ... để mà tiến thân.

Rồi 2007, Quân sư Thân hữu Già Lam hải ngoại Thích Quảng Ba (Úc Châu) nay lại “thả vòi’ bạch tuột về trong nước, hỗ trợ từ xa cho nhóm Bùi Ngọc Đường, Trần Quang Thuận trong chiến dịch tổng tấn công GHPGVNTN nữa, cho nên cũng phải nói thêm đôi điều về bậc ngụy quân tử: Thích Quảng Ba nầy cho đủ ‘trọn bộ”.

Thích Quảng Ba, Viện chủ Tu viện Vạn Hạnh Canberra, Úc Châu. Thích Quảng Ba có mấy điểm nổi bậc: Một, bảo lãnh Tăng Ni Việt Nam định cư sang Úc còn nhanh hơn trường hợp được sự giúp đở của toà đại sứ Úc tại Việt Nam nữa. Hai, hứa tham gia đấu tranh chống văn hoá vận cộng sản với kiều bào Úc trong nhiều lần, nhưng đến giờ chót lại “xù luôn” khiến cuộc đấu tranh chống văn hoá vận cộng sản tại Úc không đạt kết quả như đã dự kiến. Việc nầy khiến Báo, Đài hải ngoại nhiều lần nêu nghi vấn về lập trường chống cộng của Thích Quảng Ba. Ba, đường lối đấu tranh GHPGVNTN giải trừ pháp nạn XHCN thì Thích Quảng Ba lại lập lờ, đánh lận con đen, nói làm bất nhất, điển hình là Thầy mang nhãn thành viên GHPGVNTN mà vận động thành viên Thống Nhất theo về với GH quốc doanh. Bốn, Ứng xử theo kiểu giáo gian, ngồi thuyền GH Thống Nhất mà vun bồi cho GH quốc doanh góp thêm bày tay nhận chìm thuyền GH Thống Nhất mà việc liên kết với Thích Nhật Từ (đặc tình Trí vận cộng sản) tham gia thanh viên Ban tổ chức quốc tế Phật Đản Liên Hiệp Quốc để thông qua con đường đó vận động cho GHPGVN “chào hàng” cùng tổ chức quốc tế Phật đản 2007 tại Thái Lan; Thích Quảng ba cũng tham gia thành viên Ban tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam với chức danh Phó trưởng ban ngoại vụ, ban tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam, đó là một vài điển hình. Thế nhưng điểm nổi bậc, sáng giá hơn cả trong 4 điểm trên đó là “đường bay” của con đại bàng giáo gian Thích Quảng Ba thật vô cùng rộng lớn, lớn đến độ nào thì ta thử hình dung theo chức danh để biết. Thích Quảng Ba: Tổng giám đốc, tổng công ty, tổng cai thầu quốc tế siêu thị bách hoá tổng hợp “kính thưa các loại bảo trợ” đặc tình giáo gian XHCNVN. Đây là một loại đại bàng được cộng sản thuần hoá để dùng khống chế con đại bàng thành viên GHPGVNTN.

Chân dung toàn cảnh về những “gam màu” trên đây đủ cho thấy Thích Quảng Ba đã hợp đồng làm ăn 2 chiều với cộng sản từ hơn 10 năm nay rồi. Điển hình là mới đây 23-08-2007 Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, Thứ trưởng bộ công an Hà Nội khi tiếp xúc với Thượng toạ Thích Không Tánh, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ thiện Xã hội GHPGVNTN nhân dịp Thượng toạ ra Hà Nội phát quà cứu trợ dân oan, nhân đó Ông Hưởng cũng đã “thành thật khai báo” với Thượng toạ Không Tánh rằng: Thích Quảng Ba “làm tốt” công tác tôn giáo vận, đặc biệt là tham gia thành viên Ban tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam sắp tới. Nhân đó Ông Hưởng cũng khuyên dụ Thượng toạ Không Tánh nên tham gia ban tổ chức quốc tế Phật Đản nầy. Thượng toạ Không Tánh đã khéo lời từ chối và dành phần “trọn gói” vai trò tôn giáo vận cho Thầy Thích Quảng Ba mà không có ý kiến gì thêm.

Cảm phục nghĩa cử chẳng màn danh vị cùng uy dũng bất phàm của Thượng toạ Thích Không Tánh, Ông Hưởng đã đạo đạt lên trên, phải tốc hành đưa Thượng toạ trở về Nam bằng đường hàng không, để tránh “mưa bảo” báo, đài phương Tây “nổi giận”. Mùa Phật Đản, tháng 04-2007 vừa qua, Ông Hưởng cũng đã ra tận Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định “thăm sức khoẻ” Hoà thượng Tăng thống Thích Huyền Quang, được đức Tăng thống ban cho Đạo từ “… thế nhà nước bắt tay với Mỹ, lúc bắt lúc không à” khiến cho từ đó đến nay Ông Hưởng một đi không trở lại. Để rồi lần nầy 23-08-2007 Ngay giữa lòng thủ đô Hà Nội, ngay giữa Tổng hành dinh XHCN, ông Hưởng đã phải “áp tải tù” bằng đường hàng không thì thật là tuyệt chiêu hết chỗ nói mà.

Thích Pháp Châu (Hoa Kỳ) một đời tận trung báo quốc trong sự nghiệp kế … cộng, khai … sản, đến lúc xế bóng về chiều, phù phép hết linh, bị đảng ta cho về vườn, lê lết thân tàn ma dại về lại Việt Nam, những mong vun dollar mua được cái ghế Viện chủ Chùa Quảng Đức, đường Sư Thích Quảng Đức, Quận Phú Nhuận, Sài Gòn thì xem ra thầy Pháp Châu đang mộng mơ bên bờ ảo vọng rồi. Nay, tuổi hạt sắp về chầu trời, người đã di chúc sự nghiệp, kể cả tiền nông, gạo thóc, kẻ hạ, người hầu, cùng với kinh nghiệm một đời khuyển mã XHCN lại cho Thích Quảng Ba, Úc Châu, để Tổng giám đốc, tổng công ty, tổng cai thầu quốc tế siêu thị bách hoá tổng hợp “kính thưa các loại bảo trợ” đặc tình giáo gian XHCNVN hợp đồng với Sư Cầu muối: Thích Quảng Liên để cùng nhau tiếp tục con đường ly khai, tiếm danh, xoá tên Giáo hội Phật giáo Thống Nhất. Thật là Ô hô! Ai tai:

Phục dĩ …
Các-Mác độ sanh, tất dụng kiên tâm ly khai giáo hội, … phàm năng kế cộng, khai sản, lập chí siêu … phàm …cái… mà sớ…vị.
Kính cáo cùng trên dưới, trong ngoài, trẻ già trai gái, nay Việt Nam Phật giáo có cớ sự trình thưa, kinh vân … cái mà … Tử viết.
Pháp Châu lao nô Hồ cộng chánh dòng,
Quảng Liên nối tiếp … Quảng Ba thừa truyền,
Thừa truyền cộng đỏ, … thay nhau phá chùa.
Nối thạnh dòng họ nhà Hồ, … ư … ư …
Đánh phá cơ đồ cái mà… Thống Nhất cha ông.
cha ông cái mà … cha ông.
Già lam “tứ quái” Hồ mệnh sở uy,
Nam tào kính ghi.. cái mà thượng… sớ.


Những “lao nô cộng đỏ” trong nhiệm vụ “cầm đèn chạy trước ô tô” trong ván cờ Tôn giáo Hoà Hợp XHCN
Bên cạnh Thân Hữu Già Lam “tứ quái” còn có những bộ mặt “lao nô cộng đỏ” trong nhiệm vụ “cầm đèn chạy trước ô tô” trong ván cờ Tôn giáo Hoà hợp XHCN. Tiêu biểu trong số “giáo gian” là: Bùi Ngọc Đường, Trấn Quang Thuận, Đoàn VH, Hạnh Mãn (ni tu xuất) …


“Lao nô cộng đỏ” Bùi Ngọc Đường.
Bùi Ngọc Đường, Vụ Trưởng vụ Truyền thông Hội đồng điều hành, GHPGVNTN HN Hoa Kỳ 1992, sau đó thì bị GH loại ra. Chuyến về Việt Nam đầu tháng 08-2007 Ông Đường tiếp kiến Hoà thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh thư ký Viện Tăng thống GHPGVNTN, sau chén trà làm quen, Ông Đường tỏ ý thuyết phục Hoà thượng Thiện Hạnh từ chức GHPGVNTN, Ông Đường nói: GH ngày một sa sút, yếu kém còn ai nữa mà Ôn (chỉ cho Hoà thượng, là theo tiếng địa phương của xứ Huế) theo. Hoà thượng không hài lòng đề nghị kia, ông Đường cố thuyết phục, ông nói: Ôn có biết chưa, người ta đã có Giáo Chỉ đâu đó xong hết rồi, Ôn làm việc với họ thì được Sơ Múi gì đâu.

