Wednesday, August 19, 2009

Giải Phóng Hay Xâm Lăng? Cách Mạng Hay Cướp Nước? - Minh Võ

Minh Võ

Khi Cộng quân Bắc Việt tràn vào Saigon ngày 30 tháng tư năm 1975 và Hà Nội tuyên bố Miền Nam đã được “giải phóng”, thì giới bình dân đã đáp lại bằng cái giọng nói lái quen thuộc: “Giải phóng à? “Phỏng Giái”. Giới có học thì chau mày: giải phóng cái gì, xâm lăng thì có.

Nhưng trước đó 30 năm, cả nước chưa có ai dám gọi “trung đội vũ trang tuyên truyền giải phóng quân” của Võ Nguyên Giáp (thành lập ngày 19-12-1944) là quân xâm lăng; hay Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm chủ tịch (được bầu trong cái gọi là Quốc Dân Đại Hội ở Tân Trào ngày 08-07-1945) là Ủy Ban Xâm Lăng. Cũng như ngày “cách mạng tháng tám thành công” chưa ai dám gọi là ngày CS xâm lăng Việt Nam.

Vì lúc ấy chưa mấy người hiểu CS là gì và mưu mô của nó thâm độc ra sao.

Ngô Đình Nhu trước khi bị thảm sát chẳng bao lâu đã tiên đoán: “Nếu như Cộng sản Miền Bắc thôn tính được miền Nam, thì việc Trung Hoa thôn tính Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian” (1)

Nói thế là vì đến lúc ấy (đầu thập niên 60) ông ta và nhiều người khác đã hiểu bản chất CS ra sao, và mối liên hệ môi với răng giữa CS Trung Hoa và CS Việt Nam như thế nào. Ông ấy cũng đã biết chiến thắng Điện Biên và các trận đánh ở Việt Bắc, như Đông Khê, Thất Khê được Trung Cộng tiếp viện dồi dào đã để lại trên lưng CS Bắc Việt những món nợ kếch sù mà chỉ có lấy non sông ra mới trả nổi.

Gần đây sau các vụ cắm mốc biên giới Việt Hoa rồi thành lập huyện Tam Sa đến các vụ ngư dân Việt Nam bị các toán hải tuần Trung cộng bắt giữ gần các quần đảo Hòang Sa và Trường Sa, và đặc biệt là dự án Bô-xít tại Trung Nguyên (*) nhiều người đã kêu toáng lên rằng, nước mất đến nơi rồi. Có lẽ trong số những người ấy cũng chẳng mấy ai đã đọc cuốn Chính Đề Việt Nam của Ngô Đình Nhu. Nhưng xem ra ai cũng tỏ dấu lo sợ (?) cho số phận Tổ Quốc lâm nguy.

Tuy nhiên ngay từ đầu năm 2002, khi thứ trưởng ngoại giao VC Lê Công Phụng (nay là đại sứ Việt Cộng ở Hoa Thịnh Đốn) tuyên bố đã ký với Trung Cộng hiệp ước quy định lằn ranh biên giới giữa hai nước (2), chúng tôi đã viết bài Mất Đất và Mất Nước, trong đó chúng tôi quả quyết nước đã mất từ 30 tháng 4 – 1975, để lưu ý mọi người đừng để vụ mất chưa đầy một ngàn cây số vuông đất vùng biên giới mà sao nhãng quyết tâm lấy lại toàn bộ Đất Nước đã mất vào tay Cộng Sản. (3)

Đúng vậy. Nước đã mất từ ngày đó, ngày mà bọn Mafia (chữ của luật sư Nguyễn Mạnh Tường tác giả cuốn hồi ký Kẻ Bị Vạ tuyệt Thông: Un Excommunié) con đẻ của chủ nghĩa Mác-xít, một quái thai của lịch sử đã chiếm trọn Tổ Quốc Việt Nam thì chúng đã biến Tổ Quốc thiêng liêng đó thành cái tổ cuốc trong đó đã có những quả trứng cò sắp nở thành cò con. Và có thể còn có cả trứng quạ nữa.

