Sunday, June 8, 2008

Cách miệng đi trước cách mạng

Trương Minh Hòa

Lời người viết: Từ khi khối Cộng Sản Quốc Tế Âu Châu tan rã vào đầu thập niên 1990, một số tổ chức gọi là chống Cộng, với chủ trương lập lờ đánh lận con đen như những tay chơi bài ba lá: cũng hô hào đấu tranh cho dân chủ, giải thể chế độ độc tài Cộng Sản,... nhưng họ đưa ra công thức đấu tranh "ôn hòa, bất bạo động kiểu Gandhi" với "dân chủ đa nguyên" để tiến đến biến "Cộng Sản thành dân chủ" bằng phương thức "cải hóa" những kẻ bất lương dần dần theo thời gian, giúp cho đảng cướp nầy thức tỉnh, trả lại tự do cho người dân .... nên những tổ chức ấy đi xa hơn, họ coi là nhằm "tỏ thiện chí" là tiến tới xóa bỏ tội các tày trời của đảng và Hồ Chí Minh đối với dân tộc, bắt tay, hòa hợp hòa giải, sống chung, cùng nhau xây dựng đất nước ... dù đảng cướp Cộng Sản Việt Nam vẫn luôn cầm vũ khí trong tay, càng ngày càng ngoan cố và tung ra nhiều thủ đoạn để cướp, lừa, thu nhiều tiền hơn nữa. Trong chuyện cổ tích Phật Giáo, khi 18 tên cướp thật sự hối cải, từ bỏ vũ khí, đem nấu thành nước, nên được ca tụng và đắc quả trở thành "thập bát La Hán"; trong khi đó thì đảng cướp Cộng Sản Việt Nam vẫn như cũ, thế mà những tổ chức cố tình mặc chiếc áo gấm cho kẻ cướp được chính danh để tiếp tục cướp của, giết người, phản dân, bán nước. Từ lâu, một số tổ chức mệnh danh chống Cộng nhưng lại "theo định hướng xã hội chủ nghĩa" đã dùng bài học Ba Lan, Đông Âu để ru ngủ dân Việt Nam hải ngoại, lại được đảng Cộng Sản "Tương kế tựu kế" đưa ra một số tay "phản tỉnh cuội" là liều thuốc an thần. Những màn ảo thuật tồi nầy khó qua mắt được những người có quá nhiều kinh nghiệm với Việt Cộng. Do đó bài viết nầy nhằm giải thích lý do "Việt Nam không phải là Ba Lan thứ hai", giải tỏa hỏa mù của những tổ chức chống Cộng dỏm tung ra từ nhiều qua qua.

* *
*

Sau khi đế quốc đỏ Liên Sô, lãnh đạo khối Cộng Sản Quốc Tế và toàn thể các nước Cộng Sản Đông Âu tiên tiến nhất trong khối bị sụp đổ một cách thảm hại, thế giới thở phào nhẹ nhõm về bóng tử thần của cuộc đệ tam thế chiến đi qua, chắc phải tàn khốc với vũ khí nguyên tử, chấm dứt chiến tranh lạnh một cách nhẹ nhàng, không có những trận đánh khốc liệt cuối cùng như ngọn đèn sắp tắt lóe lên lần cuối, được chứng minh qua hai cuộc thế chiến vừa qua, mà trong chiến trường, việc: "chiến thắng lớn, hòa bình mau" được coi là nguyên lý giải quyết bất cứ cuộc chiến nào, nhưng chiến tranh lạnh là một ngoại lệ. Đó là quy luật tất yếu "mâu thuẫn nội tại" với mầm mống hủy diệt luôn sẵn có trong bất cứ vật thể nào, bao gồm cả các vật cứng; nếu nó vẫn đứng nguyên như các chế độ độc tài, thì sau thời gian tồn tại, chắc chắn tự hủy; nhưng các vật thể luôn cải tiến như các thể chế chính trị dân chủ, thì "cái hủy thể" luôn được tu chỉnh, sửa chữa, nên vẫn tồn tại và đứng vững mãi mãi theo thời gian. Sau khi những nước tiên tiến, giàu mạnh nhất của Khối Cộng Sản Quốc Tế bị "hủy thể", còn lại tàn dư Cộng Sản mạnh nhất ở Á Châu với Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn, Lào; trước sự tan rả của khối Cộng Sản Quốc Tế, có một số người tỏ ra lạc quan tin tưởng một cách máy móc là: trước sau gì Cộng Sản tàn dư cũng tự "phế võ công" như Liên Sô.

