Wednesday, May 27, 2009

Thượng tọa Thích Viên Định nói về Pháp lý của GHPGVNTN

PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
E-mail: ubcv.ibib@buddhist. com


*
* *

THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 27.5.2009
Thượng tọa Thích Viên Định nói về Pháp lý của GHPGVNTN

Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế vừa nhận được hai văn kiện trong nước gửi ra để phổ biến. Hai văn kiện liên quan đến sự sách nhiễu, đàn áp của nhà cầm quyền Hà Nội đối với 20 Ban Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ở các tỉnh Miền Trung và Miền Nam trong Mùa Phật Đản, mà đồng thời cũng là “Tháng 5 Bất Tuân Dân sự - Biểu tình Tại gia” do Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, công bố hôm 29.3.2009.

Trong cuộc sách nhiễu, đàn áp các Ban Đại diện GHPGVNTN này, Nhà cầm quyền Cộng sản thường rêu rao rằng GHPGVNTN “bất hợp pháp”, vì đã sáp nhập vào “Giáo hội Phật giáo Nhà nước” năm 1981. Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, viết bài “Vấn đề Pháp lý của GHPGVNTN” phản biện luận điểm hồ đồ và phi pháp của Nhà nước Cộng sản.

Nhà cầm quyền Cộng sản tỏ ra vô cùng sợ hãi “Lời Kêu gọi Tháng 5 Bất tuân Dân sự - Biểu tình Tại gia” của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, nên đã viết bài trên báo An Ninh Thế giới của Bộ Công an mạ lỵ cuộc “Biểu tình Tại gia” trong số ra ngày 23.4.2009, và sang ngày 27.4.2009 báo Công an Nhân dân TP Hồ Chí Minh viết bài mạ lỵ ông Võ Văn Ái, Phát ngôn nhân Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, kiêm Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế ở Paris, là cơ quan phổ biến Lời Kêu gọi. Những bài chẳng đáng quan tâm. Vì con thú cộng sản bị thương nên thấy cành cây tưởng cánh cung bắn nó, như một phản ứng Pavlov mà người đọc đã chán ngấy thứ ngôn ngữ chợ trời suốt mấy chục năm qua trên khắp mặt báo cộng sản.

Nhưng điều thú vị là trước hàng nghìn chữ ký tự phát của các tổ chức, đảng phái, hội đoàn, tôn giáo ở hải ngoại hưởng ứng và hoan nghênh Lời Kêu gọi của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, thì bỗng nhiên trên sa mạc tuyệt vọng phát ra tiếng rên rỉ của một vài bài chống đối của mấy kẻ tự nhận “Chống Cộng liệt mình”, kiểu Trần Thanh, a tòng mạ lỵ Lời Kêu gọi, một đồng một cốt với giọng điệu thất thanh của Bộ Công an ở Hà Nội.

Vì vậy phản ứng của người trong nước, từ Huế, cất lên dưới ngòi bút của Huynh trưởng Lê Công Cầu, Vụ trưởng Gia Đình Phật tử Vụ, Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, qua bài viết “Thư khuyên nhủ Trần Thanh, và ý nghĩa “Lời Kêu gọi Tháng 5 Bất tuân dân sự - Biểu tình Tại gia” của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải dưới đây toàn văn hai văn kiện này:

Vấn đề Pháp lý của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN)

I. Pháp lý Phật Giáo Thời Độc lập Tự Chủ:


"Phật Giáo truyền vào Việt Nam vào từ đầu thế kỷ I Tây lịch, nhưng mãi đến thế kỷ VIII mới thật sự phát triển, nhịp nhàng với thời kỳ đất nước bước vào thời đại tự chủ, thoát khỏi ách đô hộ phương Bắc thời đó.

