Saturday, June 14, 2008

Ðức Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền

ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC PHILIPPHÊ NGUYỄN KIM ĐIỀN
CHỨNG NHÂN CỦA SỰ THẬT VÀ LẼ PHẢI
(1921-1988)

“Đã có những Giám mục bị tù vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh.
Nay có Giám mục nào bị tù vì bênh vực quyền lợi của con người chăng?”

(Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, năm 1971)


Kỷ niệm 20 năm ngày qua đời của vị Giám mục Chứng nhân
08-06-1988 ** 08-06-2008
Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

****************************************

MỤC LỤC

Lời dẫn nhập của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

1- Thư Chung gởi Tổng giáo phận Huế ngày 01-04-1975

2- Lời phát biểu ngày 09-04-1975 trong lễ ra mắt của UB Mặt trận Dân tộc Giải phóng tp Huế.

3- Lời phát biểu ngày 28-02-1976 về vụ Vinh Sơn, xảy ra tại quận 10, Tp Sài Gòn

4- Lời phát biểu ngày 15-04-1977 nhân vụ 6 vị sư PGVNTN tại Sài Gòn bị bắt tù

5- Lời phát biểu ngày 22-04-1977 tại trụ sở UB Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh BTT,

6- Thư gửi Mặt trận TQVN tỉnh Bình Trị Thiên ngày 27-10-1977 (phúc đáp Nhận định của Mặt trận TQVN Tp HCM ngày 06-08-1977).

7- Văn thư khẳng định quyền tự do điều hành chủng viện và đào tạo Linh mục ngày 17-05-1979 (phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 16-03-1979)

8- Văn Thư khẳng định về Tiểu chủng viện Hoan Thiện ngày 15-12-1979 (phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 13-12-1979)

9- Thư gửi Linh mục Nguyễn Thế Vịnh, chủ tịch UBLL Công giáo toàn quốc ngày 19-10-1983.

10- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 19-03-1984

11- Kinh cầu cho Đức Giám mục Giáo phận (không ghi ngày)

12- Thư gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Quốc Hội CSVN ngày 11-04-1984.

13- Thư Chung gởi Tổng giáo phận Huế ngày 17-10-1984

14- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 24-10-1984

15- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 10-05-1985

16- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 20-05-1985

17- Thư Chung gởi Tổng giáo phận Huế ngày 19-10-1985

18- Thư gửi UBND dân tỉnh Bình Trị Thiên ngày 03-07-1986 về vụ án Nữ tu Trương Thị Lý

19- Di chúc gởi Tổng giáo phận Huế ngày 08-11-1985

20- Thư gởi ông Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư ĐCSVN ngày 25-3-1988.

21- Lòng người ngoại đạo (Từ Tâm, 08-06-1988)

22- Hình ảnh người cha: Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền (Gs Nguyễn Lý Tưởng, 08-06-1998)

23- Lời Chứng về cái chết của Đức TGM Ng. Kim Điền (Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý, 30-01-2001)

24- “Tinh thần Philipphê” hay lời tâm sự với Đức Cố TGM (Lm Phêrô Phan Văn Lợi, 03-06-2002)

25- Vị Giám Mục uy dũng: Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền (Nguyễn An Quý, 08-06-2003)

26- Tưởng niệm Đức TGM Nguyễn Kim Điền (Hòa Ái, 08-06-2003)

27- Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền (Lê Thiên, 4-2005)

28- Con đường đối thoại của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền (Đỗ Mạnh Tri, 29-04-2005).

29- Tổng GM Nguyễn Kim Điền, một niềm tin sắt son không dời đổi (Trần Phong Vũ, 04-2005)

30- 1975-1988: Giai đoạn Đức TGM Phil. Nguyễn Kim Điền (Lm P. Phan Văn Lợi 18-07-2005)

31- Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền, người Tiểu đệ khó nghèo (Thi Chương, 13-11-2005)

32- Nhớ lại lúc được tin Cố TGM Nguyễn Kim Điền chết (Nguyễn An Quý, 08-06-2006)

33- Lòng dũng cảm của Đức Tổng Giám Mục Philipphê (Lm Augustinô Hồ Văn Quý, 06-2007)

34- Trên cánh đồng vàng (Hoàng Chinh Nguyên, 08-06-2008)

****************************************

Lời dẫn nhập của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

Thấm thoát đã 20 năm trôi qua kể từ ngày Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền từ giã thế gian để đi về cùng Thiên Chúa, từ giã Tổng giáo phận Huế thân yêu trong tư cách một chủ chăn để đi vào lịch sử Giáo hội và lịch sử Dân tộc như một chứng nhân cho sự thật và lẽ phải.

Từ chứng, sinh chứng và tuẫn chứng của ngài đã lưu lại mãi mãi giữa chúng ta, đúc kết qua câu nói thời danh ngài từng phát biểu tại Thượng hội đồng Giám mục thế giới bàn về Công lý trên thế giới ngày 19-10-1971: “Jam sunt Episcopi qui incarcerantur propter defensionem jurium Ecclesiae. Eruntne incarcerati propter defensionem jurium hominum?” (Đã có những Giám mục bị tù vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh. Nay có Giám mục nào bị tù vì bênh vực quyền lợi của con người chăng?). Một câu nói mà có lần được hỏi sau năm 1975 rằng: “Đức Cha có nghĩ là sẽ có ngày chính mình phải thực hiện nó không?”, thì Ngài đã trả lời: “Nếu Chúa thương cho mình phải thực hành lời đó thì có hạnh phúc nào bằng! Xin cầu cho tôi được như vậy!” (Thư gởi đài Vatican ngày 19-03-1984). Và quả là ngài đã được như ý nguyện!

