Trong hai ngày cuối tuần, 14 và 15 tháng 6, vừa qua đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã tổ chức lễ quốc táng cho cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người được báo chí ngoại quốc coi là kiến trúc sư chính sách “Đổi Mới”, người có tinh thần “hoà giải dân tộc” và là một trong những lãnh tụ CSVN có tinh thần “chống tham nhũng”. Cây bút Jean-Claude Pomonti của tờ Le Monde đã ca tụng: “Võ Văn Kiệt là người có cá tính mạnh, luôn luôn quan tâm tới tư tưởng đổi mới, kể cả khi về hưu, ông cởi mở với cả những người bất đồng chính kiến, bênh vực dân, báo chí, chống bảo thủ, tham nhũng.”
Tuy nhiên, Võ Văn Kiệt có phải là người thực sự hoà giải dân tộc, đổi mới, chống tham nhũng hay không là điều cần phải xét lại.
Người xưa có nói anh hùng tạo thời thế, thời thế tạo anh hùng. Đặng Tiểu Bình đề xướng chủ nghiã Cải Cách Khai Phóng, tứ hiện đại hoá để cứu nguy đảng Cộng Sản Tàu, Gorbachev xướng xuất Perestroika và Glasnost để cứu nguy cho đảng Cộng sản Nga, kẻ thành công người thất bại, nhưng họ có thể coi là những người tạo thời thế, còn thành phần lãnh đạo đảng CSVN, nhìn chung, những điều mà báo chí Tây Phương diễn dịch theo cái nhìn đơn giản bảo thủ giáo điều, đổi mới, cấp tiến ... đều là những kẻ thời thế đưa đẩy.
Chiêu bài hoà giải dân tộc, xoá bỏ hận thù lại là âm mưu nhằm đập tan tinh thần đấu tranh của người Việt Nam hải ngoại, chính sách nhằm gom thu ngoại tệ, trong giai đoạn đầu cứu nguy nền kinh tế sắp phá sản, Hiện nay, nhằm tiếp tục làm giàu cho chế độ.
Mười năm cưỡng bách nông dân vô hợp tác xã nông nghiệp, đã biến Việt Nam từ nam chí bắc trở thành nhà tù vĩ đại, người nông dân sống ngay trên vựa luá đồng bằng sông Cửu Long cũng không đủ cơm ăn. Đó là mười năm cả thế giới chứng kiến những chiếc thuyền mong manh trên biển Đông mang theo những con người bỏ nước ra đi, thà chết trong lòng đại dương còn hơn sống trong thiên đàng xã hội chủ nghiã.
Là đàn em trung thành của Liên Xô, nên Đại Hội 6 CSVN năm 1986 quyết định theo chân quan thầy, thực hiện chính sách “Đổi Mới”. Nguyễn Văn Linh được đưa lên thay thế Trường Chinh già yếu tạm thay thế cho Lê Duẫn đã chết.
Nguyễn Văn Linh cũng phỏng theo Glasnost của Gorbachev cho phép người dân có thể làm kinh tế cá thể và một số văn nghệ sĩ được cho phép có thể lên tiếng chỉ trích những tệ nạn của cán bộ. Chính cá nhân Nguyên Văn Linh với bút hiệu NVL (Nói và Làm) cũng đã viết nhiều bài nói lên tệ nạn của chế độ.
Một đảng viên lâu năm, ít học là Đỗ Mười được đưa lên thay thế. Đại Hội 7 CSVN, lại mô phỏng theo chính sách của CS Trung Hoa, lấy cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh” làm lý thuyết chỉ đạo để xây dựng cái gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. CSVN cũng giương chiêu bài “ổn định để phát triển”, “đề phòng diễn biến hòa bình”, thẳng tay thanh trừng mọi đảng viên đã nhận ra sai lầm của chủ nghĩa CS, muốn cải cách thật sự, và siết chặt bàn tay đàn áp với mọi thành phần chống đối trong nước. Đây là giai đoạn Võ Văn Kiệt được đưa lên làm Thủ Tướng, Phó chủ tịch Hội Đồng an ninh và quốc phòng của CSVN. Đảng CSVN dưới sự lãnh đạo mới của bộ ba Mười-Anh-Kiệt lập tức tìm cách nối lại liên hệ “môi hở răng lạnh” với Trung Cộng.
Chính sách của CSVN trong giai đoạn 1991-1997 có thể cho thấy rõ điều này. Dù trong nước CSVN siết chặt an ninh, đề phòng âm mưu diễn biến hoà bình, nhưng ở hải ngoại CSVN lại phát động phong trào hoà hợp hoà giải, kêu gọi xoá bỏ hận thù. Phong trào này được thành phần cơ hội, hay tay sai ở hải ngoại rầm rộ phát động. Thế nhưng những thành phần tai to mặt lớn ấu trĩ giúp truyền bá thông điệp này ở hải ngoại này bị cộng đồng Việt Nam tẩy chay, phản đối, bị cháy nhưng cũng không có ai nhận được ơn mưa móc nào của Hà Nội.