Chúng tôi không có ý dùng ẩn dụ để thậm xưng, hay cường điệu.

Nhiều người đã phản đối lại rằng nước đâu có mất, chỉ mất một nền đệ nhị Cộng Hòa của miền Nam. Những người đó không biết rằng nước không phải chỉ có đất đai, sông ngòi, núi non . Mà nước chủ yếu là những dân tộc sinh sống trên đó. Họ là chủ của những đất đai sông ngòi, núi non đó.

Hãy nghe một nhà thơ nổi danh khắp thế giới bày tỏ cảm tưởng của mình trước cảnh một nửa Việt Nam bị mất vào tay Cộng Sản từ 1954:
    Ôi mảnh đất nửa trên hình chữ S
    Ước lìa ngươi, ta ước lìa ngươi
    Ta trót yêu ngươi từ thuở lên mười
    Ngươi lừa phản nên đời ta mắc kẹt
    Tình yêu đã trở thành thù ghét

    Nếu rời ngươi, dù cụt mất một chân
    Chặt nốt một tay, ta cũng không cần
    Mà coi đó là điều may mắn nhất
    Vì sống gần ngươi là ta mất tất
    Vì sống gần ngươi ta thành súc vật. (4)
Thi nhân thốt lên những lời ai oán đó vào năm 1967, khi nước mới mất một nửa. Thì khi Cộng Sản vào chiếm nốt miền Nam, nghĩa là từ khi tòan bộ lãnh thổ hình chữ S lọt vào tay bọn xâm lăng, cái cảm tưởng của nhà thơ đã được bày tỏ một cách ồ ạt, tập thể bởi trên một triệu người tự chặt tay, chặt chân là mọi liên hệ vật chất tinh thần, mồ mả cha ông, nhà cửa ruộng vườn và những mối tình ruột thịt thân thưong, người yêu , bạn bè v.v... để liều chết ra đi, rời bỏ hẳn cái mảnh đất hình chữ S đã mất ấy.

Cũng vì nước đã mất nên có những tù nhân khi được phóng thích để trở về nhà đã không chịu ra khỏi tù khiến cai tù phải lôi ra như anh Thi trong hồi ký của Kiều Duy Vĩnh hay treo cổ tự tử như Ngụy Như Cần trong Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, vì thấy sống ở đất nước đã bị CS xâm lăng chẳng khác gì sống trong tù lớn, còn khổ hơn trong tù nhỏ.

Năm 1961, khi tôi ngồi viết cuốn biên khảo đầu tay, tôi đã đặt tên cuốn sách của tôi là SÁCH LƯỢC XÂM LĂNG CỦA CỘNG SẢN. (5) Dùng hai chữ xâm lăng là tôi đã quả quyết Cộng Sản chỉ có tấn công để chiếm đất, chiếm quyền cho đảng CS, cho Quốc Tế Cộng Sản, mà kẻ chỉ huy tối cao là các lãnh tụ Cộng Sản Liên Xô. Chứ không phải “giải phóng” như chúng rêu rao. Chính cái gọi là Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam mà nhiều nhà báo và học giả ngọai quốc lúc ấy đều cho là kết quả của chính sách mất lòng dân của Đệ Nhất Cộng Hòa, đã bị chúng tôi vạch rõ trong tác phẩm đó, rằng nó chính là con đẻ của Cộng Sản Miền Bắc dùng làm một thứ vũ khí xâm lăng miền nam, giống hệt như các mặt trận Thống Nhất, Mặt trận Dân Chủ, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, mặt trận Tổ Quốc, nằm trong sách lược mặt trận nói chung của các đảng CS. Chúng tôi đã phân tích và giải thích cặn kẽ bằng những chứng liệu của CS do những cán bộ cao cấp biên soạn, không thể chối cãi. (6)

Sau 30 tháng Tư Đen, khi bọn Mafia vào chiếm miền Nam, hàng triệu người chạy trốn ra biển, liều chết để khói phải sống với bọn đầy tớ ngoại bang. Và rồi hàng trăm ngàn người nếu không phải là gần một triệu người bị bắt bỏ tù không biết ngày về, không có án lệnh.

