Đêm ngày 3 qua ngày 4 tháng 6 năm 1989, một cuộc thảm sát đã xảy ra làm kinh hoàng cả thế giới.
Cuộc biểu tình đòi cải cách chính trị, dân chủ của hàng chục ngàn sinh viên trên quảng trường Thiên An Môn đã bị nhà cầm quyền cộng sản nghiền nát bằng súng đạn và xe tăng.
Vì quyền lợi kinh tế, thảm kịch Thiên An Môn dù khó làm mờ nhạt, những chính khác quan trọng vẫn thường tránh né hoặc làm ngơ trong các đối thoại với Bắc Kinh.
Thiên An Môn 79 vẫn là đề tài cấm kỵ tại Trung Quốc. Vẫn còn nhiều sinh viên nằm tù. Con số người chết vẫn chưa được xác định cụ thể và có lẽ chẳng bao giờ chúng ta biết được. Theo nhiều nguồn tin thì khoảng 5 ngàn người chết, gấp đôi từng ấy bị thương và 2,5 ngàn án tử hình [1].
Những người mẹ mất con vẫn bị cấm tụ họp, dù chỉ để làm lễ cầu nguyện chung. Nơi duy nhất trên Hoa lục hàng năm dân chúng được đốt nến tưởng niệm là Hongkong. Nhà nước vẫn chưa đưa ra đánh giá chính thức về sự kiện mùa xuân 1979. Báo Tân Hoa Xã lúc bấy giờ viết rằng, đây là một cuộc bạo loạn của những phần tử phản cách mạng nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Số phận bi kịch của hai nhà cải cách
Không biết mọi người còn nhớ rằng, lần đầu tiên sinh viên đổ ra quảng trường Thiên An Môn chính là để tưởng niệm cái chết của một người cộng sản?
Người đó là Hồ Diệu Bang.
Hồ Diệu Bang đã từng phải chịu tủi nhục, bị khủng bố, thậm chí suýt chết bởi chính tay những đồng chí của mình. Năm 19 tuổi ông có nguy cơ bị chém đầu khi Mao Trạch Đông bị gạt ra khỏi quyền lực (1931-1934). Cuối cùng ông được Đàm Dư Bảo cứu mạng nhưng bị giám hộ suốt thời gian Vạn Lý Trường chinh.
Thời kỳ chiến đấu với Quốc dân đảng ông bị thương nặng nằm chờ chết, may mắn được nhóm binh sĩ của người bạn đi ngang cứu sống.
Sau Vạn lý Trường chinh, nhận nhiệm vụ mở hành lang với Liên Xô, ông bị Mã Gia Quân bắt làm tù binh, không giết nhưng bắt đi lao động khổ sai.
Trong giai đoạn 1952-1966, Hồ Diệu Bang làm bí thư trung ương đoàn thanh niên cộng sản. Ông giữ khoảng cách với Mao và ngả theo Đặng, người dám phê phán “Người Cầm Lái Vĩ Đại” về kế hoạch “Đại Nhảy Vọt”, để rồi cả hai bị Mao trù dập, làm nhục trong cuộc “Cách mạng Văn Hoá” vào năm 1966.
Sau khi Mao chết, năm 1979 ông ủng hộ Đặng tiến hành cải cách. Năm 1980, với cương vị Tổng bí thư, ông phục hồi danh dự cho hàng ngàn nạn nhân của Mao trong “Cách mạng Văn hoá”. Ông cũng hạn chế vai trò ý thức hệ cộng sản trong đời sống hàng ngày và nới lỏng tự do. Ông đã phê phán chính sách về Tây Tạng bấy giờ và mời Dalai-lama trở về, nhưng Đức Dalai-lama đã không tận dụng cơ hội ấy.
Trong năm 1984, ông nói rằng “Chủ nghĩa Marx-Lenin không giải quyết được các vấn đề của Trung Quốc”. Ông ngợi khen chủ nghĩa tư bản và cho rằng, trong viễn cảnh, không có nó Trung Quốc sẽ không tiến bộ được.
Chính nhờ Hồ Diệu Bang mà Trung Quốc đã gặt hái những thành quả đầu tiên từ các vùng đặc khu kinh tế, những nơi cuốn hút đầu tư nước ngoài.
