Sunday, June 7, 2009

Vài suy nghĩ về “Đỉnh cao chó lợn” và “Đá Văng chân lý” của Dương thu Hương - Gs Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương

* Gs Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Hơn chục năm trước, tôi thích “Những thiên đường mù” của Nhà văn Dương thu Hương mặc dù có nhiều điều trong cuốn sách mỏng đó tôi không đồng ý.

Kiếm người nhìn ra cái sai của Cộng sản hơi hiếm lúc đó nên tôi bằng lòng với cuốn sách.

Ngày nay, tuổi đã cao, tôi không có thì giờ để đọc nhiều, vả lại nếu có giờ thì “Đỉnh cao chói lọi” hoặc “Món ăn chân lý” (MACL) không phải là thứ tôi muốn đọc bởi tác giả Dương thu Hương đã có lập trường quay hẳn 180 độ đối với “Những thiên đường mù”. Nói như thế không có nghĩa người nào giống ta là bạn ta, khác ta là thù của ta mà là chọn bài, chọn sách mà đọc. Tác giả nào không biết đúng sai, phải quấy (theo lẽ thường của nhân sinh) thì đọc làm chi cho phí giờ và sức khoẻ?

Tình cờ tôi thấy Hoa Tự Do đăng MACL, tôi nhận được đã lâu, bỏ đó, nghĩ rằng lập luận của tác giả thường một chiều, chẳng phí thì giờ mà đọc. Nay có mấy người bạn cứ réo điện thoại hối viết đi, viết một tí đi chứ nghe DTH nói sai tức lắm nên tôi phải viết mươi hàng.

Trước hết, sự xưng hô là quan trọng. Khi tác giả Dương thu Hương mới được sinh ra thì tôi đã là một thiếu niên biết chơi đàn banjo, khẩu cầm, mandoline, cùng đội Văn công đi khắp các vùng của đất nước tuyên truyền cho kháng chiến chống Pháp mà ông Hồ chí Minh là Chủ tịch chính phủ Liên Hiệp lúc bấy giờ, ông Nguyễn hải Thần làm Phó chủ tịch, Nhà văn Nhất Linh BT Ngoại giao...

Dù chưa đến tuổi đi bộ đội, tôi cũng đã là liên lạc viên tại Hải Phòng khi quân dân Việt hè nhau đánh Pháp. Chúng tôi đã lẩn lút trong các nhà xuyên tường (đập thủng tường), các người lớn như bố tôi, anh tôi và các bạn thì dùng vũ khí của Tây giết Tây. Tôi chưa được phép bắn súng thì lẩn lút như con chuột đưa tin liên lạc và tiếp thức ăn cho mọi người. Sau đó chúng tôi rút khỏi Hải Phòng theo đúng lệnh lạc từ Bộ chỉ huy.

Ra hậu phương, tôi cũng đã được cấp chỉ huy của Việt Minh huấn luyện cấp tốc ba tháng để chiến đấu ngoài mặt trận như bắn súng, ném lựu đạn, bò dưới hoả lực, công đồn, đả viện v.v... cùng với lý thuyết Cộng sản. Chúng tôi thi mãn khoá, tôi đã là 1 trong 10 người đậu đầu được thưởng hai cuốn sách viết về Mác-Lê-nin và chủ nghĩa đại đồng thế giới. Cùng với hai cuốn sách này là 1 áo trấn thủ, 1 mũ cói, vài cuốn tập để ghi chép và 1 cái bút chì.

Khi ông Hồ từ Hà Nội xuống Cảng hiệu triệu dân chúng Cảng vài ngày sau 19-8-1945, hai bố con tôi có đi dự buổi mít tinh cả nửa triệu người này ngay mặt tiền Nhà hát lớn Hải Phòng. Bố tôi đã bảo tôi mà tôi nhớ mãi:

- Bây giờ hoan hô ông Hồ cho lắm sau này sẽ đả đảo ông ta nhiều.

- Hồ là người gian xảo, quỉ quyệt, giết người như ngoé (sau vụ giết Nguyễn văn Mão tại Hải Phòng), mặt chuột, đôi mắt gian hùng, thầy tôi coi tướng Hồ và tiên đoán.

- Hồ có thể sẽ bán nước cho ngoại bang. Thầy tôi bảo tôi chớ đi theo Hồ mà ôm hận.

Và tất cả những lời bố tôi nói năm xưa nay đã thành sự thực. Khi tôi nghe bố tôi nói, tôi biết bố tôi biết nhiều nhưng cái tâm hồn yêu nước trong tôi cứ giục giã tôi phải đi làm một cái gì cho đất nước.

Bố tôi khi đó đã hoạt động trong VN quốc dân đảng, ông có sang Tàu và Nhật trong phong trào Đông Du của các cụ Phan bội Châu và Phan chu Trinh, vì vậy bố tôi rất am tường về đảng Việt Minh và ông Hồ chí Minh. Bố tôi cũng đã bị Việt Minh giam giữ mấy lần rồi thả.

Sở dĩ phải dài dòng như vậy là để tác giả Dương thu Hương (DTH) thấy rằng những lập luận sau đây có cơ sở chứ không phải là hồ đồ.

Với thì giờ hạn hẹp, tôi không muốn đi sâu vào bài viết của chị DTH mà chỉ nêu ra mấy điều sai lầm của chị.

1. Chị viết rằng: ”Ông Hồ là người sáng suốt nhìn ra cái tai hại của cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn từ đầu thập niên 60 trong khi cả hai miền Nam-Bắc đều hăng hái tham gia cuộc chiến. Ông cũng là người sáng suốt nhất giữa tám người cầm quyền VN cùng thời đại. Trong khi các đồng chí miền Bắc say sưa nuôi mộng đánh con hổ giấy Mỹ, cắm ngọn cờ hồng lên khắp hành tinh và đám người phương Nam không kém phần bạo liệt...”

Chị DTH! Chị đã sai từ căn bản bởi chị không nghiên cứu tài liệu, cũng chẳng mở mắt nhìn năm châu bốn biển xu thế toàn cầu diễn biến nên chị ăn ốc nói mò. Luận điệu này không phải chị có ngày nay nhưng từ hồi chị viết “Những thiên đường mù” đã có, và lúc nào đề cập đến chiến tranh VN chị cũng một luận điệu đó.

1.a. Việt gian Cộng sản (vgcs) do giặc Hồ cầm đầu đã xé nát tất cả các Hiệp định 1954, phân định ranh giới đã được quốc tế đứng trung gian chia cho VNCH quản trị từ vĩ tuyến 17 ra tới Phú quốc, Hoàng, Trường Sa, Côn lôn v.v... Hiệp định hoà bình 1973 vgcs đã ký cũng bị xé nát, Hồ xua quân cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam.

Khi giặc Hồ có CS quốc tế yểm trợ hết mình đem quân vào đánh thì bắt buộc miền Nam phải tự vệ. Miền Nam sức yếu không chống chõi nổi với Cộng sản quốc tế thì phải nhờ sự giúp sức của người đồng minh là Hoa Kỳ, đứng đầu thế giới tự do. Miền Nam chưa bao giờ kéo quân ra Bắc xâm lăng. Tôi nhắc lại: miền Nam chỉ tự vệ, chính miền Bắc mới xâm lăng miền Nam theo lệnh Hồ tặc.

Thiển nghĩ chỉ một điều sai lầm căn bản này, những lập luận của chị tự đó về sau đều trở nên vô giá trị. Nếu chị đã biết điều đó mà cứ viết thì chị không phải là con người honnête (chữ của chị) như chị mong ở những người khác.

1.b. Nhân cái từ honnête này của chị, xin hỏi chị một câu: Trong tiểu thuyết chị viết, tôi không nhớ rõ cuốn nào hình như là “Bên kia bờ ảo vọng”: “Những người lính VNCH khi bắt được nữ cán bộ CS thì hiếp dâm, hiếp chán chúng lấy lưỡi lê xẻo vú và đâm nát cửa mình”

Chị DTH! Chị ăn gian nói dối một cách khiếp đảm như thế mà chị lại yêu cầu người khác phải honnête ư? Ấy là chị sùng đạo Phật, đạo Phật coi nói dối cũng trọng tội như tà dâm; nếu không, chắc chị còn phịa ra những điều ghê gớm hơn nữa. Chị có nhớ ông bà ta ngoài Bắc khi xưa gọi những hạng người vừa đánh trống vừa ăn cướp là gì không? Các cụ chỉ bảo “gái đĩ già mồm”! Một câu đó là đủ!

1.c. Chính ông Hồ vội vã tuyên chiến với Pháp ngày 26-12-1946 vì ông ta rất cần chiến tranh để bần cùng hoá nhân dân, bần cùng hoá nhân dân đi song song với đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp để tiêu diệt hết tư bản, tiểu tư sản, địa chủ, phú nông đặng cướp hết ruộng đất của nông dân gom về cho đảng CS.

1.d. Nếu ông Hồ không làm một cuộc chiến tranh với Pháp thì sau đó, theo xu hướng chính trị quốc tế, vào năm 1949, Tổng Thống Pháp Vincent Auriole ký Sắc lệnh trao trả Độc Lập cho ba nước Việt-Mên-Lào nhưng TT Pháp chỉ trao trả quyền hành cho Quốc trưởng Bảo Đại, nguyên là Hoàng đế VN trào nhà Nguyễn, chứ không biết đến ông Hồ là ai. Chính vì điểm này mà ông Hồ sợ hổng giò hổng cẳng nên đã phải tuyên chiến với Pháp, gây ra một cuộc chiến tranh suốt 9 năm, hàng triệu người chết, hàng triệu người bị thương, hàng triệu nóc gia bị phá huỷ hay cháy, hàng triệu mẫu ruộng bị bỏ hoang, nhân dân VN xuống đến tột cùng của sự đói nghèo, tang tóc và đau khổ.

Xin chị DTH hãy nhìn vào bảng này để biết VN có cần gây chiến với Pháp không?

- Malaysia không phải đánh nhau, không tốn một giọt máu, một viên đạn, được Anh trả độc lập năm 1957.

- Nước Phi, người Mỹ trả độc lập năm 1946;

- Syria và Liban, người Pháp trả độc lập năm 1946.

- Ấn (chính sách bất bạo động của thánh Gandhi), Pakistan, người Anh trả độc lập năm 1947.

- Miến (Myanmar), Sri Lanka, Palestine đều thuộc Anh, người Anh trả độc lập năm 1948.

- Indonesia do Hà lan trả độc lập năm 1949.

- Nhiều nước ở châu Phi, Mỹ-Latinh cũng đều như vậy.

- 1989-1991 Đế quốc Liên Sô tan rã, 22 QG bỏ chủ nghĩa CS.

Đông Âu: Ba lan, Hung, Tiệp, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, Roumanie và 15 nước thuộc Liên bang Sô Viết.

Tóm lại, vì ông Hồ hám quyền, hám chức, chỉ nghĩ đến ông ta và đảng của ông ta, xung phong làm tên lính xung kích trung thành liếm trôn CS quốc tế, Hồ hiếu chiến, hiếu sát vì coi rẻ sinh mạng đồng bào miễn là được lòng quan thầy Nga-Tàu để Nga-Tàu ban quyền chức và chống lưng cho Hồ nên nước VN đã tan nát như ngày nay với trên 10 triệu người VN nằm xuống (từ 1930 cho đến nay) cho tham vọng của Hồ, bè lũ tay sai Đồng, Chinh, Duẩn, Giáp, Mười, Anh, Kiệt, Triết, Mạnh, Dũng, Phiêu... và đế quốc CS. Người VN, những gia đình có người chết oan, và cả toàn dân nguyền rủa Hồ tặc và bọn Việt gian thủ hạ đời đời kiếp kiếp! Hồ và bọn thủ hạ Việt gian sẽ mang tiếng xấu muôn đời:

Trăm năm bia đá cũng mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ!
(Ca dao)

2. Đây là lời của chị: "Cuốn Au Zénith - Đỉnh cao chói lọi - ra đời. Tôi bị ném đá không phải từ hai phía mà từ ba phía. Tôi không sửng sốt nhưng cũng có đôi chút kinh ngạc vì trước khi cuốn sách được in, tôi dự tính chỉ có hai mũi tấn công: cộng sản (chính quyền Hà Nội) và chống cộng (những người di tản chủ yếu ở Mỹ, Úc châu và Âu châu). Cánh quân thứ ba là những người có văn hóa nhất, ôn hòa nhất và công tâm mà nói, ít bị khống chế nhất bởi các định kiến hay những tin tưởng mù lòa, ấy là bộ phận không dự báo trước.

Bài viết này là để trả lời họ. Tuy nhiên, trước khi trả lời họ, tôi sẽ có ít dòng gửi chính quyền Hà Nội và những người chống cộng. Hai đám đông thù nghịch mà một bên hăm dọa sẽ thủ tiêu bản thân tôi cũng như đám con cháu tôi, chửi rủa tôi là bán rẻ lương tâm để thỏa mãn lòng kiêu ngạo, là từ nay nên bẻ bút ngậm miệng vì xúc phạm thần tượng dân tộc là tội ác … Tóm lại là lời lẽ của Hà Nội dưới các kiểu diễn đạt của đám Công an mạng. Và bên kia, các vị chống cộng nòi quen thói gọi Hồ Chí Minh là “chó già Hồ” là “dê già Hồ” là “thằng sát nhân”, họ kết tội tôi là “nâng bi lãnh tụ” là “luật sư cho quỷ – avocat du diable”…

2.1. Ngay đoạn đầu này chị đã đánh hoả mù để người Quốc gia chúng tôi tin là chị không bị Hà Nội lợi dụng hay là tay sai của Hà Nội. Chị chửi Hà Nội, lại còn bảo Hà Nội là ngu sao không lên tiếng bênh vực cho lãnh tụ của họ.

Chị DTH, tôi thiển nghĩ chỉ có chị là kém tắm (tiếng lóng Hà Nội là chậm hiểu, ngu đần) chứ Hà Nội không có ngu đâu. Hà Nội kích động cho chị viết được “Đỉnh cao chói lọi” để chạy tội cho Hồ thì đâu phải họ ngu? Chính chị nhận công tác, cho dù là không đi, viết chạy tội cho Hồ mới là ngu bởi chỉ có chị và những đảng viên ngoan cố đứng với Hồ một bên, còn bên kia là toàn dân Việt!

Hà Nội có thể bằng toàn dân Việt Nam không? Toàn dân Việt Nam nay 85 triệu người như một xác quyết rằng Hồ là tên bán nước (nhìn Hoàng Sa, Trường Sa, bauxite Tây Nguyên thấy ngay) thì 100 triệu cuốn Au Zénith của chị cũng chỉ là trò cười cho quốc tế và những người Việt yêu nước.

Một tên 21 tuổi chưa học xong tiểu học, làm bồi tầu L’Admiral Treville-La Touche sang Pháp, xin với Toàn quyền Pháp để được học trường thuộc địa ra làm quan cho Pháp, Pháp từ chối thì quay qua làm đầy tớ cho Nga, ăn lương Moscow nhiều năm, về nước nịnh từ thằng cố vấn Trung cộng La quý Ba...mà chị dám bảo là thần tượng của dân tộc. Đầu óc chị thật quá kém cỏi, hay quá khôi hài, những người từ trước đọc Thiên đường mù của chị (trong đó có tôi) rất thất vọng vì không ngờ chị càng viết càng sai, đầu óc chị càng ngày càng đặc sệt lại như cái bình vôi của cụ Phan Khôi.

2.2. Vụ cụ Phan bội Châu bị Hồ bán đứng là có thật mà chị không đọc nên không biết. Chính trong Đảng sử của vgcs có viết và tự biện hộ rằng vì “bác” cần tiền để tổ chức thanh niên CS quốc tế nên phải làm như thế, làm vì đại nghĩa thì có chi là tội? Nếu chị thấy Hà Nội câm trong vấn đề này nghĩa là họ đã thú nhận một sự thực rồi, không phải họ ngu như chị tưởng đâu! Xưa nay mồm loa mép giải là họ chứ không phải Việt Nam Cộng Hoà.

2.3. Chị luôn luôn dị ứng với những người chống Cộng.

Chị gọi họ là “chống Cộng có nòi” hay những kẻ cực đoan, “ông chánh tổng”. Chị có biết vì sao mà họ chống không? Nên nhớ rằng có một người viết thì có 1,000 người không viết mà chỉ chống âm thầm. Nhìn đất nước tan tành, giặc Tàu đưa hàng chục ngàn rồi hàng triệu người sang đồng hoá, không chống vgcs mới là điên, là phản quốc; viết nâng bi một tên bán nước đệ nhất tội đồ của dân tộc như chị mới là xuẩn, là bị bệnh tâm thần, là chôn danh dự xuống bùn đen. Một người bạn bảo tôi, viết cuốn “Đỉnh cao chói lọi” này chị đã bán danh ba đồng xu, trong khi trước đây chị mua nó với ba vạn! Dân tộc sẽ coi chị như một thứ rắn độc phải tránh xa kẻo vướng nọc chết người!

2.4. Tại sao dân Việt chống Hồ tặc? Quá dễ hiểu:

Vì Hồ gây chiến tranh giết chết người thân của họ. Tổng số người Việt Nam bị giết trong 2 cuộc chiến 1945-1954 và 1956-1975 là hơn 10 triệu người. (Báo chí Trung cộng nói 14 triệu. Chị nên tìm đọc lời Lê Duẩn nói với lãnh đạo Trung cộng qua câu trả lời của Bảy Vân, vợ Lê Duẩn trả lời đài BBC: Chúng tôi đã hi sinh 10 triệu người, nếu các đồng chí không viện trợ, chúng tôi hi sinh thêm vài triệu nữa cũng thắng Mỹ: vietnamexodus.org)

Năm 1945 chị chưa sinh nên đâu biết rằng sau 19-8-1945, Hồ cho cán bộ CS đi lùng giết người Quốc gia và nhiều người Công giáo, nhiều linh mục, tu sĩ chỉ vì họ không đồng chính kiến với Hồ. Vài thí dụ nhỏ: Hoạ sĩ Lemur Nguyễn cát Tường, trong Tự lực Văn đoàn, hiện nay tôi vẫn liên lạc với con của Hoạ sĩ, đã bị cán bộ của Hồ bắt ngày 17-12-1946, đem giam ở Thái Nguyên và ông này chết trong trại tù ở đó. Nhà Văn Khái Hưng bị bắt, bỏ vào bao bố thả trôi sông Ninh Cơ thuộc vùng Lạc quần, Nam Định. Số người Quốc gia bị Hồ cho cán bộ bắt, giết kể hàng triệu, không thể nào đếm xuể. Hồ và đồng bọn vgcs đã phạm vào hàng tỉ tội ác không giấy mực nào tả cho hết.

2.5. Ngoài ra, những người dân chống Hồ:

Vì Hồ cưỡng chiếm miền Nam phá nát gia đình họ.
Vì Hồ ăn cướp đất đai, ruộng vườn, vợ con họ.
Vì Hồ bỏ tù, tra tấn, thủ tiêu người thân của họ.

Vì Hồ bán con gái họ đi làm đĩ tứ phương để lấy tiền bỏ quỹ đảng. Xin hỏi thực chị DTH: con gái chị đã phải đi bán trôn nuôi miệng và nuôi cha mẹ chưa? Có lẽ nhờ cây viết khéo lòn trôn của chị, con gái chị chưa phải làm cái nghề mạt rệp đó. Chị còn may! Mừng cho chị!

Vì Hồ bắt lao nô làm công cho nước ngoài để thu ngoại tệ; nhiều nơi đối xử với lao nô không hơn con chó, đối xử với ôsìn thua súc vật. Con trai chị đã phải đi lao nô chưa? Gia đình thân thuộc chị đã có người nào đi làm ôsìn không?

2.6. Vì Hồ tiêu diệt tôn giáo, cướp đất nhà thờ, chùa chiền, bách hại sư, cha, ni cô, tu sĩ chân chính, lập ra bọn tôn giáo quốc doanh đồi truỵ, dâm dục, mê tiền, làm tay sai cho Hồ. Ở Pháp chắc chị được thong dong đi chùa. Chị có biết giáo dân Thái Hà vì sao phải chống nhà cầm quyền Hà Nội không? Vì sao hơn 60,000 mét vuông đất của giáo xứ Thái Hà nay chỉ còn lại 3,000 mét cũng chiếm nốt để làm công viên chó ỉa? Chị có thấy triều đại nào ở nước ta bạo ngược tàn ác giết dân như triều đại của Hồ không? Những người đã sống qua nhiều chế độ, như nhiều bạn bè tôi chẳng hạn, họ nói dưới thời Pháp thuộc mà người dân có hạnh phúc, được tự do học hành, đi lại, ra báo, theo đạo một nghìn lần hơn dưới thời Hồ cai trị. Người dân thầm lặng không nói ra nhưng họ tinh khôn lắm, không dễ bịp họ được!

2.7. Chế độ dã man tàn bạo của Hồ đã tước đoạt hết tự do của con người trong khi Hồ hứa đủ điều. Chính chị nói là thế hệ của chị đã bị Hồ lừa, ngày 30-4-1975, chị không nhớ sao? Không phải thế hệ của chị mà là cả nước!

Chị ở Pháp, có tự do dân chủ, chị đâu biết cái khổ vì mất hết tự do. Nào hộ khẩu, công an, tạm trú, tạm vắng, cường hào ác bá như rươi, tư pháp bất công, ăn cướp của dân...Trung cộng chiếm Hoàng, Trường Sa, chiếm đóng Tây Nguyên (bauxite) nhưng chế độ Hồ không cho biểu tình mà lại dùng roi điện, còng số 8, vòi rồng, AK, nhà tù... Cán bộ vgcs cướp nhà đất, ruộng vườn không cho kêu, khiếu oan 30 năm không xét, chị ra vườn hoa Mai xuân Thưởng xem có nước nào trên hành tinh này chính phủ ăn cướp của dân như thế không...?

Tất cả những điều đó và nhiều điều khác nữa như tham nhũng thối nát, hối mại quyền thế là những chất xúc tác người dân phải chống vgcs tức giặc Hồ đấy chị!

2.8. Những người Việt ở hải ngoại phải chống vì họ muốn cứu nước, muốn dân tộc thoát cảnh trầm luân để một ngày nào đó trở về cùng với những người trong nước xây dựng lại quê hương nên phải chống vgcs đến cùng và tiêu diệt chúng để thiết lập Dân chủ, Tự Do, Nhân quyền.

Nhưng thú thực với chị, cái đống bùn đỏ bauxite này không biết phải bắt đầu làm từ đâu vì chỗ nào cũng là bùn đỏ độc hại, kể từ đứa trẻ mới sinh đã nhiễm phải độc khí Hồ!

2.9. Chị có theo dõi những vụ cán bộ buôn bán ngà voi ở toà Đại sứ VN ở Nam phi? Những vụ cán bộ ăn cắp đồ trong siêu thị ở Nhật, những vụ phi công chở đồ ăn cắp đưa từ Nhật về, buôn vàng, buôn đô la? Nhiều lắm, không thể nhớ và kể hết. Lẽ nào chị không biết? Cây cầu Cần thơ đang làm bị sụp vì sao hả chị dù nó được một nước tư bản hàng nhì thế giới là Nhật giúp đỡ, viện trợ cho VN có năm cả tỉ đô la, vào túi quan chức vgcs cả, không lẽ chị không biết? Những phúc lợi nước ngoài mang đến cho dân Việt bị lũ sâu mọt hậu duệ Hồ tặc ăn cướp hết!

Chị là Nhà văn với nhiều kiêu căng, kênh kiệu cứ nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ nhưng chị quên một câu ông bà mình vẫn nói: ”Con dại cái mang, Tội quy vu trưởng”. Nếu con chị, đứa bé vị thành niên, thí dụ, ra chợ ăn cắp thì người ta bắt nó đã đành nhưng còn hỏi chị và chồng chị là cha mẹ nó đấy. Ông Hồ tập huấn cán bộ của ông ta gần 80 năm nay ăn cắp, nói dối, lươn lẹo, gian ác, đánh dân, bỏ tù dân, cướp nhà đất, tham nhũng, đĩ điếm...thì chính ông Hồ phải chịu cái hậu quả đó chứ, ai vào đây? Chị coi xem có đám trẻ quốc tế nào ngày nay nói tục, chửi thề, ăn cắp vặt, hỗn láo như đa số đám trẻ Việt Nam không? Trẻ em miền Nam xưa tử tế, ngoan ngoãn, siêng học, lễ phép, tôi đã dạy nhiều lớp Trung học đệ I và đệ II cấp tôi biết rất rõ. Từ ngày Hồ tặc vào cưỡng chiếm, những đứa trẻ này cũng trở thành những đứa trẻ khó dạy, gian dối, ranh mãnh, quỷ quái và trở nên bất lương. Đó không phải là tự trẻ mà tự chính sách sai lầm “hồng hơn chuyên”, cái khuôn đúc con người của Hồ và bè lũ. Những tồi tệ này sẽ kéo dài nhiều thế hệ và đó là cái khốn nạn nhất của Việt Nam!

Bởi vậy, vgcs lưu manh, tồi tệ, hiểm độc, ngu si như thế, kẻ nào thoả hiệp với chúng mới chính là những kẻ ngu đần bởi không nhìn ra sai đúng, phải quấy, yêu nước, phản nước!

Bà Thủ tướng Đức quốc Angela Merkel, khi xưa là từ Đông Đức CS, mới đây bà tuyên bố:

“Chế độ Cộng sản tạo ra những con người dối trá”. Còn đỉnh cao chói lọi của chị thì sao? Chắc nó đã chịu cái ảnh hưởng dối trá đó rất nhiều!!??

Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương

Hồn Trương Ba, da hàng thịt.