Điều đau buồn, trong số thành phần hy vọng bắt tay với Đỗ Mười, chia ghế trong chính phủ của Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng có cả một đoàn thể quốc gia có tầm vóc. Họ đã hăm hở, rầm rộ về nước định tổ chức hội thảo chính trị, mong chính thức dựng cờ hoạt động trong nước, cuối cùng đã bị Cộng Sản Việt Nam tóm cổ, cho cả đám vào tù. Phong trào hoà hợp hoà giải đầu thập niên 1990 của một số thành phần “tranh đấu” ở hải ngoại lại lần nữa làm cho người Quốc Gia phải đau xót thấy rằng những con người từng tốt nghiệp đại học, làm giáo sư đại học vẫn còn quá nhiều người âu trĩ và ngu ngơ trước những người CS xuất thân từ thành phần mà họ từng cho là ít học, ngu dốt!
Sau 75, Đạo Cao Đài, cũng như đạo Hòa Hảo đã bị CS bách hại thậm tệ. Số người theo Đạo Cao Đài bị CS gia hại riêng tại Củ Chi và Trãng Bàng có thể lên tới 6000 người. Trên mười năm, Cao Đài gần như bị tê liệt. Năm 1993, Đỗ Mười thăm viếng Tòa Thánh Tây Ninh, hứa tôn trọng tín ngưỡng, nhưng mãi đến năm 1997, lúc bộ ba Mười-Anh–Kiệt sắp ra đi, CS mới nhìn nhận thực tế có đạo Cao Đài, và năm 1998 mới chấp thuận cho 800 đại biểu Cao Đài trên toàn quốc về Tây Ninh họp bầu ra một Hội Đồng Chưởng Quản.
Xuyên qua chính sách kinh tế Việt Nam trong thời gian bộ ba Mười-Anh-Kiệt cho thấy Kiệt vẫn là người chỉ nghĩ tới đảng Cộng Sản, ưu tiên cho đảng CS, mà không phải cho dân tộc và đất nước Việt Nam.
Trong thời gian Kiệt làm phó thủ tướng và thủ tướng có nhiều tố cáo tham nhũng đối với ông ta. Những vụ tố cáo này gồm vụ ăn chận ngân sách thực hiện đường giây điện cao thế 500 KVA từ nhà máy thủy điện Hoà Bình vào nam hàng triệu mỹ kim. Công trình này do ông Kiệt đặc trách và cùng với Bộ trưởng năng lượng Vũ Ngọc Hải thực hiện. Vũ Ngọc Hải đã chịu làm con dê tế thần bị kêu án 3 năm tù, nhưng chỉ ở tù trong tình trạng ưu đãi đặc biệt chỉ trên một năm. Vụ án điện này có liên quan tới bà vợ lẻ Lương Thị Cầm của Võ Văn Kiệt nhưng bà ta không bị truy tố. Lương Thị Cầm cũng là người chuyên nhập lậu xe hơi vào Việt Nam. Vụ tai tiếng thứ hai là con trai của Võ Văn Kiệt đã bị bộ đội duyên phòng Vịnh Hạ Long bắt giữ vì nhập cảng lậu 200 chiếc xe hơi. Ông Kiệt đã mau chóng lo cho con trai, cho tiền và thăng cấp cho số quân nhân trong đơn vị duyên phòng này để ém nhẹm sự việc. Con trai của Kiệt hiện là chủ nhân hệ thống Plaza Hotel và Ty-Top Beach. Tài sản của Võ Văn Kiệt không rõ bao nhiêu, nhưng có nhiều nguồn tin cho rằng ông ta đã gởi ở các trương mục ngoại quốc ít nhất 300 triệu mỹ kim.
Hình như cho tới nay, những nhà báo, thành phần trí thức Tây Phương vẫn không hiểu gì về hệ thống tổ chức của CS. Khả năng khác biệt của một cá nhân có thể phát huy khác nhau khi đảm trách những công tác nào đó, nhưng dưới chế độ CS, chính sách của chính phủ chỉ là thi hành đường lối của Bộ chính trị đảng CS mà thôi. Võ Văn Kiệt lên làm thủ tướng trong lúc hệ thống CS Đông Âu tan rã, Liên bang Xô Viết cũng đang tự tan rã. Từ tháng 8 tới tháng 9 năm 1991, các Cộng hoà Tự trị trong Liên bang: Estonia, Latvia, Lithuania, Ukraine, Belarus, Moldova, Georgia, Armenia, Azerbaijan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Uzbekistan, Tajikstan, và Turkmenistan lần lượt tuyên bố độc lập. Trước tình hình này CSVN không còn cách gì khác hơn là phải hướng qua Trung Cộng để có thể tìm cách sinh tồn.
Khi Kiệt rời chức, người phó của ông ta là Phan Văn Khải được đôn lên làm thủ tướng. Khải ra đi trao lại cho người phó là Nguyễn Tấn Dũng. Đây là sự kế tục để bảo đảm sự điều hành trôi chảy của bộ máy hành chánh CSVN theo hướng đi của đảng. Thế nhưng, nhiều nhà bình luận Tây Phương vẫn liên tiếp đặt nhiều hy vọng vào những người thủ tướng của CSVN. Đối với họ, bí thư đảng nhất định là thành phần giáo điều bảo thủ, thủ tướng là người canh tân cải cách. Họ hết đặt nhiều hy vọng của ông Kiệt, lại đặt nhiều hy vọng ở ông Khải. Và hiện nay lại đánh giá rất cao về người thủ tướng mới là ông Nguyễn Tấn Dũng. Không hiểu nguyên do nào đã đưa tới những cái nhìn này!
Huệ Vũ
No comments:
Post a Comment