Wednesday, March 31, 2010

Một góc nhìn qua vụ Lê Thị Công Nhân - Nguyễn văn Hoàng

Nguyễn văn Hoàng

Kính thưa quý vị,

Khuynh hướng đấu tranh, vị trí, vai trò của LS Lê thị Công Nhân được bàn tán xôn xao trong suốt mấy tuần qua. Thảo luận về đề tài này là một việc tích cực, một ưu điểm của sự tự do ngôn luận nhưng đôi khi chúng ta không khai thác ưu thế của tự do ngôn luận mà lại làm ngược lại.

Ông A phân tích, đưa nhận định tiêu cực về LTCN. Thay vì đưa những phân tích, nhận xét tích cực về LTCN để phản bác thì ông B lại phê phán ông A. Rồi thì A phản pháo, tấn công lại B. Chụp mũ nhau như vậy, dán nhãn nhau là "thiếu tử tế" như vậy, chỉ chứng minh được sự thiếu trưởng thành của chúng ta trong việc sử dụng quyền tự do ngôn luận.

Câu chuyện về cá nhân của LS LTCN đã được bàn thảo nhiều, có viết nữa chắc cũng không thêm được ý kiến gì. Hôm nay chúng tôi chỉ muốn bàn về một khía cạnh khác.

Quý vị hãy bỏ vài phút, thử tưởng tượng mình là VC, với sự độc ác, tàn nhẫn, tham lam, điếm đàng của VC, xem trước một hiện tượng như LTCN, quý vị sẽ đối phó như thế nào.

Quý vị có thừa sức dùng lệnh quản chế để cấm việc liên lạc với báo chí, quý vị có để cho một người là mối nguy của quý vị trả lời phỏng vấn, phóng tiếng nói đi cả năm châu bốn biển hay không?

VC có thừa khả năng mỗi ngày bỏ một ít steroid hay dược chất vào thức ăn làm giảm hệ thống miễn nhiễm của một người, khiến người ấy không mắc bệnh này cũng mắc bệnh khác, VC có dám làm như vậy hay không?

Có lẽ có nhiều quý vị sẽ cho rằng VC sợ áp lực quốc tế, VC muốn tạo bộ mặt tự do, nên VC không thể xử quá ép những người chống đối họ một cách công khai.

Quý vị hãy nghĩ rằng mình thừa gan dạ xé nát hiệp định Paris, tổng tấn công trong lúc đồng ý hưu chiến, ngưng bắn, đày đọa hàng triệu người, giết chết hàng trăm ngàn người, thủ tiêu ám sát vô số người, từng tuyên truyền qua mặt thế giới tự do, quý vị sẽ làm gì với LTCN hay với một người có thể là mối nguy của quý vị?

Chị LTCN tốt hay xấu, là Hằng Nga hay chú Cuội, chúng tôi không "dám" bàn ở đây vì "sợ" những người "tử tế" chụp mũ, chúng tôi chỉ muốn chúng ta nghĩ xem nếu chúng ta là VC, với đầy đủ những "độc tính" của VC, thì chúng ta sẽ làm gì trước một người, một nhóm có thể di họa cho chúng ta.

Nhớ lại hai lần chúng tôi gọi điện thoại cho thầy Thích Không Tánh. Cả hai cú điện thoại, vừa xưng tên xong thì bị cúp đường dây và tất cả số tiền có trong hai cái phone card đều bị rút hết trong vài giây ngắn ngủi. Thế mà Thanh Toàn của SBTN về VN phỏng vấn thầy Không Tánh thì nói hàng giờ (điểm này được nêu không phải để đặt nghi vấn về thầy Không Tánh mà về Thanh Toàn), vậy mà Tường Thắng của SBTN nói chuyện với chị Kim Thu thì thật thoải mái.

Là một người từng phỏng vấn nhiều lần, tôi hiểu rất rõ phản ứng của phóng viên. Khi mình không muốn người trả lời phỏng vấn nói thêm về một việc gì, mình thường bắt đầu "dạ, dạ" hay "vâng, vâng" nhiều lần, tiếng càng ngày càng thúc bách, và cuối cùng lựa cơ hội ngắt lời để chuyển đề tài. Khi DB Cao Quang Ánh bắt đầu nói sâu về việc Mỹ chú ý đến nhân quyền tại VN thì Dương Phục đã có phản ứng này. (phút thứ 6 trong cuộc phỏng vấn http://www.viddler.com/explore/ kn2000/videos/45/

Nếu tôi là VC, tôi cũng sắp sẵn vở tuồng, không phải chỉ chọn các vai chánh, mà cả vai phụ, những tay phỏng vấn. Nếu tôi là VC tôi cũng sẽ gài người vào các cơ quan truyền thông lớn, nếu không gài được thì sẽ mua chuộc. Người nào không phải của tôi thì đừng hòng có cơ hội phỏng vấn.

Kính thưa quý vị,

Trong một ván cờ, chúng ta không thể chỉ nghĩ đến nước đi của chúng ta mà quan trọng hơn rất nhiều nữa, chúng ta phải đoán xem đối thủ sẽ đi như thế nào. Có một số nhà đấu tranh không có cơ hội lên tiếng, một số người đã bị giết, trong khi một số người được VC cho phát biểu "vô tư".

Nếu là VC, quý vị sẽ thủ tiêu, bịt miệng hay để cho mầm họa tự do phát biểu?

Trân trọng,

Nguyễn văn Hoàng
hoang4eb@gmail.com



Tuesday, March 30, 2010

Chuyện Tản Mạn Hậu Thánh Nữ ... - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Sau khi bài viết “Thánh Nữ, Đứa Con Của Thằng Cuội” được gởi đi, không ngờ Làng Lưới ta sóng gió lại nổi lên như thế. Giữa tình huống thê thảm, người viết, có khách mộ điệu gởi hoa đến tặng, nhưng cũng có người đổ phân lên đầu, nhiều kiếm khách vô tình gặp chuyện giữa đường rút dao tương trợ, nhưng cũng không thiếu kẻ nhào đến tặng cho những nhát đâm trí mạng. Tất cả xin nhận ở đây của kẻ hèn này một lời cám ơn chân thành. Được tặng hoa, tất nhiên ai cũng thích. Bị đổ phân lên đầu, đi tắm xà bông thơm là xong ngay. Cũng may là ở đây có nước sạch mà tắm. Còn như ở bên nhà toàn nước dơ, gặp cảnh ngộ như kẻ hèn này, tắm nước dơ xong lại phải lấy máu để tắm lại, mất công lắm. Nước dơ rửa bằng máu mới sạch là khám phá quan trọng của vua Hàm Nghi, chứ không phải của hèn này. Gặp chuyện xui giữa đường được hiệp sĩ giúp đỡ không phải may mắn thì là gì?

Bài nghị luận rất tầm thường nhưng đã đem lại cho người viết khá nhiều chuyện, vui có, buồn có, ngộ nghĩnh cũng có nữa. Trước hết xin nói về chuyện ngộ nghĩnh. Đó là một áng văn tuyệt tác, bất hủ, ngưòi viết chưa từng bao giờ gặp.

Chúng ta lớn nhỏ ai cũng đã từng cắp sách đến trường. Trường phổ thông nào cũng có các môn học khác nhau. Mỗi môn một ông thầy. Môn toán có thầy dậy toán, môn văn có thầy dậy văn v.v... Ở trường, học trò viết một bài luận văn nạp cho ông thầy. Chỉ duy có một mình ông thầy đọc rồi phê điểm. Do đó, giá trị của một bài văn trong lớp học, căn cứ trên số điểm ông thầy phê là công bằng, bởi vì chỉ có một người đánh giá bài văn là ông thầy, theo những tiêu chuẩn của trường quy.

Người viết văn, viết báo cũng vậy thôi, họ cũng ví như một em học trò. Ngôi trường họ học tập lớn hơn một trường phổ thông nhiều, gọi là trường đời. Bài viết của họ, nếu chỉ đăng trên một tờ báo chợ vài ba trăm số, thì ảnh hưởng là giới hạn. Nhưng nếu nó được đăng trên tờ “Báo Trời” (internet) thì khắp thế giới ai cũng có thể đọc được. Cái khác biệt duy nhất của cái trường đời này là ở đây có rất nhiều thầy. Một độc giả là một ông thầy. Mỗi ông thầy môn văn của cái trường đời này phê điểm bài vở cho học trò thường hay dựa trên chủ kiến, khuynh hướng, và sở thích riêng của mình, không căn cứ vào một mực thước chung nhất định nào cả.

Bài Thánh Nữ … vì chẳng ra làm sao cả, nên được các ông bà thầy phê điểm F (fail) nhiều lắm, kể ra không hết. Họ toàn là những chiến sĩ chống cộng cùng mình cả. Đặc biệt có một lời phê ngoại hạng như thế này: “Thật đáng nguyền rủa vì giờ này còn có những thằng mất dậy như Trịnh Du, tiếp tay phổ biến bài vở chửi rủa những người đấu tranh trong nước của hai thằng chó đẻ Hà Tiến Nhất và Hà Văn Sơn … Cộng đồng tỵ nạn sẽ đào thải bọn súc vật chúng bay. Tổ cha chúng bay, một bọn chó đẻ”. Phải thừa nhận rằng, đây là một câu văn tuyệt tác. Phải là đỉnh cao trí tuệ, cỡ viện sĩ hàn lâm văn học quốc gia mới sáng tác ra được áng văn như thế. Kẻ hèn này đã mất công lục lọi trong các kho tàng văn chương của nước nhà, mà không tìm ra được một tác giả nào viết được câu đó. Cuối cùng thì mới nghiệm ra rằng, các quốc gia Âu Mỹ ngày nay vẫn còn ở vào một thời kỳ văn minh bậc thấp so với nhiều khu vực khác trên thế giới. Âu Mỹ đã qua thời kỳ đồ đá, đồ đồng, và mới bước vào thời kỳ đồ điện. Trong khi đó, nước Tầu, Cu Ba, Việt Nam v.v. đã có những bước nhẩy vọt, tiến lên thời đại “Đồ Đểu” từ lâu rồi. Mỹ và Âu Châu bước vào thời kỳ Đồ Đểu để bắt kịp VN chắc còn phải lâu lắm. Áng văn trác tuyệt trên đây nhất định chỉ có thể xuất hiện vào thời kỳ Đồ Đểu tại nước cộng hòa xã hội chữ nghĩa VN, chắc chắn nó đã vượt qua chúng ta, những người đang sống tại các nước Âu Mỹ, cả một thời đại (era), nghĩa là trước hàng ngàn, hàng vạn năm. Như vậy có thể nói, chúng ta đã quá lạc hậu rồi!

Sợ mất thì giờ của bạn đọc, những dòng tản mạn này chỉ lướt qua phần bình văn, dừng lại ở một điểm tiêu biểu nhất thôi, không dám dài dòng. Phần tản mạn chính yếu là việc người viết xin được thưa chuyện với nhà văn, nhà báo, trung tá Nguyễn Đạt Thịnh, và cũng nhân thể, ghé qua đáp lễ cụ nhà giáo Nguyễn Phước Đáng một chút cho phải phép, vì chỗ cụ giáo với chúng tôi còn có một chút giao tình.

Sau khi thiên hạ đã chê, khen Thánh Nữ ….. chán chê rồi, thì cụ nhà giáo Nguyễn Phước Đáng có đưa lên Net một bài tổng kết. Nhà giáo có khác, cụ rất là mô phạm và đắc nhân tâm. Cụ nhà giáo hạ bút viết thế này: “Tôi tổng kết, thấy được 2 điều về Anh Duyên Lãng Hà Tiến Nhất, mà tôi rất phục tài viết văn của Anh (Tôi phục tài viết văn của Anh, còn cái tâm của Anh thì tôi cứ phân vân xét nét):

1. Hễ có một người nổi danh làm bất lợi cho CSVN thì Anh Duyên Lãng lên tiếng hạ uy tín người đó, như Nguyễn Chí Thiện, Tô Hải, Lê Thị Công Nhân.

2. Bây giờ, những người cùng "chiến tuyến" với Anh Duyên Lãng Hà Tiến Nhất (bênh vực Anh Duyên Lãng trong chuyện Ls LTCN) là Aladin Nguyễn, Kim Âu Hà Văn Sơn, Hồ Công Tâm. Tôi rất đau lòng thấy Anh Duyên Lãng Hà Tiến Nhất bị liệt kê chung danh sách với những người nầy (mà ông Tôn Thất Sơn cho chết danh là những NGƯỜI THIẾU TỬ TẾ).

Trước hết chúng tôi xin thành thật cám ơn cụ giáo đã dành cho chúng tôi một cảm tình đặc biệt trong lối viết. Mỗi lời của cụ đều cố ý đắn đo. Văn phong của cụ nhẹ nhàng và trang nhã. Chúng tôi xin vắn tắt về 2 điểm tổng kết của cụ như sau:

Điểm 1. Cụ phân vân xét nét cái tâm của kẻ hèn này thế nào là quyền của cụ. Cái tâm của kẻ hèn này ở trong bụng, rất tiếc, không thể moi nó ra ngoài cho cụ thấy được. Chúng tôi chỉ xin thưa với cụ thế này là, tất cả các vấn đề chúng tôi đề cập tới, dù là vấn đề liên quan đến tôn giáo, các nhân vật được nói đến, chúng tôi đều đã suy nghĩ trước khi viết, và khi viết, chúng tôi đứng trên quan điểm và lập trường quốc gia dân tộc, đặt sự kiện và con người trước quyền lợi của đất nước mà nhận xét hoặc phê bình. Chúng tôi không bao giờ đánh phá ai, mà chỉ đem con người cùng với hành động và lời nói của họ ra để phân tích, nhận định, hoặc phê phán trên bình diện quyền lợi dân tộc, và chỉ viết với tinh thần “quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách”. Hay, dở, đúng, sai v.v. đều dựa trên những dữ kiện thực, không suy đoán, mà luận giải. Cụ thấy đấy, có bao giờ chúng tôi nói không bằng chứng cùng với luận chứng của chúng tôi đâu? Cụ cho rằng tôi luôn luôn tìm hạ uy tín của những người nổi danh làm bất lợi cho CSVN là võ đoán mất rồi. Nếu chúng tôi viết thiếu khách quan và vô bằng chứng, xin cụ cứ tự nhiên phản biện một cách vô tư và thẳng thắn. Chúng tôi tôn trọng mọi ý kiến phản biện nhưng phải tôn trọng sự thật.

Điểm 2. Việc cụ đau lòng thấy tôi bị liệt kê trong nhóm người thiếu tử tế thì xin thưa với cụ thế này. Một lần nữa, tôi rất cảm kích trước cảm tình cụ dành cho tôi. Nhưng việc tôi đứng ở đâu, đứng với ai, chuyện đó không quan trọng. Cụ có lòng thương lo cho, nhưng xin cụ an tâm. Hôm qua Chúa Nhật, sáng đi lễ nhà thờ, nghe ông cha đọc Thánh Kinh, thấy Chúa bị người Do Thái liệt vào thành phần gian ác trong xã hội. Tôi là một tín đồ của Chúa, thấy Chúa mà còn bị coi là tên gian ác, kẻ tín đồ này được BS Tôn Thất Sơn kể vào hạng người thiếu tử tế nào có nhằm nhò gì. Vả lại, như cụ thấy ở trên, người ta còn gọi tôi là thằng chó đẻ thì cái tiếng “người thiếu tử tế” nào có đáng gì. Căn cứ trên bậc thang giá trị xã hội, người thiếu tử tế còn đứng trên thằng chó đẻ xa lắc xa lơ, cụ giáo thấy không. Như vậy nếu may mắn được bước lên ngồi chung chiếu với các vị Aladin, Kim Âu, Hồ Công Tâm, kẻ hèn này không đáng kể là còn may mắn lắm sao?