Cái gì đã đưa Đức TGM Philipphê đến một số phận vừa đau thương nghiệt ngã, vừa cao cả vinh quang như thế, khác hẳn hầu hết các đồng liêu của ngài kể từ 1975 đến hôm nay?

Đó là cả một quá trình dài mà chúng ta có thể khám phá ra các giai đoạn qua các bản văn ngài để lại, kể từ Thư Chung gửi Tổng Giáo phận Huế ngày 01-04-1975 đến Thư gởi Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh ngày 25-3-1988, 3 tháng trước khi lìa đời. Khởi từ một thái độ hết sức chân thành, cởi mở, thiện chí, sẵn sàng cộng tác với chế độ mới (bằng cách thiết tha kêu gọi Linh mục, tu sĩ, giáo dân trong Giáo phận mình dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi úy kỵ đối với nhà cầm quyền “cách mạng” và dấn thân để cùng nhau xây dựng lại quê hương sau những năm dài chinh chiến), Đức TGM đã dần dần chuyển qua một nỗi thất vọng não nề và một thái độ cương quyết độc lập theo nguyên tắc Đức Gioan-Phaolô II đã mách cho (Collaborer en résistant = cộng tác trong khi đề kháng, vừa cộng tác vừa đề kháng, cộng tác bằng cách đề kháng) chỉ sau hai năm thôi, lúc CSVN đã lột mặt nạ, hiện nguyên hình là một chế độ toàn trị độc tài, đè bẹp tiếng nói của tôn giáo và nhất là muốn công cụ hóa các Giáo hội. Đang khi mọi người nơm nớp nhất trí, nói theo, dù một chút thắc mắc cũng không dám bày tỏ, thì Đức TGM đã ung dung, nhẹ nhàng nêu lên tiếng nói của lương tri, của lẽ phải, của sự thật, của Tin Mừng. Đang khi hầu hết các đồng liêu không hay chưa thấy rõ mối nguy của một tổ chức lũng đoạn, phân hóa Giáo hội do CS dàn dựng là Ủy ban Đoàn kết Công giáo, thì Đức TGM đã cương quyết không chấp nhận sự hiện hữu của nó trong Giáo phận ngài. Ngoài ra, ngài cũng lên tiếng khẳng định quyền độc hữu của Giáo hội trong việc tổ chức chủng viện, đào tạo chủng sinh, tấn phong và bổ nhiệm linh mục. Đây không chỉ là việc bênh vực cho quyền lợi và tự do của tôn giáo, của Giáo hội, mà còn là bênh vực cho quyền lợi và tự do của công dân, của con người.

Thái độ này trước quyền lực chuyên chế đương nhiên là phải trả giá. Vị Mục tử bị tách biệt khỏi đoàn chiên. Vị Bản quyền bị ngăn cách khỏi các cộng sự. Vị Đại diện Giáo hội địa phương bị cấm cản gặp Lãnh đạo Công giáo hoàn vũ. Và đòn thù cuối cùng là vị Chứng nhân phải bị bịt miệng vĩnh viễn trên cõi đời này bằng một cuộc thủ tiêu hèn hạ trong bệnh viện. Thế nhưng -Cộng sản không ngờ- cái chết tử đạo đó đã làm cho lời nói và cuộc sống của Đức TGM càng thêm ngời sáng, hữu hiệu, trường tồn vĩnh viễn.

Vị Giám mục Công giáo nay vừa trở nên Chứng nhân của Thiên Chúa và Con yêu của Giáo Hội, vừa trở nên Chiến sĩ của Nhân quyền và Anh hùng của Dân tộc, những tước hiệu mà hầu hết mọi lãnh đạo tinh thần đúng nghĩa trong các chế độ độc tài, nhất là độc tài CS, đều đã giành được.

Kỷ niệm 20 năm cuộc ra đi của Đức Cha Nguyễn Kim Điền, chúng tôi muốn gởi đến Quý vị những bản văn tiêu biểu nói lên tinh thần của vị Giám mục uy dũng cũng như những bài viết của nhiều tác giả đã lột tả được tinh thần này, với lòng mong ước tinh thần đó sẽ thấm nhập mọi tín hữu Công giáo Việt Nam hôm nay, dù thuộc đấng bậc nào, để tất cả thể hiện lời Đức Phaolô VI đã nhắn nhủ: “Làm Kitô hữu trong thời đại này (đặc biệt trong chế độ CS vô thần độc tài) mà không chịu gian khổ thì không thể thành Kitô hữu đích thực”.

Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền.

Tập sách được chia làm hai phần, và các bản văn được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Chúng tôi xin đặc biệt cảm ơn Giáo sư Đỗ Mạnh Tri, Pháp, đã cung cấp cho nhiều tài liệu quý giá.

****************************************



1- Thư chung gởi Tổng Giáo phận Huế ngày 01-04-1975

Kính thưa các linh mục, tu sĩ nam nữ và toàn thể anh chị em tín hữu thân mến,

Chiến tranh đã chấm dứt trên giáo phận Huế. Đó là điều chúng ta mong ước và cầu nguyện từ 30 năm nay.

Thời gian sống trong hãi hùng lo âu qua rồi. Thời gian đồng bào chúng ta nghi kỵ, chia rẽ, thù hận nhau, có khi đến chém giết nhau đã qua rồi. Chúng ta hãy cùng nhau cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân quý giá này. Chúng ta hãy ghi ân tất cả những ai đã hy sinh để có được những ngày an bình hiện nay. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa cho cảnh thanh bình nầy còn mãi trên quê hương chúng ta !