Đến năm 1986, những cuộc biểu tình đầu tiên của sinh viên nổ ra, phe bảo thủ khuyến cáo cuộc cải cách đi quá xa. Đặng lập tức biến Hồ Diệu Bang thành vật tế thần. Từ 1987 ông bị loại khỏi các chức vụ cao cấp.
Thế nhưng những hạt giống do ông gieo trồng tiếp tục nảy nở thành hoa trái trong suốt mấy chục năm qua.
Ông chết ngày 15/04/1989 vì bệnh tim. Nhà cầm quyền cộng sản đã định làm ngơ không tổ chức tang lễ. Ngay trong hai ngày 17-18/04, đám đông ủng hộ ông đã xuống đường với những biểu ngữ: “Một con người lương thiện và trung thực đã chết, còn bọn đạo đức giả và phát xít vẫn sống”.
Ngày 19/04, khoảng 10 ngàn người, chủ yếu là sinh viên đã làm tê liệt Ban chấp hành Trung ương Đảng. Họ hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo chế đô độc tài”, “Chính quyền pháp trị muôn năm!”. Để làm dịu cơn phẫn nộ của quần chúng, nhà cầm quyền đành chấp nhận tổ chức tang lễ cấp nhà nước.
Ngày 21/04/1989, gần 100 ngàn người đổ ra quang trường Thiên An Môn. Đây là cuộc phản kháng chống lại chế độ, đòi cải cách và dân chủ lớn nhất kể từ ngày nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời. Người ta liên hệ nó với buổi lễ của Giáo Hoàng John Paul II trên quảng trường Chiến Thắng, thủ đô Warsaw, Ba Lan trong ngày 2/06/1979 – một bước ngoặt mang tính quyết định, thức tỉnh lòng tin và sức mạnh của người Ba Lan đoàn kết bên nhau tranh đấu lật đổ chế độ cộng sản 10 năm sau đó, tức là vào đúng thời điểm này của Trung Quốc.
Nhìn thấy những gì đã và đang biến chuyển ở Ba Lan, những tên phát xít Trung Nam Hải, đúng như sinh viên Trung Quốc gọi, đã nghiền nát đồng bào mình dưới xích sắt xe tăng trong đêm mồng 3 sang sáng 4/06/1989.
Người thứ hai là Triệu Tử Dương.
Ông Triệu đã giữ chức Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1980 tới 1987 và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1987 tới 1989.
Triệu Tử Dương là con trai một địa chủ giàu có ở tỉnh Hà Nam. Ông gia nhập Liên đoàn Thanh niên Cộng sản năm 1932. Cha ông đã bị các thành viên của đảng cộng sản giết hại cuối thập niên 1940.
Từ năm 1951 ông đưa ra nhiều sáng kiến cải cách nông nghiệp tại Quảng Đông. Năm 1962, ông thực hiện giải tán hệ thống hợp tác xã, trả lại đất cho nông dân theo hình thức khoán. Ông cũng trừng phạt các cán bộ bị buộc tội tham nhũng. Năm 1965 ông được cử làm bí thư Đảng tỉnh Quảng Đông, dù không phải là uỷ viên Trung ương.
Cũng giống số phận của Hồ Diệu Bang, do ủng hộ cải cách của Lưu Thiếu Kỳ, ông bị cách chức bí thư đảng Quảng Đông năm 1967. Trong cuộc Cách mạng Văn hoá, ông thoát khỏi ám sát nhiều lần, sau đó bị bắt và bêu nhục trên đường phố.
Triệu Tử Dương được Chu Ân Lai khôi phục tư cách chính trị năm 1973, rồi chỉ định vào Uỷ ban Trung ương, làm bí thư thứ nhất tỉnh Phú Xuyên năm 1975. Với những cải cách của ông, sản xuất công nghiệp tăng 81% và nông nghiệp tăng 25% trong vòng ba năm. Đặng Tiểu Bình đã lấy mô hình Tứ Xuyên cho toàn cuộc cải cách kinh tế. Triệu Tử Dương được bầu làm uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị năm 1977, uỷ viên chính thức năm 1979 và Uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị năm 1982. Triệu Tử Dương ủng hộ chính sách đối ngoại mở, có quan hệ tốt với phương Tây.