Thế nhưng từ thập niên 1990 đến nay, tàn dư Cộng Sản Á Châu vẫn chưa sụp đổ, vì họ đã áp dụng thành công chiến lược căn bản, chủ đạo là: "khi thoái trào cách mạng thì lùi lại một bước; đợi khi cao trào cách mạng, tiến lên ba bước". Trung Cộng và Việt Nam biết lợi dụng sách lược toàn cầu của Hoa Kỳ và các nước Liên Âu trong việc duy trì nền hòa bình giai đoạn hầu làm ăn, buôn bán dễ dàng, tạo thành cơ hội thuận lợi áp dụng chiêu: "Lấy sức người làm sức mình" hay: "Mạnh dùng sức, yếu dùng chước" mà giới lãnh đạo tại tất cả các nước dân chủ luôn thay đổi tùy theo nhiệm kỳ để dùng kế "man thiên quá ải" và "tương kế tựu kế", uyển chuyển, tinh ranh như kỳ nhông đổi màu và từ đầu thiên niên kỷ thứ 3, Trung Cộng trở thành cường quốc kinh tế lẫn quân sự và nay họ đang chuẩn bị tiến lên ba bước, khiến thế giới quan ngại, hiểu rằng: chủ nghĩa Cộng Sản vẫn còn, thì hiểm họa vẫn còn đe đọa và cái thây ma "chiến tranh lạnh" đang hiện ra trước mắt, với sự bành trướng thế lực của Trung Cộng ở biển Đông, thu phục Cộng Sản Việt Nam thành chư hầu, tung hoành tại các nước lục địa Phi Châu, đỡ đầu tập đoàn quân phiệt Miến, viện trợ cho chính quyền độc tài ở Sudan, phóng vệ tinh và có khả năng bắn rơi vệ tinh ... lại được đăng cai tổ chức Thế Vận Hội tại Bắc Kinh tháng 8 năm 2008. Từ nhiều năm qua, Trung Cộng là một trong một số nước phát triển, thi đua tiêu thụ dầu hỏa, khiến cho giá dầu thô lên thang không ngừng, tác động mạnh vào nền kinh tế toàn cầu: tăng giá nhiên liệu đưa đến tăng giá thực phẩm, nhất là các mặt hàng nhu yếu phẩm lúa gạo, bột mì .... tác động mạnh vào nền sản xuất thế giới. Dù Trung Cộng chấp nhận mua nhiên liệu với giá cao như các nước Tây Phương, nhưng nhân công đông và rẻ mạt, công ty quốc doanh với số vốn vô tận từ sự gom góp mồ hôi hàng tỷ người, cũng dư khả năng cạnh tranh, khuynh đảo hàng hóa, mậu dịch toàn cầu, gây khó khăn cho các nước Tây Phương. Nói tóm lại, Trung Cộng trở thành đại họa mới cho thế giới từ quân sự đến kinh tế, chính trị.

Từ lâu, trong thời kỳ chiến tranh lạnh đến nay, những biến động trong khối Cộng Sản Quốc Tế được nhận thấy thường trực như: - Tình trạng thanh trừng nội bộ khốc liệt có đổ máu giữa các phe cánh. - Kinh tế suy sụp do không uyển chuyển mang tính cách cang tranh nên phẩm chất hàng hóa không cải tiến. - Quản trị đất nước tồi vì những người lãnh đạo dốt nát, chính sách kinh tế tập trung không hiệu quả. - Dân chúng cực kỳ bất mãn (người ta tin tưởng là dể đi đến việc đứng dậy lật đổ chế độ). - Một số cán bộ cao cấp, trung cấp đứng lên chống đảng, hiện tượng phản tỉnh, có cả những cuộc đào tỵ của các cán bộ cao cấp từ các nước Cộng Sản thế nhưng, tất cả những yếu tố đó không thể làm Liên Sô sụp đổ, kéo theo toàn khối Đông Âu; nhưng sự sụp đổ là do toàn dân đồng loạt đứng dậy, mà trong đó điều kiện địa lý là chung quanh là các nước tự do tiên tiến bậc nhất thế giới, quá trình lịch sử có truyền thống làm cách mạng do tinh thần cởi mở, ảnh hưởng sâu đậm trào lưu dân chủ lâu đời, với nền dân trí cao. Cho nên, khi đem cái kết quả nầy mà lòng "phơi phới một tương lai sụp đổ" của các nước Cộng Sản Á Châu là điều lầm lẫn vô cùng tai hại, có tác dụng ru ngủ những người chưa nhận xét chính chắn, luôn nuôi niềm hy vọng: là trước sau gì các nước Cộng Sản Á Châu như Trung Cộng, Việt Nam, Lào, Bắc Hàn ... cũng phải sụp đổ, chả cần đấu tranh, hay đấu tranh tà tà, ôn hòa, bất bạo động, đối lập, đối kháng ... hay là "hòa hợp hòa giải", thỏa hiệp chia ghế, để cải hóa, lái Cộng Sản theo tự do ... thế nào bánhh xe lịch sử sẽ nghiền nát các chế độ bạo ngược, tức là "bất chiến tự nhiên thành" như câu: "chánh thắng tà"; đây là cơ hội tốt để Trung Cộng, Việt Cộng có đủ thời giờ mua thời gian, áp dụng "trì hoãn kế" và ngày nay thì những người ngây thơ, đấu tranh bất bạo động, đối kháng, đối lập với các đảng Cộng Sản tàn dư, ắt là sáng mắt?