Giờ đây đã đến lúc chúng ta hoan hỷ sẵn sàng và hăng say cộng tác với mọi người thiện chí, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Cách mạng để xây dựng lại quê hương sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ruột thịt.

Hơn bao giờ hết, đây là lúc chúng ta cần đoàn kết, yêu thương và phục vụ người khác, giúp đỡ và chia sẻ cơm áo với đồng bào; không phải chỉ chia sớt những gì mình dư thừa, mà còn trao nhường những gì mình chỉ có vừa đủ, theo tinh thần bác ái của Chúa Giêsu mà mọi người thiệ chí và mọi chính quyền trên thế giới quyết tâm thực thi mỗi ngày mỗi hoàn hảo hơn. “Này là lệnh truyền của Ta: các con hãy thương yêu nhau, như Ta đã yêu thương các con” (Gioan 15,12). Vì yêu chúng ta, Chúa đã chết cho chúng ta, thì còn gì mà chúng ta không làm được để tỏ lòng yêu mến nhau ?

Giờ đây, chúng ta hãy khoan dung, tha thứ mọi lỗi lầm, đừng nghi ngờ, thù hận ai và gây sợ hãi cho ai. Nhưng trái lại, phải hiểu tốt, thông cảm và nhìn nhận thiện chí của người khác, để tất cả mọi người sống thoải mái, vui tươi, hạnh phúc của những công dân trong chế độ tự do dân chủ, thịnh vượng và hoà bình. Lý do là vì mọi người đều là anh em có cùng một Cha trên trời (x. Matt. 23,9).

Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy sống Phúc Âm của Chúa Giêsu cho đến tận cùng: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Matt. 20,28).

Nhưng hơn hết, chúng ta phải sống đời tâm linh, đạo đức và thánh thiện để đạt tới đời sống vĩnh cửu, khi thân xác này trở về với cát bụi. Chúng ta phải cùng nhau xây dựng thế giới huynh đệ đại đồng cho hôm nay, nhưng không phải dừng lại đó, mà để nhờ đó chúng ta đạt tới đời sống huynh đệ trường cửu. Bấy giờ chúng ta mới thật là anh em của nhau không thể chia lìa được và cùng nhau hưởng hạnh phúc bất diệt trong Thiên Chúa.

Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban mọi phúc lành cho anh chị em.

Huế ngày 01 tháng 04 năm 1975
Nguyễn Kim Điền
Tgm giáo phận Huế.

****************************************

2- Lời phát biểu ngày 09-04-1975
trong lễ ra mắt của Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế

“Ở đời này, không có gì quý hơn mạng sống con người, không có gì quý hơn độc lập tự do. Bao nhiêu mạng sống con người được bảo tồn, nếu chiến tranh chấm dứt sớm đi một ngày. Chiến tranh đã chấm dứt trên một phần lớn của quê hương chúng ta. Độc lập hôm nay là một sự thực cho cố đô Huế.

Còn tự do thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã long trọng bảo đảm cho toàn thể đồng bào, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng cho đồng bào các tôn giáo.

Mạng sống của con người, độc lập của đất nước, tự do của nhân quyền được bảo đảm, như vậy niềm vui mừng của chúng tôi, của những người công dân công giáo Việt Nam yêu nước, được trọn hảo.

Như vậy, đồng bào công giáo nguyện tích cực góp phần với tất cả đồng bào ruột thịt để cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng xây dựng một xã hội đầy tình thương, tự do, dân chủ, thịnh vượng, hoà bình, trong đó chúng tôi được chu toàn bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa”.

****************************************

3- Lời phát biểu ngày 28 tháng 02 năm 1976
về vụ Vinh Sơn, xảy ra tại quận 10, Thành phố Sài Gòn


Kính thưa Quý Vị,

1/ Theo tin tức của báo chí và đài phát thanh trong nước cho biết về vụ VINH SƠN, xảy ra từ 19 giờ ngày 12 đến 8 giờ 30 ngày 13-02-1976, tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi rất xúc động và đau xót. Không bao giờ chúng tôi chấp nhận một hành động phạm pháp như vậy.

2/ Ngay từ đầu, Chánh quyền Cách mạng sáng suốt và tế nhị đã tách rời sự việc xảy ra này với sinh hoạt tôn giáo, tránh được những hiểu lầm và hậu quả có thể do đó mà ra. Chúng tôi chắc rằng đồng bào thân yêu cũng sáng suốt, không ai lại có thể nghĩ vụ Vinh Sơn là chủ trương của tôn giáo.

3/ Nhân dịp này, chúng ta lại có thêm một bằng chứng hùng biện nữa cho thấy Chánh quyền Cách mạng đã sáng suốt chủ trương Chánh sách “Hòa hợp Dân tộc” trong việc Thống nhất Nước nhà. Tuy nhiên, trong thực tế, ai cũng đều nhận là việc thống nhất ý chí và tình thương giữa đồng bào với nhau là một công tác khó khăn nhưng cấp thiết mà mỗi người chúng ta phải thực thi cho kỳ được trong lúc này. Ý thức bổn phận trước mắt đó, đồng bào công giáo chúng tôi quyết tâm thực hiện tốt Chánh sách “Hòa hợp Dân tộc” của Chánh quyền Cách mạng, chính mình thực thi và động viên mọi người cùng thực thi tình ĐẠI ĐOÀN KẾT, để chóng hoàn thành Thống nhất Tổ quốc về mọi mặt, nhất là về mặt nhân tâm.