Tháng 1 năm 1987, Đặng Tiểu Bình buộc Hồ Diệu Bang từ chức vì quá khoan dung với những sinh viên phản kháng. Triệu Tử Dương lên thay thế, còn ghế Thủ tướng của ông nhường lại cho Lý Bằng, một nhân vật bảo thủ cứng rắn.
Trong Đại hội Đảng năm 1987 Triệu Tử Dương tuyên bố Trung Quốc cần thử nghiệm nhiều thành phần kinh tế nhằm kích thích sản xuất, tách biệt vai trò của Đảng và Nhà nước, một đề xuất từ đó đã trở thành chủ đề cấm kỵ. Theo các nhà quan sát phương Tây, hai năm làm Tổng bí thư của Triệu Tử Dương là thời gian mở cửa nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại, nhiều hạn chế về tự do ngôn luận và tự do báo chí đã được nới lỏng, cho phép giới trí thức tự do đề xuất các cải thiện cho đất nước.
Triệu Tử Dương luôn phải đối đầu với tình trạng tham nhũng của các quan chức và thành viên gia đình họ, cũng như phái bảo thủ đứng đầu là Lý Bằng trong chính sách kinh tế và tài chính. Từ năm 1989, khó khăn với ông ngày càng lớn, tới mức sinh mệnh chính trị bị đe doạ.
Và rồi cái gì đến sẽ đến. Sau khi Đặng Tiểu Bình ra quyết định dùng bạo lực đàn áp sinh viên nếu như họ không rút lui, từ cuộc họp ông được Ôn Gia Bảo, lúc bấy giờ là Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, tháp tùng, đi thẳng ra quảng trường Thiên An Môn nói chuyện với sinh viên, kêu gọi họ thôi tuyệt thực và đàm phán với chính phủ. Ông không thể tiết lộ kế hoạch của đảng mà chỉ dám nói một cách bóng gió: “… Các bạn còn trẻ, các bạn dễ dàng từ bỏ mạng sống như vậy sao?”.
Hành động đến với sinh viên chứng tỏ tình người và khí phách can đảm của một nhà cải cách, lúc ấy đang ở vị trí cao nhất trong Đảng. Không ai hiểu nỗi lòng của ông. Và ông đã không cứu được thảm kịch trong đêm ngày 3 qua 4/06/1979.
Là anh hùng của quần chúng trong chế độ cộng sản cũng có thể trở thành kẻ tự sát, kẻ thù của Đảng. Chính vì ủng hộ sinh viên, ông bị buộc từ chức Tổng bí thư và bị giam lỏng tại gia cho đến lúc qua đời, ngày 17/01/2005.
Đảng cộng sản Trung Quốc bằng mọi cách nhấn chìm cái chết của ông vào im lặng, ngăn chặn tất cả các buổi lễ bày tỏ sự đau buồn của dân chúng, có lẽ vì sợ tái lập một màn kịch Thiên An Môn mới tương tự như với người tiền nhiệm Hồ Diệu Bang.
Tân Hoa Xã chỉ thông báo vắn tắt “Triệu Tử Dương đã mất ở tuổi 85” ở phần tin tiếng Anh, còn phần tiếng Trung Quốc viết “Đồng chí Triệu Tử Dương đã chết”, không hề nói tới bất kỳ chức vụ nào mà ông đã giữ.
Trong khi đó, ngày 21/01/2005, tại công viên Victoria, Hồng Kông, 10.000 –15.000 người đã tham dự buổi lễ đốt nến tưởng niệm ông. Những buổi lễ khác được tổ chức trên khắp thế giới, đáng chú ý nhất là tại New York và Washington DC, với sự tham gia của các quan chức chính phủ Mỹ và những người bất đồng chính kiến.
Trong năm 2005, đảng cộng sản Trung Quốc đã làm vài động tác, có vẻ như hé mở cánh cửa phục hồi danh dự cho hai nhà cải cách Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, nhưng với tình hình xã hội còn nhiều nan đề, mọi dự định lại phải cất vào tủ khoá kỹ.