Từ nhiều năm qua, tại Hoa Lục, đảng và nhà nước Trung Cộng cũng có nhiều nhà phản kháng, phản tỉnh, nhà dân chủ, nhà đấu tranh, Giáo Phái Pháp Luân Công, dân oan khiếu kiện và hàng năm có hàng chục ngàn cuộc biểu tình đòi đất, một nước có hệ thống tham nhũng vào hàng cao cấp nhất trên thế giới, nhà nước tàn bạo, độc đảng độc tài, dân chúng bất mãn .v..v.... thế mà chế độ Cộng Sản vẫn chưa hề hấn gì. Nhà nước Bắc Kinh vẫn "thanh tâm trường an lạc" tiếp tục cai trị dân "theo định hướng xã hội chủ nghĩa" được áp dụng một cách "độc đoán" qua chủ thuyết Mao Trạch Đông, họ coi thường tất cả những thứ mà những người bên ngoài cho là: "Rồi đây Trung Cộng cũng sẽ bị sụp đổ"; tức là đảng và nhà nước Trung Cộng coi các cuộc nổ dậy, phản đối từ dân oan, Pháp Luân Công .... đều là tội "hình sự", nên bị công an, cảnh sát, tòa án xét xử, cho đi tù cải tại hay tử hình, tùy theo tội trạng; như các nước dân chủ áp dụng đối với những người phạm pháp vậy. Trung Cộng còn coi thường cả thế giới, tổ chức Liên Hiệp Quốc, họ định nghĩa "nhân quyền" khác, để binh vực cho chính sách vi phạm nhân quyền, thế mà những nước tự hào có nền dân chủ mẫu mực trên thế giới vẫn: "Ngậm bồ hòn thành ngọt".

Người Trung Hoa từ cổ đại đến ngày nay, chưa quen với dân chủ, lại bị ảnh hưởng sâu đậm nền triết học Khổng Giáo lúc còn sức để làm việc và khi già yếu thì có Lão Tử lo cho khoản đời còn lại. Từ hơn 5 ngàn năm văn hiến, dân nước Trung Hoa đã bị "thuần hóa" bởi các chế độ quân chủ phong kiến, an lạc mẫu mực "Nghêu Thuấn", nên sự thay đổi triều đại vua chúa, cũng chỉ là sự nối tiếp từ gia tộc vua nầy sang vua khác, không vượt khỏi hệ thống độc đoán trị vì, và trở thành tập quán, đạo lý một cách máy móc, mà ai đi ngược lại bị xã hội coi là nghịch tử, phản tặc: "Quân thần, phụ tử, phu thê" hay: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung". Bị đàn áp từ hơn 5 ngàn năm lịch sử, nên người Trung Hoa chấp nhận sự cai trị độc tài, nếu có ai đứng dậy bị tội "tru di tam tộc", liên lụy cả họ hàng, là bản án có tác dụng lâu dài, làm cho dân chúng cảm thấy "an phận" cầu an, sống cho hợp đạo lý làm thần dân, dù dân, quan biết vua là bạo ngược nhưng cũng phải "trung thành tuyệt đối", như giai thoại thời nhà Thương, có trung thần Tỷ Can, là hoàng thúc của vua Trụ, cũng phải ngoan ngoãn đem quả tim chín lỗ nạp cho Trụ Vương để chữa bịnh cho vợ vua là Tô Nương Hoàng Hậu Đắc Kỷ. Nước Trung Hoa ngày xưa cũng có nhiều cuộc nổi dậy chống lại triều đình phong kiến do bị đàn áp, nhưng quan niệm vua là con trời, thay trời trị dân, được nhồi nhét từ đời nầy sang đời khác, trở thành bức "tường thành tư tưởng vô hình nhưng vững chắc" bảo vệ các triều đình, nên quyển sách 108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc của Thị Nại Am thời nhà Tống là một chứng minh hùng hồn về "thiên tử", dù sao đi nữa, thì dân nổi loạn cũng phải tuân phục triều đình, tức là vua là nước, chống lại vua là phản quốc.

Khổng Giáo giúp cho người Trung Hoa phát triển trong thời kỳ phong kiến, nhưng trở thành trở lực phát triển đất nước, lổi thời khi mà thế giới chuyển mình sang dân chủ, tự do. Từ năm 1911, cuộc cách mạng Tân Hợi do bác sĩ Tôn Dật Tiên, chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến Mãn Thanh, nhưng dù có thành lập ra thể chế dân chủ, Trung Hoa Quốc Dân Đảng cũng không thể một sớm một chiều mà xóa sạch cái "tập quán" thuần hóa, cầu an của cả nước, đã ăn sâu từ hàng ngàn năm lịch sử dân tộc, trở thành thứ đạo lý, ảnh hưởng từ đời nầy sang đời khác. Từ năm 1926 chính quyền tự do của thống chế Tưởng Giới Thạch áp dụng nền dân chủ bán phần, nhưng cũng chưa đủ sức để xóa sạch "tàn dư tư tưởng phong kiến" và "triết lý, đạo đức Khổng Mạnh" ăn sâu thành cổ thụ, bám rễ sâu trong tư tưởng, xã hội, tín ngưỡng, khi mà Khổng tử, Mạnh Tử đã trở thành thánh nhân từ lâu và những gì của thánh nói là: "không bao giờ sai lầm", được coi như khuôn vàng thước ngọc. Thời kỳ loạn lạc với Quốc-Cộng phân tranh, rồi cuộc xâm lăng của Nhật và Mãn Châu, nhưng dân Trung Hoa không thay đổi tập quán thụ động, cầu an, họ tin tưởng: "hết cơn bĩ cực đến thời thái lai", người nào có khả năng, di dân sang các châu lục khác sinh sống, đi tìm "đất lành chim đậu" mà an hưởng cuộc sống.