4/ Sau cùng, chúng tôi minh xác lại lập trường của đồng bào công giáo Thừa Thiên-Huế-Quảng Trị chúng tôi là luôn luôn nỗ lực tối đa để phục vụ Tổ quốc và Thiên Chúa, bằng làm thật tốt bổn phận công dân yêu Nước và bổn phận công giáo phượng thờ Thiên Chúa. Hai bổn phận này, đối với chúng tôi, vẫn là một không thể tách rời nhau, như không thể tách rời xác với hồn của một con người vậy.

Chúng tôi xin hết lời và cảm ơn Quý vị.

Huế, ngày 28 tháng 02 năm 1976
T.M. Đồng bào Công giáo
Thừa Thiên - Huế - Quảng Trị
… Ph. Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám mục

(Phát biểu trong buổi họp mở rộng gồm các Vị Đại diện Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Thừa Thiên-Huế, Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế, các đoàn thể quần chúng, các Giáo hội Phật giáo, Tin lành, Cao đài và Công giáo Thừa Thiên-Huế, tại Trụ sở UB MTDTGP thành phố Huế, chiều ngày 28-02-1976).

****************************************

4- Lời phát biểu ngày 15 tháng 04 năm 1977
nhân vụ 6 vị sư PGVNTN tại Sài Gòn bị bắt tù


Kính thưa đoàn chủ tịch

Kính thưa các vị đại biểu,

Tôi mới nghe biết vụ này qua Thông báo của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và sự trình bày của ông ủy viên Mặt trận Tổ quốc (VN) tỉnh vừa rồi thôi. Tôi cũng vừa nghe ông Trần Văn Long phát biểu và đề nghị phải có biện pháp mạnh cho vụ xảy ra đó và phải phổ biến sâu rộng; đang khi Thượng tọa Thích Thanh Trí thì xin Chính quyền khoan hồng cho Tội nhân và nghĩ rằng phổ biến vụ này như hôm nay đây có đầy đủ đại diện các giới đủ rồi.

Phần tôi không có ý kiến. Xét xử là việc của chính quyền, xin để chính quyền định liệu.

Tôi xin chia buồn và thông cảm với tôn giáo bạn. Vì chính tôi đã trải qua cái cảnh tượng như vậy trong vụ Vinh sơn. Chắc chắn, không ai trong chúng ta có mặt hôm nay chấp nhận việc làm như bản thông báo kể lại đó. Tuy nhiên, không khỏi xót xa khi vụ đó liên can đến người cùng tôn giáo với mình. Biết ăn nói làm sao đây! Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!

Nhưng đây là một biến cố thôi, và các biến cố tương tự có thể còn sẽ xảy ra, nếu không trừ tận gốc. Theo thiển ý của tôi, nếu còn tựa vào tôn giáo để xách động này khác, là vì chưa có tự do tín ngưỡng thực sự đó thôi. Thực sự, tôi chưa cảm thấy thoải mái về tự do tín ngưỡng.

Chính quyền nhiều lần tỏ ý muốn là nếu có chi không thỏa mãn thì nên nói ngay với cơ quan trách nhiệm, thay vì tung tin trong quần chúng hoặc rỉ tai này nọ, thì hôm nay, hết sức chân thành, tôi xin nói lên điều này với Mặt trận Tổ quốc tỉnh và thành. Mong đừng ai nghĩ như vậy là phản động. Thú thật, nghe hai tiếng “phản động” tôi ớn lắm, và cũng không biết ngày nào mình phải mang hai tiếng ấy. Tôi muốn 2 điều thôi: là tự do tín ngưỡng và bình đẳng trong quyền công dân.
***

Hồ chủ tịch đã nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Câu nói ấy rất chí lí, rất sáng suốt.

Tuy nhiên, đoàn kết trên cơ sở nào đây ? (ngừng giây lát) và đoàn kết bằng những nhân tố nào? (ngừng giây lát). Theo tôi nghĩ thì chắc chắn phải đoàn kết trên cơ sở TÌNH DÂN TỘC, và bằng những nhân tố: biết, hiểu để thông cảm nhau, thì mới có đoàn kết.

Biết, có nhiều cách biết. Biết khách quan hoặc biết chủ quan. Biết chủ quan thì chắc chắn là không khoa học và cũng không thông cảm nhau được. Thú thực, chắc tôi không dám trình bày về các tôn giáo bạn, về giáo lí, vì tôi sẽ nói không đúng, tôi càng không dám nói về Đảng hơn nữa, vì chỉ có Đảng viên họa may mới nói đúng về đảng của mình. Bằng chứng là ở trong nhiều cuộc họp hay học tập, tôi nghe nói về Đạo Công giáo mà không đúng gì cả, gán cho những ý nghĩa hay mục đích mà từ trước tới giờ, tôi chưa bao giờ nghe dạy trong đạo Công giáo. Do đó, phải biết và biết đúng, biết khách quan. Mà chỉ có người trong cuộc mới nói đúng việc của mình. Vậy tôi xin nói lên ý nghĩ của Công giáo về 2 điều trên

Thứ nhất: Về Tự do tín ngưỡng

Thú thật, sau ngày giải phóng, khi nghe Nhà nước có chính sách Tự do tín ngưỡng, là tôi hết sức mầng, hết sức phấn khởi, như những lời phát biểu đầu tiên của tôi. Nhưng 2 năm qua rồi, tôi cảm thấy không thoải mái, vì chưa có tự do tín ngưỡng thực sự.

Các nghi lễ bị hạn chế, các linh mục không được đi lại phục vụ đồng bào Công giáo, như ở vùng kinh tế mới. Một vài nhà thờ bị cấm lễ lạc hay bị chiếm cứ.