Mặc dù vươn tới tiềm lực kinh tế hàng đầu thế giới, Trung Quốc vẫn đang là quốc gia mất cân bằng rất lớn. Chỉ số Gini, tức chỉ số chênh lệch giàu nghèo, của Trung Quốc – một nước gọi là có chế độ xã hội chủ nghĩa, cao hơn cả Mỹ – một nước với chế độ tư bản. Chỉ hai nước châu Á đứng trước Trung Quốc là Philippines và Malaysia. Chỉ số bất ổn xã hội của Trung Quốc là 0,5 vượt giới hạn nguy hiểm là 0,4. Trong năm 2008 người ta ghi nhận hơn 90 ngàn vụ bạo loạn, bãi công, biểu tình. [2]
Nhà cải cách Đặng Tiểu Bình đã nói: “Mục đích của xã hội chủ nghĩa là đảm bảo sự thịnh vượng cho dân tộc chứ không phải phân rẽ xã hội dưới quan điểm vật chất. (…) Nếu xuất hiện một giai cấp tư sản mới thì có nghĩa rằng chúng ta đã đi vào ngõ cụt”.
Vậy mà chưa bao giờ một bộ phận lớn người Trung Hoa lục địa giàu có nhiều ngày nay. Chế độ “ta zi dang” (con ông cháu cha, đặc quyền, đặc lợi) của Trung Quốc, vượt qua cả nước Nga thời Boris Jeltsin, tạo nên vô số tư bản đỏ trong nhiều ngành kinh tế. Theo thăm dò của tạp chí Fobers, 90% triệu phú của Trung Quốc thuộc giới “ta zidang”. [3]
Chương trình xã hội hài hoà của Hồ Cẩm Đào mới bắt đầu, chưa mang lại kết quả gì. Trong tình này, vinh danh hai nhà cải cách Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương đồng nghĩa với thừa nhận Đảng sai lầm, ăn cháo đá bát, phản bội lại đồng chí của mình. Điều này có nghĩa rằng Bắc Kinh sẽ châm lửa vào những thùng thuốc súng.
Kết luận
Việt Nam hôm nay chỉ là một bản sao chép thu nhỏ của Trung Quốc. Những nhà cải cách đi trước, vượt rào của Việt Nam đi đầu cũng đã phải chịu đựng bao nhiêu ê chề, cay đắng trong bất công và đểu cáng.
Hai ví dụ điển hình gần nhất cái gọi là “đổi mới” là ông Kim Ngọc và ông Trần Xuân Bách.
Ông Kim Ngọc (1917-1979), là cựu Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú, người được mệnh danh là “cha đẻ của khoán hộ”, “cha đẻ của đổi mới trong nông nghiệp” ở Việt Nam.
Ông Trần Xuân Bách (1924 – 2006), cựu ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, người có chủ trương cải cách mạnh mẽ theo xu hướng đa nguyên, đa đảng khi trào lưu cải tổ do Gorbachev đưa ra.
Cho dù có được minh định bằng bao nhiêu giấy khen, huân chương, cho dù có đặt tên đường phố, trường học, không ai có thể bù đắp cho những người đã khuất và gia đình họ những tổn thất to lớn về tinh thần và cuộc sống vật chất vô cùng kham khổ mà họ đã phải nếm trải.
Tất cả chỉ là đạo đức giả, danh hão, một mớ giấy lộn hay những miếng kim loại vô giá trị, không hơn không kém! Sự tàn nhẫn và ngu xuẩn của những kẻ ác mãi mãi còn đó. Người chết không sống lại!
Và trớ trêu thay, còn nhiều tên ác quỷ và đồng đảng của chúng vẫn đang sống ngông nghênh, chảnh choẹ, phè phỡn nhìn con cháu mình (những thành phần ta zidang) hưởng thụ thành quả mà những người khởi xướng, đi trước bất hạnh ấy đã ươm trồng và bị chính bàn tay của chúng đày đoạ.
Tôi nhớ mãi lời ông Chu Đình Xương, người bác trong gia đình tôi bên ngoại, một cán bộ cách mạng lão thành, giám đốc Công an Trung Kỳ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, người bảo vệ lễ đài nơi Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 trên quảng trường Ba Đình: “Con ạ, đừng bao giờ chơi với tụi cộng sản. Chúng nó bạc như vôi!”. ■
Warsaw, 3/06/2009.
Nguồn: http://ledienduc.wordpress.com
[1], [2]. [3]: Tư liệu và các trích dẫn trong bài đước lấy từ Vi.Wikipedia.org và Tuần báo Newsweek, ấn bản tiếng Ba Lan số 22, ngày 31/05/2009.