Trong thời gian ấy các nhà truyền giáo Việt Nam đã khéo léo đưa Phật giáo vào lòng dân tộc mỗi lúc mỗi sâu đậm, đến nay chúng ta không tìm đâu ra trong Phật giáo một dấu vết gì gọi là ngoại lai hay phi dân tộc. Đó là thành công lớn lao trong sự nghiệp truyền giáo của Tổ tiên chúng ta. Mặt khác, các nhà truyền giáo lúc bấy giờ cũng đã thành công nhiều trong sự nghiệp xây dựng đất nước, trong tư thế tự chủ hùng cường đối với phương Bắc sau bao thế kỷ bị đô hộ. Các nhân vật Phật giáo có công với đất nước như: Thái sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu thời Đinh (968-980) và thời tiền Lê (980-1009); Quốc sư Vạn Hạnh thời Lý Công Uẩn, Quốc sư Khô Đầu thời Lý Nhân Tôn, Quốc sư Minh Không thời Lý Thần Tôn, Quốc sư Viên Thông thời Lý Anh Tôn (1010-1225); Quốc sư Phù Vân Trần Thái Tôn v.v…và đã giúp các vua nhà Trần như: Thái Tôn, Nhân Tôn xuất gia đầu Phật sau khi bình định được các giặc giã bên ngoài mỡ rộng bờ cõi, xây dựng nước nhà vững mạnh (1225-1400). Các vị Tổ sư truyền giáo của chúng ta các thời ấy không hề cầu xin các triều đại pháp lý nào cả mà chính các triều đại ấy đã khâm ban tôn phong các Ngài những tước hiệu lớn lao vinh dự hơn cả ngôi vua thì có pháp lý hành chánh thông thường nào hơn thế nữa!” (trích Bản tham luận của GHPGVNTN kỳ VII năm 1977)

II. Pháp lý Phật Giáo thời Pháp thuộc đến chế độ Ngô Đình Diệm (1858- 1963):

Khi đất nước bước vào thời kỳ suy vi thì Phật giáo cùng chung số phận với dân tộc. Nghĩa là khi giặc Pháp xâm chiếm xứ sở thì nước mất nhà tan và Đạo pháp cũng suy sụp.

Tuy nhiên, vào các thời kỳ 1925- 1930, phong trào chấn hưng Phật giáo bắt đầu hoạt động thì thực dân Pháp bắt buộc các tổ chức Phật giáo Trung-Nam-Bắc thời đó muốn hoạt động phải chịu sự kiểm soát của chúng bằng những pháp lý cay nghiệt do các tên toàn quyền thuộc địa quyết định. Đó là những pháp lý tạm thời bất đắc dĩ và tủi nhục của một Tôn giáo cổ truyền của dân tộc từ địa vị một Tôn giáo xuống hàng Hiệp hội thông thường, và có lẽ chúng ta không bao giờ muốn có một pháp lý như vậy nữa.

III. Pháp lý của GHPGVNTN từ năm 1964 đến nay:

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời năm 1964. Sau năm 1975, hoàn cảnh đất nước thay đổi, nhưng GHPGVNTN cũng như nhiều Giáo Hội các Tôn giáo khác vẫn tiếp tục hoạt động.

Những sinh hoạt sau đây của GHPGVNTN sau năm 1975 là những minh chứng:

- Ngày 02.11.1975, xảy ra vụ 12 vị Tăng Ni ở Thiền Viện Dược Sư tại Cần Thơ tự thiêu chống đối đàn áp của cộng sản. Ông Mai Chí Thọ, lúc đó là Giám Đốc Sở Công An Sài Gòn, đến chùa Ấn Quang yêu cầu Viện Hóa Đạo GHPGVNTN cử người xuống Cần Thơ để cùng với nhà cầm quyền điều tra. Viện Hóa Đạo đã cử Hòa Thượng Thích Quảng Độ, lúc đó là Tổng Thư ký VHD, thay mặt GH, dẫn phái đoàn xuống Cần Thơ điều tra xác nhận việc này. (xem thêm trong sách “Nhận Định về Những Sai Lầm Tai Hại của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với Dân Tộc và Phật giáo” của HT Thích Quảng Độ, NXB Quê Mẹ, Paris 1995).

- Năm 1977, Thủ tướng Phạm văn Đồng đã ký lệnh thư “Không trở ngại” để GHPGVNTN được tổ chức Đại Hội Kỳ VII tại Sài gòn.

- Năm 1980, nhà cầm quyền chấp thuận việc GHPGVNTN mở Đại Giới Đàn Thiện Hòa tại chùa Ấn Quang Sài gòn. V.v…

Tuy vậy, bên trong, Cộng sản vẫn theo đuổi việc thực hiện châm ngôn của Lê Nin: “Đảng phải thông qua tôn giáo để tập hợp và khống chế quần chúng”, nên nhà cầm quyền đã tìm mọi cách để cai quản, điều khiển các Tổ chức tôn giáo.

Đối với Phật giáo, nhà cầm quyền Cộng sản có những hoạt động sau đây:

- Năm 1976, thành lập tổ chức “Phật Giáo Yêu Nước” do những vị sư theo cộng sản lãnh đạo, cộng với những vị sư xu thời. Tổ chức này rất nhỏ, ít nhân sự.