Bây giờ xin tản mạn về chuyện chúng tôi được nhà văn, trung tá Nguyễn Đạt Thịnh (NĐT) tặng nón cối được rồi. Có nhiều vị trên Net đã đưa ra nhận định về bài viết của ông NĐT, cho nên ở đây chúng tôi cũng chẳng dài dòng làm chi, bằng thừa thôi. Về bài viết của tôi: Thánh Nữ, Đứa Con Của Thằng Cuội, ông NĐT đã chỉ phê bình phần hình thức với những lời lẽ phỉ báng và mạ ly, mà không đả dộng gì đến phần nội dung. Đó là một thiếu sót rất cơ bản của một bài bình luận hay phản luận. Ông NĐT là một nhà văn, nhà báo có tầm cỡ, một vị trung tá của QLVNCH không thể không biết điều đó. Tuy nhiên, chúng tôi không kể nó là chuyện đáng đem ra bàn. Chuyện đáng bàn ở đây là cái “order đặt hàng” mà ông NĐT cho rằng chúng tôi, Duyên Lãng Hà Tiến Nhất, đã nhận được. Ông NĐT viết: “Hay ông (ông đây là tôi, Duyên Lãng Hà Tiến Nhất) có nhu cầu mạ lỵ những người chống Việt Cộng để thỏa mãn một cái order đặt hàng? Tôi có mạ lỵ ai đâu. Tôi nói có chứng, luận có cứ đàng hoàng mà. Ông NĐT cứ đọc kỹ mà xem.

Nói thế nào thì nói, câu viết của ông NĐT chỉ có một lối giải thích duy nhất, đó là Duyên Lãng Hà Tiến Nhất là một kẻ bán chữ kiếm ăn (viết theo đơn đặt hàng). Ai đặt hàng ông NĐT không nói ra, nhưng còn ai vào đây được nữa, ngoài bọn VGCS? Tôi không nói sai chứ? Trong bài viết của mình, ông NĐT đứng từ trên cao ngó xuống, quyền uy, rút gọn tên tôi lại còn là: Lãng. Một chữ thôi, thế cũng tiện. Thú thực, nếu ông NĐT không hành sử như thế, có lẽ tôi đã quên béng ông là Trung Tá Trưởng Phòng Báo Chí, Cục Tâm Lý Chiến mất rồi. Còn chữ “đểu cáng” ông tặng cho tôi nữa, xin ông lấy lại xài thoải mái đi, hay cho con cháu xài cũng được. Lãng đểu cáng, hay lắm đấy, nhưng chúng tôi từ tấm bé chưa xài những từ ngữ cao quý như thế bao giờ. Vậy từ đây trong bài viết, chúng tôi xin được tự xưng là “Lãng” vói ông NĐT như ông đã ưu ái gọi tôi.

Trung tá NĐT không biết tên Lãng này, chứ nó biết ông hơi kỹ đấy. Ngày xửa ngày xưa, mỗi lần bước vào Phòng Báo Chí, Cục Tâm Lý Chiến để thăm thằng bạn, thằng Lãng đứng nghiêm “phắc” chào ông trung tá trưởng phòng NĐT, được ông ném lại cho cái nhìn nửa con mắt thôi thì đã mừng lắm rồi. Cũng xui cho Lãng tôi, giá như ông đại tá Nguyễn Huy Hùng, nhà trung gian uy tín, không forward bài Thánh Nữ … rác rến cho ông NĐT, thì nó đâu có được cái diễm phúc đội nón cối. Đ/T Hùng không nhớ, chứ Lãng tôi đã có lần tại cục Tâm Lý Chiến, được hân hạnh đứng hầu chuyện ông cùng với ông Đ/T Đỗ Sinh Tứ, dân biểu Quốc Hội, trong văn phòng của Đ/T Tứ rồi đấy. Vì cái order đặt hàng mà bề dưới bắt buộc phải chạm mặt với bề trên, chứ không thì dù thế nào với các bề trên, thằng Lãng cũng xin kính nhi viễn chi cho phải đạo.

Nói một câu thật, ngày xưa có một lần, một lão nhà báo Mỹ gởi order đặt mua hàng của thằng Lãng này nhưng nó không bán. Tuy thứ hàng này chỉ là mớ tép vụn chẳng đáng gì, nhưng thằng Lãng kênh kệu bảo rằng: đánh đĩ chín phương cũng còn phải chừa một phương để lấy chồng. Đói thì đi ăn mày mà sống. Chuyện order đặt những thứ hàng lớn, quan trọng như nhà văn NĐT nói đây thì quả thật thằng Lãng này không có, và không có khả năng làm ra để bán. Nói thế có nghĩa là, Lãng tôi hoàn toàn không có tài năng và trình độ bán chữ nghĩa để kiếm sống như ông nhà văn NĐT tưởng tượng đâu. Không tin, trung tá NĐT có thể hỏi nhân viên của ông thì biết. Họ ở ngay Mỹ này thôi. Nếu cần, Lãng tôi sẵn sàng cung cấp số phone và địa chỉ cho Tr/T Thịnh để ông kiểm chứng. Hơn nữa, ông NĐT còn có thể kiểm chứng lời của thằng Lãng này với các vị đồng nghiệp, và đồng cấp bậc với ông trong ngành thông tin báo chí quân đội của chúng ta ở Saigon nữa. Các vị này đều đã từng giữ chức vụ Phát Ngôn Viên Quân Sự, làm việc tại Tổng Cục CTCT. Thằng Lãng là nhân viên thừa hành của quý vị này nên bảo đảm họ rành sáu câu về khả năng của nó lắm.

Nói một cách tổng quát là, không phải bất cứ ai viết lách là có người đặt order mua bài đâu. Nhiều nhà văn có tiếng mà còn đói nhăn, rách như tổ đỉa:

    Thời thế vẫn thấy khó
    Nhà văn Annam khổ như chó.


Đấy, chính nhà văn than đấy, ông NĐT không thấy sao. Được VGCS order đặt mua bài thì đã phúc cho những nhà văn Annam tỵ nạn đói rách rồi đấy. Chưa đến lần thằng Lãng vô tài bất tướng này đâu.

Đấy là nói về người bán. Về phần người mua, tức người đặt order, thì cũng thế thôi. Tất cả đều nằm trong quy luật của thị trưòng. Người order đặt hàng chẳng ai dại gì bỏ tiền ra để mang về hàng dổm. Muốn có hàng xịn, người mua thường tìm đến những cửa hàng nổi tiếng, những hãng sản xuất đã cầu chứng hẳn hoi, chứ ai ra chợ trời kiếm đồ không có trade mark bao giờ. Vậy thì điều hợp lý nhất phải là, nếu VGCS cần order đặt hàng một bài viết, chúng phải tìm đến một nhà văn, nhà báo đã thành danh, có uy tín, đi kiếm thằng Lãng vô danh tiểu tốt này để ăn cái giải gì, thưa nhà văn NĐT? Thằng Lãng ngu dốt này suy nghĩ như thế có đúng không, thưa ông?

Chuyện tản mạn sau cùng là vấn đề những lời tuyên bố của Ls Lê Thị Công Nhân và của Lm Nguyễn Văn Lý. Chẳng phải là kẻ hèn này muốn bới bèo tìm bọ, nhưng là những việc có thật trên giấy trắng mực đen, mà suy nghĩ cạn cùng, kẻ hèn này vẫn không tìm ra được lời giải đáp. Trong audio hội luận giữa cô Luật sư, Dân Biểu Cao Quang Ánh và nhà báo Đương Phục ngày 10-3-2010, cô Lê Thị Công Nhân phát biểu: “Yếu tố thứ hai là những điều mà tôi mong muốn được gởi đến cụ thể như anh Dơ-dép Cao là Quốc hội Hoa Kỳ và Quốc Hội (Việt gian Cộng Sản ) Việt Nam. Gần đây là Quốc Hội Việt Nam gần như là Quốc Hội Hoa Kỳ, một phần bản chất cũng cần phải thay đổi quốc hội dân chủ, hoàn toàn của nhân dân và vì nhân dân thì mối quan hệ giũa hai nhà nước hai quốc hội bằng nhau là ngang hàng các nghị sĩ. Tôi mong muốn rằng sẽ có nhiều hơn những “cuộc giao liên”, những cuộc làm việc giữa hai quốc hội cho dù quốc hội Việt Nam có thấp kém, có tệ đến đâu đi chăng nữa .

Bây giờ cái việc mình thấy người ta không tốt mà mình cứ để mặc kệ người ta thì bao giờ người ta mới thay đổi đây? Đấy! Anh có nghĩ là tôi mong Quốc hội Hoa Kỳ sẽ à..à.. Quốc Hội Hoa Kỳ Việt Nam như vậy rồi, tôi phải nhấn mạnh thêm là vì cái .. phải mạnh dạn hơn nữa, khoan hòa hơn nữa để có cái “mối giao liên” tìm hiểu Quốc Hội Việt Nam mà từ đó Quốc hội Việt Nam có thể đại biểu Quốc Hội Việt Nam theo chân Quốc Hội Hoa Kỳ mà người ta sẽ biết , mà người ta sẽ có thủ tục nhất định.

Nói một (1) lần không được, nói hai (2) lần không được. Khi mà nói lần thứ 100 thì chắc chắn là bắt buộc sẽ có ảnh hưởng rất là tích cực. Không nên làm cắt đứt quan hệ với Việt Nam , không nên tuyệt giao mà chúng ta phải nghĩ là chúng ta cần đến với nhau. Đấy! cho dù có thế nào chăng nữa. Bởi vì những gì phân biệt thì phải cần đến nhau. Tôi nghĩ rằng cái biện pháp cuối cùng có lẽ không còn gì để mà nói nữa. Cái tốt đẹp là cái bản lĩnh của chúng ta chính là cái mà chúng ta đừng dùng đến biện pháp cuối cùng. Tôi cũng chưa hiểu lắm vì tương đối mỗi ngày một khó mà bốn năm nay mối quan hệ giữa hai quốc hội đấy như thế nào.

Tôi chỉ mong rằng đẩy mạnh bao nhiêu, đẩy mạnh hợp tác làm việc chắc rằng thì tôi tin chắc rằng Quốc hội Việt Nam có nhiều điều tốt đẹp với Quốc Hội Hoa Kỳ. Nhưng những cuộc “giao lưu” ngày càng nhiều, ngày càng rộng rãi .Phương pháp đó .. Quốc hội Việt Nam sẽ nhận được ảnh hường tốt hơn. Trước hết là đại biểu Quốc Hội .. họ tham gia gặp gở làm việc nghị sĩ Hoa Kỳ là những người được họ cho là rất là đáng tin cậy … khó có sự thay đổi . Tôi tin chắc là Cộng Sản không thể thay đổi được. Tôi nói là như vậy đó.”

Sau đó, Lm Nguyễn Văn Lý lại nói khác với bà Phó Đại Sứ Mỹ như sau: “Quý vị cố gắng giúp chúng tôi tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội cộng sản năm 2011 cho thật hiệu quả. Đây là một hình thức dân chủ giả hiệu và áp đặt, hoàn toàn không giống như các cuộc bầu cử Quốc hội ở những nước dân chủ tự do. Giúp như thế là quý vị giúp tôi chữa lành khối u sau ót tôi đây này ! Phần Khối 8406 của chúng tôi thì cũng sẽ lên kế hoạch tẩy chay nó cách quyết liệt.” (trích bản tin của phóng viên FNA tức Lm Phan Văn Lợi gởi ra từ quốc nội ngày 24-3-2010)

Rõ ràng là trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Tóm tắt là cô Luật sư thì kêu gọi Mỹ giao lưu mật thiết với quốc hội CSVN, không nên tuyệt giao với nó, còn Lm Lý lại nhờ Mỹ giúp tẩy chay cái quốc hội này. Nếu cô Lê Thị Công Nhân và Lm Nguyễn Văn Lý thuộc hai tổ chức khác nhau thì chúng ta không có gì để nói. Nhưng đàng này cả hai đều ở trong cùng một tổ chức, và nắm những địa vị quan trọng của tổ chức, nên mới là chuyện nhức đầu. Thông thường thì ngay lập tức sau khi xẩy ra chuyện tréo cẳng ngỗng như trên, Khối 8406 và đảng Thăng Tiến phải đưa ra những lời cải chính, hơặc giải thích sao đó cho phù hợp với lập trường và đường lối của tổ chức để tránh dư luận xuyên tạc. Nhưng cho đến nay, cả Khối 8406 lẫn đảng Thăng Tiến đều không nói gì cả. Như vậy thì những người có tâm huyết, đang cần quan tâm đến các vấn đề của đất nước sẽ nghĩ sao. Phải chăng đây là đường lối “Đồng Tiền Hai Mặt” trong sách lược đấu tranh của Khối 8406 và đảng Thăng Tiến? Mặt nào cũng là đồng bạc cả. Muốn mua hàng của VGCS thì giơ mặt A, mặt của cô Ls Lê Thị Công Nhân, mua hàng của người tỵ nạn thì giơ ra mặt B, mặt của Lm Nguyễn Văn Lý. Thế nào cũng vẫn mua được hàng. Ngân hàng nào phát hành tờ giấy bạc “passe-partout” này thật là siêu, ăn trùm tất cả. Không biết giải thích cách này có đúng không?

Bài viết vì là những chuyện tản mạn nên không có kết luận. Xin cáo lỗi cùng quý bạn đọc.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
**********
    Kẻ Ðâm Sau Lưng Chiến Sỹ...
Nguyễn Đạt Thịnh

Như mọi người, mỗi ngày tôi nhận hàng trăm cái e-mail, trong cơn sốt e-mail thời đại; tôi chỉ đọc thư người quen, và đọc vài bài viết được những nhà trung gian uy tín giới thiệu; những mail khác tôi "select all" và "delete". Tôi nghĩ đó là thái độ chung của người Việt hải ngoại đối phó với những xe rác e-mail khổng lồ, nhiều cái mang nội dung vô cùng bẩn thỉu. Tôi từng đọc những chữ chỉ được phát ngôn trên những khuôn miệng giang hồ, anh chị, và tại những khu mạt hạng của xã hội; nhưng, vì thương yêu quyền tự do ngôn luận, tôi chấp nhận những rác rến đó trôi vào thùng thư của tôi. Ðổ rác âu cũng chỉ là cái giá mà tôi trả cho quyền tự do cao quý này, cái giá, nghĩ cho cùng, cũng không lấy gì làm đắt. Một trong những nhà trung gian tôi tín nhiệm là ông Huy Hùng, một vị đại tá boss của tôi những ngày trước 1975; tôi kính trọng đại tá Hùng, không chỉ vì cấp bực, mà còn vì tư cách rất thánh thiện của ông. Suốt nhiều năm làm việc dưới quyền ông, tôi chưa thấy ông có một tiếng xàm xỡ. Nhưng lần này tôi trách ông đã giới thiệu bài "THÁNH NỮ, Ðứa Con của Thằng Cuội", tác giả là ông Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất. Ông Duyên Lãng viết bài này để chỉ trích cô Lê thị Công Nhân và Linh mục Nguyễn Văn Lý.