Tôi đã nghĩ đến thành ngữ này khi so sánh cái tâm trạng của chị lúc viết “Những thiên đường mù” và ngày nay “Đỉnh cao chói lọi” và “Món ăn chân lý”. Người bình dân thường gọi những kẻ đó là những “con ốc mượn hồn” Mượn hồn nên những gì ốc làm không phải của ốc, mà là của một thứ ốc tầm gửi tào lao nào đó.

Nhà tư tưởng Pascal đã nói: ”L’homme est un roseau, mais un roseau pensant” Con người là một cây sậy nhưng là cây sậy biết suy nghĩ” Tư tưởng Đông phương thì cho con người “Nhân linh ư vạn vật” chứ không như Karl Marx và môn đồ, như Stalin, Lenin, Mao, Hồ...coi con người chỉ là một dụng cụ sản xuất không hơn không kém.

Marx và Engels đã hoang tưởng và sai lầm ngay từ đầu, dẫn dắt nhân loại (những kẻ tham lam, ích kỷ, biển lận, khờ khạo và cuồng tín) vào một mê hồn trận khiến gây ra cả tỉ tội ác và làm hư hỏng, thối rữa một phần nhân loại. Rất không may, cái phần nhân loại mạt rệp đó lại có dân tộc Việt Nam.

Nhờ có cuộc phản tỉnh của Liên Xô và các chư hầu CS Đông Âu đầu thập niên 90 không thì cả cái thế giới này đã trở thành một bãi chiến trường và con người còn đói khổ nhục nhằn không biết thế nào mà kể.

Nói như vậy không có nghĩa là đồng ý, ca tụng chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản cũng có những cái dở (và cái hay) của nó. Nhưng khía cạnh tư tưởng ấy không nằm trong phạm vi bài này.

Cuộc đời chúng ta, mỗi người, bắt đầu từ một cái nhân (noyau). Mọi sự mọi việc cũng đều có một cái nhân. Từ cái nhân ấy mà nó sinh ra cái quả. Các cụ ta nói: “Nhân nào quả ấy, cây nào trái ấy” Con người sống, hành sử quyền làm người chính là tạo cái nhân cho những gì sau này sẽ gặt hái, thí dụ về cuối cuộc đời hay sau khi chết. Cái nhân cụ Nguyễn Du tạo ra là cuốn Kim Vân Kiều, nay cụ được hưởng cái quả văn chương Kiều.

Cái nhân ông Hồ chí Minh tạo ra là cái nhân Ác tất nhiên kết quả sinh trái là phải Ác. Cây nào sinh trái đó. Đức Phật, Đức Chúa gieo nhân thiện thì hái được trái lành. Hitler, Stalin, Tần thuỷ Hoàng, Lê Chiêu thống, Mạc đăng Dung, Hồ quý Ly, Trần ích Tắc... gieo nhân ác thì phải hái quả Ác. Dù cho sông cạn đá mòn, chân lý ấy muôn đời không thay đổi. Kẻ ác dù có trốn tránh được pháp luật (thời gian nào đó) thì miệng tiếng muôn đời vẫn không buông tha. Rất nhiều tên cướp lòng dạ chai đá nhưng đến lúc đối diện với tử thần cũng xin quy y, xin rửa tội. Ông Hoàng minh Chính (đồ đệ Hồ nhiều năm, bắn giết đồng chủng nhiều năm, dạy bọn cán bộ của Hồ cách giết người...) mới vài năm nay là một trong số đó.

Đã nhiều năm chị suy nghĩ và muốn đứng với dân tộc, tôi đoán thế, dựa theo những bài chị viết, để hái những trái lành, nhưng bởi cái tâm trạng do dự, tiến thối lưỡng nan (dilemme) và cái nào cũng thích, chị lại thay đổi lập trường. Vì thế tôi mới nói chị là ốc mượn hồn, hoặc là hồn Trương Ba, da hàng thịt.

Dân tộc là trường tồn. Ông Hồ chí Minh hay đảng Việt Minh hay bất cứ vua chúa, anh hùng nào đi nữa chỉ là giai đoạn. Chị bỏ cái trường tồn để chạy theo cái giai đoạn, bỏ cái Thiện để theo cái Ác sao?

Ngoài ra, công tội rồi sẽ được lịch sử phê phán công minh. Thế giới ngày nay nhỏ như một cái huyện ngày xưa, chuyện gì rồi người ta cũng lôi ra hết. Cha con ông Saddam Hussein (Iraq) giết người Kurds và người Shiite không gớm tay thì cả ba cha con, ông ta và hai con trai, Uday, Qsay lại chết thảm dưới tay người Mỹ. Polpot, Ieng Sary, Duch và đồng bọn giết gần 2 triệu người Cam-bốt năm 1975, đã phải ra toà án quốc tế lãnh án tử hình. Còn rất nhiều kẻ khác không thể kể xiết. Hơn 10 triệu oan hồn do ông Hồ và bè lũ giết sẽ có ngày những oan hồn ấy về đòi mạng. Chỉ riêng một cái mạng Nông thị Xuân, ông Hồ đã phải lên ghế điện!

Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
Chỉ do lai tảo dữ lai trì
Lành, ác rồi cũng đến ngày phải trả quả
Chỉ hoặc đến sớm hay đến muộn mà thôi!

Chứ với đầu óc của một cây viết như chị, tôi không nghĩ là chị không nhìn ra những tội ác, những đày đoạ dân tộc, những sai sót chết người của ông Hồ chí Minh và thủ hạ.

Nhân tiện, tôi cũng xin nói rõ cái hảo cảm của một số bạn đọc người Việt tị nạn CS tại hải ngoại khi đọc thiên đường mù của chị năm xưa là, trong cái chế độ ngu dân, “bế quan toả cảng” của vgcs, thầy không mà sách cũng không, học hỏi thâu thái và trở nên có tài viết lách như chị không phải là có nhiều. Nếu chị sống ở miền Nam Việt Nam Cộng hoà 21 năm, tức từ 7 tuổi đi học lớp 1 (1954), cho đến khi miền Nam sụp đổ năm 1975 tức 28 tuổi thì tôi tin chắc chị còn tiến bộ hơn nhiều.

Để tiếp nối bài I, xin mời chị đọc.

3. Những cái gương trước mắt

Cựu Tổng Thống Nga Boris Yeltsin, sau khi làm cuộc cách mạng Dân chủ, Tự do, Nhân quyền đích thực năm 1991, ông đã tuyên bố:

“Chế độ Cộng sản không thể sửa chữa được. Chỉ có một cách là bỏ hẳn nó, triệt tiêu nó đi thay thế bằng một chế độ khác”. Chế độ khác ấy ông Yeltsin đã hiến cho dân Nga là chế độ Dân chủ, Tự Do, tôn trọng Nhân quyền.

Còn cựu Tổng Thống Gorbachev thì sao? Ông tuyên bố (không nguyên văn): “Chủ nghĩa Cộng sản đã sai lầm ngay từ khi nó mới sinh. Con quái vật CS càng ngày càng phình to tôi không cách gì trị nó được, tốt hơn là phải trừ khử nó đi! Cả cuộc đời tôi tận tuỵ cho cách mạng nhưng điều làm tôi hài lòng nhất là tôi đã đưa nước Nga vào con đường Dân chủ.”

Hợp lý thay và hào hùng thay là những lời lẽ và quyết định thuận ý dân, hợp lòng trời của các nguyên lãnh tụ Sô Viết, những hậu duệ của Stalin và Lenin, những con đẻ của cuộc cách mạng Mác-xít tháng 10-1917.

Dân Ba Lan sau khi tiêu diệt được chế độ CS, họ bảo nhau cho đến tận thế không bao giờ vướng vào cái chế độ dã man đó nữa. Dân Ba Lan ngày nay nói Aids không sợ bằng chế độ Cộng sản! CS ghê tởm hơn Aids! Đó là cái chế độ mà thần tượng Hồ chí Minh của chị đã đem vào đất nước ta từ 3-2-1930, tạo nên một biển máu, núi xương vô cùng tàn khốc trong lịch sử loài người và lịch sử dân tộc!

Còn Ceausescu chủ tịch nhà nước Lỗ ma ni? Y và vợ y chống lại cách mạng dân chủ, tự do năm 1991, y đi trốn nhưng bị dân chúng lôi ra giết chết. Y ngoan cố muốn quay ngược bánh xe lịch sử của nhân loại. Y mang xú danh muôn đời!

Sau khi các đảng CS Đông Âu cùng Liên Xô sụp đổ tan tành cùng với bức tường ô nhục Bá Linh, vgcs của Hồ không còn chỗ dựa nên phải muối mặt cố làm hoà bám lấy Mao sếnh sáng để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Cuộc chiến 1979 và 1988 hai bên đã tặng nhau đủ thứ đại pháo, đủ thứ hoả tiễn, AK, B40... Xe tăng Trung cộng quần nát Lạng Sơn, Cao bằng; anh lớn trầy môi còn anh nhỏ dập ngực, chả còn cái tình vừa là đồng chí, vừa là anh em, núi liền núi, sông liền sông, “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” như Hồ vẫn dạy cho cán bộ đọc vanh vách cả ngày để nịnh quan thầy.

Hồ và đám chóp bu Hà Nội quá nhục nhưng phải cắn c. mà lậy “thiên triều” xin tha cho cái tội vô ơn bội nghĩa và hỗn láo sau khi thằng thầy dạy cho một bài học. Tự đó tởn! Cái tròng Trung cộng giương ra, con mồi vgcs chui vào, bẫy sập xuống. Chấm hết!

Hồ đã có ý định bán nước (y như bố tôi đã nói ngày 20-8-1945 ở Hải Phòng) khi Hồ ra lệnh cho Phạm văn Đồng ký Công Hàm gửi Quốc vụ viện Trung cộng Chu ân Lai từ 1958, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung cộng để đổi lấy vũ khí đạn dược, quân trang, dược phẩm, thực phẩm mà cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam.

Ngày 2-12-2007, Trung Cộng ra Văn thư Hành chánh sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vốn là của nước Việt Nam hơn vài ngàn năm nay (hay từ khi dựng nước) vào huyện Tam Sa, thuộc tỉnh Hải Nam của Trung Cộng. Khi đồng bào và anh em Sinh viên, học sinh tại Hà Nội và Sàigòn biểu tình phản đối Trung cộng xâm lăng trước tòa đại sứ Trung cộng thì Việt cộng cho công an đàn áp và giải tán. Trong khi ấy, ngưòi phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Cộng phát biểu rằng:

“Hai quần đảo này là của Trung quốc, không cần phải bàn thảo dài lời. Chính Phạm văn Đồng, Thủ tướng nước VNDCCH, bằng văn bản, năm 1958 đã xác nhận quyền đó của Trung quốc.”

Từ vụ Hoàng, Trường Sa này, đã hàng chục lần, Hải quân Trung Cộng bắn giết ngư dân Việt đánh cá quanh đó, cả mấy chục ngư dân đã chết oan, số khác bị tàn phế (xã Hoằng Trường, Thanh Hoá) số khác nữa bị bắt đòi tiền chuộc và mới tuần cuối tháng 5-09, tầu Trung cộng đâm chìm tầu câu mực của ngư dân VN (coi cuối bài). Tất cả những vụ đó, Nhà nước vgcs, Quốc hội, Thủ tướng...câm như hến. Chị có thấy cái nhục nào của một quốc gia như thế không!

Đề nghị chị nếu quên chưa viết mục Hồ dâng Hoàng, Trường Sa này cho kẻ thù truyền kiếp là Trung cộng trong “Đỉnh cao chói lọi” và tất cả các mục tôi nêu ra trong bài này mà chưa hiện diện trong ĐCCL thì nên viết một bản Phụ đính kèm vào cuốn sách cho đầy đủ kẻo ông Hồ, người đã chết, thần tượng của riêng chị, nhân vật chính trong ĐCCL thấy thiếu sót không siêu thoát được!

Ngay từ 1945, những khi Hồ sang triều kiến Mao để chịu lệnh, nhiều lúc cùng Mao nằm hút thuốc phiện và hưởng gái non, lẽ nào Mao không đề cập đến vịnh Cam Ranh, Cao bằng, Lạng sơn, giáp ranh giới, Nam quan , Bản giốc, các cột mốc biên giới giữa hai nước, cửa khẩu Hải Phòng, vùng yết hầu Tây Nguyên, đường xe lửa Vân Nam-Hà Nội v.v... là những điểm chiến lược của toàn vùng, kẻ nào nắm được những điểm chiến lược đó, kẻ ấy thắng!

Một học sinh Trung học (thuộc VNCH chứ không phải học sinh XHCN của ông Hồ) thuộc sử nước nhà cũng biết từ 4,000 năm nay, không lúc nào Tàu không mơ tưởng mở rộng biên giới xuống phía Nam, phía biển để phát triển Hải quân và ngư nghiệp! Chính vua Trần Nhân Tông (1279-1298) đã có chúc thư cho dân ta và con cháu về điều đó!

Trung cộng đã nhìn rất xa nên đã cài người vào chính phủ của Hồ, Hội đồng Nhân dân, Viện Kiểm soát, tóm lại mọi cơ quan đầu não để khống chế người Việt. Người Việt nào hơi hó hé chống chúng là đi mò tôm ngay. Cái gương Đặng thái Mai hồi Hồ còn sống lẽ nào chị quên được? Khoảng chục năm nay, mười sáu tướng tá vgcs trên một chiếc máy bay quân sự bay sang Lào, đã đâm vào núi chết hết. Người hiểu chuyện bảo những tướng tá này có manh nha chống Trung cộng nên chúng nhổ cỏ.

Mai mốt ở Tây Nguyên chị sẽ thấy, chúng lập thành làng, huyện và cả thị trấn, người cai trị chúng là chính chúng. Người Việt Nam phản đối chúng thì ban đêm chúng cho đi mò tôm. Chúng lấy vợ là gái Việt, đẻ con, vợ con chúng phải nói tiếng Phổ thông như chồng và cha, học chữ Hán, Văn hoá là văn hoá Tàu, phim Tàu, đào kép Tàu, anh hùng Tàu, lệnh lạc từ bên Tàu, chúng đâm rễ sâu xuống lãnh thổ Việt Nam và không cách gì đuổi chúng về nước được nữa. Hiện chúng đã cho cả trăm giáo viên Tàu sang dạy Hoa ngữ và chữ Hán. Người Tàu tự do vào Việt Nam mà không cần Visa, mua nhà, lấy vợ đẻ con tự nhiên như đất nước này là của chúng không ai dám làm gì! Hồi Thế vận hội Bắc Kinh 2008, chúng trương cờ 5 sao đi khắp phố phường Sàigòn ca hát, nhảy múa y như nơi đó là đất nước của chúng nhưng bọn công an khốn nạn chỉ rành chuyện bắt nạt dân Việt, còn Tàu muốn làm gì thì làm không dám động đến một sợi lông của chúng. Một Kỹ sư Việt ở Hà Nội bị bọn thanh niên Tàu hè nhau đập chết ở ngoài đường giữa ban ngày nhưng không ai dám đụng đến chúng! Bọn chóp bu Hà Nội cũng mần ngơ!

Chuyện mất nước về tay Tàu tôi đã cảnh báo đồng bào ta trên báo chí hải ngoại hơn chục năm nay rồi!

Võ nguyên Giáp từ tháng 1-2009 méo mặt vì chuyện bùn đỏ bauxite Tây Nguyên bán nước. Y đi năn nỉ Nguyễn tấn Dũng bỏ vụ bauxite Tây Nguyên nhưng bố bảo Dũng không dám vì Dũng đã ăn chịu với Hồ cẩm Đào, chính Đào lựa Dũng cho làm Thủ tướng (thay vì Vũ Khoan giỏi hơn và chín chắn hơn), tất nhiên Dũng phải hứa trung thành tuyệt đối! Còn Mạnh, Triết, Trọng và 500 tên đại biểu Quốc Hại thì cũng là những con hến thôi! Chúng còn thở nhưng đã chết lâu rồi ngoại trừ lúc chúng tìm cách đào khoét của người dân và tiền ODA (viện trợ) cũng như ăn cướp nhà đất ruộng vườn của dân!

Nếu từ 1945 Hồ biết thương nước yêu nòi, biết gạt bỏ những tham vọng cá nhân và đảng của y, giữ lấy miền Bắc sau khi được chia năm 1954, lo cho dân bớt đói nghèo, đứng độc lập với mọi quốc gia CS kể cả Trung cộng, không có tham vọng cưỡng chiếm miền Nam mà để cho hai miền cùng lo kinh tế giáo dục cho dân, như Bắc và Nam Triều tiên, như chính sách Tito của Nam tư, gần như Sihanouk của Cao Miên hay cương quyết không du nhập chủ nghĩa CS vào lãnh thổ như TT Lý quang Diệu của Singapore (Lý quang Diệu gốc người Trung Hoa, rất dễ lọt vào quỹ đạo của Mao trạch Đông, nhưng Lý đã cứng rắn giữ cho đất nước có tự do dân chủ và không đi theo CS). Nếu ông Hồ biết những điều sơ đẳng ấy thì ngày nay dân nước đã tiến bộ biết bao nhiêu, người Việt đâu cần chạy tứ tung đi khắp hành tinh kiếm ăn, trốn vgcs như trốn si-đà, bỏ quê cha đất tổ, gia tài ruộng nương, mồ mả ông cha, tha phương đất khách chỉ cầu hai chữ tự do!

Ông Hồ và bọn Việt Minh chính là cái quái thai ghê tởm thời đại, con yêu tinh đội lốt người chứ là con người có ai nỡ nhẫn tâm đầy đoạ, giết chóc dân nước hãi hùng, kinh khiếp, dã man đến thế?

Vậy mà chị lại cố bào chữa con người này, bỏ mặc hơn 10 triệu người đã vì y mà tức tưởi nằm xuống, vì y mà tan nát gia đình, mất hết cả một cuộc đời. Tôi thiển nghĩ chị cũng đã đánh mất nhân tính chứ nếu còn là con người thì đâu có nâng bi một con quỷ nhập tràng, con yêu râu xanh như vậy?

Có lẽ chị và con gái chị không vướng phải trường hợp Huỳnh thị Thanh Xuân và nhiều cháu gái khác bị Hồ cướp trinh, chị em chị không ai là Nông thị Xuân, Nguyễn thị Vàng, Nguyễn thị Minh Khai hay Tăng tuyết Minh, cũng không có ai là Nguyễn tất Trung và em hắn nên chị, với đôi mắt kiêu căng ngạo mạn nhưng mở chưa đủ lớn để nhìn mọi sự việc đến cốt tuỷ của nó, vội hoan hô, quỳ mọp cắn cỏ mà lậy.

Nếu chị là cháu của bố tôi, được nghe bố tôi nói khi chúng tôi đi đón ông Hồ xuống Hải Phòng tháng 8 năm 1945, chắc chị sẽ có sự suy nghĩ rất khác.

Viết được dăm ba cuốn tiểu thuyết có chút ít tư tưởng chống bọn chóp bu Hà Nội, nhờ đó người Việt tị nạn vgcs ở hải ngoại có cảm tình với chị, chị ngạo mạn nghĩ rằng người VN đều dưới tay chị hết thảy và chị muốn viết gì họ cũng tin, dù là viết chạy tội cho một thằng bán nước, giết đồng bào.

Chị đã lầm to, chị Dương thu Hương!

Dân trí ngày nay khá rồi không phải như lúc nào chị cũng coi khinh dân Việt là mù chữ, dốt nát, ngu đần nên chị mới viết cái câu trong cuối bài của chị.

Khi xưa chị nói chị ỉa phẹt lên đầu bọn Bắc bộ phủ nhưng nay chị lại viết cuốn sách đỉnh cao “muốn thọi” này, thực là tiền hậu bất nhất!

Người suy nghĩ bình thuờng cũng thấy bọn Bắc bộ phủ này đầu têu là giặc Hồ, chị ỉa phẹt lên đầu bọn Bắc bộ phủ tức ỉa phẹt lên đầu Hồ. Nay mới biết chị nói vậy nhưng không phải vậy, chị viết sách phong thánh Hồ. Chắc chị nghĩ rằng với cái tài viết lách, (thực sự nhiều câu quá ngớ ngẩn, vô nghĩa chẳng ai biết chị muốn nói gì do cóp nhặt ngoại ngữ rồi dịch ra để loè bà con) chị sẽ chuyển bại thành thắng, chuyển những điều chửi rủa Hồ thành ra những nhớ ơn, đề cao, vinh danh Hồ như một vĩ nhân của nước VN. Chị đã lầm to rồi và chính vì chị tối tăm như thế, cả chị và Hồ càng xuống đống bùn đen sâu hơn.

Ngạn ngữ Mỹ có câu: “Dù có bôi môi son cho con lợn thì nó cũng vẫn là con lợn” “Even though you use lipstick for a pig, it’s still a pig”.

Con heo nọc cũng vậy, dù chị có trét cả tạ son, tấn phấn vào mặt nó, nó vẫn là con heo nọc tai xanh, lở mồm long móng, mang mầm bệnh H1N1 ai nấy phải tránh xa. Sẽ có một ngày toà án quốc tế La Haye xử tội diệt chủng bọn vgcs, lúc đó chị cố mà làm thầy cãi cho chúng, như chị nói: “l’avocat du diable!”

Những sự thực lịch sử, vì có nhiều triệu người nhìn vào và đã kinh qua, đã sống, không ai có thể thay trắng đổi đen dù lưu manh như bọn vgcs đã và đang làm. Chị ví Hồ tặc với các triều vua Đinh Lê Lý Trần mà không ngượng miệng, các triều Đinh Lê Lý Trần có triều nào giết người không cùng chính kiến với mình không? Vua Quang Trung sau khi giết hơn 20 vạn quân Thanh, vào Thăng Long với áo ngự bào và cả mặt mày đen thuốc súng, Ngài vẫn hạ lệnh cho các quan đối xử tử tế với tàn quân Tàu xin đầu hàng, cấp phát lương thực và quần áo cho họ về Tàu. Nên nhớ đó là người Tàu, kẻ thù của Ngài chứ không phải nguời Việt Nam.

Hitler quá dã man nhưng y chỉ giết Do Thái và các người không phải người Đức. Trái lại y bao bọc, che chở người đồng chủng của y. Hồ tặc, trái lại, khom lưng quỳ gối trước ngoại bang, nhất là Nga-Tàu nhưng ruồng người Việt thủ tiêu hơn lang sói khi y nghi ngờ người này không đồng chính kiến với y! Cái gương cựu TT Võ văn Kiệt, Trung tướng Nguyễn Hùng v.v... còn sờ sờ trước mắt!

Có triều đại nào công an đông hơn người dân, dùng công an để dò xét người ta ăn, uống, đại tiện, tiểu tiện, làm tình, chùi đít cho con lúc nào, dùng công an và còng số 8 để đè nén áp bức hơn cả quân Minh, hơn cả thực dân Pháp; chị viết đa số dân Việt vẫn yêu ông Hồ mà chẳng hiểu người ta đã khinh bỉ gọi ông ta là con chó đẻ. Một trong hàng trăm câu Ca dao tân thời:

Thằng Hồ cùng với thằng Tôn
Cả hai thằng đó đã chôn dân mình
Thằng Duẩn cùng với thằng Minh
Cả hai thằng đó tử hình mới cam!

Có ai khốn nạn như Hồ
Bỏ con, giết vợ một lô một bày
Lạy thằng cố vấn bằng thày
Đoạ đày dân nước không ngày nào no!

Ca dao dân gian chửi Hồ và bè lũ, muốn chép lại phải cả cuốn sách dày. Sau này sẽ có một Ban Tu Thư làm công việc đó.

Phạm quế Dương, cựu Đại tá CS là người đầu tiên gọi Hồ là “thằng Hồ dâm tặc” chứ không phải những người chống Cộng hải ngoại chúng tôi như chị kết án! Còn những người thoá mạ Hồ thì cả nước, ngày nay tất cả đã biết rõ hành trạng của Hồ, có nghĩa hết bị bịp. Hồ nếu giỏi như chị ca tụng sao lại phải cấm tự do ngôn luận, cấm báo tư nhân, sao lại phải dạy trẻ từ thuở lên 3 phải kính yêu bác Hồ, sao lại phải dùng đủ mọi cách để nhồi sọ tẩy não, dạy chúng hỗn láo với cha mẹ, ông bà, với cả Chúa, Phật (là những đấng chỉ dạy điều lành) để chỉ tôn thờ mình Hồ? Chính chị khi còn quàng khăn đỏ cũng đã lậm cái mầm ung thư nọc độc của Hồ nên dù đã tìm hiểu nhiều về Hồ vẫn không tẩy rửa cho hết nọc độc được!

Nọc độc Hồ đã ngấm sâu quá rồi!

Hữu xạ tự nhiên hương, có đức có tài, làm tốt cho dân, không bao giờ dân bỏ. Chị coi nhiều Tổng thống Pháp Mỹ, Dân biểu, Nghị sĩ họ ra tranh cử nhiều lần vẫn được dân ủng hộ. Hồ chưa bao giờ phải ra tranh cử (vì nếu ra là thua, ở hải ngoại ngày nay nếu phải bỏ phiếu chọn giữa Hồ và LS Lê thị Công Nhân hay Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh thì tôi cá với chị Hồ thua đứt đuôi con nòng nọc) Vì vậy Hồ cứ bắt ép dân, loè bịp dân, tự quyền ở trên ngôi vua suốt đời, không kể gì đến dân, áp dụng chế độ toàn trị độc tài, cha truyền con nối để vinh thân phì gia. Những phi lý, phi dân chủ ấy không do Hồ thì do ai? Mà nào con Hồ, tên Nông đức Mạnh có giỏi giang gì cho cam? Một thằng ngu đần dốt nát, chó nhảy bàn độc, vô tài bất đức, Tàu chưa gọi đã sang cắn c. lậy từ ngoài cửa lạy vào! Những cái nhục của dân tộc là từ đó, chị nên ghi vào Phụ đính cho cuốn Đỉnh cao chói lọi cho hoàn chỉnh!

