Monday, January 25, 2010

Tiếc Thương! Cuộc Đời Và Chuyện Tình Alpha Đỏ

Trần Quốc Kháng

Để tưởng nhớ Cựu Đại Uý Trương Đình Hà, xuất thân Khoá 20 SQHD Trường Võ Bị Quốc Gia VN, đã an giấc ngàn thu ngày 16-01-2010, xin gởi đến quý vị bài "Cuộc Đời Và Chuyện Tình Alpha Đỏ". Nhờ quý vị cho phổ biến trên diễn đàn.

Câu chuyện ‘Alpha Đỏ’ này được viết từ hồi tháng 9 năm 2003 — khi ông Hà còn điều trị bệnh tâm thần ở Crestwood Manor, San Jose. Chúng tôi muốn thuật lại cuộc sống thăng trầm theo dòng lịch sử, có phần bi thảm, nhưng vẫn đậm nét hào hùng của ông Trương Đình Hà. Trong đó, có phần chuyện tình của ông và bà Nguyễn Thị Lệ Nga được ghi lại theo lời thuật lại của ông bà Nguyễn Phú Hữu (Khoá 20 VB) làm nhiều người liên tưởng đến ‘Đóa Hoa Sen’ — loài hoa ‘cao quý’, luôn luôn vươn lên cao, thường thấy nở trên ao bùn hôi thối.

Năm 2003, ông Hà đang bị ‘mất trí’. Khi đến thăm ông, ai mang nặng tình người đều cảm thấy thương xót cho thân phận người xấu số. Nhất là lúc nhìn ‘VẾT TÍCH tàn ác, bất nhân’ — do VC gây ra trong trại ngục tù — vẫn còn hiện rõ trên hai cổ chân ông Hà, quý vị sẽ cảm thấy rùng mình, ghê tởm trước hành động dã man của bọn ‘hình người dạ thú’.

Vì trước đây, ông Hà bị VC hành hạ rất dã man trong trại giam — ngụy danh là trại ‘cải tạo’. Chúng dùng giây kẽm gai, trói hai cổ chân ông. Mỗi lần ông Hà nhúc nhích thì mấy đầu giây kẽm gai, ‘cưa sâu’ vào hai cổ chân ông.

Cuối cùng, thương tích còn lại là những vết sẹo nối tiếp nhau, vòng quanh hai cổ chân ông, có chỗ sâu lõm vào bên trong ống xương, khoảng nửa đốt ngón tay!

Khi ghi lại ‘Cuộc Đời Và Chuyện Tình Alpha Đỏ’, chúng tôi không e ngại dư luận hoài nghi là chuyện ‘thêu dệt’ mà chỉ e ngại, khả năng của mình và giấy bút có giới hạn — không thể nào diễn tả được hết: Ý chí đấu tranh kiên cường, tinh thần bất khuất và chuyện tình cao đẹp như ‘Đóa Hoa Sen’ nở trong ‘vùng sình lầy XHCN’.

Mặc dù, viết theo đúng lời thuật lại của ông bà Nguyễn Phú Hữu, nhưng câu chuyện ‘truyền khẩu’ này, có thể bị ‘tam sao thất bản’ đôi chút? Nếu quý vị nào nhận thấy, có điểm nào sai sót, xin vui lòng cho biết. Đa tạ.

Trần Quốc Kháng

Phần 1
    Chuyện Đi Thăm Bệnh Nhân Tâm Thần
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 9.2.2002, ông bà Nguyễn Phú Hữu dẫn chúng tôi đến thăm ông Hà ở Crestwood Manor. Đây không phải là lần đầu tiên chúng tôi gặp ông Hà mà là lần đầu tiên chúng tôi đến ‘Trung Tâm An Dưỡng Bệnh Nhân Tâm Thần’ thăm bệnh nhân. Hôm ấy, chắc ông bà Hữu cũng có tâm trạng tương tự như chúng tôi. Vì chỉ còn 3 ngày nữa là năm Nhâm Ngọ sẽ đến:

Cảnh chợ Tết trong các khu thương xá VN ở San Jose, với bánh chưng, kẹo mứt bầy bán bên những cành Đào cùng những chậu hoa Cúc, làm kẻ tha hương như chúng tôi chạnh lòng, nhớ đến những ngày Tết ở VN năm xưa. Đậm nét hơn cả là những kỷ niệm trong ngày Tết năm Ất Tỵ 1965, lần đầu tiên các SVSQ Khóa 21 đi dạo phố ở xứ hoa Anh Đào Đà Lạt.

Hơn 37 năm trời đã trôi qua. Nhưng tại sao kỷ niệm ấy lại cứ đeo đuổi kẻ tha hương đến tận bây giờ? Xin thưa: Thời kỳ SVSQ là giai đoạn đầu, thời kỳ đẹp nhất trong đời sống Quân Ngũ, tương tự như ‘mối tình đầu’ trong chuyện yêu đương.

Thật vậy. Trong thời kỳ ‘vàng son’ ấy thì Quân Lực VNCH nói chung và Tập Thể VB cùng các SVSQ Khóa 21 nói riêng, đều có ‘Mẫu Số Chung’: Cùng lập trường Quốc Gia Dân Tộc; cùng chung ý chí đấu tranh — cầm súng ngăn chặn ách nô lệ Mác-Lênin lan tràn vào miền Nam. Nhưng rất tiếc, thời kỳ ‘vàng son’ ấy không còn!