Tôi rất hoan nghênh Nhà nước đã rất sáng suốt chủ trương Chính sách tự do tín ngưỡng. Điều đó rất rõ ràng trong 5 Sắc lệnh và Thông tư về tôn giáo. Nhưng đó là văn bản. Còn các khẩu lệnh (lệnh miệng thôi) thì nhiều khi trái ngược với tinh thần văn bản. Trong trường hợp đó, xin hỏi tôi phải nghe theo ai đây? Cứ theo văn bản hay nghe khẩu lệnh? Tôi xác tín là chính sách không sai, nhưng khẩu lệnh lại là của nhân viên chính quyền. Chắc tôi không nên đồng hóa nhân viên làm việc sai lệch với chính quyền.

Về Nhà thờ, các nơi thờ phượng, thì tôi xin phép so sánh như vầy. Cái gì là quí nhất của đất nước chúng ta hôm nay? Thiết nghĩ là các bảo tàng và lăng Hồ Chủ tịch. Các phái đoàn bạn hữu ngoại quốc, nếu không có thì giờ đi xem các bảo tàng thì ít ra cũng phải đến viếng lăng Hồ Chủ tịch. Giả sử ngày nào đó lăng Hồ Chủ tịch bị chiếm, bị dùng vào một việc gì khác, thử hỏi có người Việt Nam nào chịu như vậy không? Tôi thì không chịu được đó và cá nhân tôi sẽ xin xung phong cùng đi giải thoát. Thì Nhà thờ của Công giáo cũng vậy, lớn nhỏ, xấu tốt gì thì cũng là nhà đã dâng cho Thiên Chúa rồi.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Đại hội toàn quốc họp tại Thành phố Hồ Chí Minh đầu tháng hai vừa rồi có chủ trương: “Bảo hộ Nhà chùa, Nhà thờ, Thánh thất đang dùng làm nơi thờ cúng của các tôn giáo”.

Về các lễ nghi thờ phượng, từ 2 năm qua, chúng tôi đã sắp xếp không làm trong giờ lao động sản xuất. Có lẽ có người cho là thiệt hại sức khỏe, mất sức lao động, nếu thay vì nghỉ ngơi, còn phải tham dự lễ nghi tôn giáo. Lí lẽ đó có thể đúng cho Nhà nước khác, mà không đúng cho nước chúng ta. Bằng chứng là lính Mỹ và binh sĩ của chế độ cũ ăn ngủ dữ lắm, đủ tiện nghi, đủ phương tiện. Nhưng chúng ta đã thắng. Tôi được nghe ông Phó chủ tịch Tống Hoàng Nguyên đây (đang điều khiển buổi họp này) kể lại những gian lao thiếu thốn của chiến sĩ ta ở Trường Sơn, tôi nghe mà rướm lệ thật, nhưng những chiến sĩ này đã thắng! Thắng vì không phải ăn no ngủ đủ, mà vì có tinh thần, có lý tưởng. Thì người cùng tôn giáo chúng tôi cũng vậy, tinh thần chúng tôi thoải mái thì mới phục vụ đắc lực được.

Nhưng 2 năm qua rồi, chúng tôi cảm thấy chưa có tự do tín ngưỡng.

Thứ hai: Về bình đẳng trong quyền công dân

Trong hai năm qua, thú thật người Công giáo chúng tôi cảm thấy làm sao á! Ở đâu, làm gì cũng bị nghi ngờ, chèn ép.

Học sinh ở trường thì cứ nghe những bài chống đối Công giáo, mạ lị Công giáo. Thực thì có những sai lầm trong các thế hệ, nhưng thiết nghĩ góp nó lại và so sánh với 2000 năm lịch sử Công giáo, thì có thấm vào đâu với những việc tốt và đúng mà không được nói tới. Đàng khác, thời đại nào, kỷ cương nấy. Đem một việc của thời đại xa xưa mà phán đoán theo tầm mắt hiện giờ, thì chắc là không khoa học đó.

Trong giới công nhân, công viên chức bệnh viện hay giáo viên, thường người Công giáo được cho là tiên tiến, nhưng chắc rồi cũng không làm việc được, vì là Công giáo. Đi xin làm việc, hoặc bị từ chối, hoặc gặp khó khăn trong việc làm, muốn biết căn do, thì được rỉ tai cho biết là bỏ đạo hay đừng đi Nhà thờ nữa sẽ êm xuôi.

Thực như lời phát biểu của một ủy viên của Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp tại thành phố Hồ Chí Minh vừa rồi đó, thì người Công giáo có cảm tưởng mình là công dân hạng hai vậy.

Nhà nước thì chủ trương mọi người đều bình đẳng, mọi dân tộc trong Đất nước bình đẳng. Nước Việt Nam chúng ta có 50 triệu dân. Người Kinh 45 triệu. Gần 60 dân tộc ít người là 5 hay hơn 5 triệu. Người công dân Công giáo tối thiểu là 3 triệu, mà không được bình đẳng trong quyền công dân.

Trong hai năm qua, người Công giáo trong tỉnh nhà có cố gắng nhiều, chính quyền cũng thấy đó. Về lao động cũng không có gì chê trách. Về bầu cử hình như được cho là có kỷ luật. Chúng tôi chỉ xin được bình đẳng trong quyền công dân thôi.

Trong thông báo về vụ xảy ra đó của Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mà chúng tôi vừa được phát ra đây, đoạn áp chót có nói: “Ủy ban Nhân dân thành phố và các cơ quan chính quyền các cấp phải thi hành đầy đủ chính sách tự do tín ngưỡng mà chính phủ đã xác định. Không cho phép ai vi phạm cũng như cho phép ai lợi dụng”.