Cái kiểu tôn sùng cá nhân, tôn sùng Hồ, như chị cổ võ ngày nay đã lỗi thời dù chị đang sống ở kinh đô ánh sáng. Có lẽ chị đã là “cháu ngoan bác Hồ” quàng khăn đỏ quá lâu, óc đặc sệt những tư tưởng ba trợn và hình ảnh dâm đãng, ăn cướp của Hồ nên dù chị sang Paris ở hàng chục năm, những thứ nhồi sọ đó không tẩy rửa đi được, nó đã thoát ra từ ngòi bút lòn trôn vớ vẩn của chị!

Xin trích lại câu chị đã viết:

“Trở lại sự kiện “UNESCO bị đẩy lùi”, tôi xin đáp: không chiến thắng nào chiếm đoạt bằng thủ đoạn có thể đứng vững với thời gian. 19 năm trước, nếu cuộc thảo luận này diễn ra tại Thượng nghị viện Pháp thì giờ đây, tôi cũng vào chính nơi ấy để phát biểu ý kiến của mình qua chương trình truyền hình Bibliothèque Médicis.”

Chị DTH! UNESCO bị đẩy lùi là ý trời đấy chị. Ý trời cũng là ý dân, dân khắp thế giới chỉ trừ những đứa mù (mắt vẫn mở trao tráo mà vẫn mù) trong đó có chị! Ông Hồ mất cái vinh danh ấy tôi không được lợi lộc gì, những người mắt sáng không được gì nhưng nếu sự việc ấy diễn ra thì cái thế giới này chính là thế giới của quỷ (le monde du diable)! Vì sao? Vì một thằng già lừa lọc phản dân hại nước Việt Nam (chính chị công nhận ngày 30-4-75) hoang dâm vô độ, ăn cắp thơ văn, phá trinh những đứa trẻ mà tuổi chỉ bằng những đứa cháu nội, cháu ngoại của y (xin chị đọc thư của cô Huỳnh thị Thanh Xuân, người Quảng-Đà, nếu chị muốn đọc tôi gửi cho chị), vô trách nhiệm với những đứa con y đã đẻ ra; vì cái tiếng bác Hồ còn trinh, nhẫn tâm giết người vợ mang đến cho mình niềm vui, đã hi sinh cả tuổi xuân cho mình tức là Nông thị Xuân (đã sinh cho y Nguyễn tất Trung và em nó), bỏ vợ có hôn thú là chị người Tàu Tăng tuyết Minh (đám cưới có vợ chồng Chu ân Lai dự) bỏ đứa con gái có với Đỗ thị Lạc (Trần trọng Kim, VN Sử lược); báo cho Pháp bắt giết nhiều đồng chí của y trong đó có Nguyễn thị Minh Khai, Trần Phú (bị Pháp xử tử ở Thập bát phù viên, Hóc Môn, Gia định); báo cho Pháp bắt Hà huy Tập và đồng chí ruột là Lê hồng Phong, cướp vợ của Phong là Nguyễn thị Minh Khai, công khai ở với thị khi y ở Moscow, báo Pháp bắt nhiều lãnh tụ Quốc gia trong đó có cụ Phan bội Châu vì cụ Phan nổi tiếng hơn, giỏi dắn hơn, đức độ hơn y cả trăm lần, giết học giả Phạm Quỳnh và con trưởng là Phạm Giao; Trần huy Liệu sau khi giết cha con ông Quỳnh lại cướp vợ Phạm Giao, sau đó Liệu gửi vợ Phạm Giao (nguyên là hoa khôi Đồng Khánh) ra Hà Nội cho Hồ hưởng vì Hồ rất thích chị này.

Một tên giết người không gớm tay, lừa thầy (cụ Hồ học Lãm, cụ Phan bội Châu) phản bạn (các đồng chí y báo Pháp giết), đàng điếm, lưu manh, đĩ thoã, vô đạo như vậy mà leo lên đỉnh cao chói lọi của thế giới thì chắc rằng Satan sẽ cai trị loài người và đười ươi khỉ đột dạy luân lý, cái thế giới này chắc sắp tận đến nơi.

UNESCO không phải vì nhóm Đường Mới của GS Nguyễn thế Anh nhưng là từ rất nhiều nhóm ở hải ngoại, trong đó có GS Lê hữu Mục. GS Mục tố cáo rằng Hồ chí Minh đã ăn cắp cuốn “Ngục trung nhật ký” của nhà chí sĩ Lý Đông A. Chính vì thế, sau khi duyệt xét cẩn thận các đề nghị cũng như tố cáo, UNESCO đã huỷ bỏ vụ “phong thánh” cho Hồ. Công Lý đã được tỏ rạng vậy!

Hồ chí Minh không chỉ ăn cắp thơ văn của chí sĩ Lý Đông A, ngay cái tên Việt Minh, Hồ đặt cho đảng y cũng là do y ăn cắp của cụ Hồ học Lãm. Tên Nguyễn ái Quốc y cũng chôm của ba người viết báo ở Paris lấy chung một tên trong đó có hai cụ Phan chu Trinh và Phan văn Trường. Hồi đó Hồ chỉ làm một nhiệm vụ đặc biệt là đi bỏ báo!

Ở bên Tàu, cụ Lãm có đảng tên là Việt Nam Độc lập đồng minh hội. Hồ chí Minh thấy cái tên hay, chớp luôn và gọi tắt là Việt Minh. Phải nói y là một con người rất kém sáng kiến; ngay như khi có đảng viên khen y chính trị cao, Hồ bảo:

“Có cái gì thì các bác Mác-Lê-Mao đã nói hết. Tôi chẳng có gì ngoài lý thuyết Cộng sản.”

(Y thú nhận vậy nhưng các tên liếm trôn Hà Nội (giống như chị) lại cứ thế bốc y lên đến mây xanh, nào tư tưởng bác Hồ, nào xã hội chủ nghĩa của bác Hồ, tất cả vì sự nghiệp bác Hồ v.v...)

Từ đó người ta thấy, do lưu manh, Hồ theo đúng bài bản của con tu hú. Chim tu hú thấy những con chim khác làm tổ nhưng tu hú làm biếng. Làm biếng nhưng muốn có tổ đẻ, vợ chồng tu hú kiên nhẫn chờ đó. Khi đôi chim kia đẻ trứng xong, thường là quạ hay sáo đen, lừa lúc chúng đi kiếm ăn là tu hú vào đẻ. Đôi chim kia không biết (chúng đâu có trí khôn) cứ ngỡ là trứng của mình, ấp ráo. Đến ngày nở, đôi chim kia phải nuôi con mình mà nuôi luôn hai, ba con tu hú chưa nứt mắt. Khi bay được, tu hú con bay ra và đi theo tu hú mẹ!

Hồ cũng thế, y cứ mon men vào những đảng phái khác xin sinh hoạt, xin vào đảng v.v...để lấy lòng, rồi y rủ rê những đảng viên trong đó theo y lập một đảng khác, phản bội lại chính cái đảng trước của người ta. Thực là một giống tu hú vô liêm sỉ!

Quen cái mửng đó, Hồ thành công khá nhiều vì những người đi theo Hồ, đa số ngây thơ, ngờ nghệch. Võ nguyên Giáp là một. (Một mình Võ nguyên Giáp cũng giết cả mấy triệu người Việt vì tội diệt chủng, y phải đền tội trước pháp luật và nhân dân y như Hồ) . Chiến thắng Điện biên Phủ không phải công của Giáp vì Giáp không có học và không biết gì về binh thư, Giáp chỉ là một giáo sư Sử Địa ở trường trung học Thăng Long. Tướng Cheng Ghai, Trung cộng, đã chỉ huy trận ĐBP (đánh biển người, nướng quân không thương tiếc vì quân là người Việt) và Giáp chỉ điếu đóm cho y.

Ngày xưa Giáp vẫn cầm quân
Ngày nay Giáp rúc trong quần chị em!

Rúc như con chí, con rận hút máu. Nay Giáp đang bối rối lắm, hối hận, nhục nhã lắm, lo lắng lắm vì vụ bauxite Tây nguyên. Hàng triệu đảng viên vgcs khác, ngay cả bọn 15 tên trong Bộ Chính Trị và 500 tên Quốc Hại đã nhìn thấy con đường “bác” đi là con đường bi đát, là con đường bán nước, trong khi áp lực của Trung cộng ngày càng đè nặng, không thoả mãn chúng thì mất mạng như chơi, mà thoả mãn thì dâng nước! Quá trễ rồi, chị thấy không?

Quá trễ rồi mà chị còn có gan ngồi viết “Đỉnh cao chói lọi” ôm chân thằng Việt gian diệt chủng, chạy tội cho y thì tôi thành thực phục chị là con người phi thường, phi thường vì ngửi được cái mùi xác chết thối rữa xung quanh Ba đình. Thảo nào chị phải bỏ chồng, bỏ con, ức chế tình dục để làm những công việc này. Những người xung quanh chị không thể chịu nổi cái hôi thối từ văn từ chị bốc ra. Chồng với con từ bỏ là phải! Và chính cái cuốn Au Zénith này sẽ là một bản án muôn đời khắc lên trán chị những dòng chữ ô nhục!

“Không chiến thắng nào chiếm đoạt bằng thủ đoạn có thể đứng vững với thời gian” chị viết câu này thực chí lý. Từ câu của chị, dùng làm tiền đề cho một Tam đoạn luận, tôi xin nối tiếp sau đây:

Hồ chí Minh chiếm đoạt công lao Tổng khởi nghĩa của toàn dân Việt Nam ngày 19-8-1945.
Hồ dù cướp được quyền lực, Hồ không thể nào đứng vững với thời gian!

4. Cải Cách Ruộng Đất

Chị Dương Thu Hương! Chị có đề cập đến một chiến thắng lẫy lừng của ông Hồ chí Minh là Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) trong cuốn sách “để đời” của chị, “Đỉnh cao chói lọi” không?

Nếu không có thì chị vấp phải một lỗi lầm nghiêm trọng với “Người”, thần tượng của riêng chị và với đảng ta. Nửa triệu oan hồn bị giết vì CCRĐ cũng sẽ kêu nài vì chị đã bỏ quên họ trong cuốn sách quý giá!

Có lẽ mục này thiếu nên bà Janine Gillon, một nhà phê bình Văn học tại Paris, chê “Đỉnh cao chói lọi” là tồi, kém, không ra chi!. Một số bạn đọc VN ở Pháp đã đọc thì bảo tôi, ĐCCL không có dẫn chứng, không có phỏng vấn, không có chứng liệu nghĩa là chỉ thuyết (khẩu thuyết vô bằng) như kiểu nói bâng quơ, chân không chạm đất, cật không tới trời, chẳng ra sao cả nên không có sức thuyết phục. Người ta cũng nói nó không phải là cuốn tiểu thuyết mặc dù chuyên nghề của chị là viết tiểu thuyết chứ không phải viết triết lý vụn. Họ bảo triết lý của chị là thứ triết lý rẻ tiền. Nếu trước khi viết nó, chị đọc được câu này của Văn hào Pháp Albert Camus (Nobel văn chương 1957) đã từng di chúc thì hay biết mấy:

“Trí thức có bổn phận phải nói lên những điều mà người ta muốn nói lên nhưng không có điều kiện để nói.”

Tám mươi lăm triệu người trong nước, rất nhiều người muốn nói nhưng không có cơ hội, dịp may để nói. Chị có cơ hội, dịp may nhưng chị bóp méo sự thật, hoặc không dám nhìn vào sự thật. Cả hai thái độ đó đều hèn và đáng khinh.

Những người chiến sĩ VNCH, những chiến sĩ của Dân chủ, Tự do và Nhân quyền suốt 21 năm xả thân chiến đấu, ngăn ngừa giặc Hồ vào chiếm miền Nam. Họ là ân nhân của nhân dân miền Nam. Nhưng vốn có thiên kiến ghét Mỹ và Quân lực VNCH, chị không từ một trường hợp nào vu vạ, cáo gian, đổ vấy cho họ những tội lỗi tày trời như vụ xẻo vú và đâm nát cửa mình cán bộ gái vgcs.

Trường hợp những tù nhân chính trị bị vgcs bắt vào trại tù cải tạo, quen lối ngôn ngữ tuyên truyền, khi viết về người lính Việt Nam Cộng Hòa bị bắt làm tù binh, chị viết rằng tù nhân VNCH đã gọi bộ đội và quản giáo là “ông” xưng “con”. Chị hằn học phê phán và cho “đó là những thái độ hèn hạ khúm núm hết sức đáng khinh bỉ!” . . .

Chị DTH, những quân nhân này nếu có khúm núm trước AK, cùm sắt, conex, bỏ đói bỏ khát và cả tra tấn đến ngất đi, đày đoạ đến chết thì cũng có thể hiểu được. Con người ta lúc đói, lúc bị dí súng vào đầu có thể mất nhân cách dễ dàng. Việt vương Câu Tiễn phải nếm phân cho Phù Sai, Dự Nhượng muốn báo thù cho chủ phải nuốt than, giả làm hành khất, Lê Lai hoá trang để liều mình cứu chúa v.v... đều là những trường hợp bất khả kháng, phải dùng thế nhu mà giảm bớt cái kiêu căng của kẻ thù ngạo mạn, hiếu sát. Nếu chị ở truờng hợp đó trong trại tù Auschwitz của vgcs chưa chắc chị còn giữ được nhân cách.

Nhưng một Phó thủ tướng Văn hoá như Tố Hữu, quyền lực đầy mình, no nê, phè phỡn, sang cả, đứng hàng thứ 3 thứ 4 sau Hồ, không ai đe doạ, ép buộc mà sao lại viết ra những vần thơ “liếm trôn nhục nhã” sau đây:

Xít-ta-Lin đời đời cây đại thụ
Thương biết mấy khi con học nói
Tiếng đầu lòng con gọi Xít ta lin
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một thương ông thương mười

và:

Giết, Giết nữa bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít ta lin bất diệt!

Và còn rất nhiều vần thơ khác của Tố Hữu và Huy Cận, Xuân Diệu, Chế lan Viên v.v... ca tụng ngoại bang không biết mắc cỡ. Xuân Diệu mỗi khi đọc thơ của Hồ thì giả vờ lấy khăn lau nước mắt làm như cảm động lắm. Khi có người hỏi, y nói để kiếm thêm vài lạng thịt lợn!

Một người quân nhân thường không cần nhiều thần kinh xấu hổ như một Phó Thủ tướng hay một Nhà thơ, một Nhà văn, những “người của quần chúng”.

Khi những anh quân nhân đó phải chịu ép một bề dưới mũi súng, dưới nhiều áp lực khác thì chuyện nhẹ nhàng với kẻ thù là điều dễ hiểu. Ai cũng sợ chết, kể cả chị, nếu không chị sang Paris làm chi? Nếu anh quân nhân gọi tên quản giáo là ông xưng con đáng phạt 1 roi thì tên Phó Thủ tướng Tố Hữu, những tên bồi bút Trương bá Cần, Huỳnh công Minh, Thiện Cẩm, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế lan Viên, Bùi ngọc Tấn, Tiêu Dao bảo Cự, Dương trung Quốc v.v... làm mất danh dự quốc thể, phải bị phạt 1,000 roi!

Những người bạn tôi bên Pháp cũng nói, mấy chữ Pháp chị chép lại còn sai như Jean Paul Satre (đúng ra phải viết là Sartre), Betrand Russell (đúng ra là Bertrand Russell) Todd thì chị lại viết Tood v.v... nhưng thôi những cái lẻ tẻ đó ai chấp làm gì?

Nhưng những điều này thì nên nói. Có nhiều câu, do chị cố làm dáng, hoặc dịch từ ngoại ngữ, chẳng ai hiều chị muốn nói gì như tư thế tổng quan và tư thế nội tại. Tuy nhiên, nếu ai quen đọc chị sẽ biết đó là cái tài láu cá vặt hay làm dáng của chị!

Dĩ nhiên, khi chị ở Pháp bằng ấy năm, chị phải thông thạo Pháp ngữ cũng như những người có học ở Mỹ, phải thông thạo Anh ngữ để đi kiếm việc làm mà sống và nuôi gia đình. Ở hải ngoại này như chúng tôi với chị, chưa quá 65 tuổi mà không đi làm thì lấy tiền đâu mà sinh sống? Nhờ vả chính phủ cũng nhục nhã lắm đấy! Tôi ở Hoa Kỳ 34 năm tôi biết rất rõ, phải lao động để sống không nhờ vào ai được, cho dù là con cái! Tiền xuất bản và công dịch một cuốn sách ở hải ngoại không phải là ít, tôi khen chị không nhờ vả ai mà in được hàng ngàn cuốn!

Trở lại với Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ), chị nên nêu rõ số người bị thảm sát (vì chị tự hào là honnête và thích người ta honnête với chị).

Theo báo cáo chính thức của đảng vgcs thì số địa chủ, phú nông bị giết trong dăm năm theo khuôn mẫu Trung cộng là trên 200,000 người (dưới 250,000).

Con số này đảng vgcs đã không honnête, đã ăn gian, chị DTH! Phải đòi cho được bản báo cáo chính thức Hồ báo cáo cho Nga và Tàu thì mới chính xác! Có ít ra cũng trên nửa triệu người bị giết vì CCRĐ tại miền Bắc trong những năm đó vì chỉ tiêu bị giết theo Nga-Tàu đòi hỏi là 5% hay 1/20. Nếu số nông dân là 10 triệu người thì số chết phải là 500,000. Nước ta hồi đó hầu hết là nông dân, con số nửa triệu có thể vẫn là ít, chưa đúng thực tế.

Việt Gian Cộng Sản xưa nay vẫn thường gian dối. Chúng gian dối từ trong máu (như lời bà TT Đức Angela Merkel), từ đời cha đến đời con; cái gì hay, tốt, thí dụ giết lính Cộng Hoà thì có 1 thổi phồng ra 5 ra 10. Học sinh quá dốt đi thi chỉ đậu 10% thì chúng phóng ra 70-80%. Đó`Bệnh thành tích, chị đã quá rõ! Còn cái xấu, tồi, dở thì rút bớt đi thật nhiều chỉ còn để lại chừng 1/3 hay ¼ thậm chí 1/10. Chính cán bộ cũng không tin nhau khi đọc các bản báo cáo đó.

Một người cha trong gia đình bị quy chụp là địa chủ, bị giết thì không phải chỉ mình ông ta chết. Vợ, các con, bị tịch thu hết ruộng nương, nhà cửa, nguồn sống cũng sẽ chết dần chết mòn. Trung bình một gia đình VN có 4 đứa con, cộng thêm người vợ, có nghĩa cái chết của ông địa chủ kéo theo 5 cái chết nữa. Năm trăm ngàn ở trên phải nhân 5 là 2.5 triệu. Đó là chưa kể anh em, cháu chắt, cha mẹ, ông bà, chú bác của nạn nhân, kể cả mấy chục người đau buồn vì cái chết của một địa chủ!

Nhưng nhiều gia đình, để chúng dễ cướp hơn, chúng giết cả hai vợ chồng. Đàn con nhỏ dại còn lại cũng sẽ chết dần chết mòn! Số người thực sự chết phải gấp 3 gấp 4 lần báo cáo.

Cách Hồ giết địa ác (danh từ của cán bộ và báo chí vgcs) thực ghê tởm, dã man. Hồ bắt bọn cán bộ chôn sống hai vợ chồng nạn nhân, xong cho trâu bò cày bừa lên những cái đầu nạn nhân cho dở sống dở chết, cho thực khổ sở đau đớn trước khi chết. Đó là hành động của bậc vĩ nhân của Dương thu Hương đó!

Bài này đã dài, tôi không muốn viết về những cái lưu manh, dã man và dâm đãng cực kỳ của chương trình CCRĐ của giặc Hồ theo lệnh Xít-ta-Lin và Mao trạch Đông, mặc dù tôi có nhiều tài liệu. Nhân chứng sống ở nhiều làng Bắc Việt còn đầy. Chị nên tìm cuốn “Ba người khác” của Nhà văn lão thành Tô Hoài (tác giả Dế mèn phiêu lưu ký xb trước 1945) mà đọc để thấm thía cái “nhân đức trời biển” của “bác”. “Bác” nên được viết thêm dăm cuốn ĐCCL nữa để vinh danh mới xứng đáng.

5. Vụ Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968

Điều này thì chị không chối vào đâu được, chị Dương thu Hương!. Đêm mồng 1 Tết, Hồ đích thân đọc một bài thơ trên đài phát thanh Hà Nội dùng làm Mật hiệu cho quân lính của Hồ nhất loạt tấn công các cứ điểm của VN Cộng hoà. (Thành ra những điều chị viết trong MACL chỉ là những điều láo toét, bậy bạ, bán linh hốn cho quỷ Hồ).

Tổng công kích Tết Mậu Thân như một quả bom nguyên tử làm cả nước choáng váng. Sự kiện này cả miền Nam và miền Bắc đều biết nên tôi không cần phải đưa chứng liệu. Hồ cho lính Lê dương của Hồ (tức bọn lính Nguỵ đánh thuê cho CS quốc tế) giết 12,000 người ở miền Nam hầu hết là thường dân vô tội, viên chức xã ấp, giáo viên ... ngay cả thợ mộc, thợ hồ, đàn bà, con nít ...

Quân đội Cộng hoà và Cảnh sát bị chúng giết rất ít, nhưng cả trăm ngàn tên lính CS mặt non choẹt, có những tên mới 13, 14 tuổi, Hồ cưỡng bách phải đeo súng vượt Trường Sơn vào Nam (và cả bọn địa phương ngu si không biết gì), bị quân đội Cộng hoà làm thịt, xác bỏ đầy đường.

Tại một giáo xứ Công giáo ở Huế, vgcs đã lôi cha Bửu Đồng và hàng trăm thanh niên CG ra bắn. Mấy giáo sư ngoại quốc giảng dạy ở Đại học Huế cũng bị giết! Thực quá dã man! Chúng giết ngay cả những người đi truyền bá Văn hoá, Văn minh. Riêng dân Huế bị giết trên 7,000, hầu hết là dân vô tội ĐCCL của chị có thể khoả lấp tội ác của Hồ được không? Thần tượng của chị đó! Nhiều Nhà Văn, Nhà báo VNCH đã viết về vụ thảm sát ở Huế Tết Mậu Thân. Chị vào Google là kiếm ra ngay.

Chiến thắng của Hồ luôn luôn đi theo với những vành khăn tang. Những vành khăn tang từ ngày Hồ xuất hiện năm 1945 trắng xoá đất nước từ ải Nam Quan đến Côn lôn, Phú quốc. Ngày nay mỗi Tết đến, vgcs Hà Nội vẫn còn nêu thành tích giết dân và xâm lược VNCH vào dip Tết Mậu Thân. Hà Nội ăn mừng chiến thắng Mậu Thân rất lớn. Điều đó minh chứng những câu chị viết về Hồ sai hoàn toàn “Bác đã nhìn thấy cuôc chiến tranh cốt nhục tương tàn nhưng không sao tránh được vì miền Bắc và miền Nam đều hiếu chiến v.v...” Những câu này cho người ta thấy chị nói láo hơn Vẹm!

Hay là chị bù lu bù loa rằng tội ác ấy không phải của “Người”, chỉ là do cấp dưới; “Người” xưa nay nhân ái lắm, “Người” đâu có giết đồng bào!

Lính vgcs bắt dân đào những cái hố lớn, xong bắt nạn nhân đứng nhìn vào hố, chúng dùng cán cuốc bổ mạnh vào đầu xong đẩy thân người xuống hố. Có nhiều nạn nhân hãy còn sống kêu la thảm thiết nhưng chúng ra lệnh cho toán đào hố cứ thế mà xúc đất vùi thây người, cái đầu, cái tay, cái chân nào còn lòi lên thì lấy cuốc san cho bằng đi!!!. (còn tiếp)

Bài đọc thêm

Tàu Lạ (Trung quốc) đâm tầu của ngư dân Việt

Trong lúc đánh bắt hải sản ngoài khơi, tàu đánh cá mang số hiệu BL 3221TS bị tàu lạ đâm ngang làm chìm khiến 15 người lâm nạn, 2 người trong đó bị mất tích. Sau khi gây tai nạn, tàu lạ đã bỏ chạy.

Trưa ngày 27/5/09, đồn Biên phòng 672 Bồ Đề, Bộ đội Biên phòng Cà Mau tiếp nhận thông tin từ tàu mang số hiệu CM 8054 do ông Lê Văn Luôn làm chủ, báo có 12 người bị nạn trên biển được tàu ông cứu vớt.

Hai trong số những người được cứu vớt hiện bị thương nặng, đang được y sĩ của đồn biên phòng và trạm xá cấp cứu.

Lính của Nguỵ quyền Việt gian Cộng Sản chết bao nhiêu?

Nhưng con số thiệt hại về nhân mạng của miền Bắc là bao nhiêu?

Tên trá hàng Bùi Tín, trong một tác phẩm tuyên truyền hạng bét, văn chương sọt rác, (Mây mù thế kỷ, Hoa xuyên tuyết ...) đãviết:

- “Lê Duẫn từng khoe: Tôi gặp ông Mao, tôi nói thẳng rằng Trung Quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hi sinh thấp hơn, còn như Trung Quốc không chi viện, thì chúng tôi sẽ phải hi sinh thêm 1 đến 2 triệu người, chúng tôi không sợ và cuối cùng chúng tôi vẫn thắng!!!”.

Kinh khiếp thay đồng chí Lê Duẫn, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh. Xem vài triệu mạng sống của đồng bào, đồng chí, bộ đội, thanh niên xung phong... như số lẻ, như mấy xu trong túi quần, có móc ra vất đi cũng khôngbậntâm.