Càng hồi tưởng về quá khứ, chúng tôi càng cảm thấy ngậm ngùi khi gặp lại ông Trương Đình Hà, mẫu người hăng say trên chiến trận, nghiêm minh với thuộc cấp, chí tình với bạn hữu, bất khuất trong ngục tù — đích thực là cựu SVSQ ‘Võ Bị Truyền Thống’ điển hình.

Đặc biệt, ông lại có mối tình cao đẹp. Nhưng đáng tiếc, tất cả bị cuốn theo vận nước suy đồi. Đến nay, ông phải sống ‘đơn độc’ trong ‘Trung Tâm An Dưỡng Bệnh Nhân Tâm Thần’ Crestwood Manor.

Muốn vào bên trong Crestwood Manor, chúng tôi phải đi qua 2 lần cửa canh gác. Lần nào cũng phải nêu rõ lý do và tên thân nhân thì nhân viên an ninh mới chấp thuận mở cửa. ‘Trung Tâm An Dưỡng’ này có 3 ‘stations’ mà ông Hà thuộc về ‘station 2’. Cứ hai bệnh nhân sống chung một phòng. Trong đó, mỗi người đều có tủ riêng để đựng quần áo cùng những vật liệu khác. Ngày cũng như đêm, Crestwood Manor đều có ‘giám thị’ canh gác, đề phòng bệnh nhân ‘nổi cơn điên’ phá phách hoặc làm chuyện phạm pháp khác.

Chính ông Hà, hồi mới sang Mỹ tạm cư ở Missouri, đã có lần làm khu appartment sém cháy. Chẳng hiểu sao, người bảo lãnh của ông lại không được thông báo về chuyện ông mắc bệnh tâm thần? Trước khi đi Hoa Kỳ, trong buổi phỏng vấn của phái đoàn Mỹ ở VN, ông Hà đã cho biết ông mắc bệnh tâm thần, nhiều khi ‘nổi cơn điên’. Người Mỹ đại diện đã quả quyết với ông là khi sang Mỹ, cuộc sống của ông được chăm sóc từ A đến Z.

Tuy nhiên, khi tạm cư ở Missouri thì ông Hà ở một mình trong appartment, không có người chăm sóc — đề phòng khi ông ‘nổi cơn điên’. Vì vậy, khi hút thuốc, ông đã vùi điếu thuốc hút đang cháy dưới chiếc nệm, khiến căn phòng bốc khói mịt mờ. May mà có người phát giác kịp thời và dập tắt ngọn lửa. Sau đó, người bảo trợ mới xem giấy tờ của ông Hà thì tìm thấy số điện thoại của ông Nguyễn Phú Hữu.

Nhờ vậy, ông Hà đã được ông Nguyễn Thanh Đức đại diện K20 — đã hết lòng với bạn hữu — bay sang Missouri đón về San Jose và tạm trú ở nhà ông bà Hữu. Từ hồi đó đến nay, ông Hà vẫn được các chiến hữu có thiện tâm, như hai ông Phạm Hưng Long và Trần Hữu Bảo K20, thường đến Crestwood Manor thăm hỏi. Hy vọng, khi được bạn hữu chăm sóc và an ủi, tâm trí ông Hà dần dần sẽ bình phục.

Trở lại chuyện đi thăm ông Hà hôm ấy, sau khi ông Hữu làm xong thủ tục bảo lãnh cho bệnh nhân ‘xuất trại’ thì trên máy vi âm của Crestwood Manor vang lên tiếng gọi ông Hà. Chúng tôi không ngờ, chỉ trong vòng vài ba phút thì ông Hà, quần áo xốc xếch, chân đi khập khiễng, không giầy không vớ, bước tới văn phòng gặp chúng tôi. Ông Hữu mỉm cười bảo ông Hà:

- Về phòng, thay quần áo, đi chơi với tụi tao.

Ánh mắt ông Hà ngơ ngác, nhìn vợ chồng ông Hũu và chúng tôi rồi nói:

- Đi thì đi.

Chúng tôi tiến lại gần, ‘chào tay’ và hỏi ông Hà:

- Niên Trưỏng còn nhớ tôi không?

- Không.

Ông Hà cau mày, trông như đang cố gắng, moi trí nhớ, xem chúng tôi là ai?

- Ờ nhớ rồi, hôm trước đến nhà anh ăn phở.

Ông Hữu mừng rỡ:

- Đó, có trí nhớ, nhớ được rồi đó.

Quả thật, đó là điều đáng mừng. Trong mấy năm gần đây, bệnh tình của ông Hà có phần thuyên giảm. Hiện thời, ông có thể nhớ những điểm chính yếu trong quân ngũ, nhưng những chuyện hàng ngày — như làm gì, tiếp xúc với ai – thì ít khi ông nhớ được.

Ông Hữu cho biết, trên đầu và trên mặt ông Hà trước đây, có 4 nốt ruồi to như những hột cà-phê. Một nốt nằm trên cánh mũi trái. Theo sách tướng số, ‘những người như vậy thì thể nào cũng mắc bệnh tâm thần’. Đây là lý do, cách đây mấy năm, ông Hữu đã dẫn ông Hà đến phòng mạch, nhờ bác sĩ An cắt bỏ 4 nối ruồi ấy. Ông Hữu hy vọng, nhờ vậy tâm trí của ông Hà dần dần sẽ được phục hồi?

Sau khi dẫn chúng tôi đến phòng của ông Hà thì ông ‘giám thị’ ở Crestwood Manor, đi đến khu đổ rác để tìm kiếm đôi giầy. Vì ở đây, ai cũng biết ông Hà có ‘tật’, mỗi khi cởi giầy dép ra, mới cũ bất kể, đều đem liệng vào thùng rác! Chúng tôi đứng bên cạnh ông Hà, vừa quan sát căn phòng, vừa hỏi chuyện để thử xem tình trạng tâm trí của ông ra sao.