Ôn Thiện Hạnh rất bất bình trước lời nói kia của Ông Đường, Ngài nói: Anh là cư sĩ thì hãy lo việc gia đình, vợ con, còn việc Chư Tăng thì để Đại-Tăng lo liệu, đừng có mà xen vào chống phá Giáo hội. Ông Đường chưa bỏ cuộc, lại tiếp tục chống chế: Ông Quảng Độ có tham vọng được giải Nobel, không được đâu, đừng có mà mơ. Thì ra phải có “sơ múi” cở nào thì hạng người như ông Đường mới nhún tay vào việc đạo ư? Có lẽ Phen nầy: tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam chắc là Ông Đường “câu” được vài con cá … sấu cũng to gấp mấy lần “sơ múi” như lời Ông đã phun ra.

Nay lịch sử nay đã sang trang, thế nhưng biến cố dĩa máu với con dao nằm trên bàn làm việc của Hoà thượng Thích Tâm Châu vào những năm 1967, biến cố nầy nhiều người được biết, thế nhưng tác giả “tối hậu thư” kia là ai thì thiết nghĩ cho đến nay ít có người được biết. Thôi thì đợi lúc thư nhàn mà Bùi Ngọc Đường đứng hầu bên Thượng Nhân “bàn Phật xuống đường” mà hỏi việc nầy, thì hồ sơ mật Viện Hoá đạo về “con dao với dĩa máu” kia sẽ hé mở ra cho mà biết.


“Lao nô cộng đỏ” Trần Quang Thuận.
Trần Quang Thuận, Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Giao tế Hội đồng Điều Hành, GHPGVNTN HN tại Hoa kỳ 2003-2007. Vốn là Thích Trí Không, tu xuất. Đến khi định cư Hoa kỳ, lại tham gia vào hội “không công, rỗi nghề” nên phần lớn được trợ cấp theo chế độ “mẫu hệ” mà chủ yếu là sống nhờ vào sự đùm bọc, cưu mang do lòng hảo tâm của …“bà xã”. Thế rồi hảo tâm đến mấy có lúc cũng vơi, nhất lại cưu mang cái “của nợ” “người Việt gốc tương” như Ông Thuận thì bà Thuận sao khỏi kêu ca cùng bạn xóm láng giềng. (TinParis xin tự kiểm duyệt ...) Chí như ông mà trở lại làm sư như ngày trước thì phúc 3 đời cho tôi đấy nầy.

Nghe thế, bà hàng xóm vốn bạn bè chí cốt với bà Thuận nên mới vui miệng bảo: Thế trước kia ai kéo ổng ra [đời] chi, nay lại muốn kéo vào. Chẳng nhẻ ưng thì kéo ra, không ưng thì kéo vào ư. Rồi biết đâu chừng mai kia, mốt nọ bà lại … kéo ra. Việc “dân oan” của bà Thuận lại đến tại ông xã nhà bà. Ông Thuận mới cảm thán thân phận mà rằng:


Hò … hơ… Thân tôi như thể cành Đào,
Hết kéo ra rồi lại kéo vào.
Phất phơ giữa chợ … à …à…., Phất phơ giữa chợ, ờ… ờ, biết vào tay ai?
Hết kéo vào rồi lại kéo ra.
Kéo vào, kéo ra.


“Hết đường binh” Ông Thuận ôm chân Thầy Tuệ Sĩ, được Đạo sư hứa khả chiếc ghế Tổng vụ Truyền Thông Phật giáo Hoa Kỳ thay chân Ông Võ Văn Ái. Cho nên ông Thuận hết mực phò Tuệ Sĩ trong vai giáo … gian đánh phá lại Giáo hội, lấy đó làm bệ phóng tiến thân vào đường bay quỉ Đỏ.

Bùi Ngọc Đường với Trần Quang Thuận, thuộc loại Giáo gian cở nào thì biến cố tháng 08-2007 vừa qua khi hai ông tiếp xúc với Hoà thượng Thích Thiện Hạnh và với Thượng toạ Thích Không Tánh thì “con bài tẩy” đã lộ mặt quá rõ rồi. Cho nên, người biết chuyện thì ai còn lạ gì “đường đi lối về” của nhóm Thân Hữu Già Lam vì “sơ múi’ trên Thế giới kia nữa chứ.

Tổng hợp những biểu hiện trên cho thấy: Ly khai GHPG VNTN là con đường tham vọng giáo chủ một góc trời của Tuệ Sĩ cùng Quảng Ba. Tham vọng nầy lộ ra, nhà nước đã đánh hơi được “sở thích của con mồi”, “hai mưu đồ lớn” gặp nhau, cho nên không còn lạ gì nữa khi nhà nước hoà hợp với Thân Hữu Già Lam trong chiến lược ba bước xoá tên GHPGVNTN. Chỉ có điều là Thành viên Tăng Ni Thân hữu Già Lam thì bị nhóm Thân hữu Già lam “tứ quái” bán đứng cho cộng sản và chiêu bài Tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại Việt Nam theo định hướng XHCN, đó chính là thống hận đau thương hơn cả bởi đám Giáo gian Thân hữu Già Lam lại bức tử Ôn Già Lam: Thích Trí Thủ thêm lần nữa. Cho nên giữa Tu hành thuần tuý XHCNVN với Giáo dục thuần tuý XHCNVN với Bức tử Ôn Già Lam lần nữa cũng chỉ cách nhau một lằn tơ XHCN mà thôi.

XHCNVN đã gây nên những sai lầm tai hại với Dân tộc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam từ hơn 70 năm qua (1945-2007) mà cho đến nay, những hệ quả sai lầm kia đã, đang đưa dân tộc Việt xuống đói, nghèo, tụt hậu thật vô cùng thảm hại so với các nước trong khu vực Á Châu. Bên cạnh đó, Nhóm Thân Hữu Già Lam vì “sơ múi’ trên Thế giới là đám tội đồ thiên cổ với Phật giáo và Dân tộc. Hệ quả chung quanh Nhóm Thân Hữu Già Lam vì “sơ múi’ trên Thế giới nầy còn một ẩm số chưa được giải mã mà với người biết chuyện luôn đặt câu hỏi: Thái Thượng Hoàng núp sau hậu trường của nhóm nầy là ai? Cái nầy trong chúng ta hãy cầu “Thượng nhân Bàn Phật xuống đường”: TTQ để được giải đáp.

30 tháng 04, biến cố tang thương, máu lệ kinh hoàng trên trang sử Việt. Từ biến cố nầy, “có hơn một nữa dân số cả nước phải luống chịu đau thương, tủi nhục câm hờn. Thật chưa thể thống kê đầy đủ con số những nấm mồ chung trên biển Đông; cũng như có bao nhiêu nấm mồ vô chủ trong rừng hoang Miên-Việt. Đó là chưa kể hết là có bao nhiêu liệt sĩ, không mồ, vô chủ trên đường gọi là “sẻ dọc trường sơn cứu nước”; Cũng như là có biết bao tử sĩ không mồ bị đẫy vào cuộc chiến Mác-Lê-Mao-Hồ, theo điều mà Hà Nội gọi là giải phóng. Thế nhưng sau ngày gọi là giải phóng thì đám dân Công-Nông được gì đâu? Ngày nay họ vẫn cứ chịu cảnh đói rách, áo ôm, số khác lại lao vào dòng người Dân Oan đòi nhà, đòi đất trên cả nước như hiện nay; tiếng kêu thương dân oan gần như tuyệt vọng để đòi lại những gì đã bị cướp mất từ một đảng cướp có giấy hành nghề; một băng đảng mafia đỏ không khác.

Bên cạnh quốc nạn XHCN kia: “Trúc Nam Sơn không ghi hết tội”,
Pháp nạn XHCNVN với Tôn giáo đây: “Nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.

Tội ác XHCNVN với GHPGVNTN thật cao cao chất ngất, tận chín tầng mây, với biết bao Thánh tử đạo đã nằm xuống cho đạo pháp còn đến ngày nay. Thế nhưng một số giáo gian đã cấu kết với nhà nước XHCNVN, họ đã góp phần duy trì cơ chế XHCNVN bất nhân, vô đạo nhằm thống trị con người dài lâu mà điển hình trong số giáo gian nầy là nhóm Thân Hữu Già Lam “tứ quái” trong và ngoài nước. Trước kia, GHPGVN 1981 được dàn dựng qua chiến lược dùng “con đại bàng” Giáo Hội quốc doanh để khống chế “con đại bàng” GHPGVNTN và Ôn Già Lam: Thích Trí Thủ đã bị bức tử bởi bàn tay bạo ác của cộng sản. Bài học pháp nạn tang thương còn sờ sờ ra trước mặt, nó chưa dễ nhoà phai theo năm tháng, hởi quí Tăng Ni Thân Hữu Già Lam. Ai đã Bức tử Ôn Già Lam và ai đang âm mưu bức tử Ôn một lần nữa vậy?