- Năm 1980, thành lập Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo. Trong đó có các thành viên của GHPGVNTN như: HT Thích Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo làm trưởng ban, và các HT Thích Trí Tịnh, Thích Minh Châu …

- Năm 1981, thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, công cụ của đảng Cộng sản Hà Nội. (xin xem thêm Tài liệu “Thống Nhất Phật Giáo” của ông Đỗ Trung Hiếu)

Các tôn giáo khác, nhà cầm quyền cộng sản cũng có những hoạt động tương tự, nhưng mỗi tôn giáo có hoàn cảnh, hệ thống tổ chức khác nhau nên kết quả cũng khác nhau.

Việc Cộng sản thành lập những tổ chức làm công cụ cho họ để tuyên truyền là đương nhiên. Nhưng lắc léo ở chỗ, họ dùng một số người của mình, của Giáo Hội mình, GHPGVNTN, thi hành những việc theo ý muốn của họ, đó mới là vấn đề.

Năm 1981, Sau khi thành lập xong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN), thuộc MTTQ, nhà cầm quyền cộng sản tuyên truyền rằng GHPGVNTN không còn nữa, vì đã sáp nhập vào GHPGVN của MTTQ rồi.

Lý do nào Cộng sản nói như vậy?

Cộng sản lấy cớ việc Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo nhận lãnh chức vụ Trưởng Ban vận động Thống Nhất Phật Giáo, tuy Ngài tuyên bố rằng, Ngài nhận lãnh chức vụ Trưởng Ban vận động là với tư cách cá nhân, vì không được sự đồng ý của Giáo Hội. Ngoài HT Trí Thủ, GHPGVNTN còn có HT Thích Minh Châu, Thích Trí Tịnh ... làm Phó Ban hoặc thành viên trong Ban vận động này. Đặc biệt nhất là có một phái đoàn Đại diện cho GHPGVNTN tham dự Đại Hội thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ Hà Nội, phái đoàn này do HT Thích Thiện Siêu, người không có chức vụ gì trong Viện Hóa Đạo, làm trưởng đoàn, và danh sách đề cử phái đoàn GHPGVNTN có đóng dấu Viện Hóa Đạo.

Sự thật việc đó như thế nào?

Xin trích một đoạn trong sách “Nhận Định về Những Sai Lầm của Đảng Cộng Sản Việt Nam Đối với Dân tộc và Phật Giáo” của Hòa thượng Thích Quảng Độ liên quan vấn đề này:

“… Đến khoảng tháng 9 năm 1981, cố H.T. Trí Thủ, với danh nghĩa Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo, đề nghị Viện Hóa Đạo cử Đại diện Giáo hội đi dự Đại hội thống nhất Phật giáo sẽ họp tại Hà Nội vào cuối năm đó. Tôi đề nghị, nhà nước đã không cho triệu tập Đại hội bất thường, thì bây giờ phải triệu tập Hội đồng Viện Hóa Đạo gồm mười một quận Giáo hội Đô thành để thông báo cho họ biết về việc này. Cố Hòa thượng Trí Thủ đồng ý.