Dân số Việt Nam hiện giờ là 84 triệu. Số đảng viên Mafia là 4 triệu. Đảng này phát sinh từ Quốc Tế Cộng sản, bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác Lê “bách chiến bách thắng”, một thứ quái thai. Về cái quái thai này chúng tôi sẽ trở lại với chi tiết hơn. Thế mà ngay từ khi chiếm trọn cả nước, cái đảng đó đã chẳng cho trên 80 triệu dân được có một quyền gì. Bốn quyền chính trị, lập pháp, hành pháp, tư pháp và báo chí, tất cả đều nằm gọn trọng tay đảng.

Về lập pháp, bọn Mafia chỉ có không đầy 5% dân số lại chiếm trên 90 phần trăm số ghế trong cái gọi là quốc hội. Để cho danh chính ngôn thuận phải gọi là “đảng hội “mới đúng. Chữ nghĩa của đảng Mafia chẳng ăn nhằm gì. Số 10 phần trăm nói là thuộc về 80 triệu dân, thực ra những thường dân nào muốn ứng cử vào cái gọi là quốc hội đó đều phải do Mặt trận Tổ Quốc của đảng giới thiệu và đựợc trung ương đảng chấp thuận. Như vậy có thể nói không ngoa “quốc hội“, một cơ quan quyền lực tối cao của một nước, một trăm phần trăm nằm trong tay đảng Cộng Sản.

Về hành pháp, các chức vụ trong chính phủ từ thủ tướng trở suống đều do các đảng viên nắm giữ.

Về tư pháp, các quan tòa đều do người của đảng.

Về báo chí, trong nước hiện có trên 600 tờ báo, tất cả đều do người của đảng điều hành. Tư nhân chỉ có một vài tờ báo chui.

Ngoài việc nắm toàn bộ và chặt chẽ 4 quyền trụ cột của một quốc gia dân tộc ra, Cộng đảng còn chi phối mọi hoạt động và tổ chức xã hội dân sự. Từ cái gọi là mặt trận tổ quốc cho đến các tổ chức đoàn thể nhất là đoàn thanh niên CS HCM cho đến những hội đoàn nhỏ trong xóm phường, cũng đều bị điều khiển bởi những đảng viên cốt cán.

Như vậy có phải mọi quyền dân đều mất, tức cả nước đã mất vào tay bọn Mafia, con đẻ của chủ nghĩa Mác, quái thai của lịch sử không?

Tại sao lại gọi là quái thai của lịch sử?

Vì Thuyết Mác Xít thai nghén và ra đời vào lúc dân nghèo, gọi là giai cấp vô sản trên thế giới đang bị bóc lột gây nên những bất công và vết thương xã hội ở giữa thế kỷ 19. Nó có vẻ hay, đẹp và đầy hứa hẹn như một thần dược cho căn bệnh của nhân lọai. Nhưng chẳng dè, với thời gian, đụng chạm vào thực tế, nó lại chính là độc dược chết người. Những con bệnh nào nếm vào đều sống dở chết dở. Và cuối cùng tất cả các chế độ CS ở Đông Âu và Liên Xô đều tắt thở.

Nhiều người gọi nó là một đại ngụy biện hay thuyết đại bịp. Thế mà khi mới ra đời nó được phần đông nhân lọai, kể cả những đại trí thức hoan nghênh, ca ngợi. Vì nó hứa một thiên đường ngay ở trần gian, trong đó nhân loại sẽ sống sung sướng. Thế giới sẽ là thế giới đại đồng. Xã hội sẽ không còn bất công. Không còn cần chính phủ. Không còn biên giới quốc gia. Mọi người sẽ làm việc tùy sức và hưởng thụ theo nhu cầu.