- Anh Hà ơi! Vợ anh tên là gì?

- Nguyễn Thị Lệ Nga.

- Bà ấy ở đâu bây giờ? Sao anh lại ở một mình?

- Vợ tôi chết rồi.

Trong lúc ấy, người giám thị tìm thấy đôi giầy của ông Hà thì vội vàng đem vào phòng. Ông Hữu vừa đi giầy cho ông Hà, vừa hỏi chơi:

- Tao thương mày, tao cột giây giày cho mày. Mày có thương tao không?

- Thương chứ, thương cả vợ mày luôn.

Ông Hữu làm bộ trừng mắt, nhìn ông Hà trách móc:

- Trời đất! Vợ tao mà mày thương hả?

Ông Hà điềm tĩnh, giải thích:

- Tao thương chứ đâu có yêu. Thương khác, yêu khác.

Tất cả chúng tôi đều cười. Có nhiều triệu chứng cho thấy, ông Hà có thể sẽ bình phục.

- Anh Hà ơi! Tại sao anh ‘mày tao’ với ông Hữu mà anh không ‘mày tao’ với chúng tôi?

- Tôi chơi thân với ông Hữu. Còn anh thì tôi giữ lịch sự.

Chúng tôi mỉm cười, rồi cúi xuống, tiếp tay với ông Hữu, buộc giây giầy cho ông Hà. Khi vén ống quần của ông Hà lên, thêm lần nữa, chúng tôi nhìn thấy rõ ràng hai vết sẹo, trông tựa như mấy con rết rất lớn, quấn chung quanh hai cổ chân ông Hà. Có chỗ lún sâu, ăn mòn vào trong ống xương gần nửa đốt ngón tay. Nếu không là ‘VẾT TÍCH tàn ác, bất nhân’ do VC gây ra trong trại giam thì là vết tích gì đây?

Mỗi lần nhìn ‘vết tích’ ấy, thêm một lần chúng tôi cảm thấy rùng mình, ghê tởm hành động dã man của bọn ‘hình người dạ thú’. Làm sao VC có thể chối cãi về hành động tàn ác, bất nhân khi sử dụng giây kẽm gai, buộc chặt vào hai cổ chân ông Hà? Ngày cũng như đêm, mỗi lần cử động, lại thêm một lần ông bị mấy đầu nhọn giây kẽm gai, ‘cưa sâu’ vào chung quanh cổ chân.

Quý vị nào đã sa cơ trong ngục tù VC thì hiểu rõ, trường hợp như ông Hà, không phải là trường hợp độc nhất, mà chỉ là trường hợp điển hình. Trong các ngục tù VC, ngụy danh là trại ‘cải tạo’, bên cạnh những người tù ‘bình thường’, có hàng ngàn tù nhân bị VC hành hạ ác liệt trong các phòng biệt giam. Họ phải chịu cực hình của bọn ‘hình người dạ thú’: Cùm kẹp, tra tấn, đánh đập và khủng bố tinh thần, để rồi phải mang tật nguyền suốt đời, hay chết đắng cay và tủi nhục nơi rừng thiêng nước độc.
    Cuộc Đời Nổi Trôi Theo Vận Nước
Ông Trương Đình Hà, quê ở xã Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Hồi niên thiếu ông sống với gia đình trong vùng kháng chiến chống Pháp do Việt Minh kiểm soát. Nhưng mấy năm sau, gia đình ông nhìn thấy bộ mặt thật gian manh Cộng Sản trong tổ chức này thì bỏ vùng kháng chiến về Đà Nẵng rồi vào Sài Gòn định cư.

Khi lên Trung Học, ông là học sinh xuất sắc, đã thành công khi theo ‘phong trào học nhẩy’ ở Sài Gòn — mỗi năm học 2 lớp. Thay vì phải học 7 năm, ông Hà hoàn tất chương trình Trung Học khoảng 3 năm rưỡi và đậu Tú Tài II Ban Toán.

Với sức học xuất sắc như vậy, ông Hà có thể thành công dễ dàng khi vào trường Cao Đẳng chuyên nghiệp, hay ghi danh vào phân khoa Đại Học. Nhưng vì sở thích và nhất là ý chí đấu tranh, ông Hà xin nhập học Trường Võ Bị.

Thật vậy, với bằng Tú Tài II hồi ấy, ông Hà cũng có thể đi kiếm việc dễ dàng. Lẽ dễ hiểu là chuyện thi cử thời Đệ Nhất VNCH, vẫn còn thi theo kiểu của Pháp, nên khó khăn hơn so với phương pháp ‘trắc nghiệm’ của Mỹ sau này. Tỷ số thi sinh đậu Tú Tài II trên toàn quốc — tại miền Nam — ở mức rất thấp. Vì đa số là các thí sinh là trường tư thục, hoặc thí sinh tự do.

Trong khoảng thời gian này, việt gian cộng sản Nguyễn Minh Triết đi thi Tú Tài II bị rớt. Tên ma đầu này liền sử dụng bằng GIẢ, xin nhập học Khóa Sĩ Quan Cảnh Sát. Sau khi bị phát giác, Triết bỏ trốn vào bưng theo tổ chức ma đầu, mệnh danh là ‘Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam’.