Trong số những người của hai tổ chức mẹ con này (Khối 8406 và Thăng Tiến) có hai nhân vật nòng cốt là Lm Nguyễn Văn Lý và Ls Lê Thị Công Nhân, bị VGCS cho đi nằm ấp," ông Duyên Lãng viết. "Hai người cùng vào một cái lò đúc của VGCS, và ra lò trong cùng một thời gian, trở thành hai "tác phẩm" khác nhau mỗi người một vẻ. Ông linh mục thành anh "thương binh chống nạng cầy bừa". Còn cô gái, với hào quang "Người Con Của Thượng Ðế", xuất hiện trước đám quần chúng mà đa số thật là vô tư lự. Nhưng cũng đã có người tinh mắt nhìn ra cô gái chỉ là miêu duệ của dòng nhà cuội. Thật bất ngờ, tính chất cuội trong cái hào quang Người Con Của Thượng Ðế của cô gái, không biết vì vô tình hay quá tự tin, lại do chính cô tự phô bầy ra".

Nhận xét về hai chiến sĩ đấu tranh đòi hỏi tự do và nhân quyền cho người Việt Nam, vừa ra khỏi ngục tù Việt Cộng, bằng giọng nói khinh bạc, đểu cáng đến như vậy, thì quả là không còn tĩnh từ nào có thể đi đôi với cái tên Duyên Lãng của ông này. Ông Duyên Lãng công bằng? hay ông Duyên Lãng yêu nước? Hai tĩnh từ "công bằng" và "yêu nước" đều không thích hợp, không đi đôi được với cái tên Duyên Lãng. Ông không công bằng khi vô cớ và thiếu chứng minh, chỉ trích hai nhân vật đáng kính phục hơn là đáng chỉ trích; và ông không yêu nước khi ông thui chột ý chí tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ bằng cách chỉ trích hai chiến sĩ tiên phong trong cuộc đấu tranh này. Ông Duyên Lãng bảo Linh mục Nguyễn Văn Lý và luật sư Công Nhân ra khỏi tù (mà ông gọi là ra ‘"lò") và "trở thành hai "tác phẩm" khác nhau, mỗi người một vẻ"! Thưa ông, họ là tác phẩm của ai? Mặc dù không nói huỵch toẹt ra, nhưng rõ ràng ông ám chỉ là họ ra khỏi "lò đúc" Việt Cộng, và trở thành một sản phẩm của lò đúc này. Tôi nghĩ khác, và qua giọng văn của ông, tôi biết ông không đồng ý với tôi: tôi mãnh liệt tin tưởng hai vị anh hùng và liệt nữ này là tác phẩm của mẹ Việt Nam; vì yêu thương nước Việt Nam, yêu thương người Việt Nam mà họ tay không dấn thân vào cuộc đấu tranh với bạo quyền Việt Cộng, không chỉ hung ác, tàn nhẫn, mà còn vô cùng thâm độc, mưu mô, và nhiều thủ đoạn. Chúng bôi nhọ hai chiến sĩ chúng không giam giữ được nữa. Linh mục Lý bị stroke 3 lần, do đó ông đi đứng khó khăn và phải sử dụng một loại gậy xe có bánh. Ông Duyên Lãng diễu cợt tình trạng bệnh hoạn của Linh mục Lý bằng một câu hát của Phạm Duy: Ông linh mục thành anh "thương binh chống nạng cầy bừa"!. Tôi đánh dấu chấm than sau câu nhận xét của ông Lãng, vì quả thật tôi không biết phải chê trách bằng chữ nào cho đủ. Chưa một người Việt Nam nào nỡ nặng lời chế diễu một anh hành khất đi xe lăn, đến xin tiền người đi đường bị đèn đỏ chặn lại trước mỗi ngã tư; nguyên cớ nào khiến ông Duyên Lãng nỡ nặng lời với một chiến sĩ nhân quyền như vậy. Bôi nhọ cô Công Nhân, ông Duyên Lãng viết, "Thế nhưng rất đáng tiếc, vật đã đổi, sao đã rời, Lê Thị Công Nhân hôm nay không còn phải là cô Lê Thị Công Nhân ngày hôm qua nữa. Cô đã khác, khác với người mà trước đây tôi khâm phục. Lê Thị Công Nhân khác thế nào, và tại sao lại ra khác, thì đó là những vấn đề người viết bàn tới trong bài này". Duyên Lãng không bàn ngay về việc cô Công Nhân "vật đổi, sao dời"; ông còn có nhiệm vụ dèm xiểm thêm nhiều nhân vật khác. Ông viết, "Chẳng hiểu làm sao mà trước đây có một thời kỳ, trong nước, ngoài nước, phong trào, tổ chức, đảng phái chính trị mọc ra như nấm. Người dân quèn cứ ngớ ra, tưởng phen này, nói theo Ls Ðinh Thạch Bích, VC đã được Mỹ đỡ xuống khỏi lưng cọp, và chúng đã cho bầu cử đa đảng rồi. Nhưng, thời gian trôi cứ trôi, mọi chuyện vẫn cứ "vũ như cẩn". Thuở trời đất trăm hoa đua nở đó, có Khối 8406 và đảng Dân Chủ là bề thế hơn cả. Ðảng Dân Chủ gồm toàn họ hàng con cháu nhà Cuội, như cuội Hoàng Minh Chính, cuội Trần Khuê v.v. hợp tác với bọn chính khứa lưu manh tại hải ngoại, như Nguyễn Xuân Ngãi và đám lâu la Việt Tân (VT). " Bọn này cuội quá nên mất tín nhiệm với người dân ngay từ đầu. Trái lại, Khối 8406 và đứa con đẻ của nó là đảng Thăng Tiến VN, được hình thành do một vài nhà tu hành cùng với một số các bạn trẻ giầu lòng yêu nước, nên được quần chúng tin tưởng hơn. Thế nhưng, vỏ quít của người dân dầy thì VGCS lại có móng tay nhọn. Trong Khối 8406 và đảng Thăng Tiến, những thành phần chỉ có năng khiếu chạy cờ thì VGCS cứ để cho nhởn nhơ ở ngoài nhà tù mà chạy cờ. Còn những thành phần cốt cán, khó trị, thì chúng cho đi nằm ấp hết. Ở trong ấp, ai cải tạo được thì chúng cải tạo. Người không cải tạo nổi, thì hoặc bị chúng nhốt không có ngày ra, hoặc có trở về thì chắc chắn phải thành thân tàn ma dại, chỉ còn nước chờ ngày làm bạn với ông Sáu (tấm) là xong. VGCS xứng danh là lưu manh, bịp bợm số một trên thế giới ở chỗ là, sau khi đã triệt hạ thành phần lãnh đạo của Khối 8406, chúng không ra tay dẹp tổ chức đó, mà chúng cài người vào trong, để biến tổ chức thành công cụ phục vụ cho chúng. Nhìn vào thành phần lãnh đạo và các hoạt động của Khối 8406 hiện nay, người ta không còn nghi ngờ gì về chuyện này." Duyên Lãng muốn nói thành phần lãnh đạo của khối 8406 hiện nay là nguòi của Việt Cộng gài vào! Lại một dấu chấm than khác; tại sao Lãng lại ác độc cắm cờ đỏ lên nóc giáo đường? Tại sao anh ta lại muốn quần chúng hoài nghi tính chống Cộng của khối 8406? Chỉ có một cách trả lời: anh muốn làm tổ chức chống Cộng 8406 yếu đi. Cắm ngọn cờ "công cụ phục vụ cho Việt Cộng" lên nóc nhà thờ xong, Lãng trở lại với cô Công Nhân và 3 năm tù của cô. Lãng viết, "Vài ba năm tù, mười năm tù, hay lâu hơn nữa, thời gian ở tù không phải là cái thước đo giá trị của đấu tranh. Giá trị của một cuộc đấu tranh là mục tiêu tranh đấu, và sự kiên định lập trường cho mục tiêu này. Nguyễn Thái Học bị Pháp bắt và ở tù chỉ có 4 tháng (2-1930 đến 6-1930) rồi bị đưa lên đoạn đầu đài. Mặc dù cuộc Tổng Khởi Nghĩa Yên Bái không thành, nhưng ông vẫn là một vị đại Anh Hùng của dân tộc, được toàn dân kính mến. Ls Lê Thị Công Nhân, sau khi ra tù, thường cứ nhắc đi nhắc lại, và hình như có ý khoe khoang cái thời gian 3 năm tù của cô. Ðiều này cũng là tâm lý tự nhiên, và cũng tốt thôi. Nhưng cái thực sự quan trọng trong công cuộc tranh đấu là lập trường của cô thì xem ra đã biến đổi nhiều. Tôi dùng chữ "xem ra" để nói lên sự dè dặt khi lên tiếng về một sự việc quan trọng. Chúng ta hãy nghe lời đanh thép của người tù Lê Thị Công Nhân khi cô bước chân vào nhà tù: "Tôi khẳng định với tất cả lương tâm và trách nhiệm của mình đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam tôi sẽ chiến đấu đến cùng dù chỉ còn một mình tôi đấu tranh"... "Và CSVN đừng có mong chờ bất cứ một điều gì, dù thoả hiệp chứ đừng nói là đầu hàng từ phiá tôi. " Câu nói có thép và lửa này, nội dung không khác gì lời từ biệt đồng bào của anh hùng Nguyễn Thái Học trước khi ông bước lên máy chém: Không thành công cũng thành nhân. Nhưng ngưòi trí thức trẻ Lê Thị Công Nhân sau khi vừa bước chân ra khỏi cổng nhà tù, trong lời nói của cô lửa đã tắt ngúm, và thép đã hoá bùn." Nguyên nhân nào khiến ông Lãnh có thể võ đoán như vậy? Ông viết, "trong một cuộc trả lời phỏng vấn của nhà báo Dương Phục, cô nói: (vì âm thanh không tốt, chúng tôi không ghi được nguyên văn, nhưng đại để là): Quốc-hội Mỹ và Quốc Hội VN cần phải giao lưu và làm việc với nhau. Mong Quốc Hội Mỹ hãy khoan hòa, bao dung, và giúp đỡ Quốc-hội VN, đừng đẩy họ vào con đường cùng. Cho dù 1 lấn, 2 lần, 5 lần hay 100 lần hoặc hơn nữa, Quốc Hội Mỹ cũng vẫn tiếp tục giúp đỡ Quốc-hội VN, như thế thì mới mong thay đổi được." Thật hết chỗ nói: chỉ vì một câu nghe lõm bõm (vì âm thanh không tốt) mà ông Lãng đã buộc cô Công Nhân vào tội "lửa đã tắt ngúm, thép đã hóa bùn."

Tôi thấy không cần trích thêm những đoạn sau bài viết của Duyên Lãng, vì ngần đó lập luận của ông cũng đủ cho thấy dã tâm bôi nhọ hai chiến sĩ dân chủ vừa được trả tự do. Câu hỏi cần đặt ra là tại sao ông Lãng lại làm như vậy; ông ta thù oán gì linh mục Lý, cô Công Nhân, ông Hoàng Minh Chính, ông Trần Khuê, ông Nguyễn Xuân Ngãi? Hay ông có nhu cầu mạ lỵ những người chống Việt Cộng để thỏa mãn một cái order đặt hàng?

Nguyễn Ðạt Thịnh



Monday, March 29, 2010

Đôi Điều Suy Nghĩ Về Quốc Hận Lần Thứ 35 (30-04-1975) - Nguyễn Quốc Đống

Nguyễn Quốc Đống - Tháng 3, 2010

1. Việc tổ chức Lễ Quốc Hận 30 tháng 4 hàng năm vẫn được các cộng đồng người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại hải ngoại coi trọng vì đây là một sự kiện chính trị quan trọng trong công đồng những người Việt nạn nhân của Cộng Sản Việt Nam đã phải bỏ nước ra đi vì không sống nổi trong một thể chế độc tài đảng trị đã tước đi tất cả các quyền tự do cơ bản của người dân, không tôn trọng nhân quyền. Sự kiện này xác nhận căn cước tỵ nạn của chúng ta và đặt ra một lằn ranh quốc-cộng rõ rệt giữa chúng ta, nạn nhân của CSVN và đảng CSVN, kẻ thủ ác đã khiến bao đồng đội của chúng ta ngã gục trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam tự do chống Bắc quân CS xâm lược. CSVN rất sợ các cuộc tập họp quần chúng đông đảo trong ngày này vì đây là dịp tội ác của chúng bị đồng hương tỵ nạn CS một lần nữa bị nêu ra trước dư luận đồng bào tại hải ngoại cũng như trong nước. Chúng cũng sợ hãi các hình thức tưởng niệm “quốc hận” trong các cộng đồng người Việt tại hải ngoại hàng năm vào ngày 30 tháng 4 vì các hoạt động như vậy chứng tỏ người Việt tại hải ngoại không quên tội ác của chúng, cương quyết không hòa hợp, hòa giải với kẻ thủ ác, tội đồ của dân tộc. Các buổi lễ kỷ niệm quốc hận nếu được tổ chức đúng yêu cầu sẽ làm mất “hào quang chiến thắng giải phóng dân tộc, đem lại tự do cho toàn dân” mà CSVN thường rêu rao bao năm để đánh lừa người dân Việt và cộng đồng quốc tế.

2. Ban Tổ Chức Lễ Kỷ Niệm Quốc Hận 30 tháng 4 tại bất cứ một địa phương nào không thể quên những mục tiêu then chốt sau đây:

Thứ nhất: Vạch trần tội ác của Cộng Sản đối với đất nước và người dân VN:
    - Tội tiến hành chiến tranh đẫm máu xâm lược miền Nam tự do, dân chủ khiến nhiều triệu đồng bào miền Nam quân và dân đã mất mạng

    - Tội thiết lập một chế độ trả thù khắc nghiệt khiến cả trăm ngàn quân, cán, chính VNCH phải bị giam tù và đầy đọa nhiều năm tại các trại tù tập trung “cải tạo” của CS.

    - Tội thi hành chính sách khắc nghiệt với dân chúng miền Nam khiến họ phải liều chết ra đi và khoảng 600,000 người phải bị mất mạng trong rừng sâu hay ngoài biển cả khi vượt biên, vượt biển trong các thập niên 70 và 80 của thế kỷ 20.

    - Tội thiết lập một chế độ độc tài, đảng trị trên toàn nước VN sau 30 tháng 4 khiến người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền tự do, dân chủ và không còn được tham gia vào việc quyết định vận mạng chính trị cho chính mình và đất nước.
Kết quả là ngày nay các đảng viên CS, giới có quyền duy nhất tại VN đang tự do dâng đất và biển của quê hương cho Tàu Cộng. Các tộc ác của CS không giảm bớt mà càng ngày càng gia tăng khiến đất nước Việt nam đang trên bờ vực thẳm bị diệt vong. Người dân có ý thức được hiểm họa này nhưng không có khả năng ngăn chận.