Giáo Chỉ cơ chế thành lập VP2 GHPGVNTN- HN do ViệnTăng thống ban hành ngày 08-09-2007 (GC 09/ VTT/TT ra đời vừa qua, đó là phương hướng 3 bước: Thanh hoá Nhân sự - Kiện toàn Tổ chức và Nhất quán Hộ pháp của Giáo Hội nhằm đối phó trước pháp nạn XHCNVN tổng tấn công GHPGVNTN 2007 hiện nay; Đó cũng là lý do để giải thích vì sao cơ chế thành lập VP2 GHPGVNTN HN lại cắt đi một số thành viên cũ như là những tế bào bệnh hoạn, đã từng gây đau nhức cho toàn thân VHĐ trong thời gian qua.

Từ những viện dẫn nêu trên, với người con Phật có chút lòng son với Đạo pháp-Dân tộc không khỏi tự hỏi “Tu Hành Thuần Tuý” XHCN Hay Bức Tử Ôn Già Lam: Thích Trí Thủ Lần Nữa Vậy? Kính hỏi quí Thượng nhân: Sĩ – Thát – Liên – Từ.

Thượng Tọa Thích Tỉnh Thức

Xô Viết Úc Châu


Bảo quốc Kiếm


Sáng hôm nay cảm thấy rất mỏi mệt, nhưng phải thức dậy đi cày. Tôi thẫn thờ vác cái thân già leo lên xe. Ngồi nhắm nghiền đôi mắt lại trong phút chốc cho dễ chịu, vì suốt đêm rồi nghĩ ngợi một chuyện không mấy vui. Vào chỗ làm, tôi vẫn mơ màng, lê đôi chân một cách nặng nề. Hai tay cứ theo thói quen hành động, còn cái đầu lại chạy lung tung. Bỗng đâu, Cụ tam nguyên Yên đỗ hiện về:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền con bé tẻo teo.
Sóng nước theo làm hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo...”

Rồi thì, trời đất ơi, răng mà ngu rứa chơ ? Nghĩ mãi không ra bốn câu kế tiếp. Gãi tai, bực mình. Thì ra, mình chỉ là nông dân thứ thiệt; chứ đâu phải cái dõm sỹ con mẹ gì mà biết cho nhiều chứ. Một làn hơi nóng từ mái nhà tuôn xuống, cơn lạnh trôi qua. Thế mới biết, mình đang:

“Ngậm một mối căm hơn trong củi sắt,
Ta nằm dài trông ngày dần trôi
Khinh lũ người kia ngạo mạn dễ ngươi,
Dương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi...”(tl)

Bỗng đâu đó, tai nghe như có lời trách móc. Mi mô có phải Hổ mà nhớ rừng mi ơi. “Oai linh rừng thẳm” tổ mẹ thằng nhóc. Cu li đấy con ạ. Thôi, cày đi kẻo đói bỏ mẹ con ơi ! Tôi nghẹn ngào tiếc nuối. À ha, Cu li mà sao cứ nghĩ chuyện tùm lum. Thiệt khổ cho cái thân TỴ NẠN CỘNG SẢN. Tôi muốn quên đi tất cả; bỏ lại đằng sau tất cả, để kiếm sống qua ngày. Thế nhưng không làm được. Mặc dù tôi có học lóm thơ Hoà thượng Thích quảng Độ mấy câu:

“Đêm ngày tôi dạy cái thằng tôi,
Đạo pháp suy vi bởi lẽ trời.
Thấy kẻ phá chùa: khoanh tay đứng
Nhìn người đập tượng: nhắm mắt ngồi...”

Mỉa mai thay !!! Nếu làm được như thế, thì khỏe khoắn, không chừng còn có tiền đưa vô nhà băng Thụy sĩ như ngài Trí tịnh, ông Võ đình Cường....hay ngôi cao chức cả như Lê mạnh Thát, hoặc “thiền sướng” như sư ông Nhất hạnh, “thiền vô thiền” như ông Ất giác nhiên... thì hay biết mấy. Nhưng hỡi ơi, câu mẹ dặn: “nợ nước, thù nhà”, không sao quên được. Do vậy, không thể cầm súng, thì mình cầm bút, dù chỉ lớp năm trường làng. Bỗng chốc, nhớ một câu của anh chàng họ Mao, mà cười trối chết. À ha !!! Lại nhớ:

“Thớt có tanh tao ruồi mới đỗ,
Gang không mật mỡ kiến bò chi....(NBK)

Vâng, đã khoa thì phải bảng, muốn bảng phải có tiền; muốn tiền phải làm MỌI, phải chùm hum... ống cống, cầu tiêu đâu cũng là tiền bạc, cũng là SỸ đấy mà. Nhân sắp đến “ngày đau không chờ đợi” 30-4-1975, lòng lại nghẹn ngào nhớ tưởng những người chiến sỹ VNCH, nhớ anh em đồng đội đã chết trong tù, nhớ những anh hùng có tên, không tên sau 30-4 ấy, nhớ đồng bào. ... Ôi nỗi nhớ vô bờ !!! Nhưng có lẽ niềm nhớ tái tê nhất vẫn là:

Đường kinh hoàng những xác chết không chôn !
Con bú mẹ- thân mất đầu nằm đó

Đây là một cảnh tượng mà chính tôi chứng kiến trên con đường Quãng trị -Huế mùa hè 1972. Khi những loạt đạn 122 ly của cộng sản bắn xối xả vào dân chúng, thì một thiếu phụ, còn ôm con cho bú đã phải cho cái đầu lìa khỏi cổ. Đứa nhỏ vẫn nằm gọn trong tay chị, nó sùng sục tìm những giọt sữa trên tấm thân nhầy nhụa máu me của Mẹ. Chúng tôi phải giựt mạnh mới có thể kéo cháu nhỏ ra khỏi bàn tay mẹ nó. Tiếng khóc càng lớn, lòng chúng tôi càng não nề. Không ai hẹn ai, mà nước mắt cùng trào tuôn một lúc. Khi đưa được lên xe, chị cứu thương lấy bình sữa cho cháu bú, nhưng nó nhất định không chịu. Mới hay rằng, mẫu tử tình thâm không gì thay thế được. Một người thứ hai là ông chú ruột của tôi. Khi tìm thấy ông, thì thân thể ông đã bị thương nhiều chỗ. Tất cả gia sản đã vất bỏ hết rồi. Nhưng trên tay đầy máu me, ông vẫn ôm giữ một chiếc hòm nho nhỏ. Xem lại, tôi mới biết rằng, đó là chiếc hòm gia phả của tông tộc chúng tôi. Ông nói trong nghẹn ngào, nếu chú chết, thì con phải có bổn phận giữ lấy. Ông ngất xỉu. Tất cả hiện về như thật, và một niềm đau chảy xuống tận đáy lòng. Những người cùng làm nhìn tôi ngơ ngác, vì nước mắt chảy xuống tự bao giờ.

Nhưng, niềm đau ấy dù có đau bao nhiêu, muốn hay không nó cũng phải chạy về theo quá khứ; nó chỉ còn là một kỷ niệm chôn vùi không thể xóa trong ký ức. Còn niềm đau hôm nay ? Chiều hôm qua, tình cờ đọc được hai bài viết, mà nghe lòng càng xót xa, tê lạnh. Chuyện thứ nhất, nói về việc nhà cầm quyền Cộng sản cướp chùa, đuổi thầy GHPGVNTN, bắt bớ Huynh trưởng GĐPT một cách tàn bạo. Chuyện thứ hai là là lá thư sư Úc Quảng Ba ra lệnh cho ngài Hoà thượng Thích như Huệ tổ chức Xô viết tại Úc châu. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu chuyện cuối này.

I. Văn nghĩa của lá thư:

Lá thư thiếu văn hoá:
Như đã trình bày trước đây, chữ Việt có 6 thanh: không, sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã. Nếu trình như thế này, thì có khi lầm lẫn chết mẹ luôn. Xin thí dụ trong đó có câu:

“TU TU CHOI CAI THUC THE DAO”. Vậy nên đọc làm sao ? Các ngài lại già nua, bệnh hoạn, làm sao hiểu nỗi ý ông ấy muốn gì ?
Xin tạm đọc thử:

1- tự tử chơi, cải thực thể đạo.
2- từ từ chơi, cài thúc thế đao
3- tự từ chối cái thực thể đạo .....

E rằng có quá nhiều kiểu đoán. Câu thứ nhất ra lệnh giả vờ tự tử chơi vui để chuyển hoá cái thế thực có của đạo. Câu thứ hai bảo hãy chơi từ từ, nếu không bị con dao đã nằm sẵn bên hông rồi đấy. Dễ sợ !!! Câu thứ ba lại dạy phải TỰ MÌNH từ chối cái thế thực tiễn, chính nghĩa của đạo Phậ t.....

Một câu thứ hai cũng quan trọng không kém: “DANH LE TAM HUYET”. Đoán làm sao ?

1. Đánh lẽ tám huyệt.