Lạm dụng, thì phần chúng tôi quyết tâm không hề lạm dụng.

Đó là vài ý kiến nhỏ của tôi, xin phép được góp phần với Mặt trận Tổ quốc trong việc đoàn kết.

Tôi thiết nghĩ nếu có tự do tín ngưỡng thực sự, thì không ai tựa vào sự đàn áp tôn giáo mà làm những gì sai trái, rồi đổ hô và xách động để bảo vệ tôn giáo được nữa, và dân chúng không tin nữa, vì đang có tự do tín ngưỡng rồi.

Xin cám ơn các vị.

(Đây là những ý nghĩ và thứ tự các ý nghĩ đó trong lời phát biểu đột xuất của tôi, trong buổi họp ngày 15-04-1977, do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên và thành phố Huế tổ chức, để thông báo về vụ chính quyền bắt giữ 6 vị Sư Phật giáo Việt Nam Thống nhất, hệ phái Ấn Quang. Bài ghi lại này được tôi viết ra ngày 19-04-1977. Có thể là khi phát biểu đột xuất, câu văn và nhiều từ không được “nguyên văn” như trong bài ghi lại. Nhưng tôi cam đoan về ý nghĩ và thứ tự các ý nghĩ thì trung thực).

Thành Phố Huế, ngày 19 tháng 04 năm 1977.
(đã ký tên)
… Philipphê Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám Mục Huế

****************************************

5- Lời phát biểu ngày 22 tháng 04 năm 1977
dịp tọa đàm bản dự thảo “Đề cương báo cáo của Ban Chấp hành đảng bộ Đảng CSVN tỉnh Bình Trị Thiên” cho Đại hội Đảng bộ tỉnh lần I (vòng 2) tại trụ sở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh BTT, có mặt các Đại diện tôn giáo, nhân sĩ và trí thức tại thành phố Huế

Kính thưa Chủ tịch đoàn

Kính thưa các vị Đại biểu

Ông Chủ tịch điều khiển cuộc họp vừa bảo bỏ đi những lời mào đầu, mà nói lên ngay đề tài phát biểu, để tiết kiệm thì giờ.

Vậy tôi xin nói liền lời cảm ơn Ban tổ chức đã cho tôi vinh dự được tham gia đóng góp ý kiến vào bản Dự thảo Đề cương Báo cáo của Đảng bộ tỉnh, một việc làm có tính cách mới mẻ và cởi mở, vì Đảng và tôn giáo thường không đi chung với nhau (Cử tọa đột xuất vỗ tay).

Trước hết tôi xin hoan nghênh “tinh thần” của bản Dự thảo Đề cương này. Tôi nói “tinh thần”, vì cách làm việc tập thể, có sự đóng góp trí tuệ của nhiều người; vì biết lưu ý đến từng giới, từng ngành, từng việc nữa; nhất là vì chân thành, khiêm tốn và can đảm nhìn nhận không những ưu điểm mà khuyết điểm nữa. Theo tinh thần đó, thì hy vọng hay chắc chắn bản “Đề cương” sẽ được một NỘI DUNG hoàn hảo, phong phú hơn, nhờ những đóng góp tích cực của các tầng lớp đồng bào trong tỉnh.

Phần tôi là người phục vụ tôn giáo, tôi xin phép góp một ý nghĩ “nhỏ” về CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO được nói đến trong phần thứ 2, mục C (Củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội) trang 6 báo DÂN.

Nếu tôi không lầm, thì bản Dự thảo Đề cương dùng chữ “tôn giáo” chỉ có 2 lần: một lần khi nói đến “Công tác Mặt trận trong giai đoạn mới… nhằm đoàn kết các tầng lớp nhân dân, trong đó có các tôn giáo” (trong mục B khi nói về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân); một lần nữa trong mục C khi nói về “Củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội”, sau khi đã kể ra bao nhiêu tội phạm và âm mưu phá hoại…

Có người nghĩ là bản Đề cương nói đến tôn giáo ít quá. Tôi thì tôi nghĩ Đảng phải lo không biết bao nhiêu chuyện, mà tôn giáo đối với Đảng là một vấn đề nhỏ thôi; lại Đảng chủ trương không tôn giáo, vô thần, nên có nhắc đến tôn giáo như vậy cũng tạm được rồi.

Có người nhạy cảm thấy nói về “chính sách tôn giáo” trong mục “bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội” thì nghe làm sao á, và hơi sợ. Nhưng đọc kỹ lại, thì tôi thấy có nói: “Trong công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội, phải nắm vững và vận dụng đúng đắn đường lối và chính sách của đảng, đặc biệt là chính sách tôn giáo v.v…” thì tôi an tâm, vì Đảng chủ trương tự do tín ngưỡng, mà một khi cán bộ phải “nắm vững và vận dụng đúng đắn đường lối chính sách của đảng”, với tinh thần can đảm biết sửa sai, thì cũng đủ bảo đảm rồi.

Tuy nhiên, không chắc ai cũng đều hiểu như vậy, nên để tránh những lo âu và cảm tình không mấy tốt của đồng bào có tôn giáo đối với Đảng, thì tôi xin đề nghị: nếu có thể được, đem chỗ nói về chính sách tôn giáo lên mục B, nơi nói về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”. Hình như trong nghị quyết của Đảng, kỳ Đại hội IV, đề cập về tự do tín ngưỡng cũng trong mục đó.
* * *
Ông Tống Hoàng Nguyên, khi khởi đầu buổi họp sáng nay có dặn: nên góp ý vào việc lao động sản xuất và kinh tế cách trực tiếp hơn.