Hôm sau tôi gửi văn thư mời các vị trong Ban Đại diện Giáo hội của mười một quận về chùa Ấn Quang họp. Hình như họ đã đoán trước được là cuộc họp này rất quan trọng nên họ về dự rất đông, không những chỉ có các vị Đại diện chính thức của mười một quận, mà còn có cả tăng ni về dự thính, ngồi chật giảng đường, đứng ngoài sân và trên các hành lang trong chùa. Cố H.T. Trí Thủ chủ tọa cuộc họp (xin nhắc lại, với tư cách Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo thì ngài là khách, nên lần trước ngài đã về "thăm xã giao" nhà Ngài. Nhưng hôm nay với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Đạo nên Ngài chủ tọa cuộc họp). Với tư cách Tổng thư ký Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, tôi đứng lên tuyên bố rõ lý do triệu tập cuộc họp. Trước hết, tôi đọc lại các văn thư mà Viện Hóa đạo đã gửi ra phủ Thủ tướng tại Hà Nội nói rõ quá trình thành lập Giáo hội và các cơ cấu tổ chức cùng các hoạt động của Giáo hội tại miền Nam Việt Nam trước ngày đất nước thống nhất, đồng thời, gửi kèm bản Hiến chương và nội qui của Giáo hội để tường trình với nhà nước. Kế đó, tôi nói với các vị Đại diện Giáo hội trong cuộc họp như sau: "Nay H.T. Viện trưởng Viện Hóa Đạo đứng ra làm Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo, không biết ai đã thành lập ban này, thành lập ở đâu và ai đã bầu Hòa thượng làm Trưởng ban, Viện Hóa Đạo hoàn toàn không được biết điều đó, và cho đến nay, Giáo hội cũng chưa chính thức được mời dự bất cứ cuộc họp nào bàn về thống nhất Phật giáo. Bởi vậy, Giáo hội chưa biết thống nhất trên cơ sở nào, theo hình thức nào và sau khi thống nhất, tư cách pháp lý của GHPGVNTN sẽ ra sao. Đây là vấn đề tồn vong của Giáo hội, mà theo Hiến chương Giáo hội, phải do Đại hội quyết định. Cách đây mấy hôm, tôi đã được sở Công an mời ra bảo tôi phải đồng ý thống nhất, tôi đã nói với ông Quang Minh (người tiếp tôi) là Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo không đủ thẩm quyền quyết định việc quan trọng này, mà phải do Đại hội Giáo hội. Và tôi đã yêu cầu ông Quang Minh cho chúng tôi triệu tập Đại hội bất thường, mỗi tỉnh cần một vị Chánh đại diện hay Thư kí cũng được, nhưng ông Quang Minh đã không đồng ý, viện lẽ không còn đủ thì giờ! Bây giờ đây H.T. Viện trưởng đề nghị Viện Hóa Đạo cử Đại biểu Giáo hội đi dự Đại hội thống nhất Phật giáo sẽ họp ngoài Hà Nội, tôi nhận thấy Đại hội bất thường thì nhà nước không cho, bởi thế hôm nay Viện Hóa Đạo mời quí vị về họp để hỏi ý kiến và tùy quí vị quyết định”. Trước khi dứt lời để trao quyền điều khiển cuộc họp cho Hòa thượng chủ tọa, tôi có bày tỏ một vài ý kiến như sau:

"Kính bạch Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo chủ tọa cuộc họp, kính thưa toàn thể quí vị, chắc quí vị cũng như tôi đều thấy rõ hiện nay con thuyền GHPGVNTN đang lênh đênh giữa biển khơi và gặp sóng to gió lớn, chưa biết sẽ chìm lúc nào. Vậy, nếu những ai trong quí vị có mặt ở đây hôm nay cảm thấy nguy nan sợ hãi mà muốn bước sang thuyền khác để thoát thân, thì xin quý vị ấy cứ việc tự do, không ai ngăn cản cả. Nhưng tôi chỉ xin quí vị ấy một điều là: trước khi bước sang thuyền khác qúi vị cứ để mặc cho con thuyền Giáo hội lênh đênh trôi dạt trong sóng gió với những người còn ở lại trên đó, họ sẽ cố sức lèo lái, nếu may mắn vượt qua cơn nguy nan mà đến được bờ bình an thì họ sống, còn nếu chẳng may con thuyền chìm thì họ cũng sẽ sẵn sàng chết theo nó, chứ quí vị ấy đừng đang tâm nhận chìm con thuyền của mình mà có lần đã từng đưa quí vị đến bờ danh vọng, lợi lộc, trước khi bước sang thuyền khác. Tôi chỉ xin quý vị có thế thôi. Tôi dứt lời và cảm ơn quý vị".

Khi tôi nói xong thì cả trong hội trường và ngoài sân, ngoài các hành lang nổi lên những tràng pháo tay vang dội, rồi tôi thấy T.T. Trí Tịnh đứng dậy đi ra trước tiên, kế đó là T.T. Minh Châu và sau cùng là Hòa thượng Viện trưởng chủ tọa! Thế là cuộc họp tự nhiên cũng tan. Sau đó tôi nghe có tiếng vọng lại: "Hôm nay thầy Quảng Độ mời chúng tôi về đây để thóa mạ chúng tôi". Còn lại Thượng tọa Huyền Quang và tôi, chúng tôi nhìn nhau một lúc rồi cũng giải tán!”

Đó là cuộc họp cuối cùng của Viện Hóa Đạo bàn về việc có nên cử đại diện đi dự Đại Hội thành lập GHPGVN tại chùa Quán Sứ Hà Nội hay không, và cuộc họp đã có kết quả bất thành. Viện Hóa Đạo không còn cuộc họp nào khác bàn về vấn đề này nữa.

Hòa Thượng Quảng Độ viết tiếp:

“Ba hôm sau, Văn phòng Viện Hóa Đạo nhận được bản "Thông báo" của Ban vận động thống nhất Phật giáo đề ngày 17-9-1981, do T.T. Minh Châu kí tên, dài lắm, tôi chỉ còn nhớ một đoạn ngắn, vì có lẽ nó là đoạn quan trọng nhất trong bản Thông báo. Đoạn ấy như sau:

"... Thượng tọa Thích Quảng Độ, Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, đã triệt hạ uy tín của toàn Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam, phá hoại công cuộc thống nhất Phật giáo, ngang nhiên thách thức với chính phủ và Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam là những người đang khuyến khích và hỗ trợ sự nghiệp thống nhất Phật giáo cả nước!".