Đến năm 1949, Đảng Cộng Sản Trung Quốc do gã phụ tá quản thủ thư viện Bắc Kinh, quê ở làng Tường Đàm, tỉnh Hồ Nam cầm đầu, thành lập chế độ Cộng Sản, nối tiếp chế độ độc tài, cũng như các triều đại quân chủ phong kiến mà người Trung Hoa đã làm quen, bị thuần hóa từ hơn 5 ngàn năm lịch sử, nên họ chấp nhận chế độ độc tài, như quân chủ ngày xưa "trung quân ái quốc", thì nay là: "yêu nước gắng liền với xã hội chủ nghĩa", Mao Trạch Đông trở thành "tiên đế Cộng Sản"; ngoại trừ một số di tản ra hải đảo Đài Loan theo thống chế Tưởng Giới Thạch, nhượng địa Hồng Kông, Ma Cau là dân Trung Hoa còn biết cái giá trị của nền dân chủ, tự do (những nơi nầy quá nhỏ, ít dân số nên khó tác động vào hoa lục với dân số đông nhất thế giới). Với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, là điểm thuận lợi để cho đảng Cộng Sản Trung Quốc cai trị lâu dài, ít gặp chống đối và dân cảm thấy "tự hào" khi tiếp xúc với các dân tộc khác chung quanh, hay các sắc dân khác, có nền văn minh lâu đời nhất trên thế giới, nhất là sau nầy nhờ Hoa Kỳ, Âu Châu mà phát triển, thì niềm tự hào dân tộc dâng cao, như thời xưa họ xem các giống dân khác Hán Tộc là Man Di, Mọi Rợ vậy. Ngày nay, ngay cả cùng chủng tộc, người dân Hoa Lục tự coi mình là "công dân hạng nhất" khi tiếp xúc với các "đồng hương Hán Tộc" tha phương cầu thực khắp năm châu. Đó là lý do mà dân chúng của nước Trung Hoa chưa sẵn sàng đứng lên lật đổ chế độ Cộng Sản ngoại trừ có một thế lực chư hầu nào trong nước (từ các quan chức cao cấp) lật đổ, lập triều đại mới, cũng như thay đổi đế chế ngày xưa vậy. Cho nên người Trung Hoa sống ở lục địa vẫn chấp nhận "đế chế Cộng Sản" như các triều đình phong kiến; hệ tư tưởng Khổng Mạnh quả tai hại, giúp cho chế độ độc tài Cộng Sản tồn tại, nên việc dân chủ hóa Trung Hoa chưa có điều kiện thuận lợi, dù trong lịch sử cận đại, có những luồn tư tưởng tiến bộ do Lương Khải Siêu, Khan Hữu Vi thời cuối triều đại Mãn Thanh, Tam Dân Chủ Nghĩa của Trung Hoa Quốc Dân Đảng .... nhưng tất cả đều không thể tẩy xóa hệ tư tưởng Khổng Mạnh đã thuần hóa dân tộc nầy từ 5 ngàn năm văn hiến. Một điều bất lợi khác là tư tưỏng Mao Trạch Đông có kèm theo bạo lực, khủng bố đã ngự trị tại Hoa Lục từ năm 1949 đến nay, trải qua nhiều thế hệ, nên người Trung Hoa lại bị "thuần hóa" lần nữa bởi chủ thuyết mới, nối tiếp Khổng Mạnh, thật là điều bất hạnh cho dân tộc nầy.


Một điều quan trọng nữa, với cái gọi là "chủ thuyết Mao Trạch Đông" được đảng Cộng Sản Trung Quốc đầu độc dân chúng từ lúc mới chào đời đến khi qua đời, từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, và sau nầy Đặng Tiểu Bình kế tiếp vói 4 hiện đại hóa, trở thành "quốc phụ" Hán Tộc, nhưng cũng phải dựa vào tư tưởng của Mao Chủ Tịch để làm mẫu mực, là chỗ dựa quyền lực; dù thời đại cách mạng văn hóa, Đặng Tiểu Bình đã từng bị Hồng Vệ Binh bắt quỳ gối ở đường phố bị đấu tố, nhiều lần vào trại lao cải. Mao Trạch Đông giống như ông chủ nhà hàng Tàu, dùng vật liệu của người khác, thêm gia vị để trở thành "Chinese food"; Chủ nghĩa Karl Marx được Lenin ở Liên Sô áp dụng, theo nguyên tắc kinh điển thì: "công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, có khả năng làm cuộc cách mạng vô sản", nên ngay cả nông dân, Lenin cũng coi là kẻ thù: "Bần cố nông từng ngày tiến lên giai cấp tư sản". Khi chủ nghĩa Marx sang Trung Quốc, được Mao biến thành nhản hiệu: "Made in China", trở thành "Maoist", lấy nông dân làm giai cấp nồng cốt để làm cách mạng vô sản, nên mới có sách lược "lấy nông thôn bao vây thành thị", giúp Mao thành công trong việc đánh bại Tưởng Giới Thạch năm 1949.