Thứ hai: Tưởng niệm và tri ân các anh hùng tử sĩ vị quốc vong thân trong cuộc chiến tự vệ của miền Nam VN chống Bắc quân CS xâm lược. Chúng ta nên tránh dùng chữ “liệt sĩ” vì đây là từ CSVN thường dùng để vinh danh các cán bộ và bộ đội của chúng đã chết trong cuộc chiến do chúng tiến hành tại VN. Chúng ta cũng tưởng niệm tất cả các quân cán chính VNCH bị chết vì bị CS giam tù hành quyết trong các trại tù CS, các đồng bào bị chết trên đường vượt biên và vượt biển. Họ chính là những người chết vì lý tưởng tự do, dân chủ, làm sáng danh chính nghĩa của chúng ta nên cần được nhớ ơn và tưởng niệm.

Thứ ba: Tạo cơ hội và điều kiện cho giới trẻ học hỏi các tấm gương sáng của các thế hệ đi trước để tiếp tục công việc của chúng ta. Họ cần ý thức được căn cước tỵ nạn của cha anh, của chính họ, của cộng đồng để nuôi dưỡng một ý thức hệ trọng. Đó là ý thức “cần phải tiếp nối truyền thống tranh đấu cho tự do, dân chủ của các thế hệ đi trước”.

Có như vậy họ mới xác định được chỗ đứng, vị trí và trách nhiệm của họ trong cộng đồng, đồng thời sẵn sàng đảm nhiệm vai trò lịch sử của mình. Công việc tranh đấu cho tự do, dân chủ của chúng ta không thể nào thành công nếu chúng ta không có kế hoạch giáo dục giới trẻ để họ đi đúng hướng và tiếp nối công việc còn bỏ dở của chúng ta. Giới trẻ không được hướng dẫn đúng đắn sẽ dễ dàng bị kẻ thù CSVN lung lạc, lợi dụng cho mục tiêu đen tối của chúng. Chúng ta không thể để mất giới trẻ trong cộng đồng tỵ nạn vào tay đối phương trong “cuộc chiến một mất một còn” hiện nay đang diễn ra giữa chúng ta và CS, giữa thiện và ác, giữa dân chủ và độc tài.

3. Đã từ lâu CSVN luôn tìm cách lợi dụng để làm biến thái ý nghĩa của ngày Quốc Hận 30-4. Chúng rất muốn mọi người quên đi khía cạnh bi thương của ngày 30 tháng 4 để tội ác của chúng được từ từ xóa nhòa. Nếu chúng ta quên mất mục đích này của kẻ thù là chúng ta rơi vào bẫy của chúng . Vô tình chúng ta sẽ khiến công sức của chính mình giúp cho CS đạt mục tiêu của chúng. Chính vì thế tại nhiều websites trên diễn đàn internet chúng ta vẫn thấy có những đề nghị “không nên khóc than, sầu hận trong ngày 30-4, CSVN ăn mừng chiến thắng, tại sao ta lại kém chúng, ta cũng có cái đáng để chúng ta ăn mừng chứ, ta có tự do tại sao lại không thể ăn mừng tự do của chúng ta?!...". Thế rồi có người lại đề nghị ta nên tổ chức các mục vui cho giới trẻ vào ngày này. Đây quả thực là một cái bẫy rất nguy hiểm do kẻ thù của chúng ta giăng ra. CSVN và tay sai không ngừng lợi dụng các sơ hở của chúng ta để đạt mục đích của chúng. Chính vì thế các vị lãnh đạo trong cộng đồng những người Việt tỵ nạn Cộng Sản cần thận trọng đừng để CS lợi dụng cho mục tiêu riêng của chúng. Nếu không thận trọng, người tỵ nạn CS chúng ta sẽ mắc bẫy kẻ thù và vô tình sẽ làm lợi cho sự tuyên truyền xảo trá của chúng.

Hẳn chúng ta vẫn còn nhớ câu chuyện xảy ra nhân Ngày Quốc Hận 30-4 năm 2005. Để kỷ niệm Ngày Quốc Hận lần thứ 30 (30-4 -2005), 4 tổ chức có tên dưới đây đã đưa ra “Kế hoạch tổ chức Ngày Tự Do cho Việt Nam” vào ngày 30 tháng 4 năm 2005 tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn:
    1. Ủy Ban Vận Động Chính Trị Người Mỹ gốc Việt

    2. Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ

    3. Mạng Lưới Tuổi Trẻ Việt Nam Lên Đường

    4. Tổng Hội Sinh Viên Việt nam tại Bắc Mỹ
Đồng hương người Việt tỵ nạn CS tại nhiều nơi rất ngạc nhiên về việc 4 tổ chức nói trên chọn ngày 30 tháng 4 làm “Ngày Tự Do cho Việt Nam” vì các lý do sau đây:

- Ngày 30 tháng 4 hàng năm là Ngày Quốc Hận đối với người dân miền Nam Việt Nam và nhất là đối với các đồng bào đã phải rời bỏ quê hương Việt Nam ra đi tỵ nạn CS sau khi miền Nam tự do rơi vào tay Bắc quân CS xâm lược. Các cộng đồng người Việt tỵ nạn CS vẫn gọi tháng 4 hàng năm là tháng 4 Đen để đánh dấu ngày lịch sử Việt Nam bước sang 1 trang sử vô cùng đen tối, ngày bắt đầu 1 thảm họa cho toàn dân tộc Việt.

- Việc chọn ngày 30 tháng 4 làm “Ngày Tự Do cho Việt Nam” (hay là Ngày Tranh Đấu cho Tự Do của Việt Nam) cũng dễ gây ra sự hiểu lầm tai hại. Trong nước, Cộng Sản Việt Nam coi đây là một ngày lễ lớn. Chúng vẫn cho tổ chức các lễ hội linh đình để ăn mừng “ngày chiến thắng” của chúng, ngày chúng “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của Mỹ, Ngụy, đem lại tự do cho toàn dân Việt Nam”. Nếu chúng ta cũng chọn ngày này để ăn mừng một điều gì đó thì chúng ta “cũng như Việt Cộng tổ chức lễ hội ăn mừng vào ngày 30-4” ư?. Vậy chúng ta ăn mừng cái gì vào ngày “nước mất, nhà tan này”? Chẳng lẽ chúng ta ăn mừng “ngày các vị tướng miền Nam tuẫn tiết, ngày các chiến sĩ anh hùng của quân lực VNCH vị quốc vong thân, ngày khiến cho bao chiến sĩ Quân Lực VNCH và viên chức chính quyền miền Nam bị dồn vào các trại tù cải tạo, ngày khởi đầu của trang sử vượt biên, vượt biển đầy máu và nước mắt…”? Hay chúng ta ăn mừng “ngày chúng ta thoát khỏi đất nước bất hạnh của chúng ta và có được cơ hội hưởng đời sống tự do tại các nước tạm dung trong thế giới tự do”? Xin chúng ta đừng quên chỉ có một thiểu số rất nhỏ vì may mắn mới thoát được gông cùm CS và đang sống đời tự do tại các quốc gia dân chủ ở châu Mỹ, châu Âu, châu Úc … (khoảng 3 triệu người). Số còn lại, 85 triệu người vẫn còn đang sống khốn khổ vì mất tự do tại quê nhà.

Vả lại nếu chúng ta chọn ngày 30 tháng 4 để ăn mừng “tự do” thì chúng ta “hận” ai trong ngày này, không lẽ “hận Việt Cộng đã cho ta có dịp hưởng thứ tự do “số một” tại những cường quốc như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp, Tân Tây Lan …? Việc tổ chức “quốc hận” cho đồng hương như vậy sẽ chẳng còn ý nghĩa nào nữa.

Ý thức được sự tai hại của kế hoạch này, nhiều tổ chức cộng đồng khắp nơi trên thế giới tự do đã phản kháng quyết liệt (tổ chức Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Minnesota, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản tại tiểu bang Georgia, các thành viên của Khối Lập Trường Chung do cố Đại Tá Hoàng Đạo Thế Kiệt lãnh đạo …).

Kết quả là kế hoạch tổ chức “Ngày Tự Do cho Việt Nam “ của các tổ chức nói trên tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã không thể thi hành được như đã định. Sau cùng Ban Tổ Chức đã phải đổi lại “Ngày Tự Do cho Việt Nam” thành “Ngày Tranh Đấu cho tự do của Việt Nam”.

Họ cũng phải hủy bỏ các chương trình vinh danh các tổ chức cộng đồng vận động thành công các nghị quyết công nhận cờ VNCH, các chương trình văn nghệ có mặt các ca sĩ nổi tiếng để “ăn mừng tự do”?! Những năm sau đó người Việt tỵ nạn CS không còn thấy các hình thức “ăn mừng một cái gì đó vào ngày quốc hận 30 tháng 4” nữa.

Sự sáng suốt của các đồng hương tỵ nạn Cộng Sản giúp chúng ta không sa vào bẫy của CSVN muốn biến thái ý nghĩa “Ngày Quốc Hận”,(VC) muốn chúng ta thôi “căm hận” vào ngày này mà nên thay đổi trạng thái tâm lý, nên vui và nên quên buồn.

CSVN chưa thành công trong mục tiêu này của chúng vì trong thời gian qua, nhìn vào các lễ tưởng niệm Quốc Hận tại các cộng đồng có đông người Việt nạn nhân CS cư ngụ, đa số chúng ta thấy Ban Tổ Chức dành nhiều thời gian vào việc
    - Tố cáo tội ác của CS,

    - Vinh danh các anh hùng vị quốc vong thân,

    - Vinh danh các đồng bào vì lý tưởng tự do, dân chủ mà phải bỏ mình trên khắp các nẻo đường đất nước, trong rừng sâu hay trên biển cả mênh mông.

Đồng hương đến dự Quốc Hận không than khóc cho các cái chết của các anh hùng tử sĩ. Chết vì nước là cái chết anh hùng, vinh dự nhất. Họ cần chúng ta noi gương họ để tiếp tục hy sinh tranh đấu cho nền tự do đích thực của dân tộc chứ không cần chúng ta khóc thương cái chết của họ. Chúng ta nên suy nghĩ để có thái độ thích đáng trong vai trò những người kế thừa sự nghiệp của họ.

Việc nhắc lại một sự kiện đã xảy ra vào ngày quốc hận cách đây 5 năm không ngoài mục đích để chúng ta cảnh giác đối với âm mưu thâm độc của kẻ thù CS. Chúng vẫn không từ bỏ mục đích tối hậu của chúng là “làm chúng ta quên mối hận mất nước vào ngày 30-4”, khiến chúng ta từ từ vui cái vui của chúng, và với thời gian mọi chuyện sẽ bị xóa nhòa. Chúng (tay sai VC) kêu gọi người Việt khắp nơi:

“hãy quên quá khứ, bỏ qua mọi phân biệt chính trị, mọi khác biệt giữa chế độ cũ và chế độ mới, nối vòng tay lớn để chấp nhận cả những kẻ thủ ác, để thực hiện việc “hòa hợp, hòa giải dân tộc”, để bắt tay vào công việc lớn là “xây dựng quê hương”

Hiện nay, tại một số các websites trên diễn đàn internet, chúng ta vẫn còn thấy những đề nghị “không nên khóc than, sầu hận trong ngày 30-4, CSVN ăn mừng chiến thắng, tại sao ta lại kém chúng, ta cũng có cái đáng để chúng ta ăn mừng chứ, ta có tự do, tại sao lại không thể ăn mừng tự do của chúng ta…?!”

Là nạn nhân của CS đã từng bị chúng xua đuổi ra khỏi quê hương và tìm cách bức hại trăm chiều, chúng ta không thể quên các sự kiện lịch sử để rồi bị mắc bẫy của chúng. Chúng ta hãy tổ chức Ngày Quốc Hận 30-4 một cách đúng nghĩa để tội ác của chúng phải bị phơi bày trước công luận toàn thế giới, để không còn ai bị chúng đánh lừa, để mọi người đều thấy rằng 30 tháng 4 không phải chỉ là Ngày Quốc Hận của quân, dân miền Nam mà phài là Ngày Quốc Hận của toàn dân Việt Nam vì đây là ngày Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức đặt ách đô hộ lên toàn thể dân tộc Việt nam.

Đây là ngày chúng chiếm được toàn nước Việt Nam, giành được quyền tối thượng đối với sinh mạng 85 triệu người Việt Nam, giành được quyền cho thuê hay bán đi giang sơn gấm vóc của dân tộc VN cho ngoại bang hầu thiết lập một chế độ chủ-nô trong thời đại mới, một chế độ độc tài, toàn trị lâu đời để đảng viên CS và gia đình chúng có thể sống xa hoa trên đầu, trên cổ người dân thường, những người luôn phải sống trong lầm than, nghèo đói, không tự do, dân chủ và nhân quyền.

Chỉ khi nào chế độ CSVN bị giải thể và Đảng CSVN bị giải tán, thì nỗi “quốc hận” của chúng ta mới tan được và đó sẽ là ngày chúng ta ăn mừng tự do của toàn dân, vui trọn vẹn cái vui của mọi người dân Việt trong nước cũng như tại hải ngoại.
    "Có trung hiếu nên ðứng trong trời ðất"
    Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Quốc Đống