Nhưng câu nói trên của Lê Duẫn đã bị bóp méo, cắt xén phần quan trọng nhất. Đó là con số nhân mạng “đã” thiệt hạilàbaonhiêutriệu?

“Đồng chí” Bảy Vân, vợ Lê Duẫn, trong cuộc phỏng vấn ngày 23 tháng 12 năm 2008, đã trả lời Xuân Hồng, phóng viênđàiBBCrằng:

- “Anh Ba (Duẫn) nói với lãnh đạo Trung Quốc rằng”: Chúng tôi đã hi sinh 10 triệu người rồi, nếu Trung Quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hi sinh thấp hơn, còn như Trung Quốc không chi viện, chúng tôi dù phải hi sinh vài triệu người nữa, chúng tôi vẫnthắngMỹ”.

Tôi lại xin lạc đề vài câu nữa. Ông Xuân Hồng đài BBC hỏi bà Bảy Vân, đại ý rằng, có nên tiếp tục “xã hội chủ nghĩa không? Đồng chí Bảy Vân kính mến trả lời rằng:

- “Phải tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa, vì chênh lệch giàunghèongàycànlớn”.

Tại sao ông Xuân Hồng không hỏi tiếp:

- “Thế giai cấp giàu là những người nào? Còn bọn nghèo khổ là những ai?”. Giai cấp giàu là đảng viên (riêng đồng chí Bảy Vân “phải” chui rúc trong “túp lều” giá trên hai triệu đô la Mỹ), còn giai cấp nghèo là lũ dân đen mà các đồng chí đảng viên đang ngồi trên đầu đó!

Như thế, trong chiến tranh chống Mỹ, phải trên mười triệu người dân vô tội miền Bắc Việt Nam đã bị đảng ta đẩy vào Trường Sơn cho B52 dội bom. Một con số khủng khiếp. Lê Duẫn đem số lẻ vài triệu (bổ sung) vào Nam không phải để đánh nhau, mà để cho B52 dội bom, số sống sót mới thực sự đối diện với quân miền Nam mà đánh nhau.

Bạn muốn biết con số đó khủng khiếp đến bực nào thì thử rải mười triệu xác chết lên một nghìn cây số từ Bắc vô Nam, trên đường mòn Hồ Chí Minh (con đường Bác đi là con đườngbiđát). Mỗi cây số có bao nhiêu xác bộ đội nhân dân anh hùng? Mười nghìn xác rải trên 1km. Mỗi mét 10 xác bộ đội. (Bài của Dép Râu - trích Huyết Hoa)

Hỡi ơi! “Đỉnh cao chó lợn” và “Đá Văng chân lý” của Dương thu Hương !

Sau ba bài, nhiều thân hữu và bạn đọc gọi ĐT hoặc e-mail cho tôi can rằng, Niên trưởng phí thì giờ với cái chị điên khùng ấy làm chi? Mấy cuốn tiểu thuyết của chị ta hơn mười năm trước đâu có ra gì, cuốn Thiên đường mù vì có chống bọn vgcs nên người hải ngoại cho điểm chị ta vậy thôi; giờ này chị ta lại đi khen Hồ tặc, một thằng tội đồ đệ nhất của dân tộc, một tên bán nước, chị ta cố ý chạy tội cho y thì cứ coi như chị ta không có là xong!

Lại cũng có người bảo tôi: Niên trưởng viết bài đó thật đúng, để cho chị DTH và giới nhà văn, nhà báo Việt Nam biết cái phải cái quấy, chị ta muốn múa bút sao cũng được ư? Cho chị ta một bài học để đời!

Mấy người khác phàn nàn rằng sao Niên trưởng xưng hô bằng chị nghe thân mật quá thế? Tôi phải trả lời, trong tiếng Việt sự xưng hô rất khó. Phải tôn trọng tuổi tác (gọi là thiên tước ) đã đành mà còn phải để ý đến nghề nghiệp, địa vị trong xã hội nữa sao cho phù hợp. Tôi không thể gọi là bà, dù tiếng bà để chỉ người sinh ra mẹ hay bố tôi khác với tiếng bà dùng cho chị ta. Tiếng chị tôi kêu đây là anh, chị ở vào hàng cháu với chú, bác. Nếu cha mẹ tôi bắt tôi lấy vợ sớm thì đứa con đầu lòng của tôi cũng cỡ khoảng tuồi tác giả Thiên đường Mù. Cháu gọi tôi bằng cậu ruột, nay vẫn còn sống, cũng đã ở tuổi 80. Tiếng Việt không có je, vous, I, you hoặc ngổ, nị như các tiếng Pháp, Anh, Hoa. Các sinh ngữ này có những nhân xưng đại danh tự khá thuận tiện.

Một điểm nữa tôi cần nêu, tại sao tôi gọi giặc Hồ bằng những danh từ tồi tệ như vậy?

Tôi tôn trọng mọi người vi mình có trọng người thì người mới trọng mình. Nhưng trường hợp những kẻ bán nước cầu vinh, những kẻ chó hùa theo giặc cướp mang đến nỗi nhục ngàn đời cho dân tộc thì tôi phải thẳng thắn loại trừ và vạch mặt chỉ tên cho mọi người thấy.

Hồ là một thằng vgcs giết hơn 10 triệu đồng bào của y, điều này chính chị Dương thu Hương công nhận trong một bài viết nào đó của chị ta (theo Đ/tá Phạm bá Hoa, coi cuối bài sau). Hồ làm đầy tớ cho Nga-Tàu nên gây chiến tranh giết 10 triệu người, nếu không nước VN cũng được độc lập mà không tốn một giọt máu đồng bào, không tốn công quỹ một viên đạn như tôi đã viết ở các bài trên. Hồ đã quá phí phạm xương máu dân tộc, y cũng đày đoạ dân tộc Việt thua súc vật ngày nay người ta nuôi ở Hoa Kỳ, ở Pháp, ở Anh, ở Nhật ...Và quan trọng nhất, Hồ đã bán nước cho Tàu phù! Một ngàn năm nữa nô lệ Tàu là nhìn thấy trước mắt!

Xưa nay người ta gọi tên bán nước là thằng Việt gian bán nước, không ai gọi ông bán nước, gọi tên giặc cướp là thằng giặc, thằng ăn cướp, không ai gọi ông giặc, ông ăn cướp, ngay như điên là thằng điên không ai gọi là ông hay anh điên!

Bài này là một sự vạn bất đắc dĩ vì dù sao cùng là cây viết, tôi luôn luôn trọng kính các cây viết khác, cả những sự suy nghĩ khác (với tôi) của họ nếu họ vẫn đứng trên lập trường dân tộc. Trường hợp chị Dương thu Hương với “Đỉnh cao chói lọi” và “Món ăn Chân lý” tôi phải đem ra mổ xẻ đứng trên lập trường dân tộc và thay mặt (mặc nhiên) cho hơn 10 triệu nạn nhân của Hồ tặc là cái thế chẳng đặng đừng!

Chị Dương thu Hương cũng viết: "Hồ Chí Minh cũng giống như những người anh hùng khởi sự Đinh, Lý, Trần, Lê… chỉ có thể thành công nếu được sự ủng hộ của dân chúng. Tinh thần đoàn kết để đánh đuổi ngoại xâm là thứ được coi như AND Việt Nam. Thứ AND này mang đến cho ông ta một vinh quang đáng kể và cũng mở cánh cửa một hoả ngục bỏng rát để ông ta phải chịu cực hình vì Hồ không may mắn như các vị vua thời trước, áo vải cờ đào, từ rừng thẳm núi cao nhảy lên lưng voi lưng ngựa để bước vào cuộc chiến. Nói cách khác, các anh hùng cứu nước lý lịch trong sạch vì chẳng mảy may liên quan đến kẻ ngoại xâm".

Chị Thu Hương, chị chớ ví von thằng Hồ dâm tặc với các bậc anh hùng của chúng tôi các đời Đinh, Lê, Lý, Trần bởi làm thế là chị phạm thượng. Thằng giặc già này kiêu ngạo (cái gene đó truyền qua chị). Y gọi Đức Thánh Trần, vị anh hùng dân tộc là bác.

Bác diệt quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi dắt năm châu đến đại đồng!

Đại đồng! Thế giới đại đồng! Chị thấy cái tâm thức xung phong làm tên lính tiền phong cho đệ tam CS quốc tế của Hồ chưa? Người VN chết trên 10 triệu chứ chết vài chục triệu nữa cho đế chế CS thì Hồ và bọn tay sai cũng hài lòng (coi lại lời Lê Duẩn bài đọc thêm) miễn chúng có chức Thái Thú vinh thân phì gia là đủ. Đế quốc nào cũng đánh thắng...vì y và bọn thủ hạ việt gian chỉ trông vào sức nhân dân, nhân dân hi sinh cho chúng, đổi mạng cho chúng nên chúng nói mạnh. Nếu những thằng khốn đó phải ra trận thì chúng ắt không dám nói câu đó. Xua chó bụi rậm, xúi trẻ ăn cứt gà, chẳng cứ chúng mà đứa con nít cũng làm được!

Chị rất sai lầm trong đoạn này!

Dân chúng đã ủng hộ Hồ (vì lầm, vì bị phỉnh gạt) từ 19-8-1945, gần như toàn dân Việt. Hồ lừa phỉnh cả nước, bộ Thông tin Tuyên truyền của Trần huy Liệu quá quỷ quyệt gian manh vẽ ra hàng nghìn thứ bánh vẽ để mê hoặc đám dân khờ dại chứ không phải cái AND như chị nói. AND nào lại ôm bom ba càng chết một cách phí mạng như thế? Con chó còn muốn sống! Đa số họ là nông dân ít học, sự hiểu biết rất thô sơ, cán bộ tuyên truyền của Hồ (như chị) nói gì họ nghe nấy và họ đã chết cho Hồ. Ngay cá nhân tôi, nếu không có những lời bố tôi dặn dò kỹ lưỡng thì tôi cũng đã là một cán bộ hay bộ đội của Hồ ngay từ 1945.

Những người chống đối Hồ vì biết rõ manh tâm của Hồ như bố tôi không nhiều và vài vạn người ở trong các đảng phái khác như Việt Nam Quốc dân đảng, VN cách mệnh đồng minh hội, đảng của lãnh tụ Trương tử Anh (bị vgcs thủ tiêu) Đức thầy Huỳnh Phú Sổ (bị Hồ thủ tiêu), giáo chủ đạo Cao đài, Công giáo Tự Vệ của Đức cha Lê hữu Từ và cha Hoàng Quỳnh (chết trong tù vgcs). So với toàn dân thì số người không hợp tác với Hồ vẫn là thiểu số. Chính chị và thế hệ của chị cũng bị lừa, chị nói thế ngày 30-4-75 ở lề đường Sàigòn, không lẽ chị đã quên? Nếu chị chưa quên, chưa lẩm cẩm mà chị viết sách ca tụng thằng điếm thối đã lừa chị, thế thì chị điên thật rồi!

Một thằng điếm gạt một người con gái nào đó vào động đĩ, cô gái này quá đau khổ, ngồi bên vệ đường khóc lóc chửi bố thằng khốn nạn kia. Ngày hôm sau, cô gái này gặp bạn, quên hết đau khổ lại ca tụng thằng điếm thối kia là ân nhân, vĩ nhân của mình! Chị nghe câu chuyện có lọt tai không? Tôi không nghĩ một người tự hào là Nhà văn như chị lại tự mâu thuẫn, điên khùng đến thế!

AND của Việt Nam không phải là AND ôm bom chết cho thằng bán nước, chị hiểu không? Chính Hồ đã lừa dối dân Việt nên mới có những chiến sĩ vào sinh ra tử như thế. Nếu họ biết rõ những quả cảm hi sinh ấy chỉ để Hồ leo lên tuyệt đỉnh danh vọng và quyền lực để trù dập chính gia đình họ, chỉ để làm giầu cho bọn chóp bu thối nát và làm lính đánh thuê cho CS quốc tế thì bảo đảm không một ai hi sinh đâu, nhất là hi sinh để Hồ bán nước cho Nga-Tàu.

Đây là sự thực hay huyền thoại để tuyên truyền?

- Phan đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai của giặc Pháp khi đánh trận Điện Biên Phủ!

- Bế văn Đàn lấy thân mình làm giá súng!

- Tô vĩnh Điện lấy thân mình chèn cỗ đại bác khỏi tụt xuống (Điện Biên Phủ).

- La văn Cầu tấn công đồn Pháp bị thuơng ở cánh tay, Cầu lấy mã tấu chặt phăng tay mình cho khỏi vướng víu rồi dùng tay trái ôm bộc pha lao vào phá sập đồn.

(Mấy chuyện này nghe như chuyện thần thoại Phù đổng Thiên vương. Dùng tay này chặt tay kia, máu chẳng chảy, chẳng đau, chẳng xỉu đi, vẫn ôm bộc pha lao vào đồn được. Chắc cũng kiểu Lê văn Tám của Trần huy Liệu!)

Cứ cho rằng những chuyện này là có thật.

Xin hỏi chị:”Hồ dâng đảo, bán đất, dâng nước cho Tàu từ những sự hi sinh cao cả của các chiến sĩ, không phải chỉ bằng đó nhưng là của hàng chục triệu người. Hồ thua cả loài cẩu trệ mới làm được những việc đó chứ? Hồ còn là con người không hay đã là yêu quỷ?”

Chị bảo: Hồ không may mắn như các vị vua thời trước ... Chị không đọc sử nên nghĩ sao viết vậy! Chị làm nhơ danh những Nhà Văn! Như trên tôi đã nói, Hồ là người duy nhất có cái may cướp chính quyền vì người Quốc gia lúc đó chưa chuẩn bị. Tôi thực không hiểu chị suy luận ra sao mà dốt nát, kém cỏi đến vậy. Chị hỏi cả thế giới, cả toàn dân Việt, không một lãnh tụ nào có cái may như Hồ vì toàn dân, sau gần 100 năm Pháp đô hộ, ai ai cũng mong muốn độc lập, kể từ đứa trẻ đã biết suy nghĩ.

Ngoài nhân lực như xung phong vào bộ đội, du kích, thanh niên tiền phong, phụ nữ cứu quốc, cứ ăn cơm nhà rồi đi làm công tác cho Vẹm, biết bao người đã tháo nhẫn, hoa tai, khuyên vàng...tặng Hồ trong Tuần Lễ Vàng. Nếu họ không có vàng thì họ mang chân đèn bằng đồng, chậu thau, mâm đồng, tiền của, ruộng nương, gạo thóc, bất cứ thứ gì có thể ... dâng cho Hồ vì họ nghĩ Hồ là một lãnh tụ ngàn năm mới có một người, trời sai xuống để cứu dân thoát vòng nô lệ.

Bà Nguyễn thị Năm (Cát hanh Long mà tôi biết rõ ở Hải Phòng) là một trong hàng trăm ngàn người ủng hộ Hồ hết mình trong Tuần Lễ Vàng nhưng chẳng bao lâu sau đó, Hồ bắn bà ta trong CCRĐ ngay viên đạn đầu!

Mẹ và các chị tôi cũng giúp Hồ bằng cách tháo nhẫn cưới, tháo khuyên, tháo hoa tai đem đến cúng Tuần Lễ Vàng! Vua Lê Lợi, vua Quang Trung, Hai vua Trưng, Đức Trần hưng Đạo ... chưa được 1/100 cái may mắn đó!

Ngày mồng 6-3-1945, Nhật đảo chính Pháp nhưng Nhật không nắm chính quyền vì Nhật đang phải đối phó với Đồng Minh ở các mặt trận khác. Vả lại, Nhật không có ý đồ đô hộ nước ta giống như Pháp. Nhật chiếm nước ta vì những mục tiêu chiến lược hơn là chiếm rồi đặt ách đô hộ như Pháp!

Sau đảo chính Nhật là chính phủ Trần trọng Kim với Hoàng đế Bảo đại nhưng tình trạng Nhật-Mỹ đánh nhau, ngày nào phi cơ Mỹ cũng đến bắn và bỏ bom các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng..., sau vụ đói tháng Ba năm Ất Dậu, 1945, Nội các Trần trọng Kim tê liệt, đất nước hầu như vô chính phủ nên ngày 19-8-1945, với lực lượng lớn lao và quyết tâm của toàn dân, Hồ mới cướp được chính quyền dễ dàng.

Lực lượng Việt Minh lúc đó còn rất ít, chỉ vài tiểu đội, dăm, ba cây súng garant lỗi thời nhưng quần chúng thì mạnh như sóng thần, họ cứ làm theo những lãnh đạo tự họ bầu ra, thỉnh thoảng có một người của Việt Minh. Chính vì thế mà Hồ toạ hưởng kỳ thành. Ngày Tổng khởi nghĩa 19-8-1945 là ngày toàn dân chung tay làm nên lịch sử thì Hồ và Việt Minh cướp trắng!

Đó là bước thứ nhất, thành quả cướp giật của “bậc vĩ nhân” của chị!

(Đọc lại những câu chị viết ở trên, những câu lý luận của chị, như nhiều người phê bình, sai bét hết cả bởi chị quen lý luận tào lao không có cơ sở, phi luận lý trong những cuốn tiểu thuyết của chị. Tôi đã nói ngay từ đầu, tôi thích “Những thiên đường mù” nhưng có rất nhiều điều tôi không đồng ý cách lập luận của chị.

May ra chúng hơn “Bóng đè” của Nguyễn hoàng Diệu một chút vì “Bóng đè” chỉ là một chuyện ngắn khiêu dâm và loạn luân. Nó vô giá trị về phương diện văn chương và có những chỗ nó phi lý như người Việt Nam thời nay nghèo như thế nhưng một năm phải có 16 bữa giỗ, bữa giỗ nào tác giả cũng về, cũng nằm trên cái phản đó và thằng cha chồng người Tàu lần nào cũng “hiện về” hiếp con dâu trong khi chồng chị này đang nằm bên cạnh!

Vừa phi lý, vừa dâm loạn, vừa loạn luân, vừa cặn bã, thối tha. Đó là Văn học nghệ thuật của XHCNVN tại Hà Nội của Hồ trong gần 100 năm đấy. Nay lại lòi ra cái “Đỉnh cao chó lợn” và “Đá văng Chân lý” đẹp mặt này! Hết ý! Còn “Chuyện kể năm 2000” của Bùi ngọc Tấn, lừa gạt người đọc hải ngoại, nói là bị cấm phát hành. Người bạn tôi mua một cuốn, trong đó y chỉ khen Hồ tặc gẫy lưỡi và mô tả những cái dã man, đểu cáng, mọi rợ trong nhà tù vgcs Hồ tặc cho người ta sợ. Thực là một bọn vô liêm sỉ, chủ nào tớ nấy!)

Với các Nhà văn, Nhà thơ thế hệ cụ Phan Khôi, tôi không nghĩ các Nhà Văn, Nhà báo, Nhà thơ này chịu lòn trôn Hồ tặc. Cụ Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn hữu Đang, Thuỵ An và nhiều người khác, tóm lại là trong Nhóm Nhân Văn - Giai phẩm họ có tinh thần dân tộc, có lòng yêu nước, có căn cơ sáng tác nhưng Hồ dâm tặc cấm đóan thế thì ai làm gì được? Y dùng cái bao tử để bóp nghẹt mọi tiếng nói, mọi con tim, dùng nhà tù và AK, còng số 8, xà lim, cùm chân, cùm tay, bỏ đói, bỏ khát để bắt văn nghệ sĩ phải làm những gì y muốn. Trần Dần phải tự đâm cổ trong tù nhưng không chết còn Thuỵ An thì lấy cái kim tiêm chọc mù mắt trái:”Cái chế độ tồi tệ này không đáng được nhìn bằng hai mắt”! Và còn rất nhiều cảnh đau khổ hơn mà tôi không thấy được sau cánh cửa Hoả lò!

Vì sao con người chán sống, tự đày đoạ thân xác mình đến thế? Vì họ bị trù dập, bức hiếp, đày đoạ bất công đến không muốn sống chứ con chó khi người ta trói nó làm thịt, nó vẫn muốn sống mà! Chị chưa chịu đau khổ như chị Thuỵ An nên chị chưa có cơ hội muốn tự chọc mù một con mắt như chị Thuỵ An!

Vậy thì, giặc Hồ, với đủ thứ bóp nghẹt dân nước, có giống như một thằng điếm thối không? Xin chị DTH thành thật trả lời trước công luận và đồng bào!

Hồ mở một cánh cửa hoả ngục bỏng rát ... ý chị muốn nói y chịu thứ khổ hình gì? Suốt đời y, y chỉ mở cửa cho những đứa con gái chanh cốm vào phòng y để y cho hạt giống Đỏ, chắc nằm trên giường hiếp dâm những đứa con gái ấy (như Huỳnh thị Thanh Xuân, Nông thị Xuân ...) là bị bỏng rát! Bỏng rát vì toàn con gái 13, 14, 15 còn trinh, thực ra thanh niên cũng mệt nhoài chứ nói gì y lúc đó đã sáu mấy, bảy mươi, bảy mấy!

Ngoài những “cực hình” vì hiếp dâm gái trinh đó, y không chịu bất cứ thứ khổ sở nào mà chị gọi là bỏng rát. Cách viết như chị nay người ta không muốn đọc vì nó dấm dớ, ngẩn ngơ gì đâu! Văn biền ngẫu của các cụ ta ngày xưa cũng không ngẩn ngơ, vớ vẩn như thế! Chị đọc lại thấy ngay!

Câu cuối trong đoạn này, các anh hùng cứu nước lý lịch trong sạch vì chẳng mảy may liên quan đến kẻ ngoại xâm! Tôi không hiểu câu này chị định diễn tả cái gì? Chắc chị muốn nói rằng Hồ không có ý định bán nước cho Pháp, Hồ cho treo cờ đỏ sao vàng ngập đường ngập xá để đón d’Argenlieu ở Hà Nội hay Hồ đang đêm đánh thức Moutet dậy, năn nỉ Moutet ký Hiệp ước Fontainebleau cũng không phải là Hồ dâng nước đâu!

Dù chị nói gì thì nói, những cái gian ác của Hồ lúc đó đã lộ rõ và dân chúng xầm xì nên Hồ mới phải thề: ”Hồ này không bán nước, không phản dân!” nhưng thực sự Hồ biết rất rõ ông ta sẽ bán nước, sẽ phản dân. Bố tôi và một số lãnh đạo các đảng phái khác cũng biết rất rõ điều đó.

... Ông ta biết nói thứ tiếng của kẻ thù, uống rượu vang trong khi người Việt bản xứ chỉ uống rượu gạo, ông ta biết uống sữa bò cả sống lẫn chín trong khi dạ dày Việt Nam đích thực chỉ quen khoai sắn và bánh đúc mắm tôm. Tệ hơn nữa, ông ta lại hút thuốc lá Mỹ trong khi các đồng chí rít thuốc lào bằng điếu cày rồi bắn bã đôm đốp … Thử hình dung xem, trong tình thế ấy, làm sao ông Hồ có thể tồn tại nếu không chấp nhận thỏa hiệp.

Hồ biết nói thứ tiếng của kẻ thù .... Chị có biết thời tụi tôi bao nhiêu tuổi thì đậu Primaire (Certificat d’Etude Primaire Complémentaire Indochinois thường gọi là bằng CEPCI) không? Giỏi thì 12, hoặc bết hơn thì 13, 14. 15 ... Hồ xuống tầu Pháp xin làm bồi tầu lúc 21 tuổi (1911) nhưng chưa có Primaire, chưa học xong Tiểu học. Hồ dốt như thế (dù là con quan huyện) nên Hồ cai trị tầm ruồng. Vĩ nhân của chị đó!

Hồ biết uống thứ rượu vang (cũng của kẻ thù) trong khi đa số dân Việt chỉ biết uống rượu gạo! Hồ biết uống sữa bò .. .còn dạ dày dân Việt Nam đích thực chỉ bánh đúc mắm tôm!

Chị Hương, chị tự hào là Nhà Văn mà sao chị dốt quá thế? Hay chị cứ nhắm mắt khen bừa! Như tôi đã nói, cái kiểu viết vớ vẩn, ấm ớ như nhiều anh chị khác cả miền Bắc (miền Nam cũng có) và như chị viết trong Thiên đường mù và mấy cuốn khác đã quá lỗi thời! Người đọc ở thế kỷ này họ tẩy chay những kiểu viết “bựa” đó!

Tôi hỏi chị, một nông dân chưa từng uống rượu vang bao giờ, nay đưa rượu vang cho anh ta uống, bảo đảm là anh ta uống được, khen là khác nhưng còn thích như rượu đế không thì mỗi người mỗi ý. Hồ uống rượu vang mà không uống rượu đế là vì sao chị biết không? Vì vang làm bằng nho, một chai vang giá bằng 20, 30 chai rượu đế. Nông dân nghèo tiền đâu mà dám thưởng thức vang, nho; rượu đế rẻ mà nhiều lúc không tiền phải nhịn đấy chị! Ai sung sướng như Hồ? Theo chị đó có lẽ là cái cửa hoả ngục bỏng rát?

Còn bảo dân Việt Nam chỉ bánh đúc mắm tôm trong khi Hồ uống được sữa bò cả sống lẫn chín. Cái này phải hỏi thực, chị có làm con sen (một vinh dự của chị!) trong Bắc bộ phủ không, hầu hạ bữa sáng bữa tối cho chủ tịch Hồ không mà sao chị rành sáu câu quá thế? Hồ lúc nào uống sữa sống, lúc nào sữa chín? Tôi bái phục chị vì những kiến thức “cao cấp” của chị đối với bậc vĩ nhân vô cùng kính yêu của chị!