Nước Việt Nam cũng thế, bị ảnh hưởng ngàn năm đô hộ của người Trung Hoa, bị nhồi nhét hệ tư tưởng Khổng Mạnh, nên nền đạo lý, nếp sống xã hội, quan niệm cuộc sống thường được "định hướng theo tư tưởng Khổng giáo", đưa đến tập quán: "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, ngay cả những người sống ở hải ngoại sau 1975, cũng mang theo trong hành trang tỵ nạn mớ tư tưởng ấy.

Dân Việt Nam cũng từng bị thuần hóa bởi các triều đại quân chủ, nên tập quán "trung quân, ái quốc" được coi là khuôn vàng thướt ngọc cho giới sĩ phu. Từ năm 1884, thực dân Pháp đặt ách đô hộ, thì tư tưởng Khổng Mạnh dần dần phai nhạt nhưng không hết hẵn, sau những cuộc khởi nghĩa xuất phát từ tấm lòng "trung quân ái quốc" với các phong trào Cần Vương, Văn thân; tuy nhiên cái tàn dư của Khổng Mạnh vẫn âm ỷ, trở thành tập quán. Đất nước loạn lạc, thay đổi chủ từ Pháp, Nhật và chia hai đất nước qua hiệp định Geneve 1954, do đảng Cộng Sản Việt Nam cấu kết với ngoại bang gây ra. Miền Nam còn hưởng được chính thể tự do dân chủ với hai nền Cộng Hòa từ 1954 đến 1975; tuy nhiên miền Bắc thì bất hạnh, chế độ Cộng Sản ngoại lai, xa lạ do Hồ Chí Minh du nhập, tròng vào cổ dân, tiếp nối chế độ phong kiến, nên dân miền Bắc chưa hưởng được không khí tự do, các quyền căn bản con người, thế là họ tiếp tục "bị thuần hóa" do chế độc độc tài Cộng Sản, là chế độ phong kiến thời đại, trá hình là "cách mạng"; ngày xưa thì "trung quân ái quốc" và dưới chế độ Cộng Sản: "yêu nước gắng liền với chủ nghĩa xã hội", nên dân miền Bắc chấp nhận chế độ Cộng Sản hơn là dân miền Nam.

Từ đó mà họ ngoan ngoãn thi hành lịnh đảng, dưới sự chỉ đạo của thiên tử Cộng Sản là Hồ Chí Minh "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" và chấp nhận bị trù dập, tù đài, ngay trong thời cải cách ruộng đất, nhiều địa chủ trước khi bị chặt đầu, cắt cổ, chôn sống, thường hay hô to: "Hồ Chí Minh muôn năm", cũng giống như những người dân dưới chế độ phong kiến Trung Hoa ngày xưa, trước khi bị xử trảm, cũng bày tỏ lòng trung thần lần cuối, hô to: "Thánh thượng vạn tuế" mà vui lòng chịu chết.

Cho nên, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, dân miền Bắc mang tập quán "trung với đảng, hiếu với Bác" vào Nam, đương nhiên là họ được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi như dân của một nước xâm lăng vào một nước khác. Chính tư tưởng thuần phục đảng và nhà nước của người dân miền Bắc do bị thuần hóa lâu năm và chưa hề biết đến dân chủ, nên việc đứng dậy lật đổ chế độ Cộng Sản không được họ hưởng ứng nhiều, chỉ lẻ tẻ những nhà phản tỉnh, nhà dân chủ mà trong đó, đảng Cộng Sản cũng đã cài một số "nhà phản phé, nhà dân chủ dỏm, nhà đấu tranh cuội" gốc miền Bắc như Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Lê Hồng Hà, Trần Khuê .... để đánh lừa mọi người dân Việt hải ngoại và thế giới. Như vậy, từ khi đế quốc Liên Sô sụp đổ, đến nay hơn 2 thập niên, thế mà Khối Cộng Sản Tàn Dư ở Á Châu vẫn chưa sụp đổ như Âu Châu, đó là do cái tập quán ảnh hưởng từ tư tưởng Khổng Mạnh, là đồng lõa với chế độ Cộng Sản: "hết phong kiến đến độc tài Cộng Sản" và dân bị thuần hóa từ hệ tư tưởng Khổng Mạnh đến triết học Marx Lenin. Như vậy, thì khối tàn dư Cộng Sản Á Châu bị sụp đổ như thế nào?