Quý vị nào là ‘bạn học’ cùng khóa SQ Cảnh Sát với Nguyễn Minh Triết, xin vui lòng cho biết thêm chi tiết chính xác hơn — để góp phần với các sử gia CHÂN CHÍNH, có thêm tài liệu chính xác, lật tẩy bọn bồi bút và các ‘sử gia ĐỎ’, thi hành quỷ kế xuyên tạc lịch sử của đảng giặc VC.

Trở lại chuyện ông Hà vào học Trường Võ Bị, năm thứ nhất ông ở đại đội B, sang năm thứ 2 ông Hà đổi sang đại đội G. Theo lời ông Hữu thuật lại, ông Hà rất giỏi Toán. Trong lớp học Calculus (Tích Phân & Vi Phân), đôi lần ông Hà ‘ngủ gà ngủ gật’ — vì đêm hôm trước, các SVSQ phải đi tập ‘dạ hành’ suốt đêm. Nhưng khi giáo sư là ‘Papa Phát’ gọi lên bảng thì ông Hà lại giải đáp mấy bài toán ‘hắc búa’, rất rành mạch, đúng 100%, khiến ‘Papa Phát’ ngạc nhiên. Nhiều lần như vậy, nên ‘Papa Phát’ rất cưng ông Hà.

Hôm học chiến thuật ‘Trung Đội Vượt Sông’, ông Hà là người duy nhất của khóa 20, đã bơi từ bờ bên này sang bờ bên kia của hồ Xuân Hương ở Đà Lạt.

Cuối năm 1965, sau khi mãn khóa, ông Hà gia nhập binh chủng Biệt Động Quân và thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 36. Đơn vị của ông đã tham dự, hầu hết các trận đánh ác liệt trong vùng Bình Long, Bình Dương và Phước Long.

Là đơn vị trưởng, ông luôn luôn áp dụng ‘kỷ luật sắt’ để ngăn cấm dăm ba thuộc cấp làm chuyện ‘bê bối’. Nên đơn vị của ông, được dân chúng — trong vùng trách nhiệm — rất mến mộ. Nhờ khả năng chỉ huy và thành thạo võ Bình Định, nên những binh sĩ ‘ba gai’, nổi tiếng là ‘du côn’ trong đơn vị, đều nể sợ ông Hà.

Trong Liên Đoàn 3 BĐQ, người bạn chí thân của ông Hà là ông Đỗ Cơ Danh. Đôi bạn cùng Khoá 20, đều thích uống rượu, hút thuốc Bastos xanh và nhiều lần ‘thập tử nhất sinh’ bên nhau trên chiến trường. Có lần, đại đội của ông Danh bị hai tiểu đoàn VC bao vây. Nhiều người e ngại, địch quân quá đông nên đợi khi có phi cơ và pháo binh yểm trợ thì mới đem quân đến cứu viện. Nhưng ngược lại, ông Hà bất chấp. Ngay khi được tin ông Danh lâm trận, ông Hà liền tình nguyện đem quân đến giải vây.

Kết quả là hai tiểu đoàn VC đã bị 2 đại đội BĐQ — của ông Danh và ông Hà — phản công mãnh liệt. Nên chúng không chịu nổi tổn thất, đành phải rút lui khỏi chiến trường, để lại cả trăm xác chết cùng vũ khí đủ loại. Đây là một trong những chiến công sáng giá mà ông Hà đã nhận được huy chương cao quý của Quân Lực VNCH và Hoa Kỳ.

Một hôm sau khi hành quân về hậu cứ, ông Hà và ông Danh đến quán rượu — khu cấm quân nhân Mỹ lai vãng — thì không ngờ, bị quân cảnh Mỹ tới bắt giữ. Hai ông phản đối quyết liệt, vì quân cảnh Mỹ không có quyền bắt giữ quân nhân VNCH. Nhất là hai ông lại là Sĩ Quan, đơn vị trưởng. Nhưng cuối cùng, rất may mắn, không có chuyện ‘đổ máu’ xẩy ra.

Sau nhiều trận đánh ác liệt, ông Hà và ông Doanh thuyên chuyển đi đơn vị khác nhau. Ông Hà về TĐ34, còn ông Danh về TĐ 51. Nhưng rồi, không lâu sau, ông Danh tử trận tại Cát Lái. Ông Hà buồn khôn tả, đến nỗi bỏ luôn 2 ‘tật nghiền kinh niên’ là hút thuốc Bastos xanh và uống rượu, mà trước đó ông Hà không thể nào bỏ được!

Tuy nhiên, chuyện bất hạnh nhất trong cuộc đời của ông vẫn là chuyện ngục tù. Sau ngày miền Nam thất thủ năm 1975, ông Hà bị VC hành hạ dã man, ròng rã suốt 11 năm trời.

Khởi đầu, ông bị giam 4 tháng trong trại Hòa Cầm — Trung Tâm Huấn Luyện của VNCH — tỉnh Quảng Nam. Trong thời gian này, VC đang ‘say men chiến thắng’, nên rất sắt máu. Ai đụng đến ‘Bác và Đảng’ của chúng, nếu không mất mạng thì triền miên trong ngục tù.

Thế nhưng, ông Hà bất chấp. Khi VC ép buộc ông phải cúi đầu, tôn thờ ‘Hồ’ quốc tặc thì không ngờ, ông đã ‘cả gan’, kéo tấm ảnh Hồ Chí Minh từ trên tường xuống. Không những ông xé nát tấm ảnh họ Hồ, ném xuống đất, mà lại còn giẫm chân lên. Vì thế, ông bị chúng xúm lại, đánh đập túi bụi. Sau đó, trong phòng biệt giam, cai tù VC đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để khủng bố tinh thần và hành hạ thể xác ông.