Theo tôi nghĩ: nếu cho tự do tín ngưỡng, thì năng suất của đồng bào Công giáo sẽ lên cao lắm. Thực thì có chính sách tự do tín ngưỡng bằng văn bản đó (có 5 sắc lệnh và thông tư về tôn giáo). Nhưng cũng có những khẩu lệnh đi ngược với bản văn.

Tôi xin đơn cử một việc vừa xảy ra ngày 10-04-1977 tại thôn Trí Bưu, xã Hải Trí, huyện “mới” Triệu Hải (Quảng Trị). Ngày Chúa nhật 10-04-1977 là ngày lễ Phục sinh của Công giáo, là lễ lớn nhất trong Đạo đã được chuẩn bị bằng cả một tuần trước. Xã Hải Trí phải làm thủy lợi chính trong thị xã Quảng Trị. Huyện cho làm trong 10 ngày, nhưng xã rút xuống còn 5 ngày để thi đua. Mỗi thôn được chia phần của mình và sẽ phát động lao tác vào sáng Chúa nhật.

Ngày thứ 7, thôn Trí Bưu (gần hết là Công giáo) đã đệ đơn xin xã xét lại cho đồng bào Công giáo có giờ đi cử hành nghi lễ Đạo, rồi sau đó sẽ đi làm, nếu không kịp thì xin làm đêm nữa. Nhưng xã không cho, nói là có lệnh phải đi làm.

Có người nói với xã xin xét lại, vì nếu đồng bào họ không tuân lệnh thì tổn thương phần nào uy quyền của Chính quyền địa phương đi. Như hôm lễ Giáng sinh 1976, thôn Trí Bưu cũng đã không đi làm, vì họ phải đi lễ. Nhưng xã cũng cương quyết không xét lại. Thì rồi thôn Trí Bưu lấy quyền nhân dân làm chủ nên không đi làm thủy lợi hôm đó, mà đi lễ hết. Nhưng sau lễ, họ huy động cả thôn ra làm thủy lợi, thì thay vì 5 ngày, họ làm trong 2 ngày rưỡi là xong. Nghe nói xã định tuyên dương họ, nhưng họ xin không nhận, vì lẽ họ có không tuân lệnh đi làm trong ngày lễ Chúa Phục sinh hôm đó.

Nếu người công dân Công giáo được thoải mái về tín ngưỡng của họ, thì họ sẽ phục vụ hăng say có lợi cho kinh tế lắm. Điều này tôi chắc Đảng và Nhà nước quá hiểu nên đã có chính sách tự do tín ngưỡng vậy.

Vậy tôi xin phép mở một cái ngoặc, để xác định lại cái danh từ “Thiên Chúa giáo” và “Công giáo”. Tôi thấy trong văn thư của chính quyền chỉ dùng có danh từ “Thiên Chúa giáo” để chỉ người Công giáo. Thực ra, “Thiên Chúa giáo” chỉ chung những con người tin thờ Thiên Chúa trong đó có gần 200 triệu thuộc Chính thống giáo, hơn 200 triệu thuộc Tin lành và hơn 650 triệu thuộc Công giáo. Tất cả là hơn 1 tỷ người. Đó là Thiên Chúa giáo theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì phải kể cả thế giới Hồi giáo nữa, vì họ cũng tin thờ Thiên Chúa. Tuy nhiên, giữa những người cùng tin thờ Thiên Chúa đó, có cơ cấu khác nhau, có tổ chức khác nhau. Đến đây tôi xin đóng ngoặc lại.

Tôi xin trở lại chính sách tự do tín ngưỡng. Tôi thiết nghĩ chỉ có tự do tín ngưỡng thực sự thì những người có tín ngưỡng mới sống thoải mái hạnh phúc trong chế độ xã hội chủ nghĩa mà thôi. Thực thì Đảng và nhà nước có chủ trương chính sách tự do tín ngưỡng bằng sắc lệnh, bằng văn bản. Nhưng trong thực tế, vẫn có những khẩu lệnh đi ngược với chính sách. Việc này chắc còn phải dài lâu và hy vọng sẽ được giải quyết từng trường hợp.

Đảng chủ trương tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng. Nhưng thiết tưởng không vì thế mà được mạ lỵ tín ngưỡng.

Ông Tống Hoàng Nguyên hôm trước có khẳng định: “Đảng chúng tôi không cấm tôn giáo đâu. Vì coi đó là một yêu cầu xã hội và tâm lý. Bao lâu nhân dân cần đến thì cứ để”. Tôi cũng nghĩ như vậy: chừng nào đồng bào không thèm tôn giáo nữa thì thôi, tự nhiên sẽ hết tôn giáo. Còn cấm cản, thì chắc không cấm cản được.

Không thể cấm cản hay diệt trừ tôn giáo được. Điều này có lịch sử chứng minh. Đạo Công giáo khi mới còn là một nhóm nhỏ đã bị bắt bớ trong 300 năm ở đế quốc La mã rồi. Nay đế quốc La mã mất lâu rồi, đạo Công giáo vẫn còn và còn nhiều. Hy lạp cổ xưa cũng mất lâu rồi, mà đạo Công giáo vẫn còn. Nhật bản đã diệt đạo Công giáo và đã có trụ đá khắc chữ: người Kitô giáo không còn nữa trên đất Phù tang. Nhưng năm 1865, người ta phát hiện ra người Công giáo Nhật sau 250 năm vắng bóng công khai trên đất Nhật. Ở Việt nam, đạo Công giáo có từ năm 1533, chứ không phải lúc Pháp đến, và do một số người truyền đạo không phải là người Pháp. Không may, sự hiện diện của các người truyền đạo Pháp trùng hợp với lúc Việt nam bị mất độc lập và tự do. Đạo Công giáo ở Việt nam bị bắt bớ khi ít khi nhiều trong vòng 260 năm, nhất là trong triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Các vua này mất hết rồi và đạo Công giáo vẫn còn với khoảng 3 triệu tín đồ bây giờ.