Các nhà phản tỉnh (dù là thiệt) cũng khó xóa bỏ cái tập quán cầu an, sợ hải của dân chúng, từng bị thuần hóa trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm qua các chế độ quan chủ phong kiến và dưới chế độ Cộng Sản như Việt Nam, dân miền Bắc bị thuần hóa từ 1954, miền Nam từ 1975; đến nay qua nhiều thế hệ, thì thái độ: "Tuân hành, sợ đảng, nhà nước, công an" đã trở thành tập quán, là trở lực cho công cuộc làm cách mạng như ở các nước Đông Âu, Liên Sô. Mặt khác các nước Cộng Sản tàn dư quỷ quyệt, chúng áp dụng lối "xả hơi" để làm giảm áp lực cần thiết khi căn thẳng, nên dân chúng không đứng dậy, là liều thuốc giải hữu hiệu câu "càng áp bức cao, càng đấu tranh cao", khi áp bức cao, rồi xả hơi, thì việc bể bong bóng khó xảy ra. Khoản 3 triệu người Việt hải ngoại cũng đã giúp đảng xì hơi bằng số tiền gởi về hàng năm tăng dần, nay lên hàng chục tỷ Mỹ Kim, từ thiện từ nước ngoài gởi về, tu sĩ từ trong nước đi ra, thi đua dồn vào túi tiền của đảng "cải tạo" đảng viên thành tư bản đỏ; đó là các nhà triệu, tỷ phú Mỹ Kim, không tên nào dám "đăng ký" vào danh sách những người giàu nhất trên thế giới, vì số tiền bất chính làm ra từ lừa đảo, bộc lột, ăn chận viện trợ, cấp viện thế giới. Các lực lượng, đảng phái nào được thành lập trong nước, mà hoạt động thoải mái, hay bị trù dập sơ sơ chiếu lệ đều là tổ chức CÒ MỒI rõ ràng như "đêm giữa ban ngày", do đảng lập ra; nếu các tổ chức nào không do đảng "chủ trì, chỉ đạo" hay được sự "nhất trí" của đảng, thì đều có cùng một mẫu số chung: "bị đàn áp thẳng tay, nhân vật lãnh đạo, uy tín bị tù đài dài hạn".

Ngày nay, con kỳ nhông Việt Cộng đổi màu thường xuyên trong mọi "tình huống"; những người Việt hải ngoại trở về thăm quê hương, hay dân chúng trong nước cảm thấy "hồ hởi phấn khởi" là không còn sợ đảng, công an, ủy ban nhân dân; đây cũng có thể là chính sách "thời thượng" nhằm tung hỏa mù, lừa đảo thế giới, những người Việt nhẹ dạ, ngây thơ, nạn nhân mau quên sau khi thấy Công an ngày nay bớt hung hăng, dân chúng chửi công khai mà công an vẫn "mỉm cười" hay "cười cầu tài"; hoặc những ông cán bộ cao cấp như thủ tướng, chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đến nói chuyện, hứa hẹn, với vẻ mặt không "khẩn trương" đầy luận điệu khủng bố tinh thần "nghiêm túc" như thời đấu tố; trái lại tỏ ra là "thân thương, tương kính" mà tưởng là chế độ Cộng Sản sắp tiêu tùng rồi; có người còn cho là ở Việt Nam bây giờ có tự do, dân chủ, nên mới có quyền "tự do phát biểu chửi đảng và nhà nước" một cách công khai, thì từ từ cũng có "thay đổi chế độ", từ độc tài đến dân chủ nhưng không biết đến bao giờ?.

Đây là sự lầm lẫn vô cùng tai hại, ngày nay vì nhu cầu duy trì quyền lực, nên đảng viên Cộng Sản từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc phải "giả vờ" như câu của người bình dân: "giả mù sa mương" là biết nghe theo ý kiến dân (họ chỉ nghe, hứa cho quan truông, rồi đâu lại vào đấy), tức là đảng Cộng Sản ngày nay áp dụng câu: "Chịu đấm ăn xôi", sẵn sàng muối mặt, nén giận làm vui để cho nhân dân chửi, mắng, như nước đổ lá môn mà thu tiền, tiếp tục cai trị. Nhưng nếu có ai dám đụng tới "chính trị" hay quyền lợi của đảng, thì họ sẵn sàng dùng "bạo lực cách mạng" để đàn áp ngay. Thấy Việt Cộng như vậy là tưởng họ thay đổi, gần sụp đổ mà lầm to. Như vụ PMU 18, những người tố tham nhũng trong đảng lại bị tham nhũng phe cánh khác quật ngược, thanh trừ cả những người khác phe cánh, hai nhà báo của đảng, chỉ vì đụng tới "miếng ăn là miếng tồi tàn". Nhưng ai dám đụng tới "vật tổ" của đảng là hô to: "đả đảo Hồ Chí Minh" hay mang lá cờ vàng ba sọc đỏ đi ra đường, công an có bắt không? Đảng Cộng Sản Việt Nam không bao giờ ngán các nhà phản tỉnh trong dạng "phục viên" dù mang quân hàm trung tướng như Trần Độ hay nhà văn, thơ gần chết mới viết điều mình muốn nói; họ cũng không ngán hàng ngàn dân oan khiếu kiện cứ kéo đến Quốc Hội, cơ ngơi, dinh thự của thủ tướng, tổng bí thư, chủ tịch nhà nước hàng ngày tại Hà Nội, Saigon.... đảng khinh thường, gọi đó là "phản ứng tập thể" thay cho hai chữ "biểu tình". Ngay cả những người mang cờ đỏ "một sao vàng" của Việt Cộng để biểu tình chống "cờ đỏ năm sao vàng" của Trung Cộng trong lần rước đuốc thế vận ngày 24 tháng 4 năm 2008 tại Saigon, cũng bị công an dập tắt từ trong trứng nước, nhằm bày tỏ thái độ Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa và Trường Sa.