Sau 4 tháng, VC chuyển ông sang trại Khai Hoa, quận Thượng Đức, tỉnh Quảng Nam. Ở đây suốt 1 năm, ông chấp nhận bị cùm chân, còng tay trong phòng biệt giam chứ không chịu đi làm lao động. Cai tù VC liệt kê ông vào thành phần ‘ác ôn côn đồ không thể nào cải tạo’, nên chuyển ông sang trại Tiên Lãnh, quận Tiên Phước.

Trong trại giam thứ 3 này, VC đã áp dụng nhiều phương pháp ‘thần sầu quỷ khốc’ để hành hạ tù nhân nào có tinh thần bất khuất cao độ như ông Hà. Thiết tưởng mức độ dã man, tàn ác không kém trại ‘Lý Bá Sơ’ khi xưa ở miền Bắc. Suốt 10 năm trời, khi thì ông Hà bị chúng tra tấn, đầy đọa, bỏ đói. Khi thì chúng ve vãn, hứa hẹn. Tất cả chỉ nhằm chủ đích, bắt ông Hà cúi đầu tôn thờ ‘Hồ’ quốc tặc và ‘đảng’ giặc VC.

Thế nhưng, ông Hà vẫn ‘trước sau như một’. Các bạn tù trong trại đều chứng kiến, mỗi lần VC cho ông Hà dự buổi ‘học tập’ thì lại thêm một lần nổi giận:

Sau khi nhận tài tiệu của VC phân phát thì ông Hà đọc lướt qua rồi gạch dưới, hoặc làm vòng tròn chung quanh với lời chú giải — đoạn nào VC ‘nói láo’, đoạn nào VC viết ‘rất ngu’, đoạn nào VC ‘bịp bợm’. Làm xong, ông đứng lên, cắt nghĩa cho chúng nghe, từng điểm sai trái với dẫn chứng xác thực. Vì vậy, bọn VC càng nổi nóng, thù oán ông Hà. Thay vì xử bắn ông Hà, bọn chúng sử dụng phương pháp hành hạ nạn nhân vô cùng thâm độc:

Chúng dùng giây kẽm gai, cột chân ông vào chiếc cọc sắt — đóng sâu ở giữa chiếc hố, to và sâu gấp hai, ba lần hố bom — rồi đổ nước ngập tới cằm ông Hà. Khi ông mệt mỏi, gục đầu xuống thì bị nước làm ngộp thở. Khi ông nhúc nhích hai bàn chân thì bị kẽm gai ‘cưa sâu’ vào hai cổ chân.

Thế rồi, đêm cũng như ngày, trời nóng hay lạnh, ông Hà đều phải ngâm mình dưới nước và đi tiêu đi tiểu tại chỗ. Dĩ nhiên, VC không cho ông ăn. Chủ đích của chúng là muốn kéo dài thời gian để ông Hà ‘chết dần chết mòn’ trong nỗi đau đớn cùng cực về thể xác; đắng cay cùng cực về tinh thần. Quỷ kế này còn gieo rắc kinh hoàng trong tâm trí của các tù nhân tại trại giam.

Thế nhưng, nhiều bạn tù, giàu lòng nhân ái và có tinh thần đồng đội cao. Họ đã lén lút, quẳng khoai mì xuống cho ông Hà ăn. Nhờ vậy, ông sống sót.

Tuy nhiên, sức người có hạn. Làm sao ông Hà có thể chịu đựng được lâu dài? Cuối cùng, ông bị mất trí. Sau nhiều lần thấy ông Hà ‘nổi cơn điên’ thì VC tỏ ‘lòng nhân đạo’ kiểu VẸM, cho thân nhân của ông đến đón.

Hôm đầu tiên, ông Hà trở về nhà thì tất cả gia đình, bạn hữu, họ hàng, lối xóm không ai nhận ra ông! Thân hình ông chỉ còn da bọc xương, nhiều nơi lở loét. Hai con mắt ông đỏ hoe, miệng thường hay nói lảm nhảm. Hai cổ chân ông sưng vù, to như hai bắp chuối — đầy mủ và rỉ máu thường xuyên.

Quý vị nào đã từng trải qua mấy trại giam nêu trên, chắc hẳn còn nhớ ông Hà và chứng kiến thảm cảnh dã man, tàn ác do VC tạo ra? Nhiều bạn tù của ông Hà, ngay sau khi được thả, đã đến thăm ông. Họ thuật lại tỷ mỉ cho gia đình ông nghe. Trong đó có bà Trương Đình Tân, em của ông Hà, hiện nay cư ngụ ở thành phố Perth, West Australia. Bà Tân vẫn còn nhớ từng chi tiết, từng câu chuyện ‘thần sầu quỷ khốc’ mà ông Hà đã chịu đựng hơn 11 năm ngục tù.
    Chuyện Tình Alpha Đỏ
Không ai có thể làm thống kê, kiểm điểm xem trên hai miền Nam Bắc VN, từ năm 1945 đến năm 1975, có bao nhiêu đôi ‘uyên ương’ — lẽ ra được hưởng hạnh phúc bên nhau suốt đời — thì bị xô đẩy vào 2 cuộc chiến kéo dài 30 năm do quốc tặc Hồ Chí Minh và đảng giặc VC chủ xướng. Tuy nhiên, cắn cứ vào số binh sĩ của hai phía, ở lứa tuổi đôi mươi bị tử trận, thì chắc chắn có hàng trăm ngàn chuyện tình đã kết thúc bằng máu và nước mắt.