Tôi có đọc những tài liệu bài trừ Công giáo ở Liên xô, cũng như trong một số nước ở tại Đông Âu. Dù cho có cố gắng hay điều chỉnh kế hoạch cũng không tiêu diệt tôn giáo được. Bằng chứng là sau 60 năm, vẫn còn tôn giáo ở Liên xô và ở các nước kia.

Năm rồi, tại thành phố Hồ Chí Minh, tôi đã nghe một vị ở trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng nói: “Chúng tôi, người Cộng sản, thông cảm dễ dàng với người Thiên Chúa giáo, vì chúng tôi cũng quốc tế, vì chúng tôi cũng bị đàn áp bắt bớ. Trong 30 năm qua, Cộng sản đâu có quyền sống trên mặt đất Việt nam này, bị tầm nã luôn, gặp đâu là giết đó. Nhưng có quyền lực nào đàn áp được chúng tôi đâu. Cuối cùng, chúng tôi thắng. Không thể đàn áp tư tưởng được. Do đó, chúng tôi có chính sách tự do tín ngưỡng”.

Ở địa phương kia có xảy ra một biến cố. Dân chúng di tản cả. Nhưng còn sót lại một bé gái 8 tuổi chạy tới chạy lui khóc lóc tìm cha mẹ. Những người có bổn phận ổn định tình thế hỏi nó thì mới biết nó lạc mất cha mẹ. Họ an ủi nó: “Thôi em, đừng buồn nữa. Đó là dấu cha mẹ em không thương em đó. Nếu thương thì sao quên con mình được. Mà em là Công giáo phải không? Này nói cho em biết, từ nay sắp lên, không còn có đạo ở đây nữa nghe chưa!” Bé gái không khóc nữa mà dõng dạc nói: “Không đúng, bao lâu còn tôi là còn đạo!”

Đạo ở trong lòng, cho dù bên ngoài không còn di tích gì nữa, nhưng còn trong lòng, không ai động đến được. Có thể giết xác, nhưng không thể giết được lòng. Quan niệm của Công giáo là vậy.

Hôm qua có một vị phát biểu là đã nghe Hồ Chủ tịch thường căn dặn cán bộ trí thức rằng: “Lao động trí óc mà không lao động chân tay, hoặc lao động chân tay mà không lao động trí óc, thì là một con người bán thân bất toại”. Câu nói đó rất chí lý, sáng suốt. Thì cũng vậy, con người chỉ thoải mái về vật chất mà không thoải mái về tín ngưỡng, thì là con người bán thân bất toại vậy. Như thế, ích lợi gì cho Tổ quốc!

Có người nghĩ là Công giáo tồn tại nhờ dựa trên kinh tế, trên thế lực. Không phải vậy mà ngược lại. Đấng lập đạo Công giáo đã nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Ta không có chỗ gối đầu”. Và Người còn chủ trương một điều mà trên đời không mấy ai chấp nhận là: “Phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo”. Thật vậy, khi nào vinh quang, có nhiều của cải là lúc Công giáo yếu nhất. Ngược lại, Công giáo càng nghèo khó, càng túng thiếu bao nhiêu thì càng mạnh bấy nhiêu.

Về các việc từ thiện, xã hội, thì Công giáo chúng tôi quan niệm thế này. Vì chính quyền không làm hết các việc đó, nên chúng tôi phụ lực với chính quyền, như con cái trong nhà phụ việc cho cha mẹ. Ngày nào chính quyền tự làm được hết các việc đó, thì chúng tôi vui mầng trao lại cho chính quyền. Bằng chứng là sau ngày Giải phóng, chúng tôi đã trao cho chính quyền hơn 60 cơ sở giáo dục, trong đó có trường Thiên hựu ở gần đây.

Về nhà thờ, thì dù lớn nhỏ, xấu tốt chi thì cũng là của đã dâng cho Thiên Chúa rồi, không thể xâm phạm được, cũng như không thể xâm phạm lăng Hồ chủ tịch vậy.

Vừa rồi có vụ không hay xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh liên quan tới cô nhi viện Quách Thị Trang. Chúng tôi cũng có cô nhi viện Kim Long, đã trên 30 năm rồi, chỉ do một nhóm nhỏ nữ tu điều hành tự túc. Hiện nay có hơn 200 người, từ trẻ sơ sinh đến ông già bà lão mù lòa, tê bại. Bây giờ, các nữ tu phải lo tự túc ăn uống hằng ngày cho bao nhiêu người đó. Vậy ngày nào chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên định quản lý là chúng tôi vui mầng trao ngay cho chính quyền.

Đó là những điều tôi xin chân thành phát biểu với các vị.

Xin cám ơn.

(Bài này được tôi viết ra ngày 24-04-1977, đã phát biểu ứng khẩu ngày 22-04-1977. Có thể khi phát biểu ứng khẩu, câu văn và nhiều từ không được “nguyên văn” như trong bài ghi lại. Nhưng tôi cam đoan về ý nghĩ và thứ tự các ý nghĩ thì trung thực).

Thành Phố Huế, ngày 24 tháng 04 năm 1977.
(đã ký tên)
… Philipphê Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám Mục Huế

No comments:

Post a Comment