Cuộc biểu tình đòi cải cách chính trị, dân chủ của hàng chục ngàn sinh viên trên quảng trường Thiên An Môn đã bị nhà cầm quyền cộng sản nghiền nát bằng súng đạn và xe tăng.
Vì quyền lợi kinh tế, thảm kịch Thiên An Môn dù khó làm mờ nhạt, những chính khác quan trọng vẫn thường tránh né hoặc làm ngơ trong các đối thoại với Bắc Kinh.
Thiên An Môn 79 vẫn là đề tài cấm kỵ tại Trung Quốc. Vẫn còn nhiều sinh viên nằm tù. Con số người chết vẫn chưa được xác định cụ thể và có lẽ chẳng bao giờ chúng ta biết được. Theo nhiều nguồn tin thì khoảng 5 ngàn người chết, gấp đôi từng ấy bị thương và 2,5 ngàn án tử hình [1].
Những người mẹ mất con vẫn bị cấm tụ họp, dù chỉ để làm lễ cầu nguyện chung. Nơi duy nhất trên Hoa lục hàng năm dân chúng được đốt nến tưởng niệm là Hongkong. Nhà nước vẫn chưa đưa ra đánh giá chính thức về sự kiện mùa xuân 1979. Báo Tân Hoa Xã lúc bấy giờ viết rằng, đây là một cuộc bạo loạn của những phần tử phản cách mạng nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Số phận bi kịch của hai nhà cải cách
Không biết mọi người còn nhớ rằng, lần đầu tiên sinh viên đổ ra quảng trường Thiên An Môn chính là để tưởng niệm cái chết của một người cộng sản?
Người đó là Hồ Diệu Bang.
Hồ Diệu Bang đã từng phải chịu tủi nhục, bị khủng bố, thậm chí suýt chết bởi chính tay những đồng chí của mình. Năm 19 tuổi ông có nguy cơ bị chém đầu khi Mao Trạch Đông bị gạt ra khỏi quyền lực (1931-1934). Cuối cùng ông được Đàm Dư Bảo cứu mạng nhưng bị giám hộ suốt thời gian Vạn Lý Trường chinh.
Thời kỳ chiến đấu với Quốc dân đảng ông bị thương nặng nằm chờ chết, may mắn được nhóm binh sĩ của người bạn đi ngang cứu sống.
Sau Vạn lý Trường chinh, nhận nhiệm vụ mở hành lang với Liên Xô, ông bị Mã Gia Quân bắt làm tù binh, không giết nhưng bắt đi lao động khổ sai.
Trong giai đoạn 1952-1966, Hồ Diệu Bang làm bí thư trung ương đoàn thanh niên cộng sản. Ông giữ khoảng cách với Mao và ngả theo Đặng, người dám phê phán “Người Cầm Lái Vĩ Đại” về kế hoạch “Đại Nhảy Vọt”, để rồi cả hai bị Mao trù dập, làm nhục trong cuộc “Cách mạng Văn Hoá” vào năm 1966.
Sau khi Mao chết, năm 1979 ông ủng hộ Đặng tiến hành cải cách. Năm 1980, với cương vị Tổng bí thư, ông phục hồi danh dự cho hàng ngàn nạn nhân của Mao trong “Cách mạng Văn hoá”. Ông cũng hạn chế vai trò ý thức hệ cộng sản trong đời sống hàng ngày và nới lỏng tự do. Ông đã phê phán chính sách về Tây Tạng bấy giờ và mời Dalai-lama trở về, nhưng Đức Dalai-lama đã không tận dụng cơ hội ấy.
Trong năm 1984, ông nói rằng “Chủ nghĩa Marx-Lenin không giải quyết được các vấn đề của Trung Quốc”. Ông ngợi khen chủ nghĩa tư bản và cho rằng, trong viễn cảnh, không có nó Trung Quốc sẽ không tiến bộ được.
Chính nhờ Hồ Diệu Bang mà Trung Quốc đã gặt hái những thành quả đầu tiên từ các vùng đặc khu kinh tế, những nơi cuốn hút đầu tư nước ngoài.