Mấy năm trước đây, chúng tôi có viết về chuyện ‘Uyên Ương Gẫy Cánh’ để tưởng niệm các Tử Sĩ — Cựu SVSQ/Khóa 21VB — trong đó có mấy vần thơ:
    Kỷ niệm xưa bên hồ Than Thở
    Nụ hôn đầu sớm nở trao anh
    Không ngờ duyên kiếp mong manh
    Uyên Ương Gẫy Cánh trên cành yêu đương
Còn ‘Chuyện Tình Alpha Đỏ’ của ông Trương Đình Hà và bà Nguyễn Thị Lệ Nga thì cũng kết thúc, bi thảm tương tự như trên:

Hai người yêu nhau từ khi ‘chàng’ còn là SVSQ Trường Võ Bị và dĩ nhiên, họ mơ ước, được ‘trăm năm hạnh phúc’ bên nhau. Thế nhưng, chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, mạng sống con người mong manh như sợi tóc. Nên chàng và nàng, không dám tiến tới chuyện kết hôn. Vì sau khi kết hôn, nàng dễ dàng trở thành quả phụ, suốt cuộc đời còn lại, sẽ phải sống bên cạnh mấy đứa con thơ không có cha.

Vì vậy, khi học xong Trường Võ Bị, chàng xông pha trên chiến trường. Còn nàng, sau khi tốt nghiệp đại học Văn Khoa, đành an phận với trách nhiệm của cô giáo. Hai người chỉ còn biết hứa hẹn, trao đổi thư từ, mỗi năm đôi ba lần gặp gỡ, hoặc làm thơ để thỏa lòng mong nhớ. Hết năm này sang năm khác, chàng và nàng mỏi mòn chờ đợi, đất nước thanh bình thì mới xây dựng tổ ấm.

Nhưng chẳng ngờ, miền Nam thất thủ năm 1975. Chàng bị đảng giặc VC hành hạ trong ngục tù. Còn nàng phải sống trong chế độ Mafia Đỏ — cực khổ đủ điều — nên phải nghĩ đến chuyện vượt biển tỵ nạn.

Nhưng làm sao giải thoát cho chàng ra khỏi trại tù? Trong thời gian ấy, VC chỉ cho bà mẹ của chàng đến thăm. Làm sao, nàng có thể gặp chàng để bàn tính chuyện vượt biển? Nàng thất vọng, nhưng nhất quyết, thà chết cả đôi, chứ không bao giờ đi lánh nạn một mình.

Thế rồi, nàng mỏi mòn, đợi chời hết năm này đến năm khác, chỉ thiếu điều ‘hóa thành đá’ — giống như Hòn Vọng Phu. Nỗi khổ của nàng, còn trầm trọng hơn nỗi khổ của thiếu phụ trong câu chuyện ‘Hòn Vọng Phu’. Vì thiếu phụ ấy, còn có con mà bồng, nên đỡ cảm thấy cô đơn. Ngược lại, nàng thì không.

Đọc đến đây, thể nào cũng có người thắc mắc: Nàng chưa kết hôn với chàng thì động lực nào ép buộc, nàng phải trung thành với kẻ ‘đã ngã ngựa’ — sống trong ngục tù, không biết đến năm nào mới được thả ra?

Nhất là trong thời Mafia VC thì chuyện ‘phù thịnh’, chuyện ‘thay trắng đổi đen’, hoặc sa ngã v.v. đều là chuyện ‘rất bình thường’. Thi sĩ Khuyết Danh, tác giả của tập thơ Vô Đề đã viết:
    Hạnh phúc, niềm tin, nhân phẩm, luân thường
    Đảng đến là tan nát cả
Ai đã từng sống dưới chế độ Mafia Đỏ thì nghiệm thấy, đó là sự thật. Những giá trị tinh thần trong xã hội VN bị băng hoại trầm trọng. Nhiều người bị VC đầu độc, trở thành những kẻ vô luân. Đường lối cai trị của chúng dồn ép con người, dễ dàng sa vào cảnh ‘bần cùng sinh đạo tặc’, hành xử với nhau như loài cầm thú.

Một ngàn năm giặc Tàu đô hộ dân ta. Một trăm năm thực dân Pháp giầy xéo đất nước ta. Nhưng chưa có thời kỳ nào, xã hội VN lại có nhiều chuyện vô luân, nhiều chuyện bất nhân như thời giặc Cờ Máu.

Chứng cớ điển hình là sau khi chiếm được miền Bắc, giặc Cờ Máu xách động người nghèo, đấu tố người giàu. Thảm trạng cướp cuả giết người trong những năm “Cải Cách Ruộng Đất” diễn ra khắp nơi. Luân thường đạo lý trong xã hội tiêu tan. Con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng. Họ hàng hoặc bạn hữu nghi kỵ nhau, tố cáo nhau, hậm hực với nhau như ‘chó với mèo’ — tranh nhau ăn!

Khi VC chiếm được miền Nam thì hàng trăm ngàn, hay cả triệu gia đình tan nát vì chiến dịch ‘Hoa Nở Về Đêm’? Trong khi người chồng bị VC giam trong trại tù thì người vợ ở nhà sa vào cảnh bần cùng. Đảng giặc gian manh lại còn thâm độc, âm thầm ‘bật đèn xanh’, cho cán bộ, bộ đội, hay công an đến nhà dụ dỗ, hăm dọa và lừa gạt.

Trước cảnh ‘cây gậy và củ cà rốt’ có bao nhiêu thiếu nữ, vẫn giữ lòng son sắt với chồng trong lúc bị sa cơ? Có bao nhiêu người đã ‘thay dạ đổi lòng’? Có bao nhiều người bị sa ngã, hoặc bị lừa gạt?