Sunday, March 28, 2010

NHỮNG NHẬN ĐỊNH THEO DÒNG THỜI SỰ - Nguyễn Phúc Liên


CŨNG CHỈ VÌ CÁI VISA
VỀ THĂM QUÊ HƯƠNG


Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên , Kinh tế

Tôi muốn viết bài này rất ngắn dưới hình thức đưa ra những tỉ dụ cụ thể. Xuyên qua những tỉ dụ ấy người ta thấy ngay rằng cái lý do khiến lập trường chống Cộng của ngay một số người đã từng chống Cộng lâu năm trở thành yếu hơn chỉ vì họ ngại sợ cái VISA về thăm Quê Hương. Nghị Quyết 36 không có gì là thần thánh làm suy yếu ý chí chống Cộng của người Việt tỵ nạn ở Hải ngọai. Cái bí quyết làm suy yếu nằm chính trong bụng những người Việt tỵ nạn vì thương nhớ Quê Hương và muốn về thăm mà cái chìa khóa là cái VISA.
    Xin rút khỏi danh sách gửi báo
Tôi ra tuần báo VietTUDAN. Tôi có những người bạn đã từng quyết liệt chống CSVN từ lâu. Tôi có địa chỉ E-Mail của những người bạn này và tôi cho vào danh sách gửi báo. Tất nhiên lập trường chống Cộng của VietTUDAN là dứt khoát loại bỏ Cơ Chế CSVN hiện hành. Sau một ít số báo gửi đến bạn bè, thấy có những người bạn gọi điện thoại đến nói lòng vòng, thậm chí còn góp ý kiến với tôi rằng bây giờ mình phải xử dụng Hòa Giải Hòa Hợp với CSVN như một chiến thuật giai đoạn. Tôi hiểu lập trường của người bạn đã từng cương quyết chống Cộng với tôi trước đây. Tôi trả lời cho bạn tôi rằng tôi hiểu chiến thuật Hòa Giải Hòa Hợp và tôi nói ngay với bạn tôi rằng thôi nếu ngại sợ lập trường cứng rắn của tôi, thì tôi lấy dùm tên anh ta ra khỏi danh sách gửi báo. Thế là anh mừng húm và hết nhắc đến chiến thuật Hòa Giải Hòa Hợp. Đó chỉ là vì cái VISA mà làm cho bạn chống Cộng của tôi phải nát óc nghĩ ra những mưu kế lòng vòng che đậy để xin tôi bỏ tên ra khỏi danh sách gửi báo.
    Những bạn Linh mục không dám treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Tôi có những người bạn trước đây cùng học ở Chủng viện và nay làm Linh mục quản xứ tại Hải ngọai. Có người nói cho biết rằng trong những sinh họat của Cộng đồng Giáo dân tại xứ, Linh mục ấy đề nghị không treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Linh mục cắt nghĩa cho Giáo dân rằng Tôn Giáo không làm Chính trị. Tôi biết rõ lòng chống Cộng của Linh mục bạn ấy. Tôi gọi điện thọai đến và muốn biện luận với Linh mục về quan điểm Tôn Giáo không làm Chính trị. Linh mục không dám biện luận quan điểm ấy mà chỉ nói: “Liên, cậu hiểu tôi !”. Tôi cười nói: “Tôi hiểu. Có phải Cha sợ không được cái VISA về thăm Việt Nam vì treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Thôi, xin Cha đừng nói lòng vòng Tôn Giáo không làm Chính trị để che đậy !”
    Dân biểu Mỹ gốc Việt có thể phát biểu không quyết liệt về Lập trường chống Cộng
Trong thời gian hiện giờ, khi bàn về Lập trường chống Cộng trong tương lai của một vài ứng cử viên Quốc hội tại Mỹ, tôi thường nhắc tới cái VISA trong tương lai có thể làm ứng cử viên này dè dặt khi phải tuyên bố Lập trường chống Cộng. Ở thời gian tranh cử, có thể ứng cử viên hứa nhất quyết chống Cộng quyết liệt để lấy phiếu của cử tri Mỹ gốc Việt. Nhưng khi đã đắc cử rồi, vị dân biểu sẽ tìm những lý do bên lề để tránh né việc phải tuyên bố quyết liệt Lập trường chống Cộng. Mỗi lần thấy ông tuyên bố chống Cộng “nửa nạc nửa mỡ”, thì hãy hỏi thẳng vào cái tim đen của ông: “Có phải ông dành kẽ hở để mong dễ dàng có cái VISA về thăm Quê Hương phải không.”
    VISA xuất ngọai
Trong những tỉ dụ trên, chúng tôi nói đến cái VISA về thăm Quê Hương. Đối với những người tại Quốc nội, giấy phép xuất ngoại cũng là lý do chính để một số người phải né tránh không dám phát biểu lên sự thật khi chính mình phải mang trách nhiệm nói lên sự thật ấy. Chúng tôi nhớ lại cách đây gần hai năm, có phong trào những vị Lãnh đạo Tôn Giáo xuất ngoại xin tiền. Tại Hoa kỳ, Giáo dân đã dùng “lá bùa” để hù những vị Lãnh đạo Tôn Giáo ấy, đó là mang Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ để xin chụp hình kỷ niệm với những Vị Lãnh đạo Tôn Giáo. Đứng chụp hình chung kỷ niệm với Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ để rồi Giáo dân đưa lên các Diễn Đàn Internet toàn cầu, đó là điều các Vị ngại sợ. Không phải các Vị ấy sợ chính Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ mà các Vị ngại sợ vì những tấm hình ấy làm cho các Vị không được VISA xuất ngoại trong tương lai nữa.

Qua những tỉ dụ trên đây, chúng ta có thể kết luận rằng nếu ai ở nước ngoài muốn bầy tỏ LẬP TRƯỜNG DỨT KHOÁT LỌAI BỎ CSVN, thì phải dứt khóat với chính mình là CHỈ VỀ VIỆT NAM KHI CƠ CHẾ CSVN BIẾN KHỎI LÃNH THỔ VN.

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, Kinh tế

Geneva, 25.03.2010

Saturday, March 27, 2010

"Ý nghĩa của Cuộc Tranh Đấu của Người Việt Hải Ngoại là Chống bọn Việt cộng PHẢN quốc, CƯỚP nước, BÁN nước là chính yếu"



Trí ngủ của đám Quốc hại việt gian csVN

Trên đây là một trong những hình ảnh biểu hiện rõ ràng THỰC CHẤT của cái "quốc hại" mà LS Lê Thị Công Nhân, khi trả lời phỏng vấn của ông Dương Phục, đã khẩn khoản van cầu Quốc Hội Mỹ phải hết lòng giúp đỡ, một lần không được thì hai lần, ... đến 100 lần vẫn chưa được thì cũng phải tiếp tục giúp, đẩy mạnh ..."giao liu" cho đến khi thay đổi cho chúng nó tốt hơn thì thôi !!!

Lũ sâu dân mọt nước, tập đoàn chó má csVN thật đúng là "có phúc" !.

***

Vừa làm vài việc nho nhỏ, vừa mở Diễn Đàn góp tiếng nói trên mạng lưới tòan cầu Paltalk, cbQR vừa nghĩ đến lời chia sẻ của một trong các anh chị thường xuyên ghé thăm Diễn Đàn, rằng: "Tập đoàn chó má csVN quả thật có phúc .." .

Vâng, cbQR cũng chua xót mà nghĩ như vậy và thấy NHỤC cho một dân tộc với hơn 4000 năm lịch sử, đến thế kỷ 21 này lại chịu để cho loài giòi bọ cai trị cả 84 triệu dân. CÓ NHỤC không ?

Thật ra đối với người Nhật, đảng csVN là một bọn giòi bọ, nhưng đối với cbQR, tập đoàn diệt chủng bán nước csVN là loài chó má.

Mãi đến ngày hôm nay, sau khi đã giết hàng 12 triệu dân (tài liệu từ bài viết của nhà văn Đinh Lâm Thanh, cbQR đã từng đọc trong Diễn Đàn), sau khi đã bán nước, bán biển cho ngọai bang, lũ chó má này tiếp tục bán dân, tiếp tục tù đày dân, nô lệ dân và lăng nhục Tổ Tiên để đời đời giữ đúng bản chất loài chó má của chúng.

Đất nước VN đã trở thành một vũng lầy nhơ nhớp, bị thế giới coi thường, khinh bỉ. Thế nhưng vẫn có kẻ lo ngại, đại để: "neu cong san sup do thi ai se co kha nang thay the de lanh dao dat nuoc ?" (câu hỏi của một chatter tham gia sinh họat cùng Diễn Đàn). Mặc dù câu hỏi này thể hiện một sự quan tâm, lo lắng đối với tình hình đất nước trong thời kỳ bọn chó má csVN đã bị Quốc Dân lôi cổ xuống trị tội, cũng đáng ghi nhận. Tuy nhiên cbQR nghĩ sự lo lắng này đã thể một nét tâm lý có thể hiểu như là "sự nghi ngờ, sự thiếu tin tưởng" vào khả năng cũng như đạo đức của "Chính Quyền hậu cộng sản" ?!

Sự "nghi ngờ, thiếu tin tưởng" này có thể được BS Vũ Linh Huy góp ý làm sáng tỏ phần nào qua bài viết tâm tình cùng LM NVL của ông, cbQR ủng hộ sự chia sẻ đó của BS VLH.

Trong sinh họat dân chủ trên diễn đàn, cbQR nghĩ những ý kiến xây dựng đều đáng được tôn trọng. Tuy nhiên, cbQR nghĩ sự "lo lắng" trên là không cần thiết đối với những người đã ý thức được cái chế độ của lũ chó má csVN đã và đang áp đặt trên đầu trên cổ dân tộc VN là không thể chấp nhận, và cho những ai nghĩ rằng csVN là lũ chó má (hay giòi bọ) đều không thuộc giống người để có thể cai trị Người Việt Nam.

Một bè lũ ÁC THÚ tàn bạo thối nát bẩn thỉu đê tiện hèn hạ như tập đoàn chó má csVN thì đâu thể tiếp tục được duy trì ? 84 triệu dân trong nước dư có những người tài đức, dù không được hoàn hảo như LM NVL tưởng tượng vẫn hơn tập đoàn chó má csVN triệu lần. Chắc chắn với chế độ tự do, dân chủ sẽ tốt đẹp hơn cho dân tộc VN hơn là chế độ đã đưa dân tộc VN xuống hàng chó ngựa, đã trở thành nô lệ, đĩ điếm và ăn mày khắp toàn cầu như hiện nay. Còn chưa đủ NHỤC ?

Những người VN Tỵ Nạn cộng sản cần phải xác định lập trường rõ ràng, đừng cố tình nhập nhằng để che những bộ mặt chó ghẻ làm lợi cho csVN.

Tiếp tay nuôi dưỡng lũ chó má csVN để chúng tiếp tục hút xương tủy dân Việt, bán gái Việt, là tiếp tay biến gái Việt thành tôi đòi, thành những con vật phục vụ tình dục cho lũ THÚ -người đê tiện bẩn thỉu trên thế giới mà ở đó, chữ "Nhân Quyền" đã bị những con THÚ-người đầy quyền lực bôi bẩn.

Tiếp tay với bè lũ chó má csVN là tiếp tay bán từng phần đất biển của nước Việt, hủy diệt văn hóa Việt, hủy diệt nội lực của nòi giống Việt là tuổi trẻ VN, rước giặc về thờ lăng nhục Tổ Tiên nòi giống.

Tiếp tay nuôi dưỡng, duy trì tập đoàn chó má csVN dù vô tình hay cố ý là đồng lõa với tội đồ dân tộc, đồng lõa với lũ chó má csVN diệt chủng, phản quốc bán nước.

cbQR xin được trích lại nguyên văn một phần trong sinh họat của Diễn Đàn 1Latdo Tapdoan Vietgian CSVN Phanquoc Bannuoc, như bày tỏ một sự ủng hộ cho Quý Cô Chú Anh Chị trong tất cả Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn cộng sản trên tòan thế giới đã và đang tiếp tục tranh đấu chống lại bè lũ chó má csVN, vẫn còn kiên định lập trường, vẫn một lòng sắt son với Quốc Gia Dân Tộc, dù bất cứ hoàn cảnh nào vẫn không thể và KHÔNG BAO GIỜ có thể trở thành "một sắc dân lưu vong đầu tiên trong những sắc dân lưu vong vì mất nước, lại quay đầu làm tôi tớ cho giặc, vì đã tự nguyện hợp thức hóa TỘI ÁC, hợp thức hóa sự PHI NHÂN, sự PHI NGHĨA của đảng CƯỚP csVN thành có chính nghĩa" trước mắt nhìn của thế giới .

Khi thảo luận về đường hướng đấu tranh của người VN trong và ngoài nước, trong sinh họat ngày 25-03-2010, anh chị "tam diep_1" đã có ý kiến nguyên văn như sau :

"Tam Điệp nghĩ là nhiều người có cái nhìn rất sai về những người tranh đấu trong nước. Mình hỗ trợ trong nước chứ không nên cố ý nghe lời hoặc làm theo những người trong nước .

Linh mục Nguyễn Văn Lý không thể là ngọn đuốc cho người hải ngọai. Cô Lê Thị Công Nhân và những người khác cũng vậy.

Khi dùng chữ "ngọn đuốc" có nghĩa là lãnh đạo, ít nhất cũng là về mặt tư tưởng.
Người hải ngoại có mặt trận khác hẳn người trong nước. Chủ trương và phong cách tranh đấu lại càng khác.".

Anh chị "tam diep_1" còn góp ý thêm rằng:
"Tam Điệp luôn luôn nhìn Linh mục Nguyễn Văn Lý, cô Lê Thị Công Nhân .. như là một thành phần đang tranh đấu như rất nhiều người tranh đấu khác trong nước. Chưa bao giờ Tam Điệp nhìn họ như là người lãnh đạo toàn diện cuộc tranh đấu cả trong và ngoài nước.
Nếu mà nhìn kỹ lại thì LM NVL là người đấu tranh cho Tôn giáo là chính. Chỉ bắt đầu từ 2005, LM NVL mới bước lên tranh đấu cho tự do dân chủ rõ ràng hơn.
Hầu hết người trong nước đấu tranh cho dân chủ tự do. Chỉ một số ít là tranh đấu cho mục tiêu Quốc Gia , Dân Tộc. Còn ở hải ngọai thì hòan cảnh, thế đứng và ý nghĩa của cuộc tranh đấu của hải ngọai là CHỐNG bọn Việt cộng phản quốc, cướp nước là chính yếu. Mình phải xác định, phân biệt rõ ràng sự khác nhau trong và ngoài nước như vậy.
Ý nghĩa và mục tiêu của người hải ngọai cao hơn và quan trọng hơn, vì khi thành công sẽ giải quyết được tất cả và đạt được tất cả các mục tiêu của các cuộc tranh đấu khác nhỏ hơn.

Tóm lại, LM NVL đã nói "Tự do Tôn giáo hay là chết", đã nói lên mục tiêu tranh đấu của Linh Mục. Nhưng người hải ngoại vì bọn vc CƯỚP nước phải tạm ra đi tỵ nạn cộng sản, nên phải nhắm vào mục tiêu là CHỐNG lại bọn vc phản quốc, bán nước, sát dân".


Vâng, chúng ta sẽ tiếp tục con đường chúng ta đã và đang đi . Phải bằng mọi cách phá vỡ sự bưng bít thông tin của bè lũ chó má csVN . Bằng mọi cách , lột trần khuôn mặt dối trá , xảo quyệt của đảng csVN cho đại khối đồng bào trong nước biết, rằng đảng csVN là một bè lũ chó má phản quốc, giết dân đã và đang bán nước cho ngọai bang, rước giặc về thờ, lăng nhục Tổ Tiên, Ông Bà, rõ ràng và cụ thể là lũ chuột tàu đã và đang tự do đi lại trên tòan lãnh thổ VN; tự do hiếp đáp, đánh đập Dân Việt, chuột tàu bắn giết ngư dân ngoài biển, lũ thú vật csVN ngậm miệng vì đã nuốt quá nhiều "ân huệ", đã là những thằng "sĩ đặc", "sĩ đa" của chuột tàu . Đất biển của Tổ Tiên mỗi ngày càng nhiều nơi mang thêm tên tàu cộng , mỗi ngày một ngắn lại, hẹp lại vì bè lũ MẤT DẠY csVN đã cắt hiến cho tàu để bảo vệ quyền lực của chúng, để trở thành những con chó má, cam tâm làm thái thú cho lũ chuột tàu .

Chúng ta tin tưởng dân tộc VN không hèn nhược như những con chó ghẻ hải ngọai, bán cả liêm sỉ cuối cùng của người VN Tỵ Nạn cộng sản, tình nguyện đội bô, rửa mặt, chùi chân cho lũ thú vật csVN để chia quyền chia tước, mưu cầu cơm thu*a` canh cặn mà bè lũ csVN thải ra .

Chúng ta tin tưởng khi tòan thể đồng bào trong nước đã biết rõ mưu đồ dâng hiến Tố Quốc và giống nòi VN cho chuột tàu của tập đòan nghiệt súc chó má diệt chủng phản quốc bán nước csVN, ngày đó là ngày tàn của bè lũ việt gian csVN .

Và chúng ta tin tưởng một cách chắc chắn rằng tập đòan chó má diệt chủng phản quốc bán nước csVN sớm muộn sẽ bị 84 triệu đồng bào trong nước (cbQR lọai bỏ lũ chó má csVN ra vì chúng nó không phải người VN), sẽ giành lại Quyền làm chủ đất nước, giành lại Quyền làm người, mà bè lũ chó má csVN đã CƯỚP ĐỌAT của người dân VN . Người dân VN sẽ trở thành những con người đúng nghĩa, không phải là những con vật như dưới chế độ xuống hàng chó ngựa của csVN .