Đến năm 1986, những cuộc biểu tình đầu tiên của sinh viên nổ ra, phe bảo thủ khuyến cáo cuộc cải cách đi quá xa. Đặng lập tức biến Hồ Diệu Bang thành vật tế thần. Từ 1987 ông bị loại khỏi các chức vụ cao cấp.
Thế nhưng những hạt giống do ông gieo trồng tiếp tục nảy nở thành hoa trái trong suốt mấy chục năm qua.
Ông chết ngày 15/04/1989 vì bệnh tim. Nhà cầm quyền cộng sản đã định làm ngơ không tổ chức tang lễ. Ngay trong hai ngày 17-18/04, đám đông ủng hộ ông đã xuống đường với những biểu ngữ: “Một con người lương thiện và trung thực đã chết, còn bọn đạo đức giả và phát xít vẫn sống”.
Ngày 19/04, khoảng 10 ngàn người, chủ yếu là sinh viên đã làm tê liệt Ban chấp hành Trung ương Đảng. Họ hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo chế đô độc tài”, “Chính quyền pháp trị muôn năm!”. Để làm dịu cơn phẫn nộ của quần chúng, nhà cầm quyền đành chấp nhận tổ chức tang lễ cấp nhà nước.
Ngày 21/04/1989, gần 100 ngàn người đổ ra quang trường Thiên An Môn. Đây là cuộc phản kháng chống lại chế độ, đòi cải cách và dân chủ lớn nhất kể từ ngày nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời. Người ta liên hệ nó với buổi lễ của Giáo Hoàng John Paul II trên quảng trường Chiến Thắng, thủ đô Warsaw, Ba Lan trong ngày 2/06/1979 – một bước ngoặt mang tính quyết định, thức tỉnh lòng tin và sức mạnh của người Ba Lan đoàn kết bên nhau tranh đấu lật đổ chế độ cộng sản 10 năm sau đó, tức là vào đúng thời điểm này của Trung Quốc.
Nhìn thấy những gì đã và đang biến chuyển ở Ba Lan, những tên phát xít Trung Nam Hải, đúng như sinh viên Trung Quốc gọi, đã nghiền nát đồng bào mình dưới xích sắt xe tăng trong đêm mồng 3 sang sáng 4/06/1989.
Người thứ hai là Triệu Tử Dương.
Ông Triệu đã giữ chức Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1980 tới 1987 và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1987 tới 1989.
Triệu Tử Dương là con trai một địa chủ giàu có ở tỉnh Hà Nam. Ông gia nhập Liên đoàn Thanh niên Cộng sản năm 1932. Cha ông đã bị các thành viên của đảng cộng sản giết hại cuối thập niên 1940.
Từ năm 1951 ông đưa ra nhiều sáng kiến cải cách nông nghiệp tại Quảng Đông. Năm 1962, ông thực hiện giải tán hệ thống hợp tác xã, trả lại đất cho nông dân theo hình thức khoán. Ông cũng trừng phạt các cán bộ bị buộc tội tham nhũng. Năm 1965 ông được cử làm bí thư Đảng tỉnh Quảng Đông, dù không phải là uỷ viên Trung ương.
Cũng giống số phận của Hồ Diệu Bang, do ủng hộ cải cách của Lưu Thiếu Kỳ, ông bị cách chức bí thư đảng Quảng Đông năm 1967. Trong cuộc Cách mạng Văn hoá, ông thoát khỏi ám sát nhiều lần, sau đó bị bắt và bêu nhục trên đường phố.
Triệu Tử Dương được Chu Ân Lai khôi phục tư cách chính trị năm 1973, rồi chỉ định vào Uỷ ban Trung ương, làm bí thư thứ nhất tỉnh Phú Xuyên năm 1975. Với những cải cách của ông, sản xuất công nghiệp tăng 81% và nông nghiệp tăng 25% trong vòng ba năm. Đặng Tiểu Bình đã lấy mô hình Tứ Xuyên cho toàn cuộc cải cách kinh tế. Triệu Tử Dương được bầu làm uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị năm 1977, uỷ viên chính thức năm 1979 và Uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị năm 1982. Triệu Tử Dương ủng hộ chính sách đối ngoại mở, có quan hệ tốt với phương Tây.