Dù sao, chiến dịch “Hoa Nở Về Đêm”, vô hình trung đã được tên thổ phỉ VC là Nguyễn Hộ ‘xác nhận’. Khi thảo luận với đồng đảng về cách đối xử với thành phần ‘Quân, Cán, Cảnh VNCH’ thì hắn nói:

‘Nhà của chúng, ta ở; vợ của chúng, ta lấy; con của chúng, ta sai. Còn chúng, ta cho vào tù trong những khu rừng thiêng nước độc...’.

Hệ quả là nhiều tù nhân, sau khi đi tù trở về thì nhà cửa, vợ con đều bị ‘cán ngố’ cướp trắng tay. Trong nhiều trường hợp, chúng còn đểu cáng đến độ, lúc người tù trở về không nơi tá túc thì chúng cho ở tạm trú một đêm. Chờ đến khi ‘tối lửa tắt đèn’, chúng làm tình với người vợ cũ của tù nhân, rồi cố tình gây tiếng động!

Hiện thời, sau 27 năm chiến tranh chấm dứt, nhưng thảm cảnh đói khổ, lầm than và tệ đoan xã hội, càng ngày càng gia tăng. Có hàng trăm ngàn phụ nữ, hay cả triệu phụ nữ và bé gái, không những phải ‘bán trôn nuôi miệng’, mà lại còn cầu mong có thai với khách làng chơi, để bán con từ khi còn ở trong bụng mẹ nhằm kiếm được những món tiền ‘béo bở’!

Trong xã hội xô bồ, bẩn thỉu như thế, vô luân như thế, liệu còn bao nhiêu người vẫn vươn lên, để cuộc sống có tình, có nghĩa, có thủy chung? Không ai biết, nhưng chắc chắn, họ là thành phần thiểu số.

Như vậy, hiếm hoi lắm mới tìm thấy ‘tấm lòng vàng’. Hiếm hoi lắm mới chứng kiến ‘câu chuyện tình cao đẹp’ — như khi đọc ‘Hồn Bướm Mơ Tiên’, hay xem phim ‘Roméo Và Juliette’.

Vì vậy, ai cũng ngạc nhiên, ‘chuyện lạ, khó tin nhưng có thật’: Trong thời Mafia VC, có thiếu nữ trẻ đẹp, duyên dáng, gia đình khá giả — không hiểu vì tâm hồn cao thượng bẩm sinh, hay vì lòng thủy chung với người tình cũ — đã vui mừng kết hôn với chàng ‘Alpha Đỏ’, mang bệnh tâm thần, từ trại ngục tù VC trở về quê cũ.

Chẳng hiểu quý vị có cảm nghĩ thế nào? Còn chúng tôi thì liên tưởng đến ‘Đóa Hoa Sen’ — loài hoa ‘cao quý’, luôn luôn vươn lên cao, thường thấy nở trên ao bùn hôi thôi.

Đúng là như vậy. Ông Trương Đình Hiến, anh của ông Hà, thường nhắc lại ‘kỷ niệm hi hữu’ trong buổi lễ kết hôn của chàng và nàng: Giữa lúc cô dâu và chú rể đang trịnh trọng tiếp đón quan khách thì chú rể ‘nổi cơn điên’, đứng nói lảm nhảm rồi bỏ vào phòng nằm ngủ! Nhưng nghi lễ vẫn tiến hành. Mặc dù cô dâu đứng ‘lẻ loi’, nhưng vẫn vui vẻ và hãnh diện khi kết hôn với ông Hà!

Sau khi nghe câu chuyện tình này, có lần chúng tôi đã tự hỏi, Đức Bồ Tát, hay Đức Mẹ Maria, đã xếp dặt cho nàng đến với chàng? Hiển hiện, ai cũng biết là nàng không mưu cầu hạnh phúc ái ân, hay ‘giầu sang phú quý’. Vì kết hôn với kẻ mắc bệnh tâm thần thì không bao giờ đạt được những điều mong ước ấy, mà ngược lại còn ‘mang gánh nặng’ vào thân!

Đấy là chưa kể, thể nào cũng có kẻ dèm pha, thế này, thế nọ. Nhưng nàng bất chấp. Vì tình yêu, vì tình xưa nghĩa cũ, vì lòng nhân ái thúc đẩy, nàng muốn ở bên cạnh chàng để nuôi nấng, chăm sóc và an ủi. Nàng hiểu rõ, vì thảm họa Cộng Sản nên chàng bị sa vào cảnh nghiệt ngã, cần có bàn tay của nàng săn sóc.

Chỉ tiếc rằng, với ‘tấm lòng vàng’ như thế, nàng sống chung với chàng không được bao lâu thì bị ngăn cách. Chàng phải vào nhà thương điên Biên Hòa. Còn nàng, phải sống lẻ loi ở Sài Gòn.

Thế rồi, vào một buổi chiều mưa to gió lớn. Nhưng nàng bất chấp, vẫn giữ đúng như lời hẹn, đi xe đạp từ Sài Gòn đến Biên Hòa thăm chàng. Chẳng ngờ khi về, đường ướt đẫm nước mưa, nàng ngã, nằm bất tỉnh bên lề đường. Sau khi được chở vào nhà thương, khoảng mấy ngày thì nàng tắt thở — vì vết thương nhiễm trùng ‘sài uốn ván’!

Trong khi ấy, chàng ở Biên Hòa không hề biết tin nàng đã qua đời. Chàng đâu có ngờ, buổi chiều mưa to gió lớn hôm nao là lần cuối cùng, hai người gặp nhau.