Khi tôi mới sinh, mẹ và bố tôi kể lại vậy, mẹ tôi sinh tôi là đứa con thứ 11, đứa út, mẹ kém sữa, bố tôi phải mua sữa đặc Nestlé gọi là sữa Con chim vì nhãn có vẽ cái tổ chim và vài con chim, cho tôi uống thêm với sữa mẹ. Dạ dày tôi từ bố mẹ tôi (chắc chăn chỉ bánh đúc mắm tôm như chị viết) mà lạ thay, mẹ tôi nói lại vậy, tôi cứ nún chai sữa bò ừng ực, chẳng thấy lạ lẫm gì. Ngày nào sữa mẹ có đủ thì thôi, ngày nào không đủ tôi khóc oe oe cho đến khi mẹ phải đút cái vú cao su ở đầu chai sữa (đã pha với nước sôi) vào miệng tôi, tôi mới im.

Nhưng nếu đã ăn quen sữa như thế, ngày nào hết sữa chưa kịp mua hoặc hàng tạp hoá hết sữa, chị tôi nấu cháo bột bỏ đường đút cho tôi, tôi lè ra ngay. Vì sao? Vì sữa bò lúc đó vẫn ngon hơn bột nấu cháo rất nhiều.

Ông Hồ của chị là thứ khôn ăn, suốt đời ông khôn ăn, sành ăn như thế (coi lại bữa tiệc có LS Trần văn Tuyên), chị còn lạ gì, nên rượu đế vài xu một lít thì để nông dân, rượu vang 5$ Đông Dương một lít thì ông xung phong xin uống, cháo bột hay cơm mớm, bú rình ông đã chê chán từ hồi mẹ chết, chị mớm cho, nay là Chủ tịch một nước, dù một nước nghèo khổ luôn luôn nhỡ tầu như chị viết, tội vạ gì không uống sữa bò, da dẻ vừa hồng hào, sức khoẻ tăng tiến lại tốt trong phòng the cho các cháu Huỳnh thị Thanh Xuân, Nông thị Xuân ngay cả Nông thị Ngát, Nguyễn thị Minh Khai, Nguyễn thị Định ... đang nằm đọc tiểu thuyết tiền chiến đợi sẵn.

Lý do dùng vang và sữa bò của “bác” chỉ giản dị có thế và chính là lý do đó. Thuốc lá Mỹ Philip Morris thì tôi đã nói rồi, xin miễn nói lại nhưng nó cũng không qua cái chính sách của “bác” chỉ hưởng thụ tối đa, hưởng cho đã, ra sao thì ra! Ngay đến con gái, “bác” cũng phải lựa con gái còn trinh, chanh cốm, chị thấy không? “Bác” khôn thấy mẹ! Cái kiểu khôn ăn này thằng bé lên ba nó cũng làm được!

Từ vang, sữa bò, thuốc lá Mỹ và nhiều thứ khác nữa... Hồ đang hưởng thụ mà chị lấy lý do rằng một người hưởng thụ (như Hồ) thì sao ông Hồ có thể tồn tại nếu không chấp nhận thoả hiệp (với Pháp).

Câu lý luận của chị vừa ngẩn ngơ, vừa đần, vừa ngây ngô như đứa con nít mới tập nói, lý luận cà chớn như vậy mà chị dám viết 800 trang trong “Đỉnh cao chó lợn” nhờ nhà văn Pháp dịch, in ra gửi đi khắp thế giới? Chị tưởng là văn chương của chị cao cấp, người đọc đều ngu si hết chẳng biết gì! Chị bênh vực ông Hồ, thực ra chị chửi cha ông Hồ đó. Vì uống rượu tây, sữa bò, thuốc lá Mỹ, những thứ xa xỉ, quen hưởng thụ rồi không nhịn được nữa, nên phải thoả hiệp với Tây mà sống còn (để hưởng thụ tiếp). Chưa có con người nào hèn hạ, điếm nhục hơn! Vậy mà lại lên ngôi lãnh tụ cả nước; đúng là chó nhảy bàn độc.

Chị không tin tôi cứ đem câu văn này đi hỏi khắp lượt xem, tôi nghĩ tôi không hiểu sai và lý giải sai đâu. Đọc câu này, tôi chợt nghĩ chắc chị có thù hận gì với già Hồ khi xưa (hi vọng không giống như hai chị Xuân) nên chị mới bổ cho y một phát tá hoả tam tinh như thế chứ. Đúng là “Chó già phải dùi đục nặng”. Chúng tôi phải cám ơn chị đã viết câu văn để đời này! Thực lòng tôi, tôi không còn mong gì hơn nữa!

Một thằng ham ăn ham uống, nghiện ngập đủ thứ thì dễ bị sai khiến hơn là một người không nghiện cái gì. Tạ thu Thâu thì tôi không rành nhưng còn Ngô đình Diệm, tư cách của ông ta 100 lần thì Hồ chưa có 1. Hiện nay còn một số người (đa số là thù cá nhân) không ưa ông Diệm nhưng không thể moi móc bất cứ cái gì về ăn uống, trai gái, rượu chè v.v...của ông ta ra để nói xấu được. Ông Diệm có một cái dại: ông ta quá cương với người Mỹ, không liếm trôn quan thầy Nga-Tàu như Hồ, ông ta cũng quá lành, không có những lưu manh,điếm thối, sát nhân tập thể như Hồ, nên thua Hồ!

Chị bảo Hồ thề: ”Hồ này không bán nước, phản dân...” Hồ thề như cá trê chui ống. Hồ biết chắc là y sẽ không bán nước cho Pháp nhưng bán nước cho Nga-Tàu. Nay Nga không còn mộng xâm lăng bá chủ của thời Liên Xô nữa thì Hồ bán cho Tàu, một thực dân mới. Tôi có thể đoán tâm tư Hồ lúc đó như thế. Dù Hồ thề, những người Quốc gia đâu có tin y.

Chị binh vực Hồ là hiểu tính thích đáng của hành động và hiệu quả của ngôn từ.

Thích đáng lắm, chủ trương của Hồ là phải mời Pháp trở lại VN và Hồ còn làm hơn thế nhiều! Hồ không coi Pháp là kẻ thù khi Hồ mời Pháp trở lại VN ngày 19-5-1946. Đài phát thanh Hà Nội ông ổng rao lên là ngày 19-5 là ngày sinh nhật chủ tịch Hồ (lươn lẹo có nòi). Hồ có sinh nhật giả hiệu từ ngày đó. Miệng hô hào chống Pháp nhưng y rất muốn Pháp trở lại để thay thế quân của tướng Lư Hán sang tước khí giới quân đội Nhật. Y chỉ sợ Lư Hán giúp cho VNQDĐ làm y hổng giò hổng cẳng. Mặt khác, Hồ nhờ tay Pháp diệt dùm VNQDĐ và nhiều đảng phái Quốc gia (Pháp vốn truy lùng họ vì những đảng phái này chống Pháp) nhất cử lưỡng tiện vậy.

Còn nữa, sau Hiệp định Genève 20-7-1954, Hồ không còn coi Pháp là kẻ thù mà lòn trôn Pháp, nịnh bợ Pháp còn hơn ai hết. Vì sao? Vì Hồ quá đói, quá nghèo, chỉ muốn xin xỏ, nhờ vả. Chín năm kháng chiến, Hồ ra lệnh tiêu thổ, đồng không nhà trống, ruộng đất bỏ hoang, dân chúng đói rách cơ cực không biết kiếm đâu ra bữa cơm khoai sắn. Lính Nguỵ của Hồ thì nhờ có viện trợ của các nước CS anh em, cũng còn bữa no bữa đói nhưng dân chúng thực là tuyệt vọng. Hồ ngửa tay xin khắp mọi nơi; kẻ thù khi xưa bây giờ cũng là bạn thiết để xin bột mì, xin gạo, lại xin cả đạn và súng để vào Nam đánh tiếp. Miền Nam với TT Ngô đình Diệm chỉ nghỉ ngơi được vài năm, Hồ cho quân du kích quấy phá từ 1956 vì thế mới phải sinh ra quốc sách Ấp chiến lược.

Hồ đi ăn mày, chẳng những Pháp mà bất cứ nước nào có vẻ xin được. Cái gene ấy, kiểu ngửa tay ấy còn áp dụng dài dài, sau 30-4-1975 đi xin khắp lượt. Có những nước người ta thấy chướng quá, họ bảo đám ăn mày Hà Nội, sao lúc nào các anh cũng ngửa tay vậy, làm mà ăn chứ, ai có mà cho hoài? Nhưng cái mặt đã trơ, cái trán đã bóng, từ Hồ trở xuống chẳng biết quốc sỉ là gì, cứ lết mòn gối.

Xin về rồi sao? Chia chác từ trên xuống dưới, những khoản viện trợ (ODA) lẽ ra làm cống rãnh, cầu đường, làm nước sạch cho dân chúng đỡ khổ thì bọn đầu nậu này bỏ túi cả.

Ngày nay, Hà Nội và Sàigòn là hai cái đống rác khổng lồ, đường xá hư hỏng, không khí ô nhiễm, sông rạch như nước cống, dây điện dây cáp cả núi, to như cái đống rạ lủng lẳng trên mọi con phố. Có đánh thắng 10 đế quốc mà dân sinh tồi tệ như thế thì cũng chẳng nên hồn một quốc gia có bộ mặt “sạch nước cản”. Chẳng biết nhục khi nhìn thấy Singapore hay Đài Loan hay nhiều nước khác. Giáo dục, Y tế cũng là những đống rác, chỉ chết người dân. Những cái tồi tệ đó chắc không phải do Hồ?

Hồ chí Minh Huyễn Thoại hay Huyền Thoại:
(Hội Văn Hóa Việt phỏng vấn Gs Lê Hữu Mục về HCM)

Bài của Tinh Vệ (Diệu Tần)
22 Jun 2003 - Ghi chú thêm 10 Jan 2007

Nhân chuyến Hoa Kỳ Du, học giả Lê Hữu Mục có dành cho chương trình phát thanh của Hội Văn Hóa Việt một cuộc phỏng vấn tại San Jose, California. Bài phỏng vấn này do Gs Trần Công Thiện, đồng nghiệp của Gs Lê Hữu Mục tại Ðại học Sư phạm Sài Gòn, và Ls Ðỗ Doãn Quế thực hiện ngày 8.6.2003, phát thanh sáng và chiều chủ nhật, đồng thời đưa lên Internet, website của Ðài Quê Hương. Chúng tôi dựa theo những câu trả lời của GS Mục, sắp xếp lại, bàn thêm, viết thành bài này.

Học giả Lê Hữu Mục là Gs Ðại học Văn khoa và Sư phạm, Tiến sĩ thủ khoa Văn chương Việt Nam dành cho các Gs đại học 1970. Ông còn là nhà biên khảo, phê bình văn học, nghiên cứu triết học và tôn giáo và là nhạc sĩ nữa. Ngoài khoảng trên 20 tựa sách, những bài diễn văn, bài báo, ông đã viết cuốn "Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký" (1989-90) gây nhức nhối cho Cộng sản Việt Nam (CSVN). Cuốn sách này ông ra sức tập trung ý chí và khả năng hoàn thành chỉ trong một tháng. Sở dĩ ông phải viết nhanh như vậy để kịp phá vỡ huyền thoại HCM, "Nhân vật Văn hóa Quốc tế mà Tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc) dự định tôn vinh. Ðây là chuyện cũ, nhưng cho đến bây giờ vẫn là mới cần nhắc lại để dẹp cái phao xẹp "Tư tưởng Hồ Chí Minh" mà nhóm bạo quyền cố bám vào để tàn Dân hại Nước.

Với phương pháp dùng textology (văn bản học), hệ thống hóa lại, tìm ra những mâu thuẫn và sai lầm rất vững vàng, tác giả đã minh chứng rằng : HCM là kẻ đạo văn (đạo : ăn cắp, ăn cắp văn người khác). Chúng ta đã biết người CS dùng bất cứ phương tiện nào dù xấu xa, vô nhân, vô đạo, vô luân nhất để đạt đến mục tiêu. Mượn đầu heo nấu cháo, lợi dụng xương máu Dân lành để nhận công của đảng mình chưa đủ, họ còn muốn làm Anh hùng Văn hóa Quốc tế nữa. Nhóm bồi bút Viện Văn Học Hà Nội dựa trên sự mạo nhận của HCM, ăn cắp văn của người khác, để thổi phồng tập thơ nhật ký lên một cách lố bịch và trơ trẽn.

Mở đầu cuộc phỏng vấn ông Mục cho biết sau ngày 30.4.1975 ông tìm đường đào thoát mấy lần nhưng đều thất bại. Trong những Gs ÐH Sư Phạm bị kẹt lại có ông Khoa trưởng Trần Văn Tấn, Gs Trần Kim Nơ. Những người chủ mới của Trường Sư Phạm miền Nam, ngoài miệng thì nói những câu: đoàn kết, xóa bỏ hận thù, hòa giải Bắc Nam, nhưng trên thực tế chỉ là những lời giả dối, xảo trá. Họ hứa hẹn nhiều, nhưng chẳng thực hiện được gì. Họ ở trong tư thế chờ đợi chỉ thị của Bộ Chính Trị. Họ xa cách, lạnh lùng với các GS còn kẹt lại. Các Gs ngơ ngác, đúng cảnh "hàng thần lơ láo" của Nguyễn Du, tuy bị bắt buộc phải thua cuộc. Vẫn vỏ ngoài, qua những cuộc tiếp xúc, họ giả vờ tìm cách ve vãn, mời mọc, nhưng "nói zậy nhưng không phải zậy". Các GS miền Nam đúng ngồi không yên, không biết phải làm gì, không biết đi đâu, hoang mang, chán nản. Ðiều xúc phạm đầu tiên là cách xưng hô "anh chị" kỳ cục. Trước kia có tôn ti trật tự, là thầy, là Gs, là ông, bà. Giờ đây là anh chị cá mè một lứa. Thậm chí ông Mục còn khôi hài nói "trường sở vốn là của mình, nơi mình làm việc dạy học bao nhiêu năm, bây giờ không biết là sẽ đi tiểu ở đâu ?"

Hà Nội lộ mặt thật qua vụ ông Lê Trí Viễn vào Nam "lên lớp" các thầy miền Nam. Ông cán bộ giáo dục này tấn công nền sư phạm miền Nam nặng nề. Ông ta chê là miền Nam không có một giáo trình quy củ, đàng hòang, không có cuốn sách nào là sách giáo khoa chính thức, không có một tác phẩm nào tiêu biểu cho sư phạm của một nền đại học. (Ông Lê Trí Viễn đã dùng nền giáo dục một chiều, chật chội của chế độ, để so sánh với chủ trương nền dục khai phóng ở miền Nam). Ông ta dùng những lời đả kích mạnh mẽ, vì ông ta ở thế thượng phong, thế của kẻ thắng. Gs Mục là Trưởng Ban Việt-Hán đại diện cho nhóm sư phạm bại trận (trong nhóm có Gs Trương Văn Chình là Gs ngôn ngữ học nổi tiếng).

Mở đầu ông Mục cũng nói vài lời khiêm tốn, nhưng càng về sau, càng bực bội, nên hơi mất bình tĩnh, tấn công trở lại nhóm Gs miền Bắc. Ông cho biết ông đã đọc hết tài liệu giảng dạy dành cho giáo sinh miền Bắc và đánh giá rằng những tài liệu đó cũng không có giá trị cao, chỉ đáng quay ronéo phát cho giáo sinh làm tài liệu nội bộ thôi. Ông cũng phản pháo lại, cho biết là ngoài ấy cũng không có tác phẩm giáo khoa nào xứng đáng.

Một chuyện khác diễn ra để chúng ta thấy cái máy móc, một chiều của Hà Nội. Ông Hoàng Xuân Nhị được coi là một Gs gạo cội, từng đi du học bên Pháp và Liên Xô, vào Sài Gòn thuyết trình về thơ của HCM. Ông ta nói dài dòng về cuốn Ngục Trung Nhật Ký trước cử tọa cũng coi như các học viên, là các Gs đại học, trong đó có các Gs Phạm Xuân Quảng, Lý Công Cần ... Sau bài thuyết trình, họ buộc các Gs phải thảo luận về nội dung cuốn sách. Mọi người ngỡ ngàng, vì chưa ai đọc cuốn nhật ký xa lạ này cả, làm sao có đủ dữ kiện để thảo luận, thu hoạch? Các Gs bán cái, đùn đẩy cho ông Mục "vì ông rành chữ Hán" lên tiếng. Ông Mục tuy chỉ là lần đầu tiên nghe nói về Ngục Trung Nhật Ký, nhưng với phản ứng mau lẹ và với kinh nghiệm giảng dạy văn chương lâu năm, ông bắt ngay được những khuyết điểm của cuốn sách. Ông cho biết cuốn thơ đó có bốn khuyết điểm (Vì không đủ thì giờ phát thanh, ông Mục chỉ nêu lên hai khuyết điểm).

· Thứ nhất thể thơ trong đó phần lớn là thơ bảy chữ bốn câu, thất ngôn tứ tuyệt. Thơ bảy chữ là thơ trang trọng, nghiêm túc, còn thơ lục bát là thơ dân tộc, bình dân, nhưng dịch thất ngôn sang lục bát dễ bị loãng, câu thừa, câu thiếu, tại sao lại dịch như thế. Diễn giả họ Hoàng ngẫm nghĩ rồi trả lời: "Ðể thỉnh thị ý kiến ở "trên" sẽ trả lời sau". Thấy cái lúng túng, e ngại, tránh né của diễn giả là các Gs miền Nam hiểu ngay được số kiếp văn nô miền Bắc đồng thời hiểu được tương lai của mình.

· Câu hỏi và là thắc mắc thứ hai: Trong bài thơ Thụy Bất Trước (Không Ngủ Được) có câu: "Mộng hồn hoàn nhiễm ngũ tiêm tinh" phải dịch là Sao năm cánh nhọn mộng hồn quanh, tại sao lại dịch là: Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh ? Kể ra ông Mục đã uống thuốc liều, đã dám mó vào dái ngựa, dám đụng đến lá đảng kỳ của họ. Tất nhiên là Hòang Xuân Nhị phải vội vàng tránh né ngay, nói như vẹt là "sẽ trả lời sau khi thỉnh thị ý kiến ở trên”. Ðám văn nô, văn thi sĩ cung đình biết là dịch gượng, sai và ẩu, nhưng cố nhét sao vàng vào đó để ca tụng là Bác tuy bị tù nhưng lúc nào cũng nghĩ đến Non sông Đất nước. Ðó là do câu thành ngữ Trung Quốc "ngũ tinh liên châu" hàm ý diễn tả chuyện lành báo trước, chuyện sum họp vui vẻ giữa vợ chồng.

Ðáp câu hỏi, giới văn học giáo dục miền Nam có thường gặp giới giáo dục, văn học miền Bắc không, GS Mục cho biết phần nhiều là "họ đến gặp tôi, tôi ít khi tìm gặp họ". Trong số đó có nói chuyện với ông Hồ Lê, Nguyễn Ðổng Chi, Trần Văn Giàu. Riêng ông Nguyễn Công Bình nhiều lần mời cộng tác, nhưng tôi tìm mọi cách để từ chối. Cuộc tiếp xúc với Gs Nguyễn Ðổng Chi, bạn với tôi hồi còn ở Hà Nội trước 1945 là đáng ghi nhớ nhất. Gs Nguyễn Ðổng Chi là một học giả nổi tiếng, tác giả cuốn "Cổ Văn Học sử", đã từng là Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội. Ông Chi mời ông Mục đến nói chuyện ở Trung tâm Ngôn ngữ, trong một phòng dành riêng cho Gs. Sau nửa giờ nói chuyện, ôn chuyện cũ, bàn chuyện ngày nay, ông Mục hơi ngạc nhiên thấy ông Chi khóc, nước mắt tràn xuống hai gò má. Ông Chi vừa khóc vừa bảo bạn :

- Nếu không, anh cũng sẽ phải đóng kịch với họ như tôi thôi. Trong bao nhiêu năm nay, tôi đã phải đóng kịch với họ mãi rồi !

Còn gì đau khổ cho bằng một trí thức, một kẻ sĩ không dám sống thật với mình, với người, luôn luôn phải giả dối để sinh tồn. Ông Chi đã chí tình khuyên ông Mục, vì tay ông đã bị nhúng chàm, ông đã lỡ, phải theo lao luôn. Ông Mục cũng gặp nhà thơ Xuân Diệu, ông Mục hỏi ông Xuân Diệu :

- Sao anh không còn sáng tác như xưa nữa ?

- Tôi vẫn sáng tác như ngày xưa.

- Chúng tôi không được đọc bài thơ nào của anh hay như ngày xưa nữa!

- Tôi có viết cho tôi nữa đâu. Tôi viết cho quần chúng đấy chứ. Họ có trình độ thấp, ít học, do đó tôi không thể viết ra những gì gọi là tinh hoa của tôi được.

- Vây anh có tin những gì anh viết cho họ không ? Xuân Diệu vẫn lừng khừng nói :

- Việc gì phải tin. Cần gì phải tin !!!

Qua cách trả lời của Xuân Diệu, chúng ta thấy ông ta vẫn còn tự kiêu, vẫn nuối tiếc thủơ xa xưa, đồng thời cũng vẫn sợ mất lập trường, tiêu thẻ đảng. Một nhà thơ công thần của chế độ phát biểu là không tin những tín điều mình truyền bá ra cho quần chúng, sẽ được đảng đối xử ra sao? Ông Mục cũng tiếp Trần Văn Giàu khi tay lý thuyết gia cổ thụ này mò đến dụ dổ. Sau cơn địa chấn 30-4, ông Mục cũng như các Gs đại học khác bị cướp mất nhà dành riêng cho các Gs đường Duy Tân, ông phải thuê một căn phòng ọp ẹp ở khu lao động. Không hiểu lấy đâu ra tin tức, ông Giàu lò mò kiếm được nhà. Ông vừa đến trước cửa nhà thì bị vấp ngã xuống, ông Mục chạy ra nâng ông ta dậy. Năm đó ông Mục ngòai 60, còn ông Giàu cỡ ngoài 70, tóc bạc phơ, vừa vào đến nhà, ông Giàu nói ngay :

- Ông nên ở lại Việt Nam làm việc cho Đất nước với chúng tôi.

- Tại sao cụ lại để ý đến tôi thế ? Tôi cũng chỉ là một người dạy học bình thường như mọi người khác thôi.

- Tôi đã đọc sách của ông. Ông viết rất đạt. Ông khác người ta chứ, ông có đủ ba điều kiện để làm một nhà nghiên cứu, giảng dạy. Một là phải thông hiểu Hán và Nôm mới đi vào văn hóa Việt Nam được, ưu điểm hai là biết hai sinh ngữ Pháp, Anh để hiểu phương pháp luận và nghiên cứu rộng rãi hơn. Ba là phải có tài viết văn. Nhiều người nói và dạy học thì được, nhưng không viết được.

- Tôi sang Canada vì được gia đình bảo lãnh qua. Rất tiếc tôi không ở lại làm việc chung với cụ và các ông được. Tôi thấy có Gs Nguyễn Văn Trung và Gs Linh mục Thanh Lãng dạy học rất giỏi. Ông Trần Văn Giàu lắc đầu :

- Ông Trung chưa phải là nhà nghiên cứu văn học, ông ấy chỉ là một ký giả khá thôi. Còn ông Thanh Lãng thì chỉ nên giảng đạo trong nhà thờ hơn là giảng ở trường đại học.

Sau đó ít lâu họ có mời Gs Thanh Lãng tiếp tục giảng dạy. Ông Mục nói: "Nghĩ cũng tức cười, một người thì giục đi đi, một người thì kèo nài nên ở lại". Sau đó ông có dịp đọc những tài liệu do ông Thanh Lãng viết, giảng, nói chuyện sau này và nói: "Tôi thấy tội nghiệp, ái ngại cho ông ta quá. Ông Thanh Lãng đã phải nói, phải viết những gì về Tôn giáo, văn học và ngôn ngữ học mà chế độ muốn ông viết". Nghe nói sau này khi tỉnh ngộ, ông tỏ ý chống đối và bị họ đánh thuốc độc chết(?).

® Ðể trả lời Gs Trần Công Thiện hỏi là do động cơ nào thúc đẩy mà Gs Lê Hữu Mục đã viết cuốn "Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký", tác giả cho biết:

"Chính là do bài thuyết trình của ông Hoàng Xuân Nhị, sơ khởi đã khiến tôi chú ý đến cuốn thơ nhật ký đó. Không phải là do văn chương trác tuyệt và tư tưởng cao siêu gì mà là tôi đặt nhiều nghi vấn. Những cán bộ thơ văn, phê bình, khảo cứu gì đó của Viện Văn Học đã dùng cái chổi phù thủy thổi phồng lên, lừa dối chính họ, lừa dối dân chúng và nịnh bợ lãnh tụ kiếm chút cơm thừa canh cặn. Ðúng như nhà thơ, nhà văn Vi Khuê ở Washington DC đã nhận xét: " Chẳng có giá trị gì để chúng ta phải chú ý tới nó".

"Sau nữa là khi tôi bị tù về tội vượt biên, trong trại tù lập một tủ sách, có cuốn nhật ký đó, tôi mượn về đọc vì có in chữ Hán trong đó. Những bạn tù người Hoa (Trung Quốc) đọc xong và họ ngạc nhiên lắm. Họ nói giọng văn thơ này là của người Tàu, không phải lối viết, lối nói của người Việt, chúng tôi thấy quen thuộc lắm. Họ nói đúng ý tôi làm tôi càng chú tâm phải đọc kỹ. Rõ ràng trong sách có tên ông già Lý người Tàu, ai cũng để ý đến ông già này. Phải chăng chính ông già không rõ lý lịch này mới là tác giả đích thực của tập thơ ?