Tháng 1 năm 1987, Đặng Tiểu Bình buộc Hồ Diệu Bang từ chức vì quá khoan dung với những sinh viên phản kháng. Triệu Tử Dương lên thay thế, còn ghế Thủ tướng của ông nhường lại cho Lý Bằng, một nhân vật bảo thủ cứng rắn.
Trong Đại hội Đảng năm 1987 Triệu Tử Dương tuyên bố Trung Quốc cần thử nghiệm nhiều thành phần kinh tế nhằm kích thích sản xuất, tách biệt vai trò của Đảng và Nhà nước, một đề xuất từ đó đã trở thành chủ đề cấm kỵ. Theo các nhà quan sát phương Tây, hai năm làm Tổng bí thư của Triệu Tử Dương là thời gian mở cửa nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại, nhiều hạn chế về tự do ngôn luận và tự do báo chí đã được nới lỏng, cho phép giới trí thức tự do đề xuất các cải thiện cho đất nước.
Triệu Tử Dương luôn phải đối đầu với tình trạng tham nhũng của các quan chức và thành viên gia đình họ, cũng như phái bảo thủ đứng đầu là Lý Bằng trong chính sách kinh tế và tài chính. Từ năm 1989, khó khăn với ông ngày càng lớn, tới mức sinh mệnh chính trị bị đe doạ.
Và rồi cái gì đến sẽ đến. Sau khi Đặng Tiểu Bình ra quyết định dùng bạo lực đàn áp sinh viên nếu như họ không rút lui, từ cuộc họp ông được Ôn Gia Bảo, lúc bấy giờ là Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, tháp tùng, đi thẳng ra quảng trường Thiên An Môn nói chuyện với sinh viên, kêu gọi họ thôi tuyệt thực và đàm phán với chính phủ. Ông không thể tiết lộ kế hoạch của đảng mà chỉ dám nói một cách bóng gió: “… Các bạn còn trẻ, các bạn dễ dàng từ bỏ mạng sống như vậy sao?”.
Hành động đến với sinh viên chứng tỏ tình người và khí phách can đảm của một nhà cải cách, lúc ấy đang ở vị trí cao nhất trong Đảng. Không ai hiểu nỗi lòng của ông. Và ông đã không cứu được thảm kịch trong đêm ngày 3 qua 4/06/1979.
Là anh hùng của quần chúng trong chế độ cộng sản cũng có thể trở thành kẻ tự sát, kẻ thù của Đảng. Chính vì ủng hộ sinh viên, ông bị buộc từ chức Tổng bí thư và bị giam lỏng tại gia cho đến lúc qua đời, ngày 17/01/2005.
Đảng cộng sản Trung Quốc bằng mọi cách nhấn chìm cái chết của ông vào im lặng, ngăn chặn tất cả các buổi lễ bày tỏ sự đau buồn của dân chúng, có lẽ vì sợ tái lập một màn kịch Thiên An Môn mới tương tự như với người tiền nhiệm Hồ Diệu Bang.
Tân Hoa Xã chỉ thông báo vắn tắt “Triệu Tử Dương đã mất ở tuổi 85” ở phần tin tiếng Anh, còn phần tiếng Trung Quốc viết “Đồng chí Triệu Tử Dương đã chết”, không hề nói tới bất kỳ chức vụ nào mà ông đã giữ.
Trong khi đó, ngày 21/01/2005, tại công viên Victoria, Hồng Kông, 10.000 –15.000 người đã tham dự buổi lễ đốt nến tưởng niệm ông. Những buổi lễ khác được tổ chức trên khắp thế giới, đáng chú ý nhất là tại New York và Washington DC, với sự tham gia của các quan chức chính phủ Mỹ và những người bất đồng chính kiến.
Trong năm 2005, đảng cộng sản Trung Quốc đã làm vài động tác, có vẻ như hé mở cánh cửa phục hồi danh dự cho hai nhà cải cách Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, nhưng với tình hình xã hội còn nhiều nan đề, mọi dự định lại phải cất vào tủ khoá kỹ.