Hóa ra đó chỉ là một ảo tưởng. Cũng giống như cái ảo ảnh của một con sông, cái hồ, con suối trên sa mạc nóng cháy mà người lữ hành sắp chết khát nhìn thấy từ xa nhưng đi mãi chẳng bao giờ đến nơi.

Hơn một thế kỷ sau, khi nhìn thấy thực tế của thuyết Mác Xít, người đời đã đánh giá nó là một học thuyết không tưởng. Tiên dược lại thành độc dược. Mộng đẹp lại biến thành ảo mộng và ác mộng.

Một lý do nữa khiến cái tà thuyết đó được chúng tôi gọi là quái thai của lịch sử vì chủ trương chuyên chính vô sản của nó. Việt Cộng và Trung Cộng dịch mấy từ Mác-xít “dictature du Prolétariat” hay “dictatorship of the Proletariat” là chuyên chính vô sản, chứ không dịch là độc tài của vô sản như người quốc gia. Nghe thì hay lắm. Nhưng thực chất chỉ là một nền độc tài của giai cấp vô sản.

Theo Duy vật sử quan của Mác thì sau khi tòan thắng, đánh bại tòan bộ giai cấp bóc lột, giai cấp vô sản sẽ lập một chế độ đại đồng trong đó chỉ còn giai cấp vô sản nắm quyền chuyên chính.

Nhưng trong thực tế, liền ngay sau khi nắm được chính quyền, (chứ không đợi cho tới khi toàn thắng trên khắp thế giới như thuyết Mác-xit dậy) tất cả các nước Cộng Sản đều thiết lập chế độ độc tài (chuyên chính vô sản).

Gọi là chuyên chính vô sản, nghĩa là nền độc tài của giai cấp vô sản. Nhưng trong thực tế, nền độc tài của các chế độ Cộng Sản lại là nền độc tài của đảng Cộng Sản, tự nhận là đại diện cho giai cấp vô sản. Chứ giai cấp vô sản không nắm thực quyền nào trong cái chê độ đó cả. Những kẻ nắm quyền đều là một thứ giai cấp tư bản đỏ, giầu sụ và chuyên bóc lột, đàn áp giói nghèo, tức giai cấp “vô sản”.

Chính những cái phi lý, ngụy biện, mâu thuẫn trắng trợn giữa lý thuyết và thực tế của các chế độ CS khiến ta có thể gọi học thuyết Mác là quái thai của lịch sử.

Khi thuyết Mác xít mới ra đời, chưa được thử thách bằng thực tế, người ta thấy nó tốt đẹp bao nhiêu thì sau khi áp dụng vào thực tế nó đã trở thành xấu xa, quái dị bấy nhiêu.

Ai chịu trách nhiệm về việc đem cái tà thuyết phi lý, quái dị độc hại đó vào nước ta để ta mất nước vào tay nó?

Gần đây, nhân vụ “bô xít” đầy “ác xít”, vì nhuốm màu “mác-xít” quái dị kia, từ trong nước cũng như ở hải ngọai phát ra những tiếng kêu inh ỏi: nước mất đến nơi rồi! Tổ quốc (hay tổ cò?) đang lâm nguy! Lần này thì chính một số kẻ trách nhiệm về việc đưa chất ác xít cực độc của thuyết Mác- xít vào cũng làm bộ đạo đức giả lên tiếng gọi là “phản biện”. Tiếc rằng tiếng nói của họ còn được hàng vạn người gọi là trí thức hoan nghênh, hy vọng họ sẽ là chỗ tựa an toàn cho lớp trẻ đứng dậy liều chết chống lại mối nguy từ phưong Bắc (!??).