Chỉ một lời dịch này, thì ngài Hội chủ cũng khiếp vía rồi. Nếu quả thật Quảng Ba đánh vào Bá hội, Đại chùy, Thận du, Mạng môn, Trường cường, Dũng tuyền, Giáp xa, Thái dương, thì ngài e hết....nỗi. Ông Ba lại không đánh một lúc, mà đánh lẻ từng cái, thì chao ôi, ghê gớm lắm. Tiếp sau còn mấy chữ “đao tính, tán thân”, lại còn ghê rợn hơn nữa.

2. Dành lệ tam huyệt.

Cái này cũng khủng khiếp không kém; nghĩa là chúng sẽ chôn rồi đào lên ba lần như thế.
Không biết trong trường hợp này, Hoà thượng Hội chủ sẽ phải làm sao ? Tôi lo cho ngài quá !

II. Dạng thức của lá thư:

Thực tình, tôi không biết “viên ngọc, đệ nhất luận sư, bác thông Phật pháp, cao tăng chi nhơn” là ai và cái gì, và viết kiểu gì ? Nếu nói là một trình thư thì không đúng, một lá thư cũng trật luôn..., bởi vì cái gì ra cái đó, nó có kiểu cách của người Việt kia mà. Không lẽ những đại đại ...l ại hoá ra tiểu tiểu ... rồi tè tè hay răng chơ ?

Cách trình bày lá thư cho chúng ta thấy một đe doạ ớn lạnh; bởi vì trong Thiền môn, tất cả văn thư đều mở đầu bằng câu “Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni Phật”, nhưng thư này phá lệ. Ông sư Quảng Ba lại viết “Nam mô A di đà Phật”. Phải chăng ông nhắn với Hoà thượng Hội chủ là, nếu không tuân hành mệnh lệnh thì “tiêu diêu” ngay ? Chuyện lạ đời hơn nữa là là cuối cùng ông ghi: “Thích Quảng Ba - Phó Hội chủ GHPGVNTN hải ngoại tại UDL-TTL”.(tôi tạm bỏ dấu) Nhưng khổ nỗi, trên đầu thì ông:

“Kinh bach HT Hoi chu, HT Pho hoi chu Dieu hanh”. Thế thì, ông HT Phó Hội chủ lo việc điều hành, nhưng nay sao do ông Phó khác sai làm ? Suy đi nghĩ lại cả ngày, mới nhớ ra rằng, “trong chế độ ta nà thế đấy” !!! Phó, nhưng là Bí thư, Chính ủy, có quyền ra lệnh và “xử lý ngay tại chỗ” nếu anh trưởng không theo ! Khiếp thiệt.

III. Nội dung bức thư (tạm gọi như thế)

Đây mới là vấn đề quan trọng, và tự tôi đoán định bỏ dấu vào. Mở đầu, ông viết :

“Nhân ngày Tu viện Quảng đức tổ chức lễ đặt đá 25-5-08, nghe tin sẽ có khá đông đủ chư tôn đức GH đến tham dự, chúng tôi xin nhắc lại ý kiến của HT Bảo Lạc là GH chúng ta (do Tăng Ni Phật tử tự thành lập lại từ 1999) cần ngồi lại qua một phiên họp nhỏ, để ổn định tinh thần cho toàn thể thành viên GH trong việc phụng sự GH chung và GH tại Úc, không để những “bão táp Internet” như lâu nay tác động”.

Qua câu trong ngoặc đơn, chúng ta nhận ra ngay một “nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai”. GH Úc châu chắc chắn là do tăng Ni Phật tử Úc châu lập ra, chứ không lẽ do Việt cộng lập ra ??? Đó là đứng về phương diện tình lý bình thường mà nói; nhưng trong sâu thẳm, thì tôi không biết đó nghen.

Nhưng vấn đề quan yếu là, ông ta viết như vậy để làm gì, khi ông thưa thỉnh với HT Hội chủ ?

Lẽ nào HT Hội chủ biết rằng đó là tổ chức do Việt cộng lập nên, và điều khiển, nên Quảng Ba chận đầu nói trước ? Điều thứ hai là, ông ta “chỉ nghe”, chứ không biết thực sự như thế nào, sao lại bốc đồng ra lệnh ngược ? Thái độ ấy, là thái độ kẻ chỉ huy, chứ không phải ngang hàng hay thuộc cấp. Trong tổ chức GH Úc châu, theo ông ấy thì, đã có vị Phó Hội chủ Điều hành, thế thì sao Phó Hội chủ Quãng ba lại ra lệnh cho cả hai vị trên mình ? Rõ ràng, vai trò chỉ huy của Quãng ba quá lố bịch. Hèn chi ông ta nói:”Úc đang vào mùa thu cũng khá lạnh”. Vì chỗ này, từ đầu tôi nhắc đến thơ của Cụ Nguyễn Khuyến. Quảng Ba chỉ biết doạ người ta về việc lạnh, nhưng anh Ba không biết rằng “lá vàng trước sẽ đưa vèo”, và cũng không biết được rằng “sóng nước theo làn hơi gợn tí”. Lá vàng sẽ bay đi, sóng sẽ nổi dậy, nếu có ngọn gió thổi lên. Gió từ đâu ra ? Từ chỗ thiếu không khí, tạo ra chỗ hổng trong không gian. Hiện nay, Việt nam đang thiếu không khí Tự do, Dân chủ, nhân quyền....đó chính là ngòi nổ đang chực chờ đấy. Do nhầm lẫn dùng sức mạnh đè bẹp quần chúng, và dùng tiền bạc khống chế hải ngoại, CSVN sẽ phải chết thê thảm, nếu không chịu hối cải. Kéo theo bè lũ ấy, chính là bọn tham ăn, ác độc núp dưới hình thức đảng phái quốc gia, tôn giáo.

Chuyện thứ hai là “bão táp Internet” làm Quảng Ba lo ngại. Nhưng câu hỏi đặt ra là ai tạo nên bão táp ? Phải chăng là do bọn côn đồ Việt gian, giáo gian theo cộng sản ? Và để tìm sự minh chứng, chúng ta lần lượt xem nó nằm ở đâu ? Quảng Ba viết:

“Việc quý ngài Như Huệ, Bảo lạc và Tâm minh không e ngại mích lòng HT Viện trưởng, và không ngại dư luận dèm siểm, đã công khai từ chức không nhận trách vụ của cái cơ cấu GH mới, mà VHĐ muốn thành lập thêm tại Úc, theo quyết định 38, là quyết định riêng của quý ngài, hoàn toàn không có ai trong GH góp ý như vậy. GH quê nhà không có thẩm quyền giải tán GH của chúng ta”

Qua vài câu như thế, chúng ta thấy ngay cái thái độ thiếu giáo dục của tác giả. Thứ nhất, khi nói đến hai vị cấp trên trực tiếp của mình, Quảng Ba không cần viết giáo phẩm của các ngài. Đây là sự coi thường ra mặt. Thứ hai, việc ca ngợi một hành động “chống lại GH” đã chứng tỏ Quảng Ba chống GHPGVNTN. Thứ ba, khi viết “không ngại mích lòng HT Viện trưởng”, Quảng Ba đã tự chứng minh ông ta là một con người nhỏ mọn, chỉ đặt quyền lợi cá nhân lên trên GH. Ở đây, không có chuyện mích lòng hay không mích lòng, mà phải đặt danh dự, trách nhiệm với tổ chức GH mới đúng. Thứ tư, “không ngại dư luận dèm siểm” là một câu rất xuẩn động. Người mà “vô tàm vô quý”, thì không còn xứng đáng làm người, chứ nói chi tu sỹ Phật giáo:

“Thập triền, thập sử tích thành hữu lậu chi nhân; lục căn, lục trần vọng tác vô biên chi tội”; và từ đó sẽ bị :”mê luân khổ hải, thâm nịch tà đồ”. Người như thế, thì đâu cứu mình được, mà đòi độ ai chứ ? Huống chi còn lừa gạt đàn na tín thí để ăn ngon, làm bậy, phục vụ thế quyền gian ác.

Một điều ngược ngạo là, tất cả phe nhóm về nguồn đều cao rao rằng :”Giáo hội Mẹ không có quyền giải tán”. Chúng ta không cần bàn sâu làm gì, mà chỉ hỏi mấy ông này là, Tại sao GH Mẹ không có quyền gì hết, mà các ông phải xin PHÊ CHUẨN ??? Phải chăng, các ông chỉ muốn VHĐ hợp thức hoá những hành vi chống trả GH, chống lại Tổ quốc của các ông ? Thêm vào đó, dù cho các ông TỰ ĐẺ, nhưng ngay từ đầu, các ông đã tự xin làm con nuôi, thì các ông cũng phải biết “TAM PHỤ THẤT MẪU”, chứ ? Cha mẹ đẻ ra không nuôi, không dạy, thì người cha nuôi là tất cả. Các ông có thấy, người Mỹ như Bill Clinton hay không ? Do cảm niệm ơn sâu dày của “dưỡng phụ”, mà ông ta vẫn để cái họ Clinton cho đến lúc này. Vậy, các ông là ai, là thứ gì mà vong ơn, bội nghĩa đến thế ? Thử nghĩ rằng, nếu không núp dưới bức màn GHPGVNTN, thì đồng bào tỵ nạn đã đạp các ông rồi, còn đâu mà khua mỏ, xỏ xiên ?