Mặc dù vươn tới tiềm lực kinh tế hàng đầu thế giới, Trung Quốc vẫn đang là quốc gia mất cân bằng rất lớn. Chỉ số Gini, tức chỉ số chênh lệch giàu nghèo, của Trung Quốc – một nước gọi là có chế độ xã hội chủ nghĩa, cao hơn cả Mỹ – một nước với chế độ tư bản. Chỉ hai nước châu Á đứng trước Trung Quốc là Philippines và Malaysia. Chỉ số bất ổn xã hội của Trung Quốc là 0,5 vượt giới hạn nguy hiểm là 0,4. Trong năm 2008 người ta ghi nhận hơn 90 ngàn vụ bạo loạn, bãi công, biểu tình. [2]
Nhà cải cách Đặng Tiểu Bình đã nói: “Mục đích của xã hội chủ nghĩa là đảm bảo sự thịnh vượng cho dân tộc chứ không phải phân rẽ xã hội dưới quan điểm vật chất. (…) Nếu xuất hiện một giai cấp tư sản mới thì có nghĩa rằng chúng ta đã đi vào ngõ cụt”.
Vậy mà chưa bao giờ một bộ phận lớn người Trung Hoa lục địa giàu có nhiều ngày nay. Chế độ “ta zi dang” (con ông cháu cha, đặc quyền, đặc lợi) của Trung Quốc, vượt qua cả nước Nga thời Boris Jeltsin, tạo nên vô số tư bản đỏ trong nhiều ngành kinh tế. Theo thăm dò của tạp chí Fobers, 90% triệu phú của Trung Quốc thuộc giới “ta zidang”. [3]
Chương trình xã hội hài hoà của Hồ Cẩm Đào mới bắt đầu, chưa mang lại kết quả gì. Trong tình này, vinh danh hai nhà cải cách Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương đồng nghĩa với thừa nhận Đảng sai lầm, ăn cháo đá bát, phản bội lại đồng chí của mình. Điều này có nghĩa rằng Bắc Kinh sẽ châm lửa vào những thùng thuốc súng.
Kết luận
Việt Nam hôm nay chỉ là một bản sao chép thu nhỏ của Trung Quốc. Những nhà cải cách đi trước, vượt rào của Việt Nam đi đầu cũng đã phải chịu đựng bao nhiêu ê chề, cay đắng trong bất công và đểu cáng.
Hai ví dụ điển hình gần nhất cái gọi là “đổi mới” là ông Kim Ngọc và ông Trần Xuân Bách.
Ông Kim Ngọc (1917-1979), là cựu Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú, người được mệnh danh là “cha đẻ của khoán hộ”, “cha đẻ của đổi mới trong nông nghiệp” ở Việt Nam.
Ông Trần Xuân Bách (1924 – 2006), cựu ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, người có chủ trương cải cách mạnh mẽ theo xu hướng đa nguyên, đa đảng khi trào lưu cải tổ do Gorbachev đưa ra.
Cho dù có được minh định bằng bao nhiêu giấy khen, huân chương, cho dù có đặt tên đường phố, trường học, không ai có thể bù đắp cho những người đã khuất và gia đình họ những tổn thất to lớn về tinh thần và cuộc sống vật chất vô cùng kham khổ mà họ đã phải nếm trải.
Tất cả chỉ là đạo đức giả, danh hão, một mớ giấy lộn hay những miếng kim loại vô giá trị, không hơn không kém! Sự tàn nhẫn và ngu xuẩn của những kẻ ác mãi mãi còn đó. Người chết không sống lại!
Và trớ trêu thay, còn nhiều tên ác quỷ và đồng đảng của chúng vẫn đang sống ngông nghênh, chảnh choẹ, phè phỡn nhìn con cháu mình (những thành phần ta zidang) hưởng thụ thành quả mà những người khởi xướng, đi trước bất hạnh ấy đã ươm trồng và bị chính bàn tay của chúng đày đoạ.
Tôi nhớ mãi lời ông Chu Đình Xương, người bác trong gia đình tôi bên ngoại, một cán bộ cách mạng lão thành, giám đốc Công an Trung Kỳ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, người bảo vệ lễ đài nơi Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 trên quảng trường Ba Đình: “Con ạ, đừng bao giờ chơi với tụi cộng sản. Chúng nó bạc như vôi!”. ■
Warsaw, 3/06/2009.
Nguồn: http://ledienduc.wordpress.com
[1], [2]. [3]: Tư liệu và các trích dẫn trong bài đước lấy từ Vi.Wikipedia.org và Tuần báo Newsweek, ấn bản tiếng Ba Lan số 22, ngày 31/05/2009.
No comments:
Post a Comment