"Kịp đến khi tôi sang đến Canada, gặp lúc Văn Bút Việt Nam đang thời kỳ tái lập ở Hải ngoạị Anh em Văn Bút lúc đó hoạt động hăng lắm, có nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, có nhà văn Trà Lũ, tức Gs Trần Trung Lương đồng nghiệp với tôi. Anh em giục giã tôi viết để nói lên sự thật. Viết lên không phải để chê về mặt văn chương và tư tưởng, phải lên tiếng vì sự mập mờ đánh lận con đen, chuyện nhận vơ, chuyện Hồ Chí Minh đạo văn. Anh em ở hải ngoại bảo nhau phải tìm mọi cách để xóa bỏ cái huyền thoại Hồ Chí Minh, chuyện Hồ Chí Minh sẽ được tôn vinh là nhà văn hóa lớn quốc tế do UNESCO công nhận. Dạo đó có phong trào "No HO" nổi lên đòi hủy bỏ vụ tuyên dương vô lý này. Tôi cố gắng viết, chỉ nội trong một tháng là xong. Tôi gửi loạt bài này đăng trên tạp chí Làng Văn của nhà báo, nhà thơ Cung Vũ Nguyễn Hữu Nghĩa và nhà báo Nguyên Hương.

"Tôi viết chưa xong thì ông Gs tiến sĩ Nguyễn Văn Trần bên Paris biết được, ông bay qua Montréal gặp tôi ngay. Tuy viết chưa xong ông cũng lấy một phần rồi cùng với bác sĩ Nguyễn Ngọc Qùy, nhà hoạt động tôn giáo xã hội Võ Văn Ái dịch sang Pháp văn. Các ông ấy họat động tích cực lắm. Vì trụ sở UNESCO ở Âu Châu nên tranh đấu rất thuận tiện. Thấy có tài liệu chứng minh phủ nhận sự nghiệp văn hóa ma, UNESCO sáng suốt và mau chóng hủy bỏ vụ tôn vinh. Vì HCM không biết làm thơ, cũng chẳng phải là nhà văn học, văn hóa gì cả. Ông ta chỉ là kẻ ăn cắp thơ.

"Cũng chuyện ma giáo, lừa bịp tương tự thời còn ở Pháp. Theo Ls Phan Văn Trường thì Hồ Chí Minh mánh khóe, khôn vặt lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Trong khi đó những nhà cách mạng miền Nam giỏi Pháp văn khi viết báo chống thực dân Pháp, ngay trên đất Pháp, đều ký bút hiệu là Nguyễn Ái Quấc, đánh vần theo miền Nam. Ðó là một bút hiệu chung của nhiều tác giả các bài báo. Họ Hồ lấy tên như vậy, nếu nội dung bài báo có giá trị thì người ta tưởng lầm với bút hiệu Nguyễn Ái Quấc. Còn bài dở thì ông ta sẽ cãi là tôi ký tên là Quốc chứ có lấy bút hiệu Quấc của các ông đâu!

"Khi cuốn sách của tôi ra mắt độc giả, chắc chắn là giới văn nô cộng sản bên kia đại dương cũng đọc. Họ bồn chồn, nhức nhối phải tìm cách đối phó lại sự thật qua những lụận lý vững chắc, hợp lẽ phải. Họ tập trung chất xám lại ra một cuốn sách dày gấp bốn sách của tôi để tìm cách chứng minh là Bác của họ cũng biết làm thơ. Nhưng trước sau gì cũng giấu đầu hở đuôi.

"Họ đánh lừa độc giả trong nước là cuốn sách của tôi ra sau tập sách của họ. Họ nói sách tôi ra năm 1990, còn sách họ ra năm 1989. Sự thật là các bài viết của tôi đã đăng từng kỳ trên tạp chí "Làng Văn" từ năm 1989, đến năm 1990 mới in thành sách. Còn sách của họ phát hành năm 1990, nhưng đề lui năm lại là 1989 !

"Lại nữa, đề sách đã là lời thú nhận: "Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký". Tại sao lại phải suy nghĩ lại, có vấn đề mới phải suy nghĩ lại. Họ xác nhận là trong thời chiến họ phải dùng những lời dao to búa lớn để tuyên truyền, họ thú nhận là đã "cường điệu", mà cường điệu là exagerate, là lớn lối, bịa đặt thêm. Họ bảo phải làm thế để tạo một quan niệm sáng tác gương mẫu, là phải theo hướng sáng tác như thơ của bác, bình dân và trong thơ phải có thép (chiến đấu tính).

"Trước sau gì chỉ là một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất vụng. HCM úp mở nhận là thơ của mình. Ðám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống đu đủ thổi phồng lên rất lố bịch. Một chứng cớ không thể chối cãi là ngoài bìa sách ghi năm tác giả bị tù là 29-8-1932 đến 10-9-1933. Trong khi HCM đã bị Quốc Dân Ðảng bắt và cầm tù ở bên Tầu sau gần 10 năm, vào năm 1942 - 1943 thôi. Trong Tổng Tập Văn học của Hà Nội tại tập 38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa bỏ ngày tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che giấu, khuất tất. (1)

"Ngay Gs Ðặng Thái Mai, bố vợ Võ Nguyên Giáp cũng thắc mắc về soạn niên cuốn nhật ký. Ông là nhà giáo nổi tiếng, một học giả, lúc đó đang nhận nhiệm vụ hiệu đính lại cuốn thơ. Ông đặt câu hỏi thẳng với Hồ Chí Minh là ai dám đề năm tháng kỳ quặc là năm 1932 - 1933, đây lại là tác phẩm của lãnh tụ cao nhất nước ? HCM không trả lời. Sau này bí thế quá, ViệnVăn Học trả lời vắn tắt rằng: Ðề năm 1932 - 33 là sai, phải là năm 1942 - 43 mới đúng. Rằng HCM ghi như thế để đánh lừa quân cai ngục của Tàu. Cách trả lời rất vắn tắt, gượng ép, không có lời giải thích minh bạch, thỏa đáng. (1)

"Nói chung tập "Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký" có đến sáu phần mười đồng ý với tôi, phần còn lại họ chưa đồng ý. Cuốn sách không dám phản bác lại từng điểm, chỉ có ý xác nhận là bác có biết làm thơ chữ Hán, lờ chuyện đạo văn đi. Ở Việt Nam không ai dám nói tới cuốn sách vạch mặt của tôi nữa. Tuy nhiên các thày cô giáo rất khó trả lời trong giờ ngữ văn, nếu có học sinh hỏi : Sao nghe nói thơ đó không phải là thơ của bác ? (1)

"Cũng nhờ vậy, sau vụ tôn vinh hụt, Hà Nội đã chùn lại, không dám tâng bốc quá đáng thơ thẩn của HCM nữa" (Ban Biên tập : Vụ tôn vinh hụt nầy đến năm 2005 thì hoàn toàn bị lật tẩy với các chứng cứ hoàn toàn xác thực. Hiện nay Hà Nội rất lúng túng chuyện trơ trẽn nầy, nhưng vẫn ngoan cố tiếp tục lừa gạt sinh viên, nhất là học sinh nhỏ tuổi. Xem “Lật Tẩy mạo danh UNESCO lừa gạt 84 triệu Dân VN & Quốc tế” ở Tư liệu Phụ lục 5, 2005)

Họ ở thế bị động, phải đấu dịu với Gs Lê Hữu Mục. Ông nói: "Tôi thuộc lòng câu kết tập sách dày cộm của họ : Người ta nói : Bỏ gươm xuống thì thành Phật. Thánh Phaolô khi cầm gươm là kẻ thù của Thiên Chúa giáo. Bỏ gươm xuống là bạn của Thiên Chúa giáo. Tác phẩm của ông Lê Hữu Mục, thực chất là hành động giơ dao lên. Chúng tôi không biết ông sẽ làm gì với con dao đó. Chúng tôi đề nghị ông nên hạ dao xuống thì hơn". Gs Mục cũng không hiểu họ muốn nói điều gì. Giáo sư kết thúc bằng một câu đủ gói ghém câu chuyện khi được hỏi là : Ông nghĩ gì về cái gọi là Tư tưởng HCM, họ thường rêu rao ?

- "Tôi không thể nào cho rằng HCM có một tư tưởng. Một tư tưởng lớn đáng bàn đến phải có một hệ thống triết lý, hơn nữa phải có một chương trình hành động sát lý thuyết, sát triết thuyết đó. HCM không có cả hai điều kiện ấy, không thể gọi là tư tưởng được. Chính HCM không nhận mình là một nhà tư tưởng, một nhà thơ. Ông ta thú thực với một nhà báo Pháp là ông ta chỉ là một ký giả thôi. Họ gán cho tôi là tác giả các bài thơ, tôi có làm được nhiều thơ thế đâu!"

Thực đúng như nhiều người đã khẳng định: HCM không có tư tưởng, chỉ có khẩu hiệu thôi. Mấy khẩu hiệu đó ai cũng có thể nói được, chế ra được : Ðoàn kết là sống, chia rẽ là chết; Không có gì quý hơn độc lập tự do; Ta nhất định thắng, địch nhất định thua thì đứa con nít lên 5 tuổi cũng nói được. HCM còn "đỡ nhẹ" câu "Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" của Tầu ngày xưa. Như thế hiển nhiên là không thể khoác cho HCM chiếc áo huyền thoại được, chỉ đáng gọi là Huyễn Thoại HCM thôi. @

Tinh Vệ (Diệu Tần)

(1) Tất cả các cuốn Tiểu sử của HCM do CSVN xuất bản đều ghi tương tự rằng:“HCM bị Chính quyền Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch (TGT) bắt giam 14 tháng khoảng từ 28.8.1942 đến cuối tháng 10.1943, tại 18 nhà lao thuộc 13 huyện, thị trấn, thuộc vùng Quế Lâm, Liễu Châu, Trung Quốc, với những điều kiện giam nhốt cực kỳ khắc nghiệt thối tha, sức khỏe rất yếu, lại phải mang vác đồ đạc để chuyển trại giam liên miên đến 17 lần, tổng cộng phải đi bộ đến hàng ngàn cây số”. Thế mà HCM quá “siêu giỏi” làm được đến 134 bài thơ tuyệt tác bằng chữ Hán, mỗi tháng hơn 10 bài, rồi giả ghi ngoài bìa là từ 29.8.1931 – 10.9.1933 để qua mặt bọn TGT ! Một điều rất quái dị là tất cả quan quân TGT hoặc “quá văn minh lịch sự và quá khờ khạo chưa hề có trên thế giới”, hoặc HCM có phép thần thông “thôi miên mà (che hoặc làm hoa mắt) mắt” bọn quan quân cai ngục TGT cho chúng như mù hết, nên cả một tập thơ khá dày chửi rủa chế độ nhà tù TGT đến như thế, dễ thấy đến như thế mà bọn họ cũng đành bất lực để yên cho “bác” mang vào ra nhà tù như vào ra thư viện đến những 18 lần xuất nhập 18 trại giam! Thật y như Tề Thiên Đại Thánh ! Người mạn phép tác giả viết thêm chú thích nầy đã kinh qua các nhà tù 04 lần (08 trại giam) 01 lần thời Đệ nhị Cộng hòa, 03 lần dưới chế độ Cộng sản sau 1975, thấy rõ : cho dù các CA CSVN hiện nay đã “văn minh độ lượng” đến thế, thì một cái kim, một tờ giấy các tù nhân cũng không sao mang lén vào phòng giam lọt (trừ ra khi được cố ý lờ đi), thì làm sao vào thời TGT rất “gian ác tàn bạo” mà “bác vĩ đại của Dân tộc VN” lại có thể đủ giấy bút mực kim chỉ để làm đến 134 bài thơ, đóng gọn thành một tập khá đẹp, chưa kể hoặc không cần nháp, ngoài bìa còn vẽ hình minh họa hẵn hoi ! Nguyên một chi tiết “khó tin còn hơn chạy bộ lên trời” như thế mà bao nhiêu năm, bao thế hệ “trí thức” miền Bắc (và cả một số học giả ngoại quốc nữa) vẫn cứ “bị bịt mắt” lại mà nghiền ngẫm và ca tụng những “vần thơ trác tuyệt” của “nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại" đại bịp HCM !

Gần đây Ông Lê Văn Ấn đã viết : “Trong tập thơ Ngục Trung Nhật Ký mà Hồ Chí Minh hí hửng giao cho thuộc hạ dịch ra thơ nôm, cho in cả 2 triệu cuốn, phổ biến cho Nhân dân “học tập thơ Bác” có lộ ra bài “Thế Lộ Nan III :

Trung thành, ngã bản vô tâm cứu
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian
Xử thế nguyên lai phi dị dị
Nhi kim xử thế cánh nan nan !

Giáo sư Lê Hữu Mục dịch:

Trung thành, ta vốn lòng không thẹn
Lại bị hiềm nghi làm Hán gian
Vốn biết là đời không dễ xử
Ðến nay càng khó xử muôn vàn !

Bài thơ này là chứng cớ Hồ Chí Minh ăn cắp thơ của một người Hán, vì Hồ Chí Minh là người Việt – nên chỉ làm được Việt gian, làm sao có thể làm được Hán gian !”

Thật quá tội nghiệp cho biết bao học sinh và sinh viên VN “thời đại HCM” này đã bị buộc phải nhai nhét bao vần thơ đạo chích ấy!!! Nếu HCM không ăn cắp tập thơ nầy của người khác, thì cũng là ngụy tạo, chắc chắn rõ ràng không thể khác được; cũng chỉ là tuồng một duộc như “Đại tác phẩm dỏm” tự tạo nên hình ảnh “Cha già Dân tộc rất mực thánh thiện”, tự ca tụng mình trong “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” do Trần Zân Tiên là “soạn giả” nhưng đích thị chính HCM đại bợm mới là “soạn thật”, đã là “sách gối đầu giường” của bao thế hệ “đoàn thanh niên CS–HCM” và “trí thức” của cả một chế độ CSVN “cực kỳ tối tăm và quá buồn cười” đến độ nhiều học giả gọi là “đống phân tư tưởng HCM...” như Giác Thư của Trần Nhu gửi các Tướng lãnh & Binh sĩ QĐNDVN ngày 01-01-2006...

Con đường hỏa xa hay con đường chiến lược?

(Lê Hùng Bruxelles)

Tin Hoa Xã ngày 11/12/2008 đăng tải: "Bắt đầu năm 2009, các chuyến xe lửa chở khách nối liền Hà nội với thủ phủ Quảng Tây. Các quan chức Nam Ninh còn cho biết thêm chi tiết mỗi ngày tàu khởi hành vào buổi sáng và đến Hà Nội vào sáng hôm sau. Ngược lại du khách có thể lấy vé khởi hành từ Hà Nội vào buổi tối 20giờ 30 và đến thủ phủ Nam Ninh (Quảng Tây) vào sáng sớm hôm sau lúc 10 giờ 05".

Bản tin còn ghi thêm: "Trung quốc luôn luôn xem Quảng Tây là địa bàn chiến lược để phát triển và khai thác quan hệ với các nước vùng Đông Nam Á và chính thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong tháng 10 vừa qua đã đến thăm Quảng Tây trước khi tới Bắc Kinh dự hội nghị cao cấp giữa hai quốc gia"

1. Phát triễn con đường hỏa xa để đồng hưởng lợi.

Trong bài Đường Tàu Thống Nhất (xem Ba Cây Trúc), tác giả Nguyễn Duy Ân viết: "Thời đại toàn cầu hóa sự giao thông, giao thương qua lại giữa các quốc gia với nhau là điều bình thường nếu như mối quan hệ đó thật sự được thiết lập trên tinh thần bình đẳng, tương nhượng và tôn trọng lẫn nhau. Thật sự quan hệ giao thương giữa Bắc Kinh và Hà Nội không có được tinh thần đó, mà thực chất chỉ là quan hệ thiên tử đối với chư hầu, giữa chủ và tớ, giữa tham vọng bành trướng xâm lăng đại bá và hèn nhược chư hầu dâng đất nhượng biển để cầu an và cầu hòa. Cuộc xâm lăng chiếm đóng Tây Tạng với bước tiến thứ hai là con đường sắt quy mô nối liền Hoa- Tạng đã hoàn tất nhằm chuyển người chuyển của tràn chiếm để đồng hoá xóa bỏ xứ sở nầy đang hoạt động ráo riết. Tầu Cộng dồn lực hướng tới mục tiêu Đại Viêt và luôn cả Đông Dương! Đó là đường tàu thống nhất Trung-Việt! (hết trích)". Đó là tóm lươc về hai chữ chiến lược của Tàu cộng muốn làm thiên tử ngàn đời và Việt Cộng muốn làm chư hầu muôn kiếp.

Tài liệu của Cựu SVSQTB Thủ Đức (Phạm bá Hoa)

1. CSVN tàn bạo với đồng bào.

1a. Giáo sư Rummel trong quyển “Death by Government”, trong giai đoạn 1945-1957, cộng sản Việt Nam (CSVN) đã giết những thành phần mà họ gọi là các tầng lớp trí thức, tư sản giàu có, khác khuynh hướng chính trị, và những người trong hàng ngũ của họ mà họ cho là chệch tư tưởng cộng sản cũng bị họ giết, cộng chung khoảng 50.000 người.

1b. Trong giai đoạn cải cách ruộng đất trên đất bắc 1953-1955. Bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000 do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết có 172.008 người bị đấu tố. Sau khi sửa sai thì đảng với nhà nước CSVN đưa ra con số 123.266 người bị coi là oan. Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/07/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007).

1c. Trong Tết Mậu Thân năm 1968, tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, số hài cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã bắt giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người trong tổng số dân ghi mất tích hơn 5.000 người! Nhưng theo sử gia Trần Gia Phụng thì số người tìm được trong 22 mồ chôn tập thể là 2.326 xác trong tổng số dân bị giết là 5.800 người!

1d. CSVN bắt đầu cuộc gây chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954, đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 Việt Nam Cộng Hòa chúng ta sụp đổ. Theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN năm 1976, ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đã chết trên chiến trường Việt Nam Cộng Hòa, gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào Nam. Nhưng theo nhà văn nữ (cựu cộng sản) Dương Thu Hương thì số người chết lên đến 10.000.000 người.

1e. Cộng sản cai trị toàn cõi Việt Nam dưới tên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với hằng loạt những chính sách đánh quỵ xã hội mà họ vừa chiếm được. Theo tài liệu của tác giả Lê Tùng Minh, cơ sở Việt Quốc ở Germany, thì Sở Công An Sài Gòn (mà họ gắn cái tên Hồ Chí Minh vào đó), đến cuối tháng 7 năm 1975, Công An đã đẩy 154.772 quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10 cùng năm (1975), Công An bắt thêm 68.037 người nữa. Cộng chung tính đến 30 tháng 10 năm 1975, tổng số cựu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ, bị họ giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cõi Việt Nam là 222.809 người. Đến tháng 4/1992, người cuối cùng mới ra khỏi trại tập trung. Trong 17 năm đó, ước lượng từ 8.000 đến 10.000 tù chính trị bị chết do chính sách thù hận thâm độc của nhóm lãnh đạo CSVN..

1f. Từ sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, CSVN cai trị dân với những chính sách khắc nghiệt, là nguyên nhân chính đẩy hơn 3.000.000 người bằng mọi phương cách rời khỏi quê hương tìm tự do trên khắp thế giới! Theo tài liệu của Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, trong số đó có khoảng 150.000 người di tản trước trong và ngay sau ngày 30/4/1975. Tiếp sau là dòng người Việt Nam ào ạt trốn chạy khỏi quê hương tị nạn tại các quốc gia tự do trên thế giới gồm 839.200 người trong 20 năm kể từ tháng 6/1975: Giai đoạn 1, tháng 6/1975 - 1979 có 326.000 người tị nạn gồm 14.600 người vượt biên giới trên đất liền, và 311.400 người vượt biển mà thế giới gọi là Thuyền Nhân”. Giai đoạn 2, 1980 - 1984, có 253.100 người tị nạn gồm 11.000 người vượt biên giới và 242.000 người vượt biển. Giai đoạn 3, 1985 - 1989, có 197.000 người tị nạn gồm 10.500 người vượt biên giới và 186.500 người vượt biển. Và giai đoạn 4, 1990-1995, có 63.100 người tị nạn gồm 6.700 người vượt biên giới và 56.400 người vượt biển. Các cơ quan quốc tế về truyền thông lẫn tị nạn dựa vào tin tức do người tị nạn cung cấp, phỏng đoán cứ 3 người Việt Nam vượt biên vượt biển thì 2 người đến bến bờ tự do và 1 người chết mất xác. Theo cách ước tính này, có từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên đường chạy trốn chế độ cộng sản độc tài!

1g. Từ bản chất độc tài sản sinh những chính sách giáo dục học đường nhắm đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ, những chính sách của các ngành nhất là hệ thống truyền thông trong mục đích bịt mắt bịt tai bịt miệng mọi người trong xã hội. Với giáo dục học đường và giáo dục xã hội này đã trang bị cho guồng máy cai trị một thứ quyền lực đặt mọi người sống trong tình trạng sợ hãi, và mối liên hệ giữa dân với nhà nước cộng sản trên căn bản “xin và cho” trong chính sách cai trị.

1h. Từ bản chất độc tài sản sinh văn kiện qui định toàn bộ đất đai từ thành thị đến nông thôn đều thuộc về đảng CSVN dưới mỹ từ dối trá “nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý, đảng lãnh đạo” sau khi đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa, đã tạo điều kiện cho lãnh đạo đảng lãnh đạo nhà nước lớn nhỏ khắp hang cùn ngõ hẻm, bằng mọi hình thức ngang ngược khác nhau chiếm đoạt đất đai ruộng đồng vườn tược, phần làm của riêng, phần đem bán cho ngoại quốc. Đó là nguồn gốc dẫn đến tình trạng hàng hàng lớp lớp dân oan kéo nhau đến tỉnh, đến Sài Gòn, đến Hà Nội, cầu cứu Thủ Tướng nhưng Thủ Tướng “lặn sâu trốn kỷ”, cầu cứu Chủ Tịch Quốc Hội Chủ Tịch Nhà Nước nhưng hai Chủ Tịch đều “trốn kỷ lặn sâu”, không một ai giúp dân cứu dân dù rằng đầu môi chót lưỡi lúc nào cũng oan oan “cán bộ là đầy tớ của dân”. Lãnh đạo CSVN là những người vô cảm với mọi người dưới quyền cai trị của họ, bởi họ chỉ phục vụ quyền lợi của đảng mà quyền lợi của đảng là quyền lợi của một nhóm hơn 100 ngườì trong ban chấp hành trung ương đảng.

1i. Từ bản chất độc tài sản sinh hệ thống tổ chức và điều hành ngành truyền thông, từ báo chí, tập san, phát thanh, phát hình, đến internet, đều trong tay đảng với nhà nước. Toàn bộ hệ thống này không được phép nhỏ một giọt thông tin nào cho 86 triệu đồng bào biết những tin tức ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của đất nước, do nhóm lãnh đạo CSVN: (1) Áp dụng chính sách giáo dục làm băng hoại xã hội. (2) Chủ trương tham nhũng trấn lột cướp đoạt để cùng nhau chia chác và che chắn bảo vệ nhau, cũng là bảo vệ sự tồn tại của đảng CSVN. (3) Luôn luôn tàn bạo với đồng bào, nhưng vô cùng khiếp nhược với CSTH, một quốc gia muôn thuở ấp ủ mục tiêu chiếm đóng hay khống chế Việt Nam chúng ta bất cứ khi nào mà họ cho rằng đó là thời cơ.

Tóm tắt. Trong mục tiêu bảo vệ đảng cũng là bảo vệ sự tồn tại và giàu sang của bản thân, nhóm lãnh đạo dùng uy lực của Bộ Chính Trị để khống chế đảng khống chế nhà nước, rồi dùng đảng với nhà nước khống chế dân trong chinh sách cai trị, đó là nguồn gốc của sự tàn bạo với đồng bào.

2. CSVN khiếp nhược với CSTH.

Sự kiện CSVN cho công ty Chalieco của CSTH khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung từ cuối năm 2007 đã thể hiện rõ sự khiếp nhược của CSVN với CSTH, qua chuỗi sự kiện sau đây:

2a. Tháng 09/1958, CSVN công nhận vùng lãnh hải của CSTH bao gồm vùng Biển Đông của Việt Nam.

2b. Tháng 12/1999, CSVN đã bán 789 cây số vuông đất dọc biên giới phía bắc cho cộng sản Trung Hoa (CSTH) để trừ nợ mua vũ khí đạn dược trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa 1954-1975.

2c. Tháng 12/2000, CSVN lại bán 11.362 cây số vuông trong vịnh Bắc Việt cho CSTH với giá 2 tỷ mỹ kim, và dùng số tiền này làm giảm bớt sự phẫn nộ của Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, và các nhân vật trong Quốc Hội. (Lời của Trần Đức Lương, Chủ Tịch nước CSVN nói với Thủ Tướng CSTH Lý Bằng ngày 26/12/2000 tại Bắc Kinh).

2d. Tháng 11/2007, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết Định số 167/2007, về thăm dò khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2015, xét đến năm 2025, và giao cho Tập Đoàn Than & Khoáng Sản quốc doanh Việt Nam thực hiện. Chủ Tịch Tập Đoàn này là ông Đoàn Trung Kiển, dành một hợp đồng cho Công ty Chalieco của CSTH sang khai thác.

2e. Tháng 12/2007, ngầm thỏa hiệp cho CSTH sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam vào quận Tam Sa của CSTH. Vì đã thỏa hiệp với CSTH nên ngày 9 & 16 tháng 12 năm 2007 Công An thẳng tay đàn áp các thành phần trong xã hội -nhất là học sinh sinh viên- mít tinh biểu tình phản đối hành động của CSTH lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải Việt Nam.