Những người con dân nước Việt trên khắp thế giới sẽ lại trở về Quê Cha Đất Tổ, góp bàn tay xây dựng lại Một Nước Việt Nam với thể chế Tự Do Dân Chủ, với quyền làm người đúng nghĩa con người, mang lại ấm no, hạnh phúc thật sự cho tòan dân tộc VN. Đường còn nhiều gian truân và đầy chông gai trước mặt, nhưng chúng ta sẽ nhất định đến đích. Dân tộc VN nhất định sẽ THẮNG bè lũ lưu manh vô lọai csVN. Dân tộc VN sẽ đứng lên làm người đúng nghĩa .



(Soi Dòng Sông Chữ Thấy Mù Tâm .. )

Chân thành cám ơn Quý Anh Chị ghé thăm "conbenho Nguyễn Hoài Trang Blog"
Xin được lắng nghe ý kiến chia sẻ của Quý Anh Chị trực tiếp tại Diễn Đàn Paltalk "1Latdo Tapdoan Vietgian CSVN Phanquoc Bannuoc.
Kính chúc Sức Khỏe Quý Anh Chị.

(TB: Thưa cùng anh chị "tam diep_1",
cbQR xin được trích một câu từ ý của anh chị đặt tựa cho bài tập viết hôm nay. Nếu có điều gì sai sót, mong anh chị góp ý cho cbQR được học hỏi. Xin cám ơn anh chị "tam diep_1" thật nhiều).

conbenho
Tiểu Muội quantu
Nguyễn Hoài Trang
27032010
Source: http://nguyenhoaitrang.blogspot.com/2010/03/y-nghia-cua-cuoc-tranh-au-cua-nguoi.html

Hội Nữ Quân Nhân San Jose Ra Mắt Ban Chấp Hành

Những Bóng Hồng Bị Bỏ Quên



Vào ngày Chúa Nhật 21/3/2010, tại nhà hàng Phú Lâm, BCH Hội Nữ Quân Nhân VNCH San Jose (NQN) được thành hình và ra mắt cộng đồng. Tiệc tiếp tân diễn ra lúc 11:00 trưa. Quan khách hiện diện có các hội Cựu Quân Nhân: Liên Hội CQN, Hội BĐQ, Hội TQLC, Hội ND, Hội CTCT, Hội CSQG, Hải Quân, Thiết Giáp, Quân Cảnh, Tập Thể Chiến Sĩ, Ban Đại Diện CĐVN và nhiều quan khách đồng hương các hội Petrus Ký, Cà Mau, An Gian g…v.v.

Sau nghi thức khai mạc, NQN Nguyễn Hoàng Cúc, Hội trưởng, ngỏ lời chào mừng, NQN Nguyễn Thu Nguyệt giới thiệu quan khách và các nhà bảo trợ. Các NQN trong đồng phục hợp ca Đoàn NQN Hành Khúc chào mừng, sau đó tất cả những quân nhân các quân binh chủng cùng các NQN hợp ca các bản hùng ca quân đội.

Chương trình tiệc tiếp tân tiếp theo với phần văn nghệ “Lính Hát Lính Nghe thật vui nhộn, thắm tình huynh đệ chi binh.

Nữ Quân Nhân, như tên gọi, họ là những người lính nhưng không trực tiếp cầm súng ra chiến trường nhưng NQN đã góp phần rất lớn trong cuộc chiến chống Cộng Sản xâm lăng. Trong quân lực VNCH, các nữ quân nhân được huấn luyện và có nhiệm vụ yểm trợ ở hậu phương. Mặc dầu NQN không tác chiến, không đối diện với hiểm nguy như những nam quân nhân ngoài mặt trận, nhưng xương máu của họ cũng thấm đậm trong lòng đất mẹ trong khi thi hành những công tác hậu phương như bị đặt mìn, bị pháo kích, bị bắn rớt phi cơ. Trong Nghĩa Trang Quân Đội cũng có mộ phần của Nữ Quân Nhân.

Tưởng cũng nên nhắc lại về sự hình thành của Đoàn Nữ Quân Nhân trong QLVNCH. Năm 1952 Ban Nữ Phụ Tá Bộ Tổng Tham Mưu được thành lập và trực thuộc Phòng Một Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Sau đó có rất đông phụ nữ được tuyển mộ vào phục vụ trong các văn phòng Tham Mưu, và các Cơ Quan trong Quân Đội, Bộ Tư Lệnh Không Quân và Hải Quân. Đoàn Nữ Phụ Tá làm việc ở các ngành: Tham Mưu, Quân Y, Truyền Tin, Quân Nhu, Xã Hội. Trong ngành Quân Nhu, một số NQN sửa chữa dù được huấn luyện nhảy dù (nếu muốn), để tham gia những phi vụ nhảy dù biểu diễn tại các vùng chiến thuật.

Về ngành Xã Hội, có nhiều cán sự xã hội đựơc đào tạo từ trường Cán Sự Xã Hội Caritas ở đường Tú Xương. Từ Tháng 10, 1959 Nha Xã Hội được phép tổ chức khoá Sĩ Quan Xã Hội Quân Đội, thời gian thụ huấn là hai năm rưỡi. Các ứng viên phải có bằng Tú Tài và khi tốt nghiệp được mang cấp bậc Chuẩn Úy và được bổ nhiệm chức vụ Trưởng Phòng Xã Hội Sư Đoàn.

Năm 1959 Bộ Quốc Phòng quyết định giữ lại ngành Quân Y và Xã Hội. Đến 1965 Bộ Quốc Phòng cho thành lập Đoàn Nữ Quân Nhân để tuyển phụ nữ vào quân đội, thay thế nam quân nhân ở hậu phương.

Văn Phòng Trưởng Đoàn và Trung Tâm Huấn Luyện NQN được đặt tại đường Nguyễn Văn Thoại, Quận Tân Bình Saigon và dưới sự chỉ huy của Bộ TTM/QLVNCH. Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân kiêm Trung Tâm Huấn Luyện/NQN đầu tiên là Thiếu Tá Trần Cẩm Hương. NQN được huấn luyện căn bản quân sự, tổ chức quân đội, cơ bản thao diễn, vũ khí ở Trung Tâm huấn luyện Quang Trung.

Trung Tâm Huấn Luyện NQN đã đào tạo được bảy khóa. Bốn khóa căn bản sĩ quan Nữ Điều Dưỡng cho Không Quân và Hai khóa sĩ quan cho ngành Cảnh Sát. Một số sĩ quan căn bản và cao cấp NQN được huấn luyện ở Hoa Kỳ như ở Fort Mc Clellan, Alabama, khóa Dân Sự Vụ ở Fort Gordon, Georgia; Khóa Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị ở Foprt Bragg, North Carolina, Fort Benjamin Harrison, Indiana. Quân số Nữ Quân Nhân dự định là 10 ngàn người, đến năm 1975 đã được gần 6,000, riêng sĩ quan kể cả Chuẩn Uý là 600 trước 1975.

Sự hiện diện của Nữ Quân Nhân trong QLVNCH là những chuyên viên, là những người được huấn luyện để có thể hoàn tất nhiệm vụ một cách tốt đẹp ở hậu phương. Tại hải ngoại, Hội Ái Hữu Nữ Quân Nhân đầu tiên tại San Jose, năm 1993 và từ đó đến nay Hội NQN ít thấy hoạt động.

Ban Chấp Hành Hội NQN San Jose gồm có NQN Nguyễn Hoàng Cúc (Hội trưởng), NQN Nguyễn Thị Đức (Phó HT), NQN Sơn Thị Cương (TTK), NQN Nguyễn Thị Triệu (Thủ Quỹ)

NQN Nguyễn Thu Nguyệt tâm tình: “Chúng tôi là những chị em thuộc Đoàn NQN/QLVNCH vẫn mang hoài bão phục vụ quê hương”. Chị Thu Nguyệt cho biết, mặc dù là quân nhân, nhưng các chị em NQN không được công nhận là Thương Phế Binh cho nên các sự giúp đỡ của các nơi dành cho TPB thì không được nhận. Cũng theo chị Thu Nguyệt hiện nay Hội NQN San Jose có nhiều hồ sơ NQN cần được giúp đỡ nhưng các chị em chỉ tài trợ trong tư cách cá nhân. Ước muốn của các hội viên Hội NQN San Jose là được sự giúp đỡ của các tổ chức cựu quân nhân. Trong tương lai Hội NQN San Jose sẽ có những hoạt động tích cực hơn trongviệc giúp đỡ các đồng ngũ tại quê nhà đang gặp hoàn cảnh thương tâm.

Một suy tư đáng được lưu ý: Có công bằng hay không khi mà các NQN cũng cống hiến tuổi trẻ cho đất nước nhưng khi thương tật, già yếu thì bị bỏ rơi ra ngoài hàng ngũ cựu quân nhân?







Những Anh Thư Đất Việt

Ba mươi năm nhìn lại cuộc chiến Việt nam trước năm 1975 người ta phải nhận ra một điều là cuộc chiến ấy đối với người dân miền nam là một cuộc chiến bảo vệ cho sự an vui, cho cuộc sống của chính mình. Cho dù ngày nay người ta có khoác cho nó những ý nghĩa nào, chẳng hạn như cuộc chiến Quốc Cộng, cuộc chiến huynh đệ tương tàn, cuộc chiến tranh Ủy Nhiệm ... thì cũng không thể xóa đi được ý nghĩa bảo vệ một vùng đất tự do của dân tộc VN. Trong cuộc bảo vệ ấy, cả một thế hệ thanh niên nam nữ miền nam VN đã phải hy sinh tuổi trẻ của mình để hy vọng một tương lai độc lập tự do ấm no hạnh phúc cho dân tộc và đất nước. Ngay cả khi cuộc chiến chấm dứt, thế hệ thanh niên ấy cũng còn phải tiếp tục chịu

NỮ QUÂN NHÂN QLVNCH

Thành lập vào năm 1965 (Trước đó có tên là Nữ Phụ Tá Xã Hội- LTS), văn phòng trưởng đoàn Nữ Quân Nhân và Trung Tâm Huấn Luyện đặt tại đường Nguyễn Văn Thoại, trước gọi là vùng rừng cao su, trước đài Phát Tuyến ngay trên ranh giới quận 10 và quận 11 Saigon, nay là đường Lý Thường Kiệt. Ranh giới thiên nhiên nguyên là một hồ dài và hẹp từ trước ra cuối Trung Tâm sau này được Công Binh Hoa Kỳ cho lấp bằng tráng nhựa làm mặt sân thêm rộng rãi.

Trưởng đoàn Nữ Quân Nhân kiêm Chỉ Huy trưởng TTHL/NQN đầu tiên là Thiếu Tá Trần Cẩm Hương cho đến ngày 1 tháng 4 năm 1975 nghỉ hưu đáo hạn tuổi, cấp bậc chị mang là Ðại Tá.

Trưởng Đoàn thứ hai và cuối cùng là chị Lưu Thị Huỳnh Mai, nguyên Thiếu Tá, Phân Đoàn Trưởng Nữ Quân Nhân Cơ Quan Trung Ương thuộc Bộ TTM được thuyên chuyển về văn phòng Trưởng Ðoàn NQN thăng cấp Trung Tá từ ngày 1 tháng 1 năm 1975 thay thế Ðại Tá Trần Cẩm Hương từ ngày 1 tháng 4 năm 1975.

Trung Tâm Huấn Luyện Nữ Quân Nhân đảm nhận việc tuyển mộ phụ nữ từ 18 tuổi trở lên, tình nguyện gia nhập quân đội và huấn luyện căn bản quân sự như về tổ chức quân đội, cơ bản thao diễn v.v... Nhiệm vụ Nữ Quân Nhân là không tác chiến nên chỉ được học ít giờ làm quen với vũ khí do Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung đảm nhận.

Sau phần căn bản quân sự, tùy nhu cầu quân số do bộ TTM ấn định, khóa sinh tốt nghiệp sẽ được thụ huấn chuyên môn tại các trường Tổng Quản Trị, trường Quân Y, trường Hành Chánh Tài Chánh, trường Quân Nhu, trường Xã Hội v.v...

Ðến năm 1966, việc tuyển mộ Nữ Quân Nhân do các Trung Tâm Tuyển Mộ phụ trách và chuyển nữ tân binh đến Trung Tâm Huấn Luyện Nữ Quân Nhân để trang bị và thụ huấn căn bản quân sự.

Nữ Quân Nhân được tuyển theo bằng cấp. Trung học đệ nhất cấp và Tú Tài I được huấn luyện trở thành Hạ sĩ quan trong quân đội (Trung Sĩ) cho đến năm sau mới có khóa sĩ quan đầu tiên từ những Hạ sĩ quan có bằng Tú tài hoặc tuyển mộ mới.

Cũng tùy theo nhu cầu quân số do Bộ TTM ấn định, việc tuyển mộ và huấn luyện NQN được tiếp tục phát triển hàng năm. Ðến năm 1968, lệnh tăng quân số cho phép tuyển mộ thêm NQN hàng binh sĩ, chỉ cần biết đọc biết viết và đầy đủ sức khỏe là được nhận tại các Trung tâm tuyển mộ và sau đó được chuyển đến trường Nữ Quân Nhân.

Thời gian huấn luyện căn bản quân sự cũng được rút ngắn còn trong vòng một tháng thay vì sáu tuần lễ như trước. Số binh sĩ này được sung vào ngành Kiểm Soát An Ninh và Tài Xế (Ưu tiên nhận các quả phụ tử sĩ).

Năm 1967, Văn Phòng Trưởng Ðoàn NQN được chuyển về Bộ TTM, trực thuộc Văn Phòng Tham Mưu Phó Nhân Viên, còn TTHL/NQN trở thành trường Nữ Quân Nhân trực thuộc Tổng Cục Quân Huấn như các trường và các Trung tâm Huấn Luyện khác của QLVNCH.

Trường NQN huấn luyện trong 10 năm các khóa Căn Bản Quân Sự cho binh sĩ, hạ sĩ quan (không nhớ được mấy khóa tất ca)Ư. Riêng về Sĩ Quan NQN thì được 7 khóa tốt nghiệp và đến nửa chừng khóa 8 thì biến cố 30.4.75 xẩy ra.

Ngoài ra trường NQN cũng huấn luyện thêm các khóa sau

Một khóa cho HSQ nguyên là Nữ Phụ Tá trước vốn chưa qua khóa căn bản quân sự nào từ ngày nhập ngũ.

Bốn khóa Căn Bản Sĩ Quan cho Nữ Ðiều Dưỡng Không Quân do Bộ Tư Lệnh Không Quân gửi đến.

Hai khóa Căn Bản Sĩ Quan cho Nữ Sĩ Quan cảnh Sát do Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát yêu cầu

Về quân phục của Nữ Quân Nhân thì từ năm 1969 về sau quân phục của NQN là mầu xanh da trời, lễ phục mầu trắng đồng kiểu với quân phục mầu xanh làm việc nhưng tay dài 3/4.

Quân phục nỉ mầu xanh thẫm cho các vùng lạnh. Lễ phục khi xuất ngoại vẫn là Worsted Kaki.

Tất cả NQN đều được phát một áo len đen dài tay để dùng khi trời trở lạnh, mặc ngoài quân phục xanh làm việc. Mũ NQN không còn mẫu Calo mà có kiểu như Nữ Chiêu Ðãi Viên hàng không, màu xanh thẫm. Nữ Quân Nhân mang giầy đen có gót cao 5 phân khi mặc quân phục làm việc hay lễ phục.