Thay vì lên tiếng yếu ớt một cách lố lăng, đáng lẽ họ phải viết những cuốn hồi ký lấy tên là Hồi Ký Của Một Thằng Ngu để thú nhận mình đã ngu, thậm ngu, chí ngu khi đem áp dụng một chế độ quái dị, độc hại nó đã làm cho dân ta suy yếu cùng cực gần một thế kỷ nay, cho nên ngày nay đã trở thành cái mồi ngon cho kẻ thù phương Bắc. Đáng lẽ những kẻ tự phong là “khai quốc công thần” đó phải thú nhận chính mình đã theo lệnh QTCS và bọn đồng đảng Phương Bắc như những Mao Trạch Đông, La Qúy Ba, Trần Canh, Vi Quốc Thanh v.v... tiến hành cuộc chiến tranh khốc liệt nhắm vào đồng bào khiến hàng triệu người chết.

Và sau khi chiếm được cả nước, bọn cướp nước đã dìm toàn dân vào vòng u tối, nô lê, hèn nhát, sợ sệt, ngu muội, tham lam. Và như vậy đảng cầm quyền ở Việt Nam ngày nay đã bị bọn Tầu phù cấy sinh tử phù, khiến cho chẳng những bị bọn chúng nắm trọn sinh mạng trong tay, mà còn làm cho dân ta, nước ta cũng nhiễm một thứ virus cực độc thuộc loại liệt kháng như bệnh “Ếch”. Chính vì thế mà trong nhân dân không có ai hay tổ chức nào có đựoc hành động cụ thể có thế cứu được một Lê thị Công Nhân non dại, yếu ớt khỏi bị tù tội, hành hạ đến sống dở chết dở, chứ đừng nói đấu tranh về chính trị và pháp lý để đòi lại những vùng đất vùng biển đã bị Tầu Cộng chiếm đọat, nói chi đến việc quật khởi để hất bọn cướp nước xuống. Những vận động tố cáo, lên án những vụ hà hiếp đàn áp dân oan cũng chẳng đem lại kết qua gì khả quan. Tại sao vậy? Đã đến lúc Việt Nam thân yêu lại làm mồi cho một cuộc Bắc Thuộc ngàn năm chăng?

Trở lại vấn đề nhận tội và sám hối của các lãnh tụ CS. Nói là nói vậy thôi. Chứ ở cái tuổi gần đất xa trời này, mấy người đó đâu còn đủ sinh khí để làm nên trò trống gì nữa. Đáng lẽ ra hồi giữa thập niên 80 thế kỷ trước mà Võ Nguyên Giáp dám theo gương Gorbachev hay Yeltsin thì đã phúc cho dân tộc ta. Hoặc giả khi còn sống ông Hồ đã có đủ can đảm viết một cuốn hồi ký lấy tên là Hồi Ký của một Tên Đại Bịp, cảnh báo cho quốc dân đồng bào và những tay trí thức gà mờ đã lỡ nghe theo ông ta mà ủng hộ, tung hô một kẻ chí ư tài giỏi về nghệ thuật đánh lừa nhân dân.

Nhưng thôi mọi thứ nay đã quá muộn. Cái thây ma nằm ở trong lăng Ba Đình, dù cho có phù phép của thần thánh cũng không ngồi dậy để viết bản tự khai, tự thú, tự kiểm được đâu.

Ngoài ra cũng còn phải quan tâm đến thực tế chính trị hiện đại. vì một trớ trêu cửa lịch sử. Kẻ cướp đã chiếm địa vị chính thức là chủ mât rồi. Lá cờ đỏ rực màu máu lại nghiễm nhiên tung bay tại trụ sở Liên Hiệp Quốc và tại hầu hết các thủ đô khắp thế giới.

Và trớ trêu hơn nữa là sở dĩ có sự kiện đó là vì hình ảnh già Hồ vẫn còn được trưng bày và đánh bóng không những chỉ tại Việt Nam mà còn được lưu trữ tại những thu viện lớn trên khắp các lục địa.