Câu chuyện em bé trên đường Kinh hoàng là một bài học cho các ông đấy. Hãy nghiền ngẫm xem sao ? Nó là “đứa trẻ ngây thơ vô trí”, mà còn biết cái vú nhựa không phải vú của mẹ mình. VẬY KHÔNG LẼ CAO SIÊU NHƯ CÁC ÔNG THÌ CHỖ NÀO CŨNG BÚ, MIỄN CÓ SỮA LÀ ĐƯỢC ???
Lại nữa, câu chuyện ông chú tôi chỉ ôm chiếc hòm Gia phả, dù vất bỏ cả gia tài, cũng dạy cho các ông một bài học đích đáng. Người nông dân nhỏ bé không chịu bỏ gia phả mình, còn “cao nhân”, thì cái gì cũng bỏ để tìm chỗ liếm láp nuôi thân được sao ???

Chúng ta phải đọc tiếp, mới biết:

“Nay, GH tại Úc châu đã gần đến ngày Phật đản chung. Kính xin quý ngài hữu trách Hội đồng Điều hành lưu tâm làm sao cho kịp thời:

-HT Hội chủ ra Thông bạch Phật đản, để nhắc nhở tinh thần tu học và phụng sự đạo pháp, đến tất cả Tăng Ni Phật tử.
-HT Hội chủ có thể ủy nhiệm TTK ra văn thư mời HĐĐH họp ở Quảng đức chiều thứ bảy 24/5 để bàn lại và sắp xếp các Phật sự sắp tới: Khóa an cư 3-13-/7/08 và khoá tu học PP Úc châu kỳ 8 3-9/1/2009, cả hai đều đã được HT Bảo lạc xác nhận là vẫn cứ tiếp tục tổ chức
-TT Tịnh đạo, TV phó TV Hoằng pháp gấp gấp liên lạc với SBS để xác nhận giờ phát thanh Phật đản của GH....

Đọc chừng nấy lời, hẳn mọi người đều thấy rằng Quảng Ba là tất cà, là trên hết, nói một cách hay ho là “chính ủy” Úc châu !!! Và như thế, Hoà thượng Thích như Huệ chỉ là bù nhìn cho chúng. Tất cả ngày giờ, địa điểm, công tác .... thậm chí Thông bạch đều do anh Ba quyết định. Cái chế độ “Cộng sản không Cộng sản” này, làm sao mà Phật tử Úc châu chịu được, kể cũng hay quá nhỉ ???

Cuối cùng, chúng con muốn thưa với Hoà thượng Hội chủ Thích như Huệ là, chúng con vẫn tôn trọng ngài, và thông cảm với ngài về sự bức bách của Quảng Ba để ngài phải đang tâm từ chối sự tín nhiệm của GHPGVNTN. Trước tình thế này, quả nhiên gây cho ngài khó xử. Tuy nhiên, để không thẹn với non sông, đồng bào, Phật tử, xin ngài hãy vận dụng tất cả can đảm để không hành động theo MỆNH LỆNH này của Quảng Ba . Ngài hoan hỷ nhớ cho rằng, chính ngài đã từ chức. Trong trường hợp ngài “xuôi theo chiều gió”, thì chúng con vì phải bảo vệ chính nghĩa Dân tộc, GHPGVNTN; kiên quyết đánh trả mọi sự lừa gạt, phản bội. Xin ngài hiểu cho rằng “chiến trường bất câu phụ tử”, và “đao kiếm vô tình” lắm đấy.

CHÚNG TÔI CỰC LỰC LÊN ÁN HÀNH ĐỘNG LẠM QUYỀN, NGANG NGƯỢC, PHẢN BỘI CỦA NGƯỜI MANG TÊN Quảng Ba TẠI GIÁO HỘI ÚC CHÂU

V. Thực hiện Xô viết

Con đường của nhóm Thân hữu Già lam, và tiến đến Tăng Ni Về nguồn, là một con đường “trăm hoa đua nở”, trong đó có nhiều hoa dại rừng hoang; vẽ thành một hình rắn đặc biệt. Lý thuyết của nhóm này không phải tân thời, mà là một bắt chước khủng khiếp theo Constantine IV của đế quốc La mã thời 325 sau tây lịch. Những ai có tìm hiểu lịch sử Do thái- La mã mới biết. Ở đây, chỉ nói ngang chỗ đó thôi, còn vị nào muốn hiểu tận tường thì làm một cuộc so sánh những nhân vật, những hành vi, những ngôn ngữ của hai bên, thì sẽ sáng.

Khi quay đầu nhìn lại, chúng ta thấy, vụ án Trí siêu-Tuệ sỹ đã được sắp đặt rất kỹ lưỡng. Cùng một lúc, chúng diệt hết tất cả những nhân vật then chốt của Phật giáo miền Nam. Bằng cách nào đó, chúng dẫn Hoà thượng Thích trí Thủ vào tròng, và sau khi dùng xong, chúng diệt khẩu. Trước đó, chúng giết ngay Hoà thượng Thích thiện Minh; rồi sau gài ngài Hoà thượng Thích đức Nhuận vào tổ chức kháng chiến vũ trang. Từ đó, Tuệ sỹ, Trí siêu trở thành thánh sống. Trên quan điểm nhân quả thực tại, ngài Thích trí Thủ phải gánh vác trách nhiệm, nhưng xét cho cùng, tôi nghĩ rằng ngài mất tự chủ ngay từ bản đàn Sonata 14. Bọn chúng đã sắp đặt mọi việc một cách bí mật, người tu hành không sao hiểu nỗi. Vì vậy, theo tôi, có lẽ ngài chết vì sau khi đọc lá thư của Hoà thượng Chánh thư ký Viện tăng thống đương thời là ngài Thích đôn Hậu, ngài Trí thủ đã hối hận muốn quay lại với GHPGVNTN. Sợ tan vỡ kế hoạch tiêu diệt Phật giáo, chúng đã sai gia nhân hạ độc thủ ngay tức khắc. Đó chỉ là những suy luận, và dựa trên những tin tức mà tôi có. Cũng theo dư luận ấy, thì có những tên đồ đệ ác ôn kia vẫn thong dong hưởng thụ tại hải ngoại.

Nhắc lại như thế, không phải tôi biện hộ cho ngài Trí thủ, mà để thấy những âm mưu ghê gớm của CSVN đã được thực hiện bởi những bàn tay bí mật cài đặt bên cạnh ngài. Vì vậy, theo tôi, thiếu cái DŨNG, là một tai hại khó cứu chữa. Ngày nay, tại Úc châu, các ngài Thích huyền tôn, Thích như Huệ ... liệu có đủ đức DŨNG để khỏi di hoạ về sau hay không, là do tự các ngài, chứ chúng tôi không thể nào giúp nổi.

Qua phần trình bày trước, lúc này, ông Quảng Ba đã khống chế toàn bộ GHPGVNTN tại Úc châu, nhưng miệng ông vẫn oang oang nói ông phù GHTN. Chúng ta cần xét xem vài ngôn ngữ hay hành vi, hoặc lý luận của ông xem sao.

a) Lý luận chàng hảng.

Trong thư từ chối Debate, Quảng Ba và người tự tạo ra chuyện ấy, đã tìm cách hạ nhục tôi, và bảo rằng tôi vu khống. Cái trò chơi đá banh này, tôi đã chơi hồi còn bé, họ không dễ qua mặt đâu. Có điều, thằng nhỏ quê đi hay không biết rằng, ngay cả trong hai cuốn sách MÚA NỮA ĐI CƯNG, NGƯỜI VIỆT NÊN CHỐI BỎ ???, và tất cả bài viết, tôi ghi rõ rằng, tôi chỉ là một nông dân thấp kém, thiếu học; tự nguyện “tay cày, tay kiếm”, chẳng màng danh lợi chi cả, góp phần vào việc “trừ gian, khử bạo, tồi tà phụ chính”, mà thôi. Đã là nông dân, thì làm sao mơ danh, ước lợi chứ ??? Không có và cũng không thể.

Sư cụ Quảng Ba viết:

"Chúng tôi trong đạo Phật không bao giờ coi GH mình là một chính phủ, một đảng phái, một công ty, mỗi tỳ kheo trong GH có quyền hành đạo theo hiểu biết của riêng mình, có thể ở trong hay ở ngoài bất cứ GH nào, cũng có thể tham gia nhiều giáo hội cùng một lúc, có thể nhận chức vụ hay không nhận chức vụ nào cả vẫn tu hành được".