Nữ Quân Nhân để tóc ngắn, không dài quá cổ áo.

Thời gian thụ huấn tại trường NQN, khóa sinh phải mặc quân phục tác chiến, mũ vải, giầy vải đen có cổ. Cuối tuần xuất trại chị em được mặc thường phục.

Mỗi khóa sinh ngoài hai bộ quân phục tác chiến mặc khi thụ huấn, được may đo hai bộ quân phục xanh làm việc. Tại trường NQN, chị em được trang bị mũ, ví cầm tay mầu đen, huy hiệu đoàn NQN và một đôi giầy đen gót cao 5 phân trước khi mãn khóa.

Ðoàn Nữ Quân Nhân cũng được huấn luyện ở hải ngoại. Một số sĩ quan đã được đưa sang Hoa Kỳ để được thụ huấn trong các quân trường như Khóa Sĩ Quan Căn Bản Nữ Quân Nhân Lục Quân Hoa Kỳ tại Fort Mc Clellen, Alabama, Khóa Sĩ Quan cao cấp Nữ Quân Nhân Lục Quân Hoa Kỳ cũng tại Fort Mc Clellen, Alabama, khóa Dân Sự Vụ tại Fort Gordon, Georgia, khóa Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị tại Fort Bragg, North Carolina, các khóa về nhân viên, tuyển mộ, tổng quản trị tại Fort Benjamin Harrison, Indiana.

Riêng bốn khóa Nữ Ðiều dưỡng Không Quân sau khi tốt nghiệp Căn Bản Sĩ Quan tại trường NQN thì được Bộ Tư Lệnh Không Quân gửi đi thụ huấn nghiệp vụ tại Texas, Hoa Kỳ.

Cuối cùng thì trong đoàn đã có 5 Hạ Sĩ Quan nguyên làm thông dịch viên quân đội được đưa sang trường Nữ Quân Nhân Lục Quân Hoa Kỳ tại Fort Mc Clellen, Alabama để thụ huấn khóa sĩ quan căn bản. Khi về nước được thăng cấp Chuẩn Úy trước khi khóa 1 Sĩ Quan NQN mãn khóa.

Về tổ chức của Ðoàn NQN gồm có:

Một văn Phòng Trưởng Ðoàn trực thuộc Văn Phòng Tham Mưu Phó Nhân Viên của bộ TTM.
Trường Nữ Quân Nhân trực thuộc Tổng Cục Quân huấn bộ TTM.

Các văn phòng Phân Ðoàn trưởng NQN Quân Ðoàn/ Vùng Chiến thuật trực thuộc các Bộ Tư Lệnh QÐ/VCT.

Các Văn Phòng Phân Ðoàn Trưởng NQN Không Quân Hải quân trực thuộc các Bộ Tư lệnh Quân Chủng.

Các Văn Phòng Chi Ðoàn Trưởng NQN trực thuộc Bộ Tư Lệnh Tiểu Khu và Quân Chủng.
Nữ Quân Nhân phục vụ tại các đơn vị Quân Binh Chủng thuộc quân số các đơn vị ấy và chịu sự giám sát về quân phong quân kỷ của Chi Ðoàn Trưởng, Phân Ðoàn trưởng liên hệ.

Trước ngày 30.4.1975, quân số NQN trên lý thuyết là 10,000 người và đã thực hiện được trên 6,000. Riêng về Sĩ Quan thì có khoảng 600 kể cả cấp Chuẩn Úy.

Trên đây là những gì tôi nhớ và viết lại trong khoảng thời gian từ 1965 cho đến 30.4.1975 tôi phục vụ liên tục tại trường NQN. Tất nhiên là còn rất nhiều thiếu sót nên mong được sự bổ túc của chị em NQN ở hải ngoại.
    Xin liên lạc với chúng tôi ở số điện thoại (405) 691-0235.
    Hồ Thị Vẻ
PHỤ NỮ TRONG QUÂN ÐỘI

Với tinh thần trách nhiệm cao và óc sáng tạo nên bất cứ ở ngành nào, quân binh chủng nào, người NQN/ QLVNCH cũng đem hết khả năng để phục vụ nên đã có nhiều kinh nghiệm và đạt được nhiều thành quả tốt đẹp. Chúng tôi đã vươn lên sau 10 năm, 20 năm để có thể ngang bằng với các cấp chỉ huy nam quân nhân mà nhận lãnh nhiều trọng trách ở hậu phương.

Nữ Quân Nhân chúng tôi đã có những chiến sĩ nhẩy dù gan dạ, những chiến sĩ trong các ngành truyền tin, tham mưu hay trong những nghề chuyên môn như y tá, nha tá, dược tá, chuyên viên thí nghiệm, tiếp huyết và các nữ điều dưỡng trong quân đội cũng như những người mang đến tình thương giáo dục cho các cô nhi của Tử Sĩ. Chúng tôi chỉ thua nam giới trong lãnh vực tác chiến vì quy chế của chúng tôi không ấn định.

Cuộc đời binh nghiệp của chúng tôi đang bình yên, đang cùng nam giới xây dựng một quân đội hùng mạnh, hậu phương và tiền tuyến cùng hoạt động nhịp nhàng thì có ai ngờ một ngày cuối tháng Tư đen đã làm sụp đổ tất cả những gì đã gầy dựng, làm dở dang mọi chương trình và kế hoạch đang trên đà thăng tiến của QLVNCH nói riêng và cả một chính thể VNCH nói chung.

Sau khi CS cưỡng chiếm miền nam, ngoài một số ít các chị may mắn thoát được, di tản sang Hoa Kỳ, còn phần đông chị em bị kẹt lại đã bị Cộng Sản lùa hết vào các "Trại Tập Trung Cải Tạo". Kể sao cho hết những nỗi ê chề, đau khổ về tinh thần cũng như vật chất trong lao tù của CS. Chị em chúng tôi chịu đựng, người 2,3 năm kẻ 4,5 năm, chỉ tội một mình chị Cẩm Hương, người chị cả trong gia đình NQN, tuy tháng 4/75 đã nghỉ hưu mà vẫn bị CS cầm tù đến 10 năm trời. Khi được tha về một năm sau thì chị mất sau một cơn bạo bệnh.

Chị em chúng tôi lần lượt được thả về, đau đớn và chua xót làm sao khi nhà mình ở từ nhỏ đến giờ lại chỉ được ở với tư cách tạm trú và sau đó đều bị buộc phải đi vùng kinh tế mới của CS. Tuy nhiên nhiều chị em vẫn lì bám lấy ngôi nhà cũ, mưu sinh nơi các chợ trời vì tên bị xóa trong sổ hộ khẩu. Thỉnh thoảng lại thấy một chị vắng mặt, vài tuần sau lại nhận được tin từ Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật tân, Thái Lan của các chị ấy báo tin lành. Tuy nhiên cũng có nhiều chị em không được may mắn như vậy. Có chị ra đi năm lần bẩy lượt lại cũng về chốn cũ, có khi im hơi lặng tiếng luôn trong lòng Ðại dương, có khi bị bắt lại mắc vòng lao lý dăm ba năm nữa. Nhưng chúng tôi vẫn không hề nản, cứ tiếp tục tìm cách ra đi cho đến ngày được tin chính phủ Hoa Kỳ can thiệp sẽ được ra đi trong các chương trình H.O.

Nay thì gần ba mươi năm trôi qua, chị em chúng tôi những kẻ còn lại hầu hết đã sang được bến bờ tự do nhưng vẫn không thể nào quên được một chặng đường lịch sử hãi hùng ...



Hai Bà Trưng



Diễn hành kỷ niệm ngày 6 tháng 2 Âm Lịch Trưng Trắc và Trưng Nhị cưỡi voi Saigon năm xưa



Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn kể về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng

Hịch Khởi Nghĩa Của Hai Bà Trưng



Tranh Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định (Tranh dân gian Đông Hồ)

Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là báo phục hai là Bá Vương
Uy danh động tới Bắc Phương
Hán sai Mã Viện lên đường tấn công
Hồ Tây đua sức vẫy vùng
Nữ nhi địch với anh hùng được sao!
Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo
Hai Bà thất thế cùng liều với sông!
Trước là nghĩa, sau là trung
Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn.

Vua Tàu sai đại tướng Mã Viện cầm quân sang đánh nước ta.

Hai bà Trưng quân ít thế cô không chống nổi đại quân của Mã Viện.

Hai Bà Trưng thua chạy đến sông Hát Giang, đành nhảy xuống sông tự vẫn.

Hai Bà Trưng là nữ anh hùng của nước ta.

Dân chúng lập đền thờ hai Bà Trưng ở làng Hát Môn, tỉnh Sơn Tây và ở bãi Đồng Nhân, Hà Nội.





Những Sự Thật Đáng Buồn - Phùng Ngọc Sa

Phùng Ngọc Sa

Chỉ một thời gian ngắn trong tháng 3 năm 2010, CSVN đã liên tiếp “tạm thả” Linh mục (Lm) Nguyễn Văn Lý và tha nhà đấu tranh Lê Thị Công Nhân, một Luật sư (Ls) trẻ 31 tuổi ra khỏi tù. Hai sự kiện nối tiếp xảy ra khiến cho một số đông người Việt hải ngoại đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau; một số thì lạc quan cho rằng, bọn cầm quyền Hà Nội đã bị “dư luận quốc tế áp lực” nên phải tạm tha cho về nhà chữa bệnh như Lm Nguyễn Văn Lý, đồng thời được mãn án trước thời hạn là Ls Lê Thị Công Nhân. (LTCN).

Theo dư luận:

- Một số cho biết, về việc hai nhà bất đồng chính kiến được tạm tự do, chủ động là do bọn cầm quyền Hà Nội quyết định, mục đích là tìm cách giảm bớt sự chỉ trích của dư luận quốc tế về các vụ vi phạm nhân quyền của chế độ.

- Một số khác, do quá biết cái trò tinh ma quỷ quái VGCS nên chỉ coi đó là màn trình diễn, dùng tuyên truyền đánh bóng chế độ, kế thừa truyền thống Đại Nhân Đại Nghĩa Dân Tộc.

Mặt khác, do những lời bốc thối của bọn tay sai VC ở hải ngoại như Bùi Tín; hắn đội Ls Lê Thị Công Nhân lên tận mây xanh bằng một câu nói hết sức “cải lương”; hắn nói “Ls LTCN là “viên ngọc quý của dân tộc” còn số khác lại tôn cô lên tới hàng “anh thư“, hoặc con cưng của Thượng đế v.v .

Chính những lời tâng bốc quá lố đó khiến dư luận càng thêm nghi ngờ rồi đánh giá rằng, đó chỉ là một phần kịch bản của VC nhằm đánh lừa hải ngoại. Ngoài ra, cộng thêm vào đó, cảnh giàn dựng quá trơ trẽn, lộ liễu và hớ hênh của bà mẹ của nữ Ls, tức bà Trần thị Lệ. Việc làm của bà trong thời gian vừa qua cũng khiến cho dư luận càng thắc mắc và thêm nhiều nghi vấn. Đúng vậy, nếu nữ Ls là một nhà tranh đấu thật sự, thì kiểu trình diễn vô duyên của bà mẹ cô đã làm cho con gái của mình bị hố một cách oan uổng.

Thử hỏi. Trong khi con gái là LTCN đang bị chế độ kết tội “chống chế độ”; thân gái còn nằm trong cảnh nghiệt ngã khốn cùng, thế mà người mẹ lại được thảnh thơi dạo chơi thành phố hoa lệ Paris, Pháp; nhờ có tên Bùi Tín, được xem là phái viên lưu động của bọn phản gián Hà Nội báo mới biết, sau Paris, ngoài ra, bà Lệ còn rảnh rang qua Bỉ quốc, xuất hiện trước Nghị viện Âu châu đấu tranh cho con gái mau ra khỏi tù, và còn “hưỡn” để chuẩn bị các bước tiếp cho con gái sau khi Công Nhân đã thi hành xong nhiệm vụ do CSVN chỉ đạo.

Trước các sự kiện trái ngược vô lý nói trên làm cho người Việt hải ngoại vốn thắc mắc lại càng nghi ngờ.Việc họ thắc mắc cũng có lý, vì trước đây, trong nước đã từng có một vài trường hợp tương tự xảy ra.

Cụ thể; khi Đoàn Viết Hoạt còn đang bị tù, thế mà bà Thức, vợ ông Hoạt lại dung giăng dung giẻ được đảng tạo điều kiện, cấp "passport" cho bà được ra ngoại quốc để “đấu tranh đòi thả chồng”.

Những việc tréo cẳng ngỗng đó khiến cho những người còn có đôi chút suy nghĩ phải xét lại vai trò đích thực của bà mẹ cô Ls CôngNhân.

Có lẽ hành động lãng xẹt và vô duyên nhất của mẹ cô Ls, là việc giải thích ý nghĩa hai chữ Công Nhân của con gái mình. Thử hỏi, hết việc làm hay sao mà đợi lúc cô Ls LTCN gần được lệnh tha thì bà còn “hưỡn” giải thích ý nghĩa hai chữ Công Nhân là Công Bằng và Nhân Ái, chứ không phải trùng hợp với cái tên của giai cấp công nhân mà VC đã nói “giai cấp công nhân” là đội ngũ tiên phong của Quốc Tế Vô Sản.

Phải chăng đây là hình thức đơn giản mà người mẹ tìm cách xóa lý lịch cộng sản của gia đình bà cho bớt màu Đỏ, đồng thời cố gắng tìm cách giữ cho con gái bớt công khai liên quan đến cộng sản, vì biết rõ là con gái bà sẽ còn có nhiệm vụ phải gánh vác lúc trở thành “thần tượng của tầng lớp chống cộng hải ngoại”. (sic! teolangthang)

Trước những hiện tượng nghịch lý nêu trên, khiến người Việt hải ngoại với suy nghĩ và cái nhìn khác nhau đã dẫn tới một cuộc xung đột trầm trọng, thậm chí có người còn lên án bài của tác giả Duyên Lãng Hà Tiến Nhất khi phân tích về Ls LTCN có tên “Thánh Nữ Con của Thằng Cuội” là “viết theo đơn đặt hàng”.

Được biết, mặc dầu bài viết có kèm theo tài liệu chứng minh; là trong quá khứ, đã có nhiều “nhà dân chủ cuội” xuất hiện; từng gây lắm cảnh ngỡ ngàng cho khối người Việt hải ngoại. Điển hình về các nhà phản kháng cuội đó là Đỗ Nam Hải; Nguyễn Chí Thiện, Hoàng Minh Chính v.v.,

Đọc kỹ bài của tác giả Duyên Lãng Hà Tiến Nhất viết về nữ Ls đã dựa vào sự thật, có chứng minh đầy đủ, nhưng vẫn có kẻ vì một lý do thầm kín nào đó, cố tình binh vực, phản bác cho đó là hành động “đâm sau lưng chiến sĩ”.

Vậy thử hỏi một ai đó, khi bẻ cong ngòi bút đề cao Võ Nguyên Giáp, một hung thần khát máu, một loại hèn tướng, loại chết nhát không dám lâm trận; họ còn dám gọi đó là “Trí Tướng”. Thử hỏi, cung cách viết như thế liệu có phải theo đơn đặt hàng không?