Đây là thực tế chúng ta phải can đảm nhìn vào mà tự vấn tại sao đến nông nỗi này?

Tại sao cái ngày Cộng Sản chính thức công khai xâm lăng Việt Nam là ngày 19 tháng 8 này lại được ghi vào trong lịch sử là ngày cách mạng thành công? Rõ ràng hai chữ “Cách Mạng” phải hiểu là cách mạng vô sản theo thuyết Mác Xít. Nhưng tại sao dân ta, đại đa số vẫn coi đó là cách mạng dân tộc thành công?

Nhân sắp đến ngày kỷ niệm đau thương này, chúng tôi xin long trọng cải tên nó là ngày CS xâm lăng. Nguyên do sự mất nước vào ngày 30 tháng tư.

Một cơ may duy nhất cho chúng ta để sau này con cháu chúng ta học được bài học quý giá của lịch sử hầu đứng lên cứu nước, đó là đồng bào ở hai phía, thuộc cả hai miền hãy nhìn lại lịch sử nhìn nhận chính vì chúng ta dại dột, không biết gì về cái quái thai Cộng Sản, không biết gì về mưu mô thâm độc của nó, nên đã lầm mà theo nó từ những ngày đầu, ủng hộ nó nên cái gọi là cuộc “cách mạng 19 tháng 8” của nó mới thành công. Và nước đã bị xâm lăng kể từ ngày đó.

Ngày nay nhiều người đặt dấu hỏi: Tại sao bỗng dưng thủ tướng Trần Trọng Kim từ chức khi thấy Việt Minh chuẩn bị “Cách Mạng”, nghĩa là sắp sửa xâm lăng? Vì yếu bóng vía, hay vì lầm tưởng Việt Minh mới có chính nghĩa? Tại sao vua Bảo Đại lại thoái vị, trao ấn kiếm cho Trần Huy Liệu đem về cho Hồ Chí Minh? Vì thích làm dân của một nước độ lập, hay vì chẳng biết rõ CS là gì, chẳng biết Hồ Chí Minh là ai? Tại sao các tổ chức yêu nước ở Hoa Nam che chở cho Hồ Chí Minh? Phải chăng vì tưởng CS mà yêu nước thì cũng cùng một phe? Nghĩa là chẳng biết gì về CS, vẫn nghĩ CS vẫn có thể yêu nước. Tại sao các vị như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần nhập bọn với Hồ Chí Minh lập nên chính phủ Liên Hiệp để cho nhân dân cả nước lầm tưởng Việt Minh giải phóng chứ không xâm lăng?

Nếu lúc ấy bộ mặt thật của CS đã hiện rõ, thì tình hình đã khác hẳn.

Cũng như một số nhân vật và chính khách miền Nam đã vì lý do này hay lý do khác tiếp tay với một số nhà báo và chính khách Mỹ lật đổ Đệ Nhất Cộng Hòa, để mở đầu cho hỗn loạn và băng hoại, biến miền Nam thành con mồi cho Cộng Sản chiếm nốt cả nước.

Chỉ có nhận khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân đích thực của sự mất nước, mới có thể cứu nước. Vì cái thể chế “chuyên chính vô sản” hiện nay không có gì giống bất cứ một nền độc tài nào trên thế gian, kể các chế độ quân chủ chuyên chế thời cổ đại. Nó là con quái vật, do một quái thai thành hình. Cho nên đừng hy vọng lấy dân chủ để đánh đuổi quân xâm lăng, vì chính chúng đã thú nhận; Bỏ điều 4 hiến pháp là tự tử.

Chúng tôi biết việc nhận khuyết điểm và sám hối là việc vô cùng khó khăn. Vì hiện còn rất nhiều người muốn bào chữa cho cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và chính quyền đệ nhị Cộng Hòa, trong đó có rất nhiều cán bộ Đại Việt nắm giữ những chức vụ quan trọng. Những người này thường nói Mỹ xấu chơi, bỏ rơi đồng minh nên VNCH mới thua. Chứ không chịu nhận rằng Mỹ cũng bị đánh bại về quân sự, cần phải bằng mọi giá rút chân ra khỏi vũng lầy chiến tranh bằng quân sự này để tự cứu mình và mở mặt trận khác rộng lớn hơn hòng đánh thắng CS thế giới.