“Nhân đây tôi cũng xin thanh minh rằng tôi không chủ trương "phá hoại thống nhất Phật giáo" mà tôi chỉ muốn thống nhất trong tinh thần hòa hợp, đồng thuận theo đúng luật Phật "Hòa hợp phủ? - Hòa hợp!" (chư tăng có hòa hợp không? - Hòa hợp!); nghĩa là việc thống nhất Phật giáo là việc của chư tăng hai miền Nam Bắc, phải do chư tăng hai miền quyết định một cách hòa hợp và đồng thuận, chứ tôi không muốn nhà nước cộng sản can thiệp vào rồi bắt chúng tôi phải thống nhất theo ý muốn của nhà nước để sau dễ bề lợi dụng Giáo hội cho những mục đích chính trị và hợp thức hóa cho chủ trương tiêu diệt Phật giáo của đảng và nhà nước cộng sản.”

"Ðến cuối năm 1981, Ðại hội thống nhất Phật giáo chính thức được mở ra tại Hà Nội. Tôi được biết, T.T. Thích Thiện Siêu cầm đầu một phái đoàn mười người nói là đại diện cho Giáo-hội Phật giáo Việt-nam Thống nhất, có văn thư đề cử đóng khuôn dấu Viện Hóa Ðạo đường hoàng, tôi rất ngạc nhiên. Bởi vì T.T. Thiện Siêu có chức vụ gì trong Viện Hóa Ðạo đâu, mà Viện Hóa Ðạo cử T.T. Thiện Siêu làm đại biểu của Viện đi dự họp, còn khuôn dấu Viện Hóa Ðạo do tôi cất giữ, khi đến văn phòng thì tôi mang đến, hết giờ làm việc thì tôi mang về, vậy khuôn dấu ở đâu ra ? Lúc đầu tôi không tin, bởi lẽ tôi biết T.T. Thiện Siêu là bậc học thức, có đức hạnh, tôi rất kính trọng Thượng tọa và tuyệt đại đa số tăng ni miền Nam cũng thế, không tin Thượng tọa lại có thể làm một việc như vậy, nhưng sau tôi mới biết rõ đó là sự thật !”

Một bằng chứng khác, chứng tỏ GHPGVNTN không hề gia nhập vào GHPGVN, là 2 bức thư của HT Thích Đôn Hậu, Chánh Thư ký Viện Tăng Thống GHPGVNTN viết cho HT Thích Trí Thủ, Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo Việt nam và HT Thích Đức Nhuận, Pháp chủ GHPGVN:
THƯ GỬI HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ,
Trưởng ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt nam
Phật lịch 2525,
Linh Mụ, ngày 24 tháng 11 năm1981.

Kính gởi:
Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦ
Trưởng ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt nam.
Chủ tịch Đoàn Chủ tịch
Đại hội Đại biểu Thống nhất Phật Giáo Việt Nam.
(tổ chức tại Hà Nội từ ngày 4 đến 7. 11. 1981).
Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Thưa Hòa thượng,

Như Hòa thượng đã biết, từ mùa xuân năm 1980, khi Ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt Nam ra đời, tuy quí vị có ghi tên tôi vào Ban vận động, với danh nghĩa Cố vấn, nhưng tôi đã không có sự cộng tác gì với Ban vận động cả, kể cả cuộc Đại hội thống nhất Phật Giáo Việt Nam vừa qua tôi đã vắng mặt. Thế nhưng, qua báo chí và các văn kiện Đại hội phổ biến, lại thấy có tên tôi trong Ban Thường trực Hội đồng chứng minh với chức vụ Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật.

Tôi xin chân thành cảm ơn Hòa thượng và Đại hội đã dành cho tôi vinh dự đó. Tuy nhiên vì lý do sức khỏe nên tôi không thể đảm nhận thêm chức vụ này được nữa, trong khi tôi vẫn còn một trách nhiệm lớn đối với Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất trong cương vị Chánh Thư ký kiêm Xử lý Viện Tăng Thống.