Mới nghe qua, hay thiệt là hay; bởi vì Phật giáo là một tôn giáo rất tự do. Ai tu nấy chứng. Do vậy, ông thầy không ép nài chi người học trò cả; chỉ y pháp mà truyền dạy cho môn đồ. Đây là một điểm mà không tôn giáo nào có. Thế nhưng, người học trò đã được dạy:

"Thượng tự chư Phật, Thánh nhân, sư tăng, phụ mẫu; hạ chí quyên phi nhuyễn động vi tế côn trùng, đản hữu mạng giả bất đắc cố sát. Hoặc tự sát, hoặc giáo tha sát, hoặc kiến sát tuỳ hỷ".

Vậy, ông ta có thể nói rằng, tôi không xem thầy tôi là tối thượng, không phải là ông chủ .... nên tôi có quyền xem thường, bất tuân, hãm hại ...? Giả như, ông học trò ấy, thấy người ta giết thầy mình, hại thầy mình, thì ông ấy có thể ngồi nhìn và nói rằng, Phật dạy: sống chết là nhân quả; do thầy gây nghiệp, nên chịu quả báo hay không ? Đó là chưa nói tự mình giết thầy hay kêu người khác giết thầy mình. Câu nói “mỗi tỳ kheo trong giáo hội có quyền hành đạo theo hiểu biết riêng mình”, là câu nói mang ý nghĩa gì ? Đã tự gọi “trong Giáo hội”; nghĩa là ông đã nhận Giáo hội là của mình; thầy là thầy mình, thế sao lại có thể đi ra ngoài cái mình tự chọn ? Hoá ra, ông ấy tự phản bội chính mình ? Theo luật Phật, mỗi học trò bậc Sa di sẽ được thầy xem xét kỹ lưỡng, trắc nghiệm trình độ, rồi cho thọ Tỳ kheo khi đúng tuổi. Vị tỳ kheo ấy phải ở bên thầy 5 năm để học hỏi, thực nghiệm thiền quán. Nếu người học trò không tu hành nghiêm túc thì thầy có thể đuổi ra khỏi thiền môn. Như thế, ông học trò ấy có thể nói rằng thầy đừng chơi kiểu chính phủ, công ty ... với tui hay không ? Ngày xưa thì không có, còn bây giờ e hết 90% như thế. Vậy sư cụ Quảng Ba cũng có mặt trong số này chăng ?

Khi ông Quảng Ba nói rằng: ”Cũng có thể tham gia nhiều GH cùng một lúc”, thì tự ông đã phơi bày toàn bộ trí não thượng thừa của ông rồi ! Tiếc thay cho “hòn ngọc, đệ nhất luận sư, quảng thông Phật pháp...”!!! Cái mớ lý luận này, dân cày tôi nghe sao ngượng quá. Xin hỏi “đệ nhất luận sư”, cái luận này thuộc vào loại gì ? Phải chăng là “chàng hảng”. Nhưng “chàng hảng” thì trước sau cũng “toạc háng”. Trước đây tôi đã có trình bày tổng quát, nay đi thẳng vào vấn đề chính. Hiện nay, thực tế tại Việt nam có hai Giáo hội; đó là GHPGVNTN và GHPGVN quốc doanh. Nhưng, khổ nỗi GH quốc doanh đang tâm giết GHTN, vậy ông Quảng Ba theo GH nào, hay theo cả hai ? Câu trả lời, ông đã xác nhận:”Cũng có thể tham gia nhiều GH cùng một lúc”. Vậy vấn đề thế nào ?

a) GH quốc doanh giết GHTN.

Bằng chứng:

- HT Trí thủ, Minh châu, Trí tịnh, Từ nhơn ... đi riêng để lập GH quốc doanh, phụng sự cho CNCS dưới biển đề Dân tộc, đạo pháp, XHCN
- Ông Minh châu viết thư buộc tội HT Quãng độ, HT Huyền quang.
- Ông Trí tịnh, Từ nhơn đốt hết hồ sơ GHTN.
- Ông Trí quảng hạ bảng hiệu GHTN, cướp chùa Ấn quang
- GH quốc doanh không công nhận GĐPT

b) GH quốc doanh phục vụ thế quyền CSVN

Bằng chứng:

- HT Trí thủ đứng hầu quan tài Tôn đức Thắng.
- Ông Trí tịnh ngồi trên khán đài duyệt binh mừng “giải phóng” ngay từ đầu.
- Ông Minh châu đem dạy chủ nghĩa Mác Lê Hồ trong các trường Phật giáo
- GH quốc doanh đem thân làm thành viên MTTQ, một cơ cấu chính trị CS.
- Các ông trong GH quốc doanh đều tham gia chính trị, như dân biểu, Mặt trận Tổ quốc như HT Trí thủ, Thiện siêu, Minh châu, Mật hiển ....
- GH quốc doanh nhận huy chương, bằng khen ... của ngụy quyền CS
- GH quốc doanh đều mặc áo vét đỏ, huy hiệu cờ đỏ sao vàng để phản đối NQ 427 của Mỹ, và NQ châu Âu
- Đưa cán bộ công an giả làm sư để tiêu diệt PG.
- GH quốc doanh chịu sự giám sát giới trường Phật giáo của CSVN.
- GH quốc doanh chịu sự điều động trực tiếp của Đảng CS trong mọi vấn đề, từ cơ cấu tổ chức, đến giáo dục Tăng Ni, mọi hoạt động chính trị đối nội cũng như đối ngoại.
- GH quốc doanh chấp nhận Tăng dâm ô như Hạnh Phượng, Tăng tại tục như Lê mạnh Thát, Tăng cán bộ như nhóm Nguyễn thành Đạt (MĐQ)....

Vô số chuyện. Vậy, khi “có thể tham gia nhiều giáo hội cùng một lúc”, thì ông Quảng Ba cũng làm tất cả việc trên này sao ? Từ đó, cho chúng ta thấy, trong tất cả những chuyện gian ác của GH quốc doanh, Quảng Ba đều có tham gia cả. Thế thì, giết GHPGVNTN cũng có anh Ba, cứu GHTN cũng có anh Ba. Về theo tên tóc bờm Thát làm IOC cũng có anh Ba. Kêu gọi mời GHTN cũng có anh Ba....Lạ thiệt đó nghen. Ai nghe được thì cứ nghe, còn tớ đây xin phủi ... vì cái mớ lý cùn này. Hiện nay, hai GH này đang chiến cự ác liệt, VẬY, CHIẾN SỸ Quảng Ba SẼ BẮN CẢ HAI BÊN CHO CHẾT HẾT, để thu lợi về cho đảng CS chăng ??? Và điều ấy đang từ từ ló dạng. Kiếm khách này chỉ đứng một phe, PHE CỦA DÂN TỘC, ĐẠO PHÁP VÀ TỪ BI CỨU KHỔ, cho nên sẽ tự nguyện chém bất cứ kẻ gian ác nào hãm hại Tổ quốc, Dân tộc và Đồng bào Việt, trong đó có GHPGVNTN, Phật tử Việt nam. Với tôi, tất cả những lý luận “chàng hảng” là gián điệp của địch, nhứt định phải tiêu diệt. Bọn gian manh đang học bài học của gần 20 thế kỷ trước để làm cho “con chống cha mẹ, dâu chống bà gia, và người nhà sẽ là kẻ thù của nhau”. Thật khủng khiếp !!!

Còn câu này nữa:
“có thể nhận chức vụ hay không nhận chức vụ nào cả vẫn tu hành được”.

Vậy thì, xin hỏi ông Ba rằng, không chạy về hợp tác với Lê mạnh Thát, làm tay sai cho CS cũng tu hành được; GH không phê chuẩn cho ông làm phó hội chủ cũng tu hành được; không lên Internet cũng tu hành được, không lên Paltalk cũng tu hành được; không làm Thân hữu Già lam cũng tu hành được, không tổ chức Tăng Ni hải ngoại Về nguồn cũng tu hành được; không chống GHPGVNTN cũng tu hành được; không bảo lãnh cán bộ Tăng Ni từ Việt nam sang cũng tu hành được .... Vậy sao ông không làm, mà cứ chạy tứ tung bát giác ? Thậm chí, nay cả lũ phải chui vô lông nách cán bộ Giác nhiên Nguyễn văn Ất ??? Nếu quả thật, ông tự làm theo lý thuyết của ông, thì sao không ngồi tu, mà la làng, la xóm, quậy phá tùm lum ? Như thế, thì rõ ràng ông đã lừa thiên hạ rồi !!!