Khi viết đến đây, chúng tôi muốn gởi ‘nén hương lòng’ về nơi an nghỉ cuối cùng của người quá cố để tỏ lòng mến mộ ‘Tấm Lòng Vàng’ của bà ‘chị dâu Võ Bị’.

Chính ông bà Nguyễn Phú Hữu — hai người biết rõ về ‘Cuộc Đời Và Chuyện Tình Alpha Đỏ’ — cũng vì lòng mến mộ và tình chiến hữu, nên thường xuyên chăm sóc ông Hà rất tận tình. Kể cả việc đón ông Hà về nhà hớt tóc, tắm rửa, lo thuốc men, hay dẫn ông Hà đi ăn, nhất là vào những ngày nghỉ như Tết Nguyên Đán hay lễ Giáng Sinh.

Đây cũng là trường hợp hiếm hoi làm chúng tôi nhớ đến chuyện ‘Lưu Bình, Dương Lễ’ hồi xưa. Vì ở xứ Mỹ này, đa số người Việt tỵ nạn đều bận rộn về gia đình và sinh kế. Nên ít có người làm được những điều ‘thiện nguyện’, tận tụy săn sóc, giúp ông Hà, như ông bà Nguyễn Phú Hữu đã làm.
    Đôi Điều Suy Ngẫm
Bên cạnh tình ‘huynh đệ chi binh’ nồng thắm nêu trên, ‘Cuộc Đời Alpha Đỏ’ của ông Trương Đình Hà chỉ là trường hợp điển hình cho thấy, tinh thần bất khuất của khá đông tù nhân — Cựu Quân Nhân VNCH — khi sa cơ thất thế, bị đầy đoạ dã man trong ngục tù, nhưng nhất quyết, không cúi đầu theo đảng giặc VC “thờ Mao Chủ Tịch, thờ Stalin”.

Đồng thời, khi viết về ‘Cuộc Đời Alpha Đỏ’, chúng tôi còn muốn tỏ lòng tri ân các Thương Phế Binh VNCH. Họ là những người đã cầm súng — trong hàng ngũ Quân Lực VNCH — phục vụ Chính Nghĩa, để miền Nam đứng vững 20 năm (1954-1975).

Nhờ vậy, hàng chục triệu đồng bào, trước 1975, KHÔNG phải đi vượt biên, vượt biển, hay sa vào thảm cảnh, nghèo khổ lầm than như bây giờ. Sau 1975 thì đại nghĩa “Diệt Cộng An Dân”, càng ngày càng sáng tỏ. Ai cũng nhìn thấy mặt thật ‘phản dân hại nước’ của quốc tặc Hồ Chí Minh và đảng giặc VC.

Do đó, giúp đỡ Thương Phế Binh VNCH ở VN là nghĩa cử, nên làm. Tuy nhiên, xin quý vị đề cao cảnh giác và tìm hiểu kỹ càng về chuyện quyên tiền giúp Thương Phế Binh, hoặc việc Từ Thiện khác.
    Loài ác quỷ, giả lòng nhân ái
    Lũ ma đầu mặc áo cà sa
    Tạo mà sương, ẩn náu tâm tà
    Che tội ác, lừa bịp thiên hạ
Đó là hiện tình trong cộng đồng tỵ nạn VC ở hải ngoại — đúng như mấy vần thơ của tác giả Phạm Thanh Phương diễn tả. Còn tình trạng ở VN thì hiển nhiên, tồi tệ hơn cả ngàn lần. Chuyện điển hình như hồi Tết Nguyên Đán năm ngoái, đài Á Châu Tự Do và giới truyền thông ngoại quốc đã tường trình — tóm lược là:

‘Cán bộ VC, từ Bắc vào Nam, đã tham nhũng, ăn cắp cả tiền quỹ của người NGHÈO KHỔ thì không còn là CON NGƯỜI NỮA’.

Đấy là chưa kể, ở nhiều nơi, quà Giáng Sinh của trẻ em, hay xe lăn của Thương Phế Binh — do các hội ‘Từ Thiện’ ở hải ngoại gởi tặng — đều bị VC tịch thu, vì không có tiền trả thuế cho bọn VC! Như vậy, tiền giúp Thương Phê Binh, tiền ‘Từ Thiện’, tiền ‘Ái Hữu’ v.v. làm sao tránh khỏi nanh vuốt của bọn “hình người dạ thú’?

San Jose 29-9-2003

Trần Quốc Kháng

Copyright by Trần Quốc Kháng:

Tác giả GIỮ BẢN QUYỀN tất cả các bài viết phổ biến trên Internet, hoặc báo chí ở hải ngoại. Bất cứ ‘cơ quan ngôn luận’ hay cá nhân nào TỰ Ý lấy bài viết của chúng tôi trên Internet (không do chúng tôi gởi đến địa chỉ của họ), để sử dụng với mục đích MỜ ÁM — như vài ba tuần báo ở Nam Bắc California đã làm — hoặc cắt xén, hoặc sửa chữa, dù vài ba chữ, nhằm xuyên tạc nội dung, sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm trước công luận và luật pháp.

Ngược lại, chúng rất vui mừng khi nhận được Email của quý vị có THIỆN Ý, muốn phổ biến bài viết của chúng tôi — trên Website, Đặc San, Tuần Báo, Nhật Báo v.v. Xin vui lòng liên lạc với chúng tôi qua địa chỉ Email Tran_Quoc_Khang@Yahoo.com. Chúng tôi sẽ hoan hỷ phúc đáp.



No comments:

Post a Comment