Do đó, nay tôi viết thư này kính tin Hòa thượng rõ, và nhờ Hòa thượng hoan hỷ chuyển đạt tinh thần bức thư này đến quý vị trong Đoàn Chủ tịch cuộc Đại hội vừa qua.
Kính chúc Hòa thượng pháp thể khinh an, chúng sanh di độ. Và mong Hòa thượng nhận nơi đây lòng chân thành của chúng tôi.

Nay thư,
Tỳ kheo THÍCH ĐÔN HẬU
(ấn ký)

THƯ GỬI HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỨC NHUẬN,
Pháp chủ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam

Phật lịch 2525,
Bệnh viện Thống Nhất, ngày 08.02.1982
Kính gởi:
Hòa Thượng THÍCH ĐỨC NHUẬN
Pháp chủ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch Hòa Thượng,

Vào những ngày cuối cùng của năm Tân Dậu, vì bệnh tình bức bách, nên ngày 21. 01.1982, tôi đành phải rời Huế, vào thành phố Hồ Chí Minh để chữa bệnh, giữa lúc mọi người đang hoan lạc đón xuân sang, và cho đến hiện nay tôi vẫn đang còn được điều trị tại bệnh viện Thống nhất, thành phố Hồ Chí Minh.

Trong thời gian ấy, ngày 07- 02-1982, tôi lại nhận được lá thư của Hòa thượng gởi cho tôi với danh nghĩa Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật Giáo hội Phật Giáo Việt Nam. Nội dung bức thư ấy, Hòa thượng báo tin cho tôi biết là Hội nghị Đại biểu thống nhất Phật Giáo Việt Nam đã thành tựu viên mãn, cũng như Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định công nhận Bản Hiến chương, danh sách Ban Lãnh đạo và cho phép Giáo hội Phật Giáo Việt Nam hoạt động. Đồng thời Hòa thượng đã có lời khuyên tôi cố gắng cộng tác với Giáo hội trong chức vụ nói trên.

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn lòng thạnh tình của Hòa thượng đối với tôi, đồng thời, tôi rất lấy làm vinh dự và tri ân quý Hòa thượng đã dành cho tôi một chức vụ quan trọng như thế. Nhưng, thưa Hòa thượng, như Hòa thượng đã biết, vào đầu mùa xuân năm 1980, cũng chính là lúc tôi đang nằm điều trị ở bệnh viện Thống nhất này, thì hay tin Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập, trong đó tôi được có tên với danh nghĩa Cố vấn. Thế nhưng bệnh duyên chướng ngại, nên tôi đã không tham gia được một Phật sự nào đáng kể, ngay cả cuộc Hội nghị Đại biểu vừa qua tôi cũng phải vắng mặt. Cho nên, tôi xét thấy mình tuổi đã già, sức đã yếu lại bệnh hoạn liên miên và mỗi ngày càng thêm trầm trọng. Do đó, tôi viết thư này để kính báo với Hòa thượng để Hòa thượng rõ là tôi không thể đảm nhận được chức vụ quan trọng "Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật" Giáo hội Phật Giáo Việt Nam mà hội nghị đã đề cử.

Tuy vậy, riêng cá nhân, tôi vẫn luôn luôn tâm nguyện sẽ tiếp tục đem tất cả sức tàn ra phụng sự chánh pháp trong khả năng còn lại của mình và trong điều kiện sức khỏe cho phép.

Rất mong Hòa thượng thông cảm và nhận nơi đây lòng chân thành của tôi. Kính chúc Hòa thượng phước trí nhị nghiêm, chúng sanh dị độ.

Kính thư,
Tỳ kheo ĐÔN HẬU
(ấn ký)

Do sự léo lận, dối trá, lập phái đoàn giả, đóng dấu giả, mạo xưng GHPGVNTN tham dự Đại Hội tại chùa Quán sứ Hà Nội, nhà cầm quyền Cộng sản đã phi pháp tuyên bố rằng, GHPGVNTN đã tự nguyện sáp nhập vào GHPGVN của Mặt Trận Tổ Quốc từ năm 1981, nay không còn nữa.