Chúng tôi thiết nghĩ, khi trách đồng minh bỏ rơi hay phản bội, chúng ta cũng nên tự hỏi, mình đã cố gắng đủ chưa. Và nhất là khi chính phủ Phan Huy Quát, tự ý để cho Mỹ đem quân ồ ạt vào từ tháng 3 năm 1965, các vị đó có bắt Mỹ ký giấy tờ gì bảo đảm rằng không được tự ý rút lui bỏ lại đàn em không? Để cho người Mỹ tự do vào rồi lại trách họ tự do rút, thì có hợp tình hợp lý và công bình không? Và như vậy là khôn hay dại?

Hơn nữa nhiều người còn bảo Mỹ bỏ rơi con tốt vì đã bắt được con xe. Họ cho rằng vì Nixon đã nắm được Trung Quốc rồi nên bỏ rơi Việt Nam. Họ đã lấy nguyên nhân làm hậu quả. Ngay từ 1968, sau vụ Mậu Thân, chiến bại về quân sự của VC, với trên 5 vạn thương vong, đã trở thành chiến thắng về tâm lý và chính trị, khiến cho những Robert McNamara, Lyndon B. Johnson nắm chắc phần thua nên một người đã từ chức và một người không dám ra ứng cử nữa. Và từ đó Mỹ đã muốn thưong thuyết với địch để có thể rút quân về. Chứ Nixon đâu có phải là người đầu tiên có ý “bỏ rơi” VN? Vả lại ngay khi tranh cử Nixon đã hứa rút quân về. Cho nên việc bỏ Việt Nam không phải là hậu quả của Thông Cáo Chung Thượng Hải, mãi đến năm 1972 mới ký. Mà trái lại để có thể rút quân trong danh dự, mà phải thương thuyết với Trung Cộng.

Ông Diệm từng chủ trương khi nào thật cần thì có thể ký với Mỹ một hiệp ước song phương cho quân Mỹ đóng ở biên giới gần sông Bến Hải. Đó là một lập trường khôn ngoan. Nhưng những người không có tinh thần tự lập, chỉ muốn ỷ vào ngoại nhân đã gián tiếp giết ông để cho Mỹ tự do đem quân vào rồi tự do rút quân đi. Thì nay chuyện đã rồi, không còn cách nào cứu vãn được.

Vì thế, nhân nhớ lại ngày dân ta mắc hỡm mà hoan hô “cách mạng mùa thu”, cũng là ngày mở màn những đợt XÂM LĂNG đầu tiên của CS đưa tới sự mất nước, chúng tôi mong rằng cả hai phía (tội nhận và nạn nhân ở cả hai chiến tuyến) đều nên xét mình và sám hối để mở mắt cho hậu sinh. Đó là điều kiện cần để con cháu chúng ta sẽ sáng suốt hơn cha ông có thể tìm ra những phương cách hữu hiệu, dành lại được đất nước và bảo vệ Tổ Quốc khỏi sự thôn tính của kẻ thù Phưong Bắc.