Khi nói đến sự tôn trọng tự do của Phật giáo, thì cũng phải biết đến mấy chữ TỰ TÁC TỰ THỌ, là nhân quả rất tự nhiên. Nếu ông không theo Lê mạnh Thát, nếu ông không chống lại GHTN, nếu ông không lập cái Về nguồn ... thì chắc không ai nói đến ông. Sự tự do không có nghĩa là ông muốn gì làm chuyện đó, mà phải tôn trọng sự tự do của kẻ khác. Ông ăn xin của chúng sanh, thì ông phải lo tu hành để cứu độ chúng sanh; nếu không, thì phải làm trâu cày trả nợ sau này. Vậy thì, ông ăn cơm mặc áo của người TỴ NẠN CỘNG SẢN, sao lại có thể “tham gia bất cứ GH nào”; trong khi GH quốc doanh tàn hại GHTN, là GH mà chính ông công nhận là từ đó ông được trưởng thành. GH quốc doanh là GH tay sai cho CS không ai có thể chối cải; vậy thì, khi ông nói như thế, cũng rõ ràng ông đã tham gia vào đó; chính ông phản bội đồng bào Tỵ nạn cộng sản, phản bội GHTN, phản bội Phật tử. Xin nhắc cho ông biết rằng, kẻ “chàng hảng” là kẻ sẽ bị chết giữa hai lằn đạn. Thê thảm lắm ông ơi !

Trong bức “mật thư” chỉ thị cho hai vị Hội chủ và Phó hội chúc GH Úc châu, sư cụ Quảng Ba viết:

“Tuy nhiên vì GH đã yêu cầu có 4 ngài lấy tư cách cá nhân viết thư về Việt nam yêu cầu GH bên nhà chấp nhận cả GH chúng ta ( kết quả phiên họp 5/1/08) để hai bên dễ làm việc hơn, bây giờ GH bên nhà không chấp thuận ý kiến của quý ngài, nên qúy ngài vì kính trọng sự nguyên vẹn của GH tại Úc nên đã quyết định từ chức để giữ yên GH tại Úc lâu nay, chứng tỏ quý ngài đã trân trọng tình đạo, và nắm vững thực tế, không hoang tưởng như những vị ở Paris, Saigon hay Denver”.

Việc thứ nhất, “GH đã yêu cầu có 4 ngài lấy tư cách cá nhân viết thư về Việt nam yêu cầu GH bên nhà chấp nhận cả GH chúng ta”, là một điều không thể chấp nhận. Văn thư xin chuẩn y phải do GH Úc gởi về Viện hoá đạo, chứ không thể nào nhân danh các nhân để yêu cầu chấp nhận. Lời lẽ này chứng tỏ Quảng Ba không tôn trọng GHTN. Đã nói rằng “GH quê nhà không có quyền”, thì tại sao phải xin phê chuẩn, phải xin từ chức ? Sao có chuyện XIN và TỪ CHỨC, với những kẻ không có quyền ?

Thứ hai, khi đã cúi mình xin phê chuẩn, thì cơ quan ấy có quyền PHÊ và CHUẨN; chứ không phải chỉ theo đuôi kẻ đề nghị. Như vậy, không phải là yêu cầu điên đảo hay sao ? Lẽ nào bầy con yêu cầu cha chúng bán cả từ đường, gia phả họ mình, rồi bắt cha chúng phải chuẩn y được sao ? Như thế, hóa ra chúng chỉ vì mục đích bán tổ tông kiếm lợi; cha chúng không cho, không thuận, chúng lại “tập hợp đa số” để chửi lại cha mình ???

Thứ ba, khi viết “để hai bên dễ làm việc hơn”, Quảng Ba đã coi mình ngang hàng với cha mẹ; coi thường hệ thống pháp phái, tông môn, Giáo hội. Thế thì, một kẻ không còn biết thượng hạ, quy cũ ... có xứng đáng để người ta tôn trọng, hay phải bị búa rìu công luận, khinh dễ của người đời ?

Khi viết, “bây giờ GH bên nhà không chấp thuận ý kiến của quý ngài, nên qúy ngài vì kính trọng sự nguyên vẹn của GH tại Úc nên đã quyết định từ chức để giữ yên GH tại Úc lâu nay, chứng tỏ quý ngài đã trân trọng tình đạo, và nắm vững thực tế, không hoang tưởng như những vị ở Paris, Saigon hay Denver” thì chính Quảng Ba đã xúi dục nổi loạn thiền môn; nghĩa là thực hiện kiểu Xô viết.

Không có chuyện “không chấp thuận ý kiến cá nhân” là từ chức. Như thế, những vị này đã vì cá nhân mà quên GH, lấy nhỏ bỏ lớn; lìa con đường cao rộng của Phật pháp để tiến vào vị kỷ nhỏ hẹp, tồi tàn. Chính họ đã xem GH là của riêng, là chỗ để lợi dụng, là nơi hợp thức hoá cho tham tâm, cuồng vọng cá nhân. Và đến đây, chúng ta hiểu ngay rằng, những cá nhân ấy đã tự mình phơi bày dã tâm lợi dụng GH Úc; và đó là lý do tại sao Viện hoá đạo không phê chuẩn tòa bộ GH Úc châu.

Có ngược ngạo lắm không khi mà “GH quê nhà không có thẩm quyền giải tán GH của chúng ta”; và “đã quyết định từ chức để giữ yên GH tại Úc” ? Khi GHPGVNTN trong nước, tức GH mà xưa nay được gọi là GH Mẹ không có quyền giải tán, thì ai có quyền gì để xoá bỏ GH Úc mà phải GIỮ YÊN ? Chỉ có điên khùng mới xin Phê chuẩn, và xin Từ chức với một cơ quan không có quyền gì với mình cả, phải vậy không ??? Vậy thì, mục đích của sư Quảng Ba là cái gì ? Là gạt GHPGVNTN ra ngoài sự liên hệ với GH Úc châu; nói cách khác, ông đã đưa đẩy GH Úc châu chống lại HĐLV ở trong nước; nghĩa là ngang nhiên TỪ CHỐI MẸ CHA để bước vào con đường phiêu du độc lập !!! Mấy chữ “quý ngài trân trọng tình đạo”, nghe mà xót xa làm sao ấy ! Thương ôi, ngày nay lại có nhà đạo đức ca ngợi những đứa con hoang bỏ nhà, coi thường cha mẹ chúng, là có tình, có nghĩa. Sao người có “tình đạo”, mà không có tình thầy tổ, tông môn ? Phải chăng, tình đạo ấy là tình xì ke, ma túy; tình cô hồn, du thử, du thực; tình của những con quỷ đói chỉ biết kiếm ăn không còn lưu tâm đến lương tri, đạo đức ?

Để hiểu rõ hơn về thái độ của sư cụ Quảng Ba, chúng ta nên lưu tâm sự liên hệ hai câu này: “ô nhục cho 40,000 Tăng Ni của GH này”, và câu :”Tôi lên án CSVN, mà không lên án các đồng đạo đáng thương của chúng tôi. Họ đáng thương hơn đáng trách”.

Do quan điểm “từ bi vô lượng” này, sư không ngại đưa GIÁO GIAN ra nước ngoài để khống chế GHPGVNTN; lấy sư đánh sư chơi; lấy GHTN chơi GHTN. Tuyệt chiêu CPV !!!

Dù “ngu xuẩn hết cỡ” như tôi, tôi cũng phải đặt câu hỏi tại sao trong một chế độ chống lại tôn giáo lại có nhiều người tu như thế ? Nếu không biết hỏi câu này thì chỉ được gọi là “trần truồng và đần độn”mà thôi. Lẽ nào sư cụ QB không biết ??? Dzui dzẻ nhỉ ? Cái buồn nôn là “chống CS” mà không chống “sư công an CS”; ngược lại còn gọi là “đồng đạo” ! Theo GHTN mà cũng theo GH quốc doanh ! Nghĩa là sư cụ tung hoả mù tứ chiến nan y; vừa chém, vừa xoa thuốc, băng bó. Ôi, thiên địa quỷ thần uơi, vị lương y giết người đấy.

Xin đồng bào nhớ cho rằng, hãy xé bỏ những băng bó của kẻ thù như cụ Phan thanh Giản đã làm; nếu không, thì nó băng xong, nó ngồi đó để xem cái chết đày đoạ từ từ của nó đối với chúng ta mà thôi. Một trò chơi nham hiểm, độc địa.

XIN HÃY CÙNG NHAU VẠCH MẶT BỌN ĐẦU HÀNG CỘNG SẢN DƯỚI NHỮNG MỸ TỪ ĐẠO ĐỨC, NHÂN ÁI.

Bảo Quốc Kiếm 04-5-08




Coi Chừng: Rửa Tiền Trơ Mặt Mốc


Thúy Chi - IRS/SPEC

Trong khi các hành vi lừa đảo và trốn thuế là nỗ lực hàng đầu nhằm bảo vệ việc tuân thủ pháp luật của các chuyên viên điều tra hình sự thuộc Sở Thuế Vụ Liên bang Hoa Kỳ, kiểm tra các hoạt động chuyển tiền và ngăn ngừa tệ nạn rửa tiền cũng là những lĩnh vực quan tâm đặc biệt của cơ quan này.

Nạn Rửa Tiền

Thuật ngữ "rửa tiền" (money laundering) có liên hệ tới những hoạt động và quá trình chuyển vận tài chính thực hiện với chủ đích che dấu nguồn gốc của số tiền. Trong hầu hết các trường hợp, số tiền liên quan đến quá trình tẩy rửa là những đồng tiền bẩn kiếm được từ các hoạt động bất hợp pháp và mục tiêu của hành động rửa tiền là phết lên trên các dấu vết phạm tội một vẻ ngoài sạch sẽ như thể đồng tiền này đến từ những nguồn hợp pháp.