Từ hành động chống đối chế độ của Lm Nguyễn Văn Lý và Ls Lê Thị Công Nhân đến việc các nhà đấu tranh nầy bị bắt, bị tù, cho đến sự can thiệp của quốc tế; tỉ như việc đại sứ Mỹ Michalak tới trại giam thăm nữ phạm nhân Công nhân, hoặc bà Phó Đại sứ Hoa Kỳ thăm Lm Lý khi mới được phóng thích, người ta nhận ra thêm nhiều điều.

Những sự kiện đó đã nói cho hải ngoại biết; CSVN và Hoa Kỳ đã cùng hợp tác dàn dựng một kịch bản Dân Chủ và Nhân quyền tại VN, dù dân chủ giả hiệu chăng nữa, cũng phải công diễn để dùng nó làm bình phong cho cuộc trao đổi thương mại và làm ăn giữa VC và quốc gia có nền Dân Chủ lâu đời nhất, Hoa Kỳ.

Theo chúng tôi biết, hiện đã có nhiều bài viết về chế độ VGCS thả hai nhà đấu tranh như Lm Nguyễn Văn Lý và Ls Lê Thị Công Nhân; dù chỉ trích hay đồng ý chấp nhận đều là một việc đã qua. Riêng về nữ Ls Công Nhân, theo ý của chúng tôi, thì chỉ cần bài viết của tác giả Duyên Lãng Hà Tiến Nhất cũng đủ mô tả và tính chất của vụ việc.

Với lý luận sắc bén của tác giả cũng đã nói lên mọi khía cạnh liên quan đến các “nhà đấu tranh” nầy. Ngoài ra, những ai lên án tác giả tội “đâm sau lưng chiến sĩ” xin đặt lại vấn đề. Xin hỏi, những người vừa được bọn VGCS phóng thích trong tháng 3 vừa qua có đáng dùng hai chữ “chiến sĩ” không?

Mặt khác, với nghệ thuật hành văn dí dỏm của tác giả DL/HTN đã nói thẳng vào mặt chứ nào có “đâm sau lưng chiến sĩ” như một ai đó lên án.

Vì các lý do trình bày nói trên, chúng tôi chỉ xin đóng góp một số ý kiến nhỏ về Lm Lý mà người viết có phần liên hệ.

Trường hợp Lm Lý cũng như một số chiến hữu của chúng tôi, do cùng cảnh ngộ và có cùng chung một tôn giáo, từng bị bọn CSVN đày đọa quá lâu nên rất dễ thông cảm hoàn cảnh nghiệt ngã của Lm Lý. Mặc dù ông bị một vài vướng mắc về lề luật công giáo. Nhưng, anh em chúng tôi, xem đó chỉ là việc cá nhân, còn sự quyết tâm tranh đấu chống cộng của Lm Lý mới là chủ điểm. Vì lý do đó, chúng tôi vẫn dành nhiều cảm tình cho Lm Lý. Giai đoạn trước, khi biết Lm Lý bị nhà cầm quyền cộng sản làm khó rồi bị tống giam. Chúng tôi và một số anh em chiến hữu vội theo niềm tin của tín đồ công giáo; cùng nhau đóng góp, tổ chức một lễ Bình An lớn, cầu xin ơn trên gia hộ cho Lm Lý qua cơn sóng gió.

Ban tổ chức chúng tôi gồm 3 người, trong đó có người bạn trẻ nhất lại là một đảng viên Việt Tân (VT) đang điều hành đài phát thanh VT tại địa phương, Anh bạn thường xuyên tìm cơ hội đề cao đảng VT. Theo anh, thì số tiền mà VT quyên góp từ người Việt hải ngoại chẳng đáng là bao; yểm trợ tài chính cho tổ chức kháng chiến đến từ người Mỹ mới nhiều và là yếu tố đáng kể. Ý anh muốn nói là có Mỹ đàng sau tổ chức của anh.

Sau buổi lễ cầu xin Bình An, người bạn trẻ cùng chúng tôi thường gặp nhau, và y đã cho chúng tôi biết số tiền đã gửi, và quan trọng nhứt là cung cấp phương tiện truyền thông như, laptop, dollars cùng với các máy móc liên lạc khác cho đảng Thăng Tiến của Lm Lý. Qua việc đó, chúng tôi đã báo cho nhau biết, VT đã dùng phương tiện lôi kéo ông Lý đi theo vở kịch mà VT, tức là VC soạn ra. Tôi góp ý nói, xin nhớ, tiền bạc rất quan trọng nhưng có thể cất dấu được, trái lại vật liệu truyền tin như cell phone hay Laptop mà gửi quá nhiều thì rất nguy hiểm, đó là mục tiêu cho bọn phản gián nghi ngờ lùng bắt. Trong riêng tư và theo suy nghĩ, ông Lm đã mắc vào cạm bẫy của VT, một tổ chức từng nổi tiếng lừa gạt gian manh.

Càng rõ nét hơn, khi phân tích bức hình chụp cảnh trực diện, Lm Lý đứng trước vành móng ngựa, bị bịt miệng, rồi bị một tên công an mặc thường phục khóa mồm. Sự kiện đó, khiến mọi người có mặt đều vỡ lẽ, họ biết rõ đây chỉ là một hoạt cảnh của kịch bản giả. Lý do: chỉ có người đối diện với Lm Lý mới trực diện chụp được hình đó; vì nhiếp ảnh viên phải đứng sau lưng chánh án, kẻ đó không ai khác ngoài công an mới làm được; vì không có một cơ quan nào khác ngoài công an được đem máy chụp hình vào tòa. Quan trọng hơn là khi tấm hình "lịch sử" đó được chuyển ra hải ngoại, thì tổ chức VT khắp nơi bao thầu tung nó ra quảng cáo, không ngoài mục đích nói cho hải ngoại biết: Lm Lý hoạt động chống chế độ cộng sản là thật, và rồi đây sẽ còn nhiều màn gây cấn hơn.

Có người phản bác nói, như vậy thì bọn phản gián dám bêu xấu đảng sao? Xin trả lời, bọn VGCS nào sợ gì ai, quốc tế với tổ chức nhân quyền nào có nghĩa gì với chúng. Xem Miến Điện thì rõ, do bọn họ đã có Trung Cộng chống lưng đàng sau nên đến hàng chục cái cơ quan LHQ, nó cũng xem như rơm rác.

Phê bình chủ nghĩa cộng sản cũng như động đến lãnh tụ của chúng là mọt gông, thế mà Lm Lý khi tiếp xúc với báo chí dám phê bình thuyết Mác-Lê, còn chỉ trích cả chế độ VC quả đúng là gan cùng mình. Thử hỏi, dựa vào đâu và động cơ nào khiến ông đã hành động như thế, ngoại trừ được phép. Xin trưng một thí dụ điền hình. Nhắc đến Hồ Chí Minh, một cái tên mà lũ cộng sản tôn thờ nhứt, ai vô phước mà đụng tới nó chỉ có chết Do đó khi hỏi cung nói theo kiểu VC là “làm việc”, một số nạn nhân cứ tưởng là nên lễ phép với thằng chấp cung, đem Bác Hồ ra chưng, may sao đỡ được đòn, vì thế mỗi lần đối đáp, là họ lại đem Hồ Chủ tịch, và luôn miệng nói: Bác Hồ nói ... , hoặc Hồ Chủ tịch dạy ...v.v..; Cán bộ thẩm vấn chứng kiến kiểu trả lời như băng cát xét; thấy thế hắn quá giận dữ đá cho nạn nhân nhiều cú ói máu lăn đùng, hắn còn dám chửi thề “Hồ Chủ tịch con buồi, ĐM mầy, ông kêu mầy làm việc, chứ đâu phải lên đây để “lên lớp”, Bác Hồ cái c..c.

Trong hoàn cảnh khác, có một bạn tù trẻ vui miệng nhại câu “Như có Bác Hồ trong cầu tiêu đại chúng” – Không may thằng lính canh vớ được tóm cổ đưa vào phòng kín tẩn cho một trận tới chết.

Trở lại vai trò của Lm Nguyễn Văn Lý, ông đã quá vội vàng, khi diễn tuồng mà chưa được thuộc vở; chưa tự đánh giá được mình thủ vai trò gì trong kịch bản do CSVN và người Mỹ dựng lên đã vội nôn nóng, vì thế bị vấp phải những lỗi lầm dưới đây:

- Tự xưng là Ngôn Sứ. Xin lưu ý, theo tín điều công giáo, chỉ có các vị thánh, đặc biệt các thánh Tiên Tri, tín hữu mới tuyên xưng là Ngôn sứ, tức là người nói ra những lời Chúa dạy. Lối nói phạm thượng và cao ngạo trên khiến một số hàng giáo phẩm ghét.

Vì thế, trong buổi chuyện trò tại điện Vatican, vị Tổng Giám Mục bề trên của ông đã thốt ra một lời vô cùng chua chát. Ông nói: ”Thằng Lý nó ở tù là xứng”.

- Tự vỗ ngực cho bàng dân thiên hạ biết ông là ai để nói cho Phó Đại sứ Hoa Kỳ, bà Virginia E.Palmer biết vai trò của mình.

Đại ý Lm Lý nói, “hết hạn nghỉ chữa bệnh, nhà cầm quyền Hà Nội sẽ không dám đưa tôi trở lại nhà tù . .v.v...” (Ai tra khảo mà ông buộc phải khai). Làm như thế chỉ có người thủ vai trong phim mới biết được đoạn kế tiếp là Lm Lý sẽ làm gì. Và cuốn phim có nội dung như thế nào.

Theo một vị lão thành đấu tranh quen với Lm Lý đã nói cho biết, quả thật ông quá đỗi ngạc nhiên trước sự thay đổi của ông Lý, Ông tiếp, trước kia, khi cùng bị tù ở chung với Lm Lý tại trại giam Ba Sao, Phủ Lý; có dịp nói chuyện với nhau, ông biết Lm Lý chỉ là một người chất phác, loại vai u thịt bắp, lời lẽ lại chẳng có gì cao siêu cho lắm. Thế nhưng từ lúc ra khỏi tù và khi nghe trả lời các cuộc phỏng vấn thấy Lm Lý đã thay đổi, có lý luận vững vàng, biết đào sâu chủ nghĩa Mác-Lê một cách trôi chảy. Điều đó chứng tỏ một ai đó nói, chứ không phải bản thân ông phát biểu. Và quan trọng hơn, là ai ra chiêu nào thì ông đã có thức ấy ứng phó. Vai trò của Lm Nguyễn Văn Lý nói theo lối VC là đã quá nhuần nhuyễn.

Có lẽ điều đã làm cho những người còn có tinh thần đấu tranh chống cộng; từng xem ông là thần tượng và đặt hết tin tưởng vào ông phải thất vọng, đó chính là câu trả lời phỏng vấn đài BBC khi nghe ông phát biểu: ”Nếu thay đổi mà mất ổn định, tình hình xấu hơn cả Thái Lan, Indonesia, Philippines, thì thà cứ để yên cho Đảng Cộng Sản lãnh đạo”.

Lời nói của Lm Lý đã làm cho người ái mộ, từng có lập trường đấu tranh chống Cộng phải ngỡ ngàng thất vọng và buồn bã. Theo chúng tôi nghĩ, sau bao nhiêu lần bị giam cầm, bị mất tự do tù tội, thậm chí suýt bị mất tính mạng, nhờ đó ông có cơ hội suy nghĩ thấu đáo thiệt hơn, nên đánh giá lề lối hành động cai trị đất nước của VC tuy chưa tốt nhưng vẫn ổn định. Vì thế, theo Lm Lý nghĩ, với tình trạng trong nước cũng như hải ngoại hiện nay, thì VN nên tiếp tục được sự lãnh đạo của CSVN, còn thay đổi thì nào có ích gì.

Tới đoạn nầy, người viết và những anh em chúng tôi vốn coi trọng và quý mến Lm Lý cảm thấy hoàn toàn thất vọng; bao hy vọng đấu tranh hình như bị rơi vào ngõ cụt, không lối thoát. Hơn nữa, hết còn ai đáng tín nhiệm nữa.

Tuy nhiên, mong quý vị độc giả hãy vững lòng tin, thận trọng tiếp tục tiến bước, quan trọng hơn là xin đừng tranh cãi chẳng lợi ích gì, còn mất tình đoàn kết. Mặt khác, cũng xin qúy độc giả thông cảm hoàn cảnh của Lm Lý. Phần thì bị tụi tay sai VC phá hoại đua nhau thổi ông lên, đặt ông vào cái ghế “lãnh tụ” mà không trang bị cho ông có đủ kiến thức đấu tranh.

Ngoài ra, xin nghĩ đến hoàn cảnh riêng tư, và bản thân ông, ít nhiều bây giờ ông cũng có một số vốn vật chất lẫn tinh thần; từng được tiếng người “tù nhân luơng tâm” và nổi danh chống cộng; vì thế Lm Lý cần phải sống, (ai chả muốn sống); vì chết là hết, đâu còn sống để thưởng thức những thành quả và tiếng tăm do mình tạo ra. Hơn nữa điều an ủi nhứt, Lm Lý đã có được mấy đứa cháu hiện đang sinh sống và hưởng tự do tại hải ngoại; vì thế nên “giả dại qua ải”, phải “Nín Thở Qua Sông” đề cao chế độ cộng sản dù có lộ liễu chăng nữa, miễn có được một cuộc sống thoải mái là đủ.

Có lẽ phân tích nói nhiều sẽ làm quý đọc giả nhàm chán, vậy người viết tạm trích hai bài thơ Xướng và Họa của ông Tôn Thọ Tường và ông Phan Văn Trị dưới đây, ắt sẽ dễ thông cảm hơn. Và dưới đây là bài Tôn Phu Nhân Quy Thục của ông Tôn Thọ Tường, người muốn hợp tác với thực dân Pháp; hoàn cảnh và tâm sự của Lm Lý có phần giống tác giả họ Tôn, tạm đề cao CS để sống:
    Tôn Phu Nhân Quy Thục
    của Tôn Thọ Tường

    Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
    Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
    Lìa Ngô bịn rịn vầng mây bạc
    Về Thục trau tria mảnh mà hồng
    Son phấn thà cam dày gió bụi
    Đá vàng chi để thẹn non sông
    Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
    Thà mất lòng anh được bụng chồng.
và bài Họa của nhà đấu tranh chống thực dân Pháp của Phan Văn Trị được xem là tâm sự của khối người Việt hải ngoại cương quyết chống bọn cầm quyền CSVN:
    Tôn Phu Nhân Quy Thục

    Bài Họa của Phan Văn Trị

    Cài trâm xúc áo vẹn câu tòng
    Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
    Ngát tỏa trời Ngô in sắc trắng
    Duyên về đất Thục đượm màu hồng
    Hai vai tơ tóc bền trời đất
    Một gánh can thường nặng núi sông
    Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
    Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng
Người viết tạm nhờ hai câu thơ của ông Tôn Thọ Tường để diễn tả niềm tâm sự nhà đấu tranh Nguyễn Văn Lý, phải chăng vì muốn tiếp tục cuộc sống nên phải nhờ đến hai câu trên để thông báo cho những ai đặt hy vọng vào ông hãy thông cảm và mong đừng tranh cãi nữa.

Hai câu:
    Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
    Thà mất lòng anh được bụng chồng
Phùng Ngoc Sa