Minh Võ
15-08-2009

Chú thích

(1) Năm 1964, một năm sau đảo chính 01-11-1963, tại Saigon người ta thấy xuất hiện một cuốn sách nhan đề CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM nói là bản dịch một tác phẩm bằng Pháp văn của ông Ngô đình Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng thống Ngô đình Diệm. Theo một số người thì tác giả thấy tác phẩm chưa hoàn chỉnh nên chỉ mới cho phổ biến hạn chế trong số những nhân vật thân tín trong chính quyền thời ấy. Rồi một vị cựu bộ trưởng thời Đệ Nhất cộng Hòa (Ông Lê Văn Đồng) đã dịch ra Việt Ngữ và đề là của Tùng Phong. Không ai rõ bút hiệu này là của tác giả hay dịch giả. Gần đây bản dịch đã được tái bản và thấy phổ biến tại Nam Cali. Trong tác phẩm 360 trang này, Tùng Phong đã phân tích nhu cầu phát triển và tham vọng bành trướng cố hữu của Trung Quốc. Đồng thời cũng nêu lên những liên hệ khắng khít giữa các người Cộng Sản của hai nước lân bang. Rồi đưa ra lời tiên đóan nói trên. (SĐD trang 212.)

(*) Ngày nay nhiều người mới thấy vùng Cao Nguyên có tầm quan trọng chiến lược như thế nào. Nên khi Trung Cộng đưa hàng vạn công nhân và kỹ thuật viên vào để khai thác mỏ Bô xít, họ đã nhìn ra mối nguy mất nứoc. Nhưng trước đây hơn nửa thế kỷ Ông Ngô đình Diệm đã nhìn thấy điều đó và chủ trương đưa người lên đó lập một “bức tường người” (human wall) ngăn chặn làn sóng xâm lăng trong tương lai. Chuyện này, trong bài Mạn Đàm Với Ông Cao Xuân Vỹ, (đăng trên DCV Online cách nay một năm, chúng tôi đã trưng dẫn lời ông Cao Xuân Vỹ kể rằng ông được Tổng Thống Diệm cử lên Cao Nguyên công tác, bất chấp lời thỉnh cầu của đương sự muốn ở lại giúp ông Ngô đình Nhu về công tác đảng. Mới đây cựu thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình, nguyên Tổng Giám Đốc Cảnh Sát kiêm Giám Đốc Trung ương Tình Báo thời đệ nhị Công Hòa cũng cho biết ông cũng từng được Tổng Thống Diệm cử lên cao nguyên phụ trách việc đưa dân di cư (là những nạn nhân CS và có tinh thần chống cộng cao) lên đó lập nghiệp. Rồi chính Tổng Thống Diệm cũng chết hụt trong vụ Hà Minh Trí mưu sát ông, khi ông chủ tọa lễ khánh thành khu dinh điền trên Cao Nguyên.

(2) Hiệp ước này được ký lén lút ngày 30-12-1999. Sau đó cái gọi là Quốc hội (gật) của CS cũng lặng lẽ “thông qua” ngày 09-06-2001. Nói lén lút và lặng lẽ, vì dân chúng không hề được thông báo. Cuối cùng ngày 27-12-2001 Việt Cộng và Trung Cộng đã tổ chức lễ khánh thành cột mốc trên bộ phân định biên giói giữa hai nước. Thứ trưởng NG Trung Cộng Vương Nghị (Wang Yi) và thứ trưởng ngọai giao VC Lê Công Phụng đã có mặt để long trọng đánh dấu việc đặt mốc tượng trưng số 1369. Rồi mãi đến đầu năm 2002 Lê Công Phụng mới công khai loan báo các sự việc trên. Nghĩa là việc ký kế một hiệp ước liên quan đến biên giới quốc gia, chỉ được thông báo cho quốc dân biết sau khi mọi sự đã thành chuyện đã rồi.

(3) Xin xem Cầu Nguyện Và Nước Trời của Minh Võ, Nam Cali, 2007, từ trang 147.

(4) Xem Hoa Địa Ngục làm năm 1967, nxb Cành Nam, 2006, trang 150.

(5) Cuốn sách này đã được tái bản lần thứ hai tại Hoa Kỳ tháng 10- năm 2007 (dầy 230 trang khổ nhỏ, giá bán 15 MK)

(6) SLXLCCS của Minh Võ, ấn bản 2007 tại Hoa Kỳ từ trang 153 đến trang 163.

No comments:

Post a Comment