Bộ phận điều tra hình sự của IRS được thành lập năm 1919 và bắt đầu với những cuộc điều tra liên quan đến ma túy từ một đường dây buôn thuốc phiện ở bang Hawaii vào đầu những năm 1920s. Qua quá trình điều tra này chúng ta chỉ có thể kết án bọn phạm pháp với một tội danh trốn thuế. Vào thời kỳ đó, hằng triệu đô la đã được tẩy rửa qua các cơ quan tài chính, những đồng tiền này đã chẳng bị đánh thuế và được bọn xấu dùng để tậu tài sản. Lúc ấy, khi một nguồn tiền được ký thác vào một tài khoản ngân hàng, chẳng có hệ thống chứng từ hành chính nào khác ngoài sổ sách tài vụ. Ngân hàng cũng chẳng buộc phải báo cáo những khoản tiền chuyển ngân lớn cho chính phủ.

Mãi đến năm 1970, Quốc Hội Hoa Kỳ cho ra đời bộ luật BSA - Bank Secrecy Act buộc các ngân hàng kiểm chứng những nguồn tiền trốn thuế. Việc thông qua bộ luật BSA đồng thời dẫn đến quyết định đưa vào sử dụng các mẫu đơn khai chuyển tiền như mẫu CTR - the Currency Transaction Report (Form 4789); mẫu CMIR - Report of International Transportation of Currency or Monetary Instruments (Form 4790); và mẫu FBAR - Report of Foreign Bank and Financial Accounts (Form TD F 90-22.1).

Bộ luật về bí mật ngân hàng BSA đã khai sinh ra hệ thống hành chính giấy tờ cần thiết để thực hiện việc tuân thủ các quy định pháp luật nhằm theo dõi các nguồn tiền chưa đánh thuế và hằng triệu đô la tiền bẩn được gột rửa bởi các cơ quan tài chính. Từ đó, bằng thủ tục hành chính giấy tờ và qua các cuộc điều tra, truy tố, và tịch thu tài sản, Sở Thuế Vụ Liên bang đã có thể theo dấu đường tiền phá vỡ và tháo dỡ, các tổ chức rửa tiền và buôn lậu ma túy chính trong nước.

Một số các ví dụ về những cuộc điều tra rửa tiền

- Tẩy rửa hằng triệu đô la tiền mua bán thuốc tây, hai vợ chồng người Việt Nam bị kết án 19 năm tù.

Vào ngày 8 tháng Sáu năm 2007, tại thành phố Atlanta, tiểu bang Georgia, hai vợ chồng Hoàng Nguyễn và Terri Nguyễn đã bị kết án với tội danh tẩy rửa trên 15 triệu mỹ kim tiền buôn bán thuốc tây. Riêng bị cáo Hoàng Nguyễn bị kết án 235 tháng tù giam, theo sau là hai năm tù quản thúc ở nhà; bị cáo Terri Nguyễn, 41 tháng tù giam và hai năm tù lỏng tại nhà.

Theo hồ sơ tòa án, công cuộc điều tra đã xác minh được sự tồn tại của hoạt động rửa tiền rộng lớn này ở cả thành phố Atlanta của Hoa Kỳ và nước láng giềng Gia Nã Đại. Tổ chức này đã sử dụng những cơ quan tài chính quốc nội và quốc tế với nỗ lực hợp thức hóa những nguồn tiền lậu. Tin dẫn chứng tại phiên tòa cho thấy vào đầu năm 2002, với kỳ tích điều tra xuất thần các viên chức chính phủ Gia Nã Đại thuộc bộ phận thanh tra ở Toronto đã thu được những cú điện thoại của một nhóm người liên quan đến nhiều vụ rửa tiền cho một số các công ty dược liệu ở Gia Nã Đại và Hoa Kỳ.

Qua nghiên cứu đường đi của nguồn tiền, các cơ quan chính phủ nước bạn đã khẳng định được tiền mua bán thuốc tây lậu đã được tẩy rửa qua một mạng lưới rộng lớn gồm các cơ sở kinh doanh, các dịch vụ chuyển vận, và các nhân viên giao tiền ở cả hai nước. Đầu mối của mạng lưới chuyển tiền này tựu trung ở Atlanta đã sử dụng các cơ sở kinh doanh trong cộng đồng người Châu Á để chuyển ra khỏi Hoa Kỳ những khoản tiền mặt từ các hoạt động bất hợp pháp. Hoạt động phi pháp này theo mô tả của bị cáo Hoàng Nguyễn gồm hai dạng: thuốc (the drug side) và tiền (the money side). Dạng tiền bao gồm các doanh gia lão thành trong cộng đồng có nhiều đầu mối làm ăn, do đó khi Hoàng Nguyễn và Terri Nguyễn chuyển những số tiền lớn vào tài khoản của họ để tẩy rửa, tiền trở nên có nguồn gốc chính đáng và sẽ ít bị nhân viên điều tra dòm ngó hơn. Phần mình, theo hồ sơ, hai người này chịu trách nhiệm vận chuyển những khoản tiền thu được từ hoạt động mua bán thuốc tây lậu đến các nơi khác như Việt Nam, Cam Bốt, Dubai, Panama, Thụy Điển, Do Thái, Gia Nã Đại, Nhật Bản, Mễ Tây Cơ, Tân Gia Ba, Latvia và Hoa Kỳ.

Khi bắt Hoàng Nguyễn và Terri Nguyễn vào tháng Ba năm 2004, các chuyên viên điều tra Liên bang đã thu giữ một số tài sản của hai người lên đến $2.5 triệu mỹ kim gồm tiền mặt, nhà cửa và xe cộ, tất cả các tài sản được xung vào công quỹ của chính phủ Hoa Kỳ. Những bằng chứng cụ thể đã cho thấy tổng số tiền vào khoảng 15 triệu mỹ kim thu được từ hoạt động mua bán thuốc tây lậu được tẩy rửa và phân phối cho hai bị cáo Hoàng Nguyễn và Terri Nguyễn trong khoảng thời gian từ tháng Một năm 2003 đến tháng Ba năm 2004.

- Hai người châu Á bị tù do vi phạm các quy định về ngành kinh doanh chuyển tiền lậu.

Tại Sacramento, bang California, vào ngày 16 tháng Ba năm 2007, hai can phạm Serey Van và Thanh Tan Van, còn gọi là Thomas Van, đã bị kết án tù do có liên quan đến một hoạt động kinh doanh lớn chuyển tiền lậu và vi phạm các quy định gởi tiền; Serey Van bị 31 tháng và Thomas Van, 18 tháng.

Theo hồ sơ vụ án, Serey Van đã khai nhận tội không thực hiện đúng các quy định gởi tiền tại Ngân Hàng. Được biết từ giữa tháng Tư năm 2004 đến tháng Một năm 2005, vợ chồng Van đã cùng nhau điều hành các dịch vụ chuyển tiền mang tên March Lane Pure Water và Best Money Express ở thành phố Stockton, tiểu bang California, chuyên nhận chuyển tiền cho khách hàng từ Stockton về Cam Bốt. Cả hai cơ sở này đều không có giấy phép đăng ký hoạt động chuyển tiền ở bang California, cũng không đăng ký với chính phủ Liên bang về việc cam kết chấp hành các quy định Liên bang về việc vận chuyển tiền.

Trong thời gian nêu trên, hai bị cáo Serey Van và Thomas Van đã chuyển hơn một triệu mỹ kim qua hệ thống mạng viễn liên cho khách hàng ở Hoa Kỳ gởi tiền về Cam Bốt. Cũng theo tài liệu dẫn chứng tại tòa án, trong thời gian kể trên, tên Serey Van và một nhân vật khác đã sắp xếp để ký thác vào các tài khoản ngân hàng số tiền hơn một triệu đô la bằng cách gởi nhiều lần các khoản tiền nhỏ hơn mức giới hạn $10,000/mỗi lần, nhằm tránh không phải khai báo theo yêu cầu về việc chuyển gởi tiền (currency transaction reporting - CTR - requirement).

Hai bị cáo cũng bị buộc phải từ bỏ số tài sản đã tích lũy được liên quan đến các hoạt động hình sự này, khoảng hơn $230 ngàn đô la. Ngoài ra, sau khi mãn hạn tù, Serey Van cũng sẽ nhận thêm hai năm tù quản chế; Thomas Van, một năm tù quản chế.

Trên đây chỉ là hai trong rất nhiều những ví dụ khác về hoạt động rửa tiền. Muốn biết rõ hơn, xin quý vị tham khảo thêm tài liệu từ mạng thông tin điện tử của IRS, mục Examples of Money Laundering Investigations 2006/2007/2008.

Thúy Chi - IRS/SPEC