2f. Tháng 05/2008, tại các thành phố lớn nhất là Sài Gòn và Hà Nội, lực lượng Công An ngăn chận nhiều thành phần xã hội chuẩn bị mít tinh biểu tình trước tòa đại sứ Trung Hoa cộng sản, phản đối hành động họ trưng dẫn văn kiện 50 năm trước do Thủ Tướng CSVN Phạm Văn Đồng ký ngày 14/09/1958, công nhận tuyên bố của CSTH về vùng lãnh hải của họ bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

2g. Tháng 06/2008, CSTH đưa hằng chục ngàn công nhân với thành phần an ninh của chúng sang Việt Nam khai thác quặng Bauxite tại Tân Rai tỉnh Lâm Đồng và Nhân Cơ tỉnh Dak Nông để sản xuất nhôm. Theo các chuyên gia môi trường thì đây là loại quặng mà khi khai thác sẽ gây ô nhiểm môi trường một cách trầm trọng trong một vùng rộng lớn trên Cao Nguyên miền Trung xuống đến đồng bằng sông Đồng Nai.

2h. Tháng 10/2008, tin tức CSTH khai thác quặng Bauxite từ trong nước chuyển ra hải ngoại với những hoài nghi về chủ trương không minh bạch của CSVN với CSTH. Từ đó, một không khí phản đối lãnh đạo CSVN bùng lên tại hải ngoại và trong nước.

2i. Ngày 14/01/2009, một số sĩ quan quâ đội CSVN tại ngũ lẫn về hưu, gởi kiến nghị lên Thủ Tướng CSVN, yêu cầu dừng dự án khai thác Bauxite để nghiên cứu cẩn thận và đưa sang Quốc Hội thảo luận quyết định.

2j. Tháng 02/2009, trước sức phản đối của nhiều thành phần trong nước với hải ngoại, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố: “Khai thác Bauxite la chủ trương lớn của đảng” (CSVN).

2k. Báo Tuổi Trẻ ngày 27/3/2009 tại Hà Nội, ký giả Cam Văn Kình với bài viết “Hằng Vạn Công Nhân Trung Hoa Đã Vào Việt Nam”. Bài viết dẫn lời ông Trần Ngọc Hùng, Chủ Tịch Tổng Hội Xây Dựng Việt Nam cho biết thực tế hiện nay hầu hết các dự án lớn về điện, xi măng, hóa chất, đều vào tay nhà thầu CSTH vì họ được chánh phủ hai bên nâng đỡ nhiều mặt nên giá thầu giảm. Nhà thầu Trung Hoa đưa sang Việt Nam hằng mấy ngàn công nhân với các loại máy móc và thực phẩm mà họ không mua bất cứ thứ gì Việt Nam có.

2l. Ngày 12/04/2009, ba tác giả bản kiến nghị là giáo sư Nguyễn Huệ Chi, giáo sư Nguyễn Thế Hùng, và nhà văn Phạm Toàn, gởi Chủ Tịch nước, Chủ Tịch Quốc Hội, và Thủ Tướng CSVN. Nội dung yêu cầu dừng dự án khai thác quặng Bauxite vì gây nguy hại môi trường sống và an ninh quốc phòng. Sau mấy ngày phổ biến trên các Diễn Đàn với những trang Blog cá nhân, đã có của 135 cùng người ký tên vào bản kiến nghị. Điều đáng để ý là trong số 135 người này gốm nhiều thành phần trong nước, như: Giáo sư đại học, kỹ sư, nhà văn nhà báo, đại biểu Quốc Hội như Nguyễn Lân Dũng, giáo sư Hoàng Tụy, tiến sĩ Phan Đình Diệu, giáo sư Trần Văn Khê, nhà thơ Dương Tường, đạo diễn Trần Văn Thủy. Đến cuối tháng 05/2009, đã có 1.800 người ký tên vào kiến nghị đó. Ngoài ra có một số nhà trí thức hải ngoại cùng tham gia. Một trang nhà có tên www.bauxitevietnam.info do một số trí thức trong nước thành lập lấy chữ ký gửi kiến nghị tới nhà cầm quyền Hà Nội kêu gọi ngưng kế hoạch, chờ đến khi nào có tiến bộ khoa học hơn thì hãy khai thác, tránh tàn hủy và đầu độc môi trường sống không chỉ riêng cho khu vực Tây Nguyên mà cả khu vực dọc theo sông Đồng Nai nữa.

2m. Trước sức phản kháng mạnh mẽ cả trong nước lẫn hải ngoại, Thủ Tướng CSVN bất đắc dĩ phải ra lệnh đưa nội vụ ra thảo luận và quyết định trong kỳ họp Quốc Hội khóa 12 từ ngày 20/05/2009. Nhưng chiều 18/05/2009, ông Trần Đình Đàn, Chủ Nhiệm văn phòng Quốc Hội trong cuộc họp báo công bố chương trình kỳ họp thứ 5 đã công khai tuyên bố như thể đại diện cho toàn thể Đại Biểu, rằng: “Quốc Hội cũng sẽ hoàn toàn ủng hộ chủ trương lớn này”.

2n. Ngày 25/04/2009, thêm một số cựu sĩ quan quân đội cộng sản đồng ký tên trong một bức thư đề gởi hầu hết lãnh đạo các cấp các ngành, yêu cầu ngưng khai thác quặng Bauxite chờ báo cáo những vấn đề liên quan.

2o. Trang Web hợp tác kinh tế thương mại giữa CSVN với CSTH có địa chỉ www.vietnamchina.gov.vn thành lập năm 2006. Gần đây, nhiều tin tức chuyển tải trên các Diễn Đàn tại hải ngoại và những trang Blog cá nhân trong nước cho biết, phần Việt ngữ trên trang Web này lại tập trung vào chủ quyền của CSTH trên quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. CSTH nói tài liệu Việt ngữ đó trích từ trang Web của đảng CSVN. Với nội này, ngày 14/05/2009, ông Nguyễn Thành Hưng, Cục Trưởng Cục Thương Mại Điện Tử & Công Nghệ Thông Tin (TMĐT & CNTT) thuộc Bộ Công Thương phát biểu: “Tôi nghĩ là không có gì quá ghê gớm cả.”. Ông Hưng nói tiếp: ““Phần nội dung Việt ngữ trên trang Web do Trung Quốc phụ trách để giúp doanh nghiệp Việt Nam, trong khi phía Việt Nam phụ trách phần nội dung Hoa ngữ”. Không thể nào tưởng tượng được “đất của mình bị CSTH nói của họ” mà ông Cục Trưởng trách nhiệm trang Web đó lại phát biểu như thể chánh phủ của ông đã thật sự công nhận chủ quyền thuộc về CSTH rồi. Khi nội dung trang Web bị phát giác, giới trí thức và sinh viên trong nước phản đối dữ dội nên Bộ Công Thương tuyên bố yêu cầu phía CSTH rút bỏ nội dung các bài đó, nhưng đến cuối tháng 05/2009 những bài Việt ngữ đó trên trang Web vẫn nguyên vẹn. Ông Trần Hữu Linh, Cục Phó Cục TMĐT & CNTT của ông Hưng cho biết: “Bên cạnh trang Web nói trên còn có trang Web www.chinavietnam.gov.cn chỉ khác

TRUYỆN NGẮN

TRỐN CHẠY

* Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Cụ ở cùng lều với tôi, tại Subic Bay – Phi luật Tân - từ những ngày đầu tháng 5 năm 1975, sau khi tôi rời khỏi Sàigòn bằng đường biển vào trưa ngày 30-4-1975 ngay sau khi Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng Cộng Sản.

Không biết cụ tới đây lúc nào, chỉ biết khi tôi đặt chân lên hòn đảo tuyệt đẹp này thì đã thấy cụ ở đây rồi. Tên cụ là Tường - Lê văn Tường - người huyện Phú Thọ, tỉnh Thanh Hoá, Bắc Việt. Dáng người gầy nhưng trông còn khang kiện, năm đó cụ vào khoảng 65, 66 tuổi với những nét nhăn trên trán, trên má và chòm râu bạc trắng như cước.

Ngày ba bữa cụ rủ tôi đi lấy cơm từ một nhà ăn rộng lớn do Chính Phủ Hoa Kỳ đài thọ, với số người làm bếp đủ để phục vụ mười lăm ngàn đến hai mươi ngàn người trên đảo mà tất cả toàn là người Việt tị nạn, sau khi đã đào thoát khỏi Việt Nam trước hoặc sau ngày 30-4-75. Mỗi buổi chiều, khi lấy đĩa cơm xong, tôi với cụ Tường thường mang ra bờ đá trước nhà ăn, sát chân sóng, vừa ăn vừa nói chuyện, có khi tới tối mịt mới trở về lều. Trong câu chuyện cụ kể cho tôi nghe, có câu chuyện vô cùng thương tâm của chính gia đình cụ mà hôm nay tôi viết lên đây để cống hiến bạn đọc. Và sau đây là lời cụ Tường.

“Thanh Hóa được kể là một trong những tỉnh Chính phủ Cộng Sản Hà nội dùng làm thí điểm trong những đợt người Cộng Sản gọi là “Ðấu tranh chính trị, đấu tố địa chủ, cường hào ác bá” hay “Cải cách ruộng đất” tại Bắc Việt. Trước Hiệp Ðịnh Genève năm 1954, nghĩa là trước khi Cộng Sản hoàn toàn làm chủ đất Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, trong khi những vùng khác không có thì tại Thanh Hoá cũng đã có những cuộc đấu tố, hiến điền rầm rộ rồi. Trong những cuộc đấu tố đó, biết bao nhiêu lương dân đã gục ngã, biết bao gia đình đã tan nát chỉ vì chính sách quá thâm độc, dã man của Cộng Sản. Cộng Sản không muốn bị mang tiếng là cướp ruộng đất của dân nên chúng đánh thuế thật nặng qua những cuộc “lương giá” ruộng tốt, ruộng xấu để đóng nhiều hoặc ít lúa cho Chính phủ mà những nông dân ngồi bình nghị là chính những người được chúng huấn luyện để làm công việc đó. Vì vậy, nhiều gia đình, nhất là những gia đình địa chủ trước kia, đã phải “lậy” mà dâng ruộng đất cho chính phủ, Cộng sản gọi là “hiến điền”.

Số lương dân bị đấu tố và bị chết trong vùng rất nhiều, tôi không thể nhớ hết. Chỉ xin kể ra vài trường hợp điển hình trong đó có một linh mục Công giáo, cha Phạm Tần - sau này lên Giám mục - và thân phụ tôi, một người tôi kính yêu suốt đời.

Cha Tần ở xứ Phúc Lãng, huyện Quảng Xương, bị Cộng Sản đưa ra đấu tố vì Cộng sản muốn diệt ngài, diệt một người có uy tín với giáo dân, có thể kích động giáo dân nổi lên chống Cộng Sản, chống những sự tham tàn, độc ác của Cộng Sản. Dù là một người không Công giáo, tôi cũng biết rõ điều đó.

Bọn Cộng Sản đánh cha hai trận bằng tầu lá cọ có gai nhọn và cứng dài đến hai đốt ngón tay, đánh từ chập tối đến nửa đêm, cho đến khi cha ngất đi không còn biết gì nữa mới thôi.

Trong trận đấu tố này, chúng dùng một đứa con gái tên Chữ, khoảng 21, 22 tuổi. Bố mẹ con Chữ đang là câu, sãi cho nhà xứ Phúc Lãng, từ lâu vẫn sống nhờ sự giúp đỡ của các cha. Bọn cán bộ Cộng sản dạy con Chữ cách căm thù cha Tần. Ðầu tiên chúng nhồi vào đầu óc đứa con gái ngu dại này rằng chính cha Tần và các linh mục trong nhà xứ đã bóc lột sức lao đông của cha con nó từ bao lâu nay. Lẽ ra gia đình nó phải được ăn sung mặc sướng, có nhiều tiền, nhiều thóc như nhà xứ Phúc Lãng. Nhưng vì cha Tần tham lam, không trả công tương xứng nên cha Tần chỉ làm giầu cho chính mình trong khi gia đình nó nghèo túng, thiếu ăn, thiếu mặc. Bọn cán bộ còn bắt con Chữ phải dựng đứng câu chuyện bỉ ổi là trước mặt dân chúng, con Chữ phải nói ràng chính cha Tần đã bắt nó phải ngủ với ông bao nhiêu lần, đã trêu ghẹo nó, làm tầm bậy tầm bạ làm sao vv... Cán bộ Cộng Sản cũng bắt con Chữ và mọi người phải gọi là “thằng Tần” chứ không được gọi là cha Tần như trước. Ðến ngày đấu tố, bọn cán bộ vào nhà xứ lôi cha Tần ra trước sân cuối nhà thờ, ở đó dân chúng đã bị thúc đẩy đi dự đấu tố đông nghẹt một sân rộng. Con Chữ đã làm tất cả những gì bọn Cộng sản muốn, kể cả việc nó trùm váy của nó lên đầu cha. Và sau đó là những trận đòn cho đến khi ngất đi.

Cần phải để ý là bọn cán bộ không dùng những người ngoài Công giáo để đấu tố các cha. Chúng dùng ngay những người Công giáo và dùng ngay chính những kẻ xưa nay được tiếng là thân tín với các cha để đấu tố các cha. Như cha Tần, sau khi bị đánh lần thứ hai, chúng tưởng ngài chết rồi nên gọi giáo dân đến khiêng về nhà xứ mà chôn. Lúc ngài được khiêng vào phòng khách nhà xứ, một người đàn ông tên Mạnh và con Chữ quì xuống nắm lấy tay ngài khóc, nói:

“Chúng con bị bọn cán bộ bắt buộc phải đấu tố cha, phải nói dựng đứng những chuyện cha không có. Chúng con đã đấu tố bậy. Xin cha tha lỗi cho chúng con.”

Nhưng cha Tần đã hôn mê, ngài còn biết gì nữa đâu. Tất nhiên sau đó bao nhiêu ruộng của nhà xứ Phúc Lãng mà chúng buộc là của cha Tần, bị xung công gần hết, chỉ còn để lại mấy sào không đủ nuôi vài miệng ăn trong nhà xứ.

Sau đó đến cha Thước, xứ Thổ Ngõa. Cung cách chúng dùng để đấu tố cha Thước cũng y như những bài bảng đã áp dụng cho cha Tàn. Chúng muốn hạ uy tín các linh mục là những cán bộ nòng cốt của Giáo hội để không một giáo dân nào tin tưởng và tuân phục mệnh lệnh các cha và chúng tiến đến dần đến chỗ tiêu diệt tôn giáo.”

Cụ Tường nói một thôi không nghỉ. Giọng cụ lẫn vào tiếng gió và sóng biẻn vỗ vào bờ đá làm tôi có cảm tưởng những linh hồn oan khuất của những lương dân vô tội bị Cộng sản giết oan trong các đợt đấu tố dã man như đang hiển hiện về đây nói cho chúng tôi nghe những căm hờn uất hận khôn nguôi. Cụ Tường ngưng một lúc, lấy trong túi áo ra một cái ví nhỏ xíu như của đàn bà vẫn dùng. Cụ mở ví lấy ra một tờ giấy mỏng, lấy thuốc lá sắp đều lên tờ giấy. Cụ vấn thuốc hút. Tôi phải giúp cụ bằng cách ngồi che gió và bật quẹt cho cụ. Khi điếu thuốc đã cháy, cụ rít một hơi, thở khói, nói:

“Tôi đã bỏ hết quần áo sau khi chuyển qua mấy chiếc tầu nhưng cố giữ ít thuốc vấn vì tôi hút thuốc lá của Mỹ nóng lắm, chịu không được. Ông tính cuộc đời của tôi còn gì. Bố chết phải bỏ nằm đấy mà chạy. Hai lần bỏ vợ, bỏ con. Bây giờ trôi dạt ở đây một thân một mình...”

Tôi an ủi cụ:

“Thôi cụ ạ, vận nước. Vả lại chẳng qua cũng cái số. Cụ có buồn cũng không ích gì.”

“Vẫn biết thế, ông Vũ ! Nhưng sao tôi vẫn cảm thấy buồn. Buồn cho nước, cho đồng bào bị cái khổ nạn không biết bao giờ mói qua. Buồn cho gia đình, cho thân thế mình, những người liên hệ với mình, cả một cuộc đời long đong lận đận đầy khổ nhục và nước mắt. Rồi mai sau, với cái hiện tại như thế thì con cháu mình sẽ ra sao, sẽ là cả một cuộc đời tăm tối ở trước mặt, hết thế hệ này sang thế hệ khác. Thôi được, tôi nói tới đâu rồi, hả ông Vũ ?”

“Dạ, thưa cụ đang nói đến chỗ bọn cán bộ đấu tố cha Thước cùng một kiểu như cha Tần ...”

Cụ Tường nâng ly nước vừa lấy từ nhà ăn lên nhấp một ngụm:

“Ờ, ờ, tôi cũng cần phải thêm với ông rằng bọn cán bộ ghép cho các linh mục cái tội “phong kiến” để đem ra đấu tố. Ông có biết sau khi cha Tần bị đánh bằng cái tầu lá cọ , gai đâm vào người cha lấy kìm nhổ ra được gần một chén ăn cơm. Gai đâm khắp mình mẩy, chỉ trừ đầu là chúng chừa ra mà thôi vì sợ đánh vào đầu sẽ chết mau. Ông thấy chúng dã man chưa ? Các linh mục, như tôi nói, chúng dùng toàn người Công giáo để đấu tố; một số địa chủ thì chúng dùng toàn người làm, tá điền và chúng bắt cả con cái phải đấu tố cha mẹ như trường hợp cụ Cai Bái ở làng Gia Ðại. Cụ Bái có hai người con trai, một người làm tới chức Chủ tịch Tiểu khu, người kia là Cán bộ Liên khu 3, thế mà hai người này phải về đích thân đấu tố, chửi bố mẹ là địa chủ phú nông bóc lột vô sản, thậm chí nhổ nước miếng vào mặt bố mẹ, đứng nhìn cho những con vợ tá điền trùm váy vào mặt bố mẹ. Tôi hỏi ông, chủ nghĩa vô luân như thế thì còn trời đất nào không ?”

“ Thưa cụ đúng. Chủ nghĩa nghịch lòng dân, trái đạo trời làm sao đứng vững được.”

Tôi thấy gió bắt đầu lạnh, trời cũng đã muộn muộn mà ông cụ có vẻ không được khoẻ, bèn đề nghị:

“ Nghe chuyên cụ thâu đêm còn muốn nghe, nhưng có lẽ đã hơi lành lạnh. Mời cụ về nghỉ, mai lại xin cụ cho nghe tiếp.”

Thu nhặt chén đĩa giấy, tôi đem bỏ vào một cái thùng phuy lớn gần đó rồi cùng cụ trở về lều. Mặt biển đen thẫm mênh mông trước mặt với vài ngọn núi nhỏ trơ vơ. Tiếng sóng đập vào ghềnh đá bộp bộp thành một âm thanh đều dều nghe thật buồn nản. Nỗi kinh hoàng mới vài tuần trước đây tại Sàgòn khi Sàigòn rơi vào tay Cộng Sản cùng với nỗi đau đớn của cái cảnh quốc phá gia vong làm cho thần trí tôi nhiều lúc mê muội đi không còn nghĩ mình đang sống hay đã chết, hoặc sống nhưng là sống với cái xác không hồn. Một phút bỗng tiêu tan hết, một phút sụp đổ hết. Số phân mình cùng với số phận của đồng bào và cả quốc gia dân tộc. Ðau đớn biết chừng nào ! Những lời an ủi cụ Tường lúc nãy cũng chính là những lời tôi tự an ủi.

Tôi và cụ Tường chui vào lều. Ðám trẻ đã rủ nhau đi coi xi-nê . Mỗi tối, quân đội Mỹ có ba, bốn chỗ chiếu phim để giải trí cho đồng bào tị nạn. Có những gia đình đi được cả vợ chồng con cái, ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng. Họ vui như Tết và có thể họ mang được vàng bạc, đô-la theo. Họ thấy cuộc di tản này quả có lý. Ngày ba bữa, cả gia đình mấy chục người sắp hàng đi lấy cơm ăn xong ra bờ biển chơi, tối xem xi-nê. Họ vừa lòng với cảnh di tản và không có một điều gì phải lo nghĩ. Trái lại, có nhiều gia đình vợ mất chồng, con mất cha, anh em tứ tán. Họ buồn rầu, khổ sở, lo lắng. Có những người ngồi khóc cả ngày. Thậm chí có người sang tới Guam rồi ghi tên xin trở về Việt Nam. Có lần tôi hỏi cụ Tường:

“Người ta kẹt gia đình ở Việt Nam nên có nhiều người xin trở về. Cụ nghĩ sao ?”

Nét mặt rầu rầu, cụ đáp:

“ Tôi bỏ lại nhà tôi và 5 đứa con tại Sàigòn. Tôi cũng đau khổ lắm chứ. Nhưng bảo trở về sống với Cộng sản thì nhất định không. Thà tôi chết dập chết vùi nơi đây còn hơn. Ông Vũ tính coi, tôi đã sống với chúng và chúng đã bắt chúng tôi phải làm tập thể, ăn tập thể. Ðàn ông ở riêng, đàn bà ở riêng. Mỗi buổi sáng đánh một tiếng cồng thì ra đồng làm. Trưa đánh một tiếng cồng thì về ăn cơm. Có ban hoả thực riêng lo việc nấu nướng. Chiều lại ra đồng làm rồi tối lại về. Ăn cơm tối xong, họp hành kiểm thảo đến nửa đêm mới được đi ngủ để sáng sớm lại ra đồng. Con người như cái máy chả còn gì là sinh thú của cuộc đời nữa. Vợ chồng thì ba, bốn tháng chúng cho gặp nhau một lần. Chết đem ra đồng chôn. Sống như thế thì ông bảo tôi trở về để làm cái gì ? Tôi quá sợ cái chế độ đó rồi.”

Ngày hôm sau, cụ Tường và tôi đi lấy cơm sớm hơn. Lại ra chỗ cũ ngồi va cụ lại kể tiếp:

“Hôm nay tôi kể cho ông Vũ nghe về cái thảm cảnh của gia đình tôi, cái thảm cảnh mà mỗi lần kể là tôi lại khóc.

Hồi đó, ông bố tôi làm Chánh tổng, tổng Thủy Cơ. Phải biết tỉnh Thanh Hoá có bẩy phủ, bẩy huyện và tổng Thủy cơ. Tổng Thủy Cơ bao gồm tất cả các thuyền bè đậu ở khắp nơi thuộc về tỉnh Thanh Hoá. Nói thế chắc ông Vũ cũng mường tượng ra Tổng Thủy Cơ lớn như thế nào. Dân số trong tổng Thủy cơ rất đông và chức Chánh tổng tổng Thủy Cơ cũng được coi ngang hàng với các chức tri huyện, tri phủ trong tỉnh. Trong đợt đấu tố đầu vào những năm 1950-51, bố tôi thoát được vì ông tìm cách khéo léo với cán bộ xã, huyện để chúng khỏi báo cáo lên cấp trên. Nhưng đến đợt cải cách ruộng đất năm 1956-57 thì chúng đem bố tôi ra đấu tố. Cũng nên mở một dấu ngoặc ở đây là sau Hiệp định Genève tháng 8 năm 1954, dân Thanh Hoá, cả Công giáo và không Công giáo đều muốn di cư vào Nam. Số người muốn ở lại với bọn Cộng Sản đa số là cán bộ hoặc liên hệ gia đình với cán bộ, không có bao nhiêu. Nhưng bọn cán bộ rất tinh quái. Chúng tìm đủ mọi cách để ngăn chặn làn sóng di cư vào Nam, y như nhiều nơi khác. Có những gia đình rục rịch trốn đi, chúng biết được liền cản trở và để tâm trả thù, làm hại. Gia đình tôi muốn đi lắm lắm, nhất là bố mẹ tôi, thế mà không sao đi được. Chúng tôi biết chỉ có vào Miền Nam sống dưới chế độ Quốc gia thì mới có tự do sinh sống, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo. Còn ở với bọn chúng thì mất hết tự do, chẳng những vậy, gia đình tôi bị chúng để ý theo dõi, ngộp thở lắm ông à !

Tháng 9 năm 1956, nhân cái đợt gọi là “Cải cách ruộng đất” do tên đồ tể Trường Chinh phát động, bọn cán bộ đem bố tôi ra đấu tố. Chúng ghép cho bố tôi cái tội là địa chủ bóc lột tá điền, trước kia là Chánh tổng tổng Thủy Cơ ăn hối lộ và bóc lột dân thuyền bè sinh sống trên sông nước. Chúng kể ra cho bố tôi một trăm thứ tội. Nào là ngủ với vợ thằng tá điền này, đánh thằng tá điền kia, không cho vay lúa thóc, bỏ đói những tên tá điền khác. Còn mẹ tôi thì chúng ghép vào tội cho tá điền vay lúa thóc lấy lời nặng, trả công người làm với giá lương quá thấp, chết đói vv... Chúng đem trói bố mẹ tôi vào một cái cọc trước sân đình rồi cho các tá điền trước đây làm cho bố mẹ tôi cứ thế mà chửi rủa, quát tháo, lăng nhục. Con vợ một thằng tá điền tên Cam đã đứng vén váy đái vào đầu bố tôi, còn mẹ tôi thì nó tát cho sưng cả mặt. Chúng định đưa cả tôi ra đấu tố vì chúng đã ghép tôi vào hàng địa chủ. Vả lại, trước kia tôi có giúp đỡ bố tôi trong công việc hàng tổng, lo về giấy tờ hộ tịch mà người ta gọi tôi là hộ lại của Tổng Thủy Cơ. Nhưng hình như có một vài đứa đề nghị sao đó, nói rằng nên để tôi vào đợt sau thì hơn vì đem tôi ra đấu cả đợt này cùng với bố mẹ tôi thì e rằng nhân dân sẽ cho là nhà nước tư thù gia đình tôi, đem tất cả ra mà đấu tố. Nhờ thế mà tôi thoát chết.