Tuy nhiên, tử huyệt của Việt Cộng đang nằm ở cái bao tử của dân, chứ không nằm trong tay các nhà phản tỉnh, lực lượng "ĐẤU TRANH" nhưng bị bọn "ĐÁNH TRÂU" chỉ đạo bên trong; tình hình kinh tế toàn cầu đang trên đà khủng hoảng không ngừng do giá nhiên liệu tác động, nạn lạm phát không kiềm được, những đỉnh cao trí tuệ loài người khi làm kinh tài theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã "đàn áp dã man" các đồng ngoại tệ như Mỹ Kim, Úc Kim, Gia Kim, Euro .... nên giá trị các đồng bạc quốc tế ấy khi đến nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đều bị "định hướng theo giá trị đồng tiền Hồ", thế nên tình trạng mua bán ngoại tệ với giá chợ đen rất thịnh hành, ngay cả cán bộ đòi hối lộ cũng chuộng đồng Đô la Mỹ, vàng để làm đơn vị mặc cả.

Năm 2008, nhiều biến cố dồn dập làm cho tình hình tại Việt Nam nói riêng, Trung Cộng và nhiều nước khác nói chung: - Khủng hoảng tiền tệ tại Hoa kỳ lan rộng toàn cầu. - Cuộc khủng hoảng nhiên liệu càng tác động mạnh, ngay cả các nước giàu mạnh còn chới với, thì nước Việt Nam phải hứng chịu hậu quả khôn lường. Đảng và nhà nước cũng biết nhưng làm cách nào để "khắc phục" mọi khó khăn như lời xúi dại làm chết hàng triệu người của tên đồ tề Hồ Chí Minh: "Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"? Ngày xưa đảng cướp Cộng Sản dùng chiêu bài "cơm áo" núp dưới mỹ từ "cách mạng", thì ngày nay họ cũng sẽ bị "gậy ông đập lưng ông" khi mà người dân cũng vì cơm áo mà đứng lên làm cách mạng diệt bọn cướp đoạt cơm áo.

Giá nhiên liệu tác động mạnh, khiến những mắc xích yếu nhất kinh tế như Việt Nam bị lung lay tận gốc, làm giá thực phẩm gia tăng bất thường, ngay cả gạo là mặt hàng "chiến lược xuất khẩu" cũng bị ảnh hưởng nặng nề, điện thường bị thiếu nên tình trạng cúp điện càng thường trực hơn tại các thành phố lớn như thành Hồ, làm trì trệ các sinh hoạt sản xuất khác, lạm phát tăng đến mức báo động hơn 25% và có khả năng lên cao hơn nữa, cổ phiếu thị trường chứng khoán mất giá 2/3 nên có khi phải đóng cửa tạm thời, nhiều công ty ngoại quốc chạy dài, công nhân các hãng xưởng do người ngoại quốc đầu tư bị ngưng trệ vì nhân công đình công đòi tăng lương trước nạn vật giá leo thang không ngừng, đồng tiền Hồ vốn là "rác" nay có nguy cơ giảm thêm 1/3 giá trị nữa, thì "giấy đi cầu" dự trữ còn có lợi hơn là để dành đồng bạc Việt Nam làm của. Một số kinh tế gia quốc tế thuộc các cơ quan cấp viện cũng nhìn nền kinh tế Việt Nam đang tiến dần tới "BI ĐÁT" là hậu quả từ chủ nghĩa Cộng Sản do "BÁC ĐI" tìm đường bán nước, làm tay sai ngoại bang mang về. Cuộc biến động kinh tế Á châu vào tháng 7 năm 1997 làm cho một số con rồng Á Châu như Thái Lan, Tân Gia Ba, Đài Loan đành phải bay là đà một thời gian khá dài để điều chỉnh, tác động mạnh vào nền kinh tế quốc dân, nhưng họ phục hồi vì là nước tự do; lý do là họ có được một "nền tảng kinh tế vững chắc" nên tác động kinh tế như cơn cuồng phong, chỉ làm sập nhà, rồi còn nền nhà mà xây dựng lại dễ dàng. Trong khi đó tại Việt Nam, Trung Cộng, theo chế độ độc tài, tình trạng khủng hoảng càng lâu, càng mạnh thì dân chúng càng khổ, nền tảng không có, khi bị quét sạch, thì lấy đâu mà tái phục hồi? Mặt khác, nguồn ngoại tệ chính nuôi đảng, bộ máy cai trị là nhà nước, không xuất phát từ nền kinh tế quốc gia, mà tùy thuộc vào nước ngoài, số tiền lớn do người Việt hải ngoại gởi về. Nếu những "dòng thác tiền" nầy ngưng chảy thì chế độ Cộng Sản chắc chắn không tồn tại được do cạn máu.