Sau khi thành lập tổ chức Trung Ương GHPGVN ở Hà Nội xong, nhà cầm quyền cộng sản thành lập các tổ chức GH tại địa phương. Bắt đầu là Thành phố Sài gòn. Lúc này, nhị vị Hòa Thượng Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Huyền Quang và Hòa Thượng Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo Thích Quảng Độ vẫn tiếp tục làm việc tại Văn Phòng Viện Hóa Đạo chùa Ấn Quang, hào quang của hai Hòa Thượng vẫn phủ khắp, chư Tăng vẫn hướng về GHPGVNTN, không ai chịu nhận bất cứ chức vụ gì trong Giáo Hội nhà nước. Để đối phó trở ngại này, có người hiến kế, “đập rắn phải đập đầu”, Cộng sản thực hiện ngay bằng cách bắt hai Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ đem đi lưu đày biệt xứ. Nhờ đó việc thành lập Giáo Hội nhà nước thành phố Sài gòn cũng hoàn tất nhanh chóng, vì chư Tăng, nghe tin hai Hòa Thượng đã bị bắt, ai cũng khiếp sợ, răm rắp tuân theo. Đến đây, GHPGVNTN như rắn mất đầu, các Phật sự đều bị đình đốn, vì một số thành viên lãnh đạo đi tỵ nạn ở nước ngoài, số còn lại hoặc bị tù hoặc bị giết. Mãi đến năm 2003, Đại Hội Bất Thường tại Tu Viện Nguyên Thiều tỉnh Bình Định, Hội Đồng Lưỡng Viện mới được kiện toàn đầy đủ, tiếp đó là Ban Đại diện GHPGVNTN các Tỉnh, Thành, Quận, Huyện tái phục hoạt trở lại.

Đó là những bằng chứng GHPGVNTN không hề gia nhập GHPGVN của nhà nước, chỉ có những cá nhân thuộc GHPGVNTN gia nhập GHPGVN mà thôi. Nhà cầm quyền cộng sản cũng không có một văn thư nào chính thức giải thể GHPGVNTN. Vì vậy GHPGVNTN vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục hoạt động, mặc dù Phật sự có đôi lúc bị đình trệ, nhưng GHPGVNTN vẫn sống, và tiếp tục sống. Nhà cầm quyền Cộng sản, đến nay, vẫn chưa giải quyết những khiếu nại của GHPGVNTN về những vi phạm như, phải làm minh bạch cái chết của Hòa Thượng Thích Thiện Minh, Cố vấn Viện Hóa Đạo, phải hoàn trả ngôi Việt Nam Quốc Tự và các tài sản khác cho GHPGVNTN mà Nhà cầm quyền Cộng sản đã cưỡng chiếm bất hợp pháp sau năm 1975. Trong khi chưa giải quyết những khiếu nại, những nợ nần của GHPGVNTN, Nhà cầm quyền Cộng sản lại tìm cách dụ dỗ GHPGVNTN đăng ký, mặc nhiên, trở thành một Giáo Hội tân lập, đoạn tuyệt hẳn với quá khứ, để khỏi phải giải quyết những món nợ đã gây ra cho GHPGVNTN hay sao?.

GHPGVNTN không phải là Giáo Hội tân lập. GHPGVNTN không cần “đăng ký” với ai cả.

Có nhiều người, cả trong lẫn ngoài nước, ngay cả một số thành viên của GHPGVNTN, không rõ vấn đề phức tạp, lắc léo này, không biết rằng pháp lý của GHPGVNTN từ trước đến nay hoàn toàn hợp pháp. Hơn nữa, ở miền Nam Việt nam này chưa có tôn giáo nào xét lại pháp lý cả.
Khi thành lập xong GHPGVN, thành viên của Mặt Trân Tổ Quốc, một công cụ của đảng Cộng sản, nhà cầm quyền bắt đầu tổ chức những cuộc đấu tố nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ trên khắp cả nước.

Chiến dịch này, với sự tuyên truyền rộng rãi trên các báo đài, trong nội bộ Tăng Ni bằng sự kích động, xúi giục, móm ý cho rằng hai Ngài là “thiểu số” chống lại đa số (luận điệu đưa ra là chỉ có 2 Hòa thượng thuộc GHPGVNTN chống lại Giáo Hội nhà nước, trong khi có cả chục ngàn Tăng, Ni gia nhập Giáo hội Nhà nước), hai Ngài “phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”, “phá hòa hợp Tăng”, “phản động”, v.v… Nhưng nhà cầm quyền cộng sản không thu hoạch được gì, vì do chư Tăng không còn lối thoát, bị ép buộc, đe dọa, khủng bố nên buộc lòng phải gia nhập Giáo Hội nhà nước, nhưng lương tâm mỗi người không ai mở miệng nói ra những lời lẽ trái đạo, khinh sư diệt tổ, chống lại gốc rễ, cội nguồn. Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Cố vấn Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo nhắc nhở rằng: “Dù làm việc gì, ở đâu, không ai trong chúng ta quên rằng mình là thành viên của GHPGVNTN”.