Sau khi chúng đấu tố bố mẹ tôi và đánh đập mắng nhiếc suốt một ngày trời thì chúng cho về, bảo rằng sẽ còn đưa ra đấu tố một lần nữa vào một tuần sau. Chúng ra hạn cho bố tôi phải làm bản tự thú hết mọi tội lỗi, những tội tưởng tượng mà chúng đưa ra đều phải nhận hết, đồng thời xin Chính phủ, Ðảng và nhân dân tha tội. Mục đích của chúng là khi đã nắm được bản thú tôi của bố tôi thì mọi chứng cớ đã hiển nhiên, tờ thú tội phù hợp với những lời khai gian, vu cáo của bọn tá điền. Rồi, từ đó, chúng sẽ tịch thu hết ruộng đất, tài sản của gia đình tôi bằng một toà án nhân dân do chúng lập ra.

Sau trận đấu tố đó, bố tôi về mang bệnh nằm liệt giường. Mẹ tôi thì đỡ hơn nhưng ông nghĩ coi, tuổi già sức yếu, các ngài làm sao chịu được những điều khổ nhục đau đớn như thê ? Ngày xưa, mọi người đều gọi bố tôi là cụ Chánh (Chánh tổng), bây giờ chúng bắt mọi người phải gọi bằng thằng. Chúng cô lập gia đình nhà tôi. Ðem đồ đi chợ bán, chúng không cho người ta mua, nếu chúng tôi muốn mua những đồ cần thiết,chúng cũng không bán. Chúng cấm mọi người liên lạc, lui tới. Chúng rình rập đêm ngày và làm mọi cách để khủng bố tinh thần người trong nhà. Chúng cho người ta có cảm tưởng rằng giầu là một trọng tội, dù giầu bằng sự cần cù, chân chỉ, làm ăn lương thiện. Còn ra làm việc dưới thời Pháp thuộc, dù làm để giúp dân giúp nước, làm một cách ngay thẳng thanh liêm cũng là có tôi, có trọng tội đối với chúng. Tôi chỉ lấy làm lạ rằng sao hồi đó Việt cộng ghét thực dân Pháp đến thế mà bây giờ, sau 30 năm kể từ ngày 19-8-45, Việt cộng lại o bế Pháp hơn ai hết, thân thiện với Pháp hơn bất cứ nước nào. Vậy mà trước Hiệp định Genève 1954,người dân nào bị chúng gán vào tội Việt gian tay sai cho Pháp thì chỉ có chết, không cách gì sống nổi. Thật kỳ lạ cho cái miệng lưỡi của Cộng Sản.”

Cụ Tường lại lấy thuốc ra vấn, thông lệ của cụ sau mỗi bữa ăn. Hôm nay gió nhẹ chứ không thổi mạnh như hôm qua. Mặt trời đỏ ối đang từ từ chìm dần xuống mặt biển. Vài chiếc tầu đậu tít ngoài khơi hiện hình trên đám mây trắng trôi nổi trên nền trời xanh. Một đám trẻ hò hét ầm ĩ thả những chiếc tầu nhỏ xíu chúng gấp bằng giấy xuống biển và ngồi trên bờ nhìn cho chúng trôi. Thỉnh thoảng một cái kỳ đen của một con cá lớn chạy dài trên mặt nước làm đám người đứng trên bờ hô hoán lên là kỳ của cá mập.

Tôi móc thuốc lá ra - bao Winston - hút với cụ Tường một điếu cho vui. Ðám người ngồi hóng gió thưa dần. Họ trở về lều hay chuẩn bị đi xi-nê. Chiều xuống lặng lẽ với vài tia nắng mờ nhạt còn thoi thóp trên lùm cây cao phía chân núi. Tôi chìm đắm trong nỗi buòn thấm thía, không biết rồi tương lai của mình sẽ đi về đâu.

Kéo xong vài hơi thuốc, cụ Tường lại tiếp tục:

“Lẽ ra một tuần sau đó chúng lại đưa bố tôi ra đấu tố một lần nữa như chúng đã nói. Nhưng vì ông bố tôi đau nặng quá không lết nổi, nên chúng tuyên bố hoãn lại cho đến khi nào ông cụ khỏi. Tuy vậy, chúng vẫn cô lập và rình rập gia đình tôi đêm ngày. Mẹ tôi muốn mua bán thứ gì phải nhờ người em họ, chồng cô ấy vốn làm việc cho chúng từ hồi còn bí mật, để cô ấy mua bán giùm những thứ cần thiết và đến tối mới chui bụi tre phía sau đem vào cho chúng tôi. Dạo đó tôi đã có vợ và 4 đứa con. Gia đình tôi ở cách nhà bố mẹ tôi khá xa. Vả lại, như tôi đã nói, tôi chưa phải là mục tiêu của bọn chúng lúc đó vì vậy còn được thong thả đi lại, nhưng cứ nghĩ đến cái tai nạn bố mẹ đang phải chịu, tôi không cầm được nước mắt. Sau ba tháng, bố tôi hồi phục nhờ vì bà cô lén mua thuốc bắc giùm tại một ông lang mãi tận Ba Làng. Sắc thuốc thì phải sắc lén kẻo mùi thuốc bắc đánh sang hàng xóm, bọn công an vào khám được thì tội càng nặng thêm. Ðồ ăn đồ uống có cái gì ngon cũng phải xào nấu lén. Mua đượcmột con gà để nấu cháo cho bố tôi ăn cho chóng khỏi, phải cắt tiết ở ngoài cánh đồng, còn lông thì đem chôn ở góc vườn. Ăn giấu, ăn đút còn hơn là kẻ có tội nữa. Tôi chưa thấy cái chánh sách nào kỳ cục như thế.

Chỉ còn mười ngày nữa là đến tết Ðinh Dậu (1957), bọn cán bộ đến báo cho bố mẹ tôi là chúng sẽ đem bố mẹ tôi ra đấu tố một lần nữa vào đúng ngày hăm ba tháng chạp năm Bính Thân, ngày ông Táo chầu trời. Trước đó, tôi cũng đã dược biết qua một người bạn rất thân đang làm việc với chúng là sau bố mẹ tôi thì sẽ đến lượt tôi. Tội nghiệp bố tôi, nào ông cụ đã khoẻ hẳn đâu cơ chứ. Mới hơi hơi lại người sau một cơn đánh đập tàn ác thập tử nhất sinh, thiếu thuốc, thiếu đồ bồi dưỡng. Ông cụ mới đi đi lại lại được trong sân nhà và từ nhà trên xuống nhà bếp thì chúng lại đưa ra đấu tố nữa. Hai thằng đầu trâu mặt ngựa vốn xưa kia là tá điền của bố tôi, bố tôi coi chúng như con, lấy tô rất nhẹ lại còn dựng vợ gả chồng cho chúng, cho tiền, cho thóc đối đãi hơn cả cháu ruột. Thế mà giờ này chúng nghe theo lời bọn cán bộ nhất định giết bố tôi cho bằng được.

Ðối với chúng, “Trí, Phú, Ðịa, Hào, đào tận gốc trốc tận rễ” còn phải căm thù hơn cả giặc xâm lăng. Chúng muốn cho toàn dân ngu dốt và nghèo đói để chúng dễ cai trị và chỉ có một giai cấp thống trị là bọn chúng.

Chiều hăm hai tháng chạp, bố tôi gọi tất cả con cái tề tựu lại trước bàn thờ tổ tiên. Có vài người chị gái tôi lấy chồng xa không thể đến được, còn thì tất cả đều hiện diện đầy đủ. Vì là gần Tết, bon cán bộ mải đi sám sửa tét nhất nên chúng lơ là việc canh chừng gia đình toi nên mọi người mới tề tựu đông đủ được. Khi con cái đã ngồi trên mấy cái chiếu trước bàn thờ, bố tôi sai tôi đi thắp hương và nến lên. Cụ mặc quần áo trịnh trọng, đội khăn và đi giầy tử tế rồi đứng trước bàn thờ lâm râm khấn và lễ. Xong cụ đúng bên cạnh để mẹ tôi, rồi lần lượt đến chúng tôi, ai ai cũng đều khấn vong linh ông bà tổ tiên và lạy trước bàn thờ. Mẹ tôi và mấy đứa em gái thấy khung cảnh trang nghiêm và cảm động, lại nhớ đến hoàn cảnh đau đớn của gia đình, bất giác bật khóc. Bố tôi thấy vậy không cho khóc, cụ nói bọn cán bộ nghe được thì chúng giết cả nhà. Vì vậy chỉ còn nghe những tiếng nấc tức tưởi với hàm răng nghiến chặt cho tiếng khóc khỏi bùng ra. Lễ xong, bố tôi bảo mọi người ngồi xuống chiếu, còn cụ thì ngồi ngay chính giữa sập, mẹ tôi ngồi một góc bên cạnh. Cụ dõng dạc nói:

“Nhà ta từ các cụ cho đến đời bố mẹ đều cố gắng ăn hiền ở lành. Làm việc cho hàng tổng thì bố cố giữ thanh liêm vì nhà ta có bát ăn bát để từ lâu, đâu có thiếu thốn gì mà phải đào khoét của dân. Còn ruộng nương, điền thổ trong nhà là do ông bà để lại, tá điền cấy rẽ thì lấy tô thật nhẹ, nhẹ hơn người ta nữa thế mà từ ngày chánh phủ mới lên, họ khép cho bố những tội tầy đình, nào địa chủ bóc lột, nào cường hào ác bá. Họ đã đem bố ra đấu tố một trận và kết quả là bố tưởng chết ngay sau đó. Bây giờ mới tỉnh dậy được một tí, họ lại đem ra đấu tố nữa. Bố nghĩ trước sau bọn cán bộ cũng sẽ tìm cách giết bố cho bằng được, mà giết một cách khổ nhục, ê chề. Vì vậy, có thể lúc lâm chung bố không còn kịp gặp mẹ và các con, ngày hôm nay bố gặp mẹ và các con một lần cuối.”

Bố tôi nói đến đó thì nghẹn lời, cụ không nói tiếp đuợc nữa vì quá cảm động. Mà mẹ tôi với anh em chúng tôi cũng không cầm được nước mắt, tiếng khóc oà vỡ ra như nước lũ phá bờ đê. Bố tôi thấy vậy, nghĩ là quá nguy hiểm nên khoát tay ngăn mọi người và nói:

“Bà và các con cấm không được khóc. Khóc tụi nó nghe thấy thì còn khổ hơn. Hãy nghe đây! Sau khi bố chết rồi thì cả nhà may ra sẽ được yên với chúng nó hơn, vì cái gai là bố chúng nó đã nhổ được rồi. Chỉ có thằng Tường có ra làm việc với tổng mà lại có tư điền mấy chục mẫu vậy sau bố có lẽ chúng nó để ý dến con. Con liệu xem có cách nào trốn để bảo toàn được cái mạng chứ con ở nhà thì bố chết không nhắm mắt đâu.”

Nói xong, ông cụ bảo mọi người giải tán rồi vào trong buồng nằm. Tôi cũng trở về nhà vì lúc đó cũng gần tối.

Ðêm hôm đó tôi không ngủ được. Phần nghĩ rằng ngày mai chúng sẽ đưa bố tôi ra đấu tố, có lẽ lần này bố tôi chết nên ông cụ đã trối trăn hết tất cả. Cứ nghĩ đến một đời bố tôi lo lắng cho mẹ tôi và chúng tôi, ăn hiền ở lành, người trong tổng Thủy Cơ, ngay cả nhiều nơi trong tỉnh Thanh Hoá cũng quí mến bố tôi vì tinh thần hay cứu giúp người và làm việc nghĩa. Thế mà bây giờ bọn chúng thù ghét bố tôi đến như thế, không muốn để bố tôi sống nữa. Về phần tôi là con trai cả trong gia đình, tôi có bổn phận nhiều hơn các chị và các em tôi để nhang khói cho ông bà cha mẹ. Nhưng tôi biết rõ, sau bố tôi là đến lượt tôi vì vậy bố tôi hết mực khuyên tôi phải cao chạy xa bay thì mới bảo toàn được mạng sống. Tôi có hai người đồng chí cùng muốn trốn với tôi. Người thứ nhất là bạn cùng làm việc trong hàng tổng, giữ chức thư ký, tên anh ta là Các, cũng trạc tuổi tôi, có vợ và năm đứa con. Người thứ hai là ông thầy bên Công giáo vẫn gọi là thầy Ðiền, đang dạy trẻ tại xứ Thổ Ngoã. Từ hôm cha Thước bị đem ra đấu tố vì mỗi cái tội bị ghép là “phong kiến”, ông thầy Ðiền đâm ra sợ hãi quá chừng. Ông tìm gặp tôi vì trước kia ông hay đến nhờ cậy bố tôi và tôi việc hàng tổng. Ông dám nói thật với tôi ý định trốn đi vì ông biết tôi cũng đang tìm đường trốn và có thể tin cậy tôi được. Có lẽ nay mai tôi phải kiếm cách gặp hai người đó để bàn tính ngày lên đường vì nghe đồn đã có ít người trốn được vào Nam rồi.

Hai giờ đêm đó, con bé cháu con cô em tôi (ở chung nhà với bố mẹ tôi) đến báo cho tôi hay bố tôi đã mổ bụng tự sát. Nó nói sau khi con cái về hết rồi, bố tôi đi lấy một con dao đi rừng thật tốt đem ra mài. Cả nhà cứ nghĩ có lẽ tết gần đến, cụ mài dao như mọi năm, để có thái thịt thái rau gì chăng nên chẳng ai để ý. Mài dao xong lại thấy cụ vào phòng nằm. Ðến hai giờ đêm, mẹ tôi nghe tiếng bố tôi rên la nhè nhẹ, liền thắp đèn lên chạy vào thì thấy máu đổ ra hàng vũng lớn trên nền nhà mà bố tôi ruột gan phơi cả ra ngoài, mắt trợn trắng, sắp chết rồi. Khi ông cụ ra dấu cho bà cụ ghé tai vào miệng để ông cụ trối thì bà cụ chỉ nghe được có năm tiếng thì thào gần đứt hơi:” Bảo thằng Tường trốn ngay !” Nói xong câu đó, cụ trút hơi thở cuối cùng. Ngay lập tức, mẹ tôi cho đứa cháu gái len lỏi đi lối tắt đến nhà tôi báo tin dữ, đồng thời bảo tôi liệu mà trốn đi ngay, chớ có thương tiếc gì nữa.

Nghe đứa cháu nói xong, tôi khóc oà lên, thương cho bố tôi quá và cũng cảm phục bố tôi quá can đảm, thà tư giết mình hơn là để bọn cán bộ giết, thà chết như thế còn hơn là sa vào tay bọn chó sói. Nhưng tôi phải bụm miệng ngay lại. Bố tôi đến lúc chết vẫn còn nghĩ dến tôi, mấy lời cuối cùng của cụ là giục tôi trốn đi. Vậy tôi phải cố gắng làm theo ước nguyện của Người để linh hồn Người được mát mẻ nơi chín suối.

Tôi bảo con cháu ra về đồng thời quay dặn vợ tôi vài câu, nhìn qua mặt mấy đứa con đang ngủ, rồi cứ thế, với một bộ quần áo độc nhất trên người và ít tièn trong túi, tôi đến nhà anh Các. Tại đây, tôi bàn kế hoạch trốn đi với anh và anh đồng ý ngay. Tuy nhiên, chúng tôi phải đợi đến đêm hôm sau mới đi được vì còn nhờ người thông báo cho thầy Ðiền. Chúng tôi muốn có bạn đồng hành vì đi toàn đường rừng rất nguy hiểm, người nọ dựa vào người kia, lúc khoẻ đã vậy lúc đau ốm, có bạn cũng đỡ nhiều. Sở dĩ bọn cán bộ không truy lùng tôi ngay vì sau khi bố tôi chết rồi, mẹ tôi không động tĩnh gì hết, cứ mặc quần áo và đắp chăn chiếu cho ông cụ y như cụ hãy còn sống. Mẹ tôi cũng cấm con cháu trong nhà không được khóc và cấm loan tin bố tôi đã chết ra ngoài. Có lẽ mẹ tôi dụng tâm giúp tôi một lần cuối cùng để cho tôi đi thoát vì nếu bọn cán bộ biết bố tôi đã chết, chúng đến nhà không thấy có mặt tôi là truy lùng tôi ngay.

Tối hăm ba ông Táo chầu trời, vào lúc vàng vàng mặt trời, bọn cán bộ kéo đến nhà bố tôi cùng với những tên tá điền phản chủ, vô ân bội nghĩa. Chúng vào trong nhà quát ầm ĩ lên:” Thằng Thiềng đâu ? Hãy ra đây cho nhân dân xử tội !” Mẹ tôi chỉ tay vào trong buồng. Bọn chúng tông cửa chạy vào nhưng tất cả đều bổ ngửa ra khi thấy bố tôi đã chết. Tự sát chết. Dĩ nhiên chúng tra khảo mẹ và các em tôi rất dữ nhưng đầu mối là bố tôi mà bố tôi đã chết rồi, chúng có làm gì chăng nữa thì cũng đến thế thôi. Một tên trong bọn sực nhớ đến tôi, liền la lên:”Còn thằng con của nó nữa, thằng Tường.” Thế là cả bọn bàn kế hoạch truy lùng tôi nhưng lúc đó tôi đã cùng hai người bạn vào sâu trong rừng rồi. Sở dĩ tôi biết được các chi tiét xẩy ra sau khi đi vì có mấy người làng sau này cũng trốn được vào Sàigòn kể lại cho nghe.

Cuộc hành trình xuyên sơn của chúng tôi vô cùng gian khổ. Khởi hành ngày 23 tháng chạp mà đến tháng tư năm sau chúng tôi mới tới được khu vực do quân đội Quốc gia kiểm soát tại Quảng Trị. Từ Thanh Hoá, nếu đi theo quốc lộ I, chúng toi phải đi qua Nghệ An, Hà tĩnh, Quảng bình rồi mới đến Quảng Trị. Cách Quảng Trị hơn 30 km là cầu Hiền Lương, bắc qua sông Bến Hải, ranh giới giữa hai miền Nam Bắc. Sang được bờ phía Nam sông Bến Hải đã là điều mừng lắm rồi. Nhưng chúng tôi đâu có dám đi theo quốc lộ. Con đường chúng tôi đi còn xa và nguy hiểm hơn con đường mòn dọc Trường Sơn bọn cán bộ Việt Cộng sau này dùng để tải bom đạn và người vào quấy phá mièn Nam. Có khi, mỗi ngày chúng tôi chỉ đi được hơn chục cây số, lại phải nghỉ và trốn vì sợ bọn chúng bắt gặp. Ðã có những nhóm người bị chúng bắt, chúng đem xử tử ngay, không cần phải giải về quê quán.

Một lần ba anh em chúng tôi lạc vào một bộ lạc người thiểu số, chẳng biết là Mường hay Mán, ở gần biên giới Lào - Việt. Mới đầu, bọn người này làm rất dữ, tôi tưởng phen này chắc là bị chúng giết vì ngôn ngữ bất đồng, không sao giải thích cho họ hiểu được. Nhưng sau nhờ có một ông già trong bộ lạc đứng ra nói với tên tù trưởng và đưa chúng tôi về nhà, một cái nhà sàn ngay giữa làng. Ông già và vợ con ông ta đối đãi với chúng tôi rất tử tế. Nào cho ăn, cho quần áo thay để tắm giặt, cho uống rượu cần và líu lo với chúng tôi cả ngày nhưng chúng tôi có biết họ nói gì. Ông bà già có một người con gái chừng hai mươi tuổi, xinh xắn, dễ thương. Tên cô là Mây Mali. Cô thường sắp cơm cho chúng tôi ăn, dẫn chúng tôi ra suối và kể cho chúng tôi nghe những chuyện thật dài nhưng chúng tôi hoàn toàn không hiểu, chỉ gật đầu tràn.

Chúng tôi lưu lại nhà của Mây Mali một tuần lễ cho lại sức vì cả tháng chỉ toàn ăn đồ khô và ngủ trên cành cây trong rừng. Có mấy viên thuốc cảm đưa đi uống đã hết, chúng tôi chỉ sợ bệnh sốt rét rừng giữa đường thì thật là nguy khốn. Một bữa, ông già ra hiệu bảo với chúng tôi ông sẽ kiếm cho chúng tôi mỗi người một cô vợ. Riên thầy Ðiền trẻ nhất bọn và khá đẹp trai, ông sẽ gả Mây Mali cho. Nghe hai ông bà già nói, chúng tôi cứ cười ngặt cười nghẽo. Hoàn cảnh này mà dám nghĩ đến chuyện lấy vợ lấy con sao ? Giá có tiên thực chúng tôi cũng không dám. Mạng sống đang như sợi chỉ mành treo chuông còn dám bay bướm sao ? Chúng tôi khoát tay chối từ với ông già nhưng ông không hiểu lại nghĩ chúng tôi từ chối lấy lệ. Và ông làm ngay điều ông định làm.

Tối hôm đó, ông già bảo thầy Ðiền nằm riêng ra rồi cho Mây Mali đến nằm cạnh thầy. Còn tôi và Các thì ông dẫn ở đâu đến hai cô con gái khác. Ông nói những gì với hai cô này rồi một cô lại kéo tay tôi và một cô đến kéo tay Các đưa ra cửa. Tôi và Các khựng lại không chịu đi. Hai cô này có vẻ rất ngạc nhiên, nói một tràng với ông già. Ông già lại nói với tôi và Các, và cầm tay tôi và tay Các đặt vào tay hai cô gái. Nhưng chúng tôi vẫn không chịu đi. Rốt cuộc hai cô gái Mường tiu nghỉu ra về trong khi ông già buồn bã lắm.

Cuộc “tình duyên” của tôi và Các với hai cô gái không êm đẹp chút nào, nhưng cuộc “tình duyên” của Mây Mali và thầy Ðiền cũng không hơn gì. Sau khi hai cô gái ra khỏi nhà ông bà già, Ðiền lại chổ ba chúng tôi vẫn nằm ngủ và nằm miết ở đó tới sáng. Tội nghiệp cho Mây Mali, cô bị bẽ bàng lại còn bị bố mẹ phiền trách, làm như cô không đủ tài thu hút đàn ông. Sáng hôm sau gặp chúng tôi, mặt cô cứ đỏ nhừ lên.

Dù ông bà già thiểu số tốt cách mấy, chúng tôi cũng phải lên đường. Vả lại, sau khi dàn xếp việc gả mấy cô gái cho chúng tôi không xong, ông bà già không còn mặn mà với chúng tôi như trước và có lẽ muốn chúng tôi đi sớm. Chúng tôi cũng biết điều đó và sửa soạn lại lên đường.

Ngày nhìn thấy bờ sông Bến Hải là ngày vui mừng khôn tả. Chúng tôi nhìn thấy sự sống, nhìn thấy Tự Do, nhìn thấy tương lai sáng lạn. Riêng tôi không khỏi buồn vì trón đi giữa lúc bố chết. Mẹ, vợ, con và các chị em tôi bây giờ ra sao ? Có đỡ bị hành hạ không ? Cứ nghĩ đến đó, lòng tôi thắt lại. Sau khi trình diện toà Tỉnh Trưởng Quảng Trị, chúng tôi được cấp phát giấy tờ và ít tiền làm lộ phí. Sau đó cả ba chúng tôi đều quyết định vào Sàigòn để làm lại cuộc đời mới. Tôi bị cắt đứt với gia đình không liên lạc được. Năm 1960, tại Sàigòn, tôi lại lập gia đình với người con gái một gia đình hết lòng thương tôi như con ruột. Nhà tôi sau đó có với tôi năm đứa con, ba trai, hai gái. Cháu gái lớn nhất năm nay đã 13 tuổi. Cháu đang học lớp 8 trung học.”

Cụ Tường ngưng một chút để nghỉ. Giọng cụ lạc đi khi nói đến người vợ và 5 đứa con thân yêu đang ở bên kia bờ đại dương , không biết sống chết thế nào.

Cụ đúng lên. Tôi biết ý cụ đã muốn về. Trên đường về lều, cụ bảo tôi:

“Tôi biết trước là phải chạy mà không sao thu xếp cho vợ con cùng đi được, ông Vũ ạ. Nhà tôi cũng biết tôi ở lại là chết nên khuyến khích cho tôi đi y như người vợ năm xưa ở Thanh Hoá cũng chỉ nghĩ đến cái mạng sống của tôi mà thôi. Chín đứa con thân yêu, hai lần chạy giặc Cộng, tôi không mang theo được đứa nào để an ủi khi tuổi già xế bóng. Hai người vợ sống chết với mình, cả hai lần bỏ lại. Ông nghĩ đã đau đớn chưa ? Nhưng tôi không làm sao hơn được. Tôi ghê sợ bọn chúng quá rồi, thà tôi chết còn hơn phải sống với Cộng Sản.”

Tôi cứ để cụ nói cho vơi bớt đau khổ. Tôi chỉ nghe và cảm nhận. Càng thấm thía khi chính hoàn cảnh tôi lúc đó không hơn gì hoàn cảnh cụ, cũng như hoàn cảnh xẻ đàn tan nghé của một số đông đồng bào di tản đang ở trên đảo Subic Bay này.

Ngày sang Guam, tôi với cụ Tường cùng đáp một chuyến bay và tôi với cụ lại ở cùng lều tại Orote Point. Sau đó, tôi đi đảo Wake kiếm gia đình (bị thất lạc), còn cụ đi Camp Pendleton, California và từ đó tôi không còn gặp cụ nữa.

Orange County, CA 30-4-1978
Gs Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Ðón đọc:” Mười bốn năm sau”, đoạn kết của câu chuyện có thực, thương tâm này, cùng tác giả.


No comments:

Post a Comment