Trong các cuộc "cách mạng" trên thế giới, thường bắt nguồn từ "kinh tế" mà ra. Tại các nước dân chủ, dân chúng "ăn ngon mặc đẹp" nên không có ai nghĩ đến" làm cách mạng" lật đổ chính quyền bạo đấu tranh; trong khi các nước độc tài, đời sống dân cơ cực, nên mới có chuyện đứng lên làm cách mạng.

Thời phong kiến, khi gặp vua là hôn quân, bạo ngược, khiến dân chúng lầm than, nên chư hầu đứng lên lật đổ, hứa hẹn "đất nước thái bình, thạnh trị, trăm họ ấm no" để thu phục người đi theo. Chế độ độc tài, Cộng Sản đi đôi với: áp bức, tàn bạo, bốc lột đưa đến hậu quả là dân nghèo đói liên miên. Do đó CÁCH MIỆNG đi trước CÁCH MẠNG, người dân đứng lên vì "cơm áo, đời sống", khi những thứ vô cùng cần thiết ấy bị tước đoạt một cách thô bạo, cộng thêm thiên tai, khủng hoảng kinh tế, lòng người bất mãn. Người dân ở Âu Châu đứng lên làm "cách mạng" xóa sạch chế độ Cộng Sản do một phần lý do cơm áo, nhưng yếu tố dân trí cao, tập quán cũng là những đóng góp quan trọng mà họ đồng loạt đứng lên .... nhưng ở Á Châu, các nước tàn dư Cộng Sản chỉ đứng lên làm cách miệng để tiêu hủy một chế độ bạo ngược, bao năm cướp đoạt nồi cơm, đó là cuộc CÁCH MẠNG CƠM GẠO đang thành hình và có khả năng tiến hành để xóa sạch một chế độ độc ác do tên Hồ Chí Minh thành lập. Tuy nhiên mức độ thành công từ "cách miệng sang cách mạng" vẫn còn tùy thuộc vào quyết tâm của người dân Việt Nam trong nước, khi người ta bị đói quá, lâm vào đường cùng, thì: "bần cùng sinh bạo loạn" là một định lý dẫn đến sự sụp đổ của tất cả các chế độ bạo ngược trên thế gian, đương nhiên là không có miễn trừ đối với các nước Cộng Sản, dù họ có nhiều mưu mô, thủ đoạn nay thì đã hết hơi để xì, khi cái bong bóng xã hội chủ nghĩa đã xẹp từ lâu.

Người Việt hải ngoại ngày nay đóng vai trò rất quan trọng để "biến căm thù thành hành động" trong cộng cuộc ĐẤU TRANH quyết liệt nhằm loại lũ có "nghiệp chuyên cũ" là ĐÁNH TRÂU dốt nát, gian ác ra khỏi bộ máy cầm quyền; ngoài vận động chính trị quốc tế, việc gởi tiền, mang tiền về du lịch, du hý, du dâm .... trở thành trở lực ngăn cản đà "cách miệng" đang dâng cao trong toàn dân Việt Nam, những món tiền tình nghĩa hàng chục tỷ Mỹ Kim hàng năm gởi về có tác động làm chậm tiến trình dân chủ hóa đất nước. Việc gởi tiền hạn chế giúp cho thân nhân còn ở lại Việt Nam sinh sống là không ai trách, nhưng gởi tiền về để đầu tư, kinh doanh, mang tiền về du lịch hàng năm, nhất là trong giai đoạn nầy là giúp cho đảng giàu, cán vững, là đồng lõa với đảng Cộng Sản trong việc duy trì chế độ lâu dài:

    "Ta chuyển tiền, Cộng đứng vững.
    Ta ngưng tiền, Cộng sụp đổ".
Đảng Cộng Sản Việt Nam tồn tại đến ngày nay là nhờ thời cơ: chính sự ngây ngô của ngoại trưởng Henry Kissinger và những chánh khách lập lờ ở Hoa Kỳ thuộc đảng Dân Chủ, dễ bị tác động bởi phong trào phản chiến khuynh tả, đã giúp cho đảng Cộng Sản: "dậy mà đi" sau khi bị tiêu tán trong trận tổng công kích tết Mậu Thân 1968, đưa đến sự thất bại một cách tức tưởi miền Nam vào ngày 30-4-1975. Tổng thống Bill Clinton là người đỡ Việt Cộng đứng dậy bằng lịnh xã vận năm 1994, nếu không thì Việt Cộng khó đứng vững khi quan thầy Liên Sô và toàn khối Cộng đảng Đông Âu sụp đổ ( lúc đó Trung Cộng chưa mạnh như ngày nay, thì việc lôi kéo Việt Nam gặp nhiều khó khăn), và cũng chính những người Việt tỵ nạn bỏ nước ra đi tìm tự do, trở về sau khi xã vận, cứu nguy nền kinh tế què quặt Việt Cộng, số tiền tăng dần từ vài trăm triệu, nay cài chục tỷ Mỹ Kim hàng năm, là kho bạc vĩ đại từ bên ngoài, nguồn tài nguôn không cần đầu tư mà đảng Cộng Sản được, đây là vấn đề mà người tỵ nạn nên suy nghĩ, nếu không muốn nhìn thấy đảng cướp còn thống trị tại quê hương mình.

Trương Minh Hòa

No comments:

Post a Comment