Một đóa sen thơm xin cúng dường cho mỗi chư Tăng, và những ai tuy sống trong bùn lầy nước đọng, nhưng lòng vẫn tinh khiết, không nhiễm tanh hôi. Chỉ tiếc rằng, những vị lãnh đạo Giáo Hội, nhất là những vị lãnh đạo cao cấp, làm đầu tàu, làm thuyền trưởng, trong lúc sóng to, gió lớn, không vững tay chèo, vội bỏ thuyền cũ, bước sang thuyền mới, bỏ lại bao khách lữ lênh đênh trong sóng gió, bão bùng. Mà cái Giáo Hội mới ấy, thực chất là gì? Hãy nghe Ông Đỗ Trung Hiếu, kiến trúc sư làm ra cái Giáo Hội ấy ăn năn, bộc bạch: “Cuộc Thống nhất Phật Giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay Đảng Cộng sản Việt nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến tướng Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Đảng”. Vậy, con thuyền mới, cái Giáo Hội mới đó, có đẹp đẽ gì đâu, chỉ là một cái hội chẳng những không có tính cách pháp nhân của một tôn giáo lớn như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lại cũng chẳng được hưởng quy chế Hiệp hội như thời thực dân, mà nó chỉ còn là một tổ chức có tính cách nằm trong hiệp hội, đó là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Như lời than của Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Cố vấn Viện Hóa Đạo:

"Đau xót biết bao", Hòa thượng Đức Nhuận viết như đang khóc, "khi Phật giáo Việt Nam từ con lạch nhỏ đã vùng thoát ra được đại dương, thì nay quý Hòa thượng lại tự bước vào một vũng ao tù." (tài liệu của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, Paris)

Sau năm 2003, GHPGVNTN vừa mới phục hoạt, còn yếu ớt, Cộng sản lại tiếp tục dùng phương sách cũ, cài người vào Giáo Hội, dụ dỗ, bắt chẹt, dùng người của GHPGVNTN chống phá GHPGVNTN, nhất là tuyên truyền GHPGVNTN sống không có pháp lý, đưa ra chiêu bài đăng ký, hoặc hòa hợp hòa giải, làm văn hóa, từ thiện… tạo ra tình trạng ly khai, chia rẽ trong Giáo Hội. Nhưng rất may, Đức Cố Tăng Thống, Đại Lão Hòa thượng Thích Huyền Quang đã sáng suốt kịp thời ban hành Giáo Chỉ số 09, tái thiết cơ cấu, chấn chỉnh nhân sự cho Giáo Hội vững chắc, Phật sự không bị trở ngại. Nếu không, GHPGVNTN, một lần nữa, lại bị thêm một cơn biến động làm tan nát, đình trệ như năm 1981.

Ngày 29.3.2009, Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ Xử Lý Viện Tăng Thống, kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN cất Lời Kêu Gọi Biểu tình tại gia, Bất tuân dân sự để bảo vệ Tổ quốc Việt nam khỏi họa xâm lăng của Trung cộng, nên Trung cộng và tay sai rất cay cú, một lần nữa, tìm cách bôi nhọ pháp lý của GHPGVNTN, vu cho rằng, GHPGVNTN là mạo xưng.

Thật ra, Nhà cầm quyền cộng sản mới là kẻ trí trá đóng dấu giả Viện Hóa Đạo, mạo lập phái đoàn GHPGVNTN giả để tham gia Đại Hội tại chùa Quán Sứ Hà nội năm 1981, để nói rằng GHPGVNTN đã “gia nhập vào Giáo hội của nhà nước”, GHPGVNTN không còn nữa. Cũng như thế, Trung cộng không thể căn cứ vào Công Hàm bán nước, bất hợp pháp, vô giá trị của Thủ tướng Bắc Việt, Phạm Văn Đồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958, dâng hai quần đảo Hoàng sa, Trường sa cho Trung cộng để khi nhà cầm quyền Việt Nam bổ nhiệm Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa, ngày 29.4.2009, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung quốc Khương Du, cả quyết: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Tây Sa cùng vùng biển xung quanh. Trung Quốc và Việt Nam không tồn tại tranh luận đối với quần đảo Tây Sa. Cách làm kể trên của phía Việt Nam là trái phép và vô hiệu”. Cộng sản với bản chất vô thần, độc tài, luôn gian dối, làm những điều ngang ngược, vô lý!

GHPGVNTN là Giáo Hội Dân lập, kế thừa 2000 năm của chư Tổ, có quyền sống, vẫn sống, vẫn tiếp tục cùng Dân tộc vận động cho Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và toàn vẹn lãnh thổ cho quê hương Việt Nam đến ngày thành công.

Thích Viên Định


No comments:

Post a Comment