- Đồng Chiêm máu chảy hòa non nước,
Tam Toà vững bước rạng niềm tin.
Hôm nay tôi viết đôi dòng muộn màng về Đồng Chiêm. Nhưng không viết về những đau thương thống khổ của người dân Đồng Chiêm đang phải oằn mình gánh trên vai, cũng không ca tụng nhửng mảnh áo thẫm máu đỏ của người dân Đồng Chiêm đổ ra vì cái hung tàn của côn dồ Việt cộng, như là những giọt máu hồng chứng minh cho niềm tin riêng của ngưòi Công Giáo. Nhưng tôi viết đến những giọt lệ trên cánh Đồng Chiêm như là Lệ Mừng hơn là những ưu tư mà trước đây, trong “Tam Tòa sóng đổ về đâu” tôi đã viết là:
“Nếu lửa Tam Tòa không nóng tời Phát Diệm, Bùi Chu, Hải Phòng, Hà Nôi, Cao Bắc Lạng, Sơn Tây. Không chiếu quang đến Huế Đà Năng Nha Trang Phan Thiết, Đà Lạt, Kontum, Sài Gòn. Lại qúa xa với Đồng Nai, Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Long, Phước Long. Còn xa hơn nữa với Mỹ Tho, An Giang, Cần Thơ, Cà Mâu, Trà Vinh, Rạch Giá … và lửa ở nhà thờ Tam Tòa không bén sang cửa nhà Phật, không thổi hơi nóng tới Thánh Thất Cao Đài, Hoà Hảo và rồi Tam Tòa ở mô? Hoặc giả, hồn ai nấy giữ … phần ta, lửa chưa đến cứ ăn ngon ngủ kỹ thì Tam Toà không phải là cái tên cuối nổi lên trong cuộc bạo hành bất lương do nhà nước Việt cộng tạo ra. Nhưng đó chỉ là một trong chuỗi những địa danh lần lượt được nếm trải mùi bạo lực trong chủ trương triệt hạ ảnh hưởng tôn giáo trên phần đất này của nhà nước Việt cộng mà thôi”.
Như thế, Đồng Chiêm hôm nay cũng chỉ là một mắt xích nối tiếp từ Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý … đến những địa danh khác trong tương lai. Nhưng Đồng chiêm hôm nay, sự kiện tưởng chừng giống như những nơi khác, trong thực tế, sự kiện Đồng Chiêm là một cuộc tấn công khác. Một cuộc tấn công trực diện vào biểu tượng niềm tin của ngưòi Công Giáo. Nên từ đó có khả năng khai mở ra một chân trời khác, tạo ra một hướng đi khác, tích cực hơn trong Niềm Tin của những người đi tìm Chân Lý, tìm Tự Do và Công Bằng Xã Hội.
Trước hết, có một điều không ai phủ nhận là: Cây Thánh Giá được coi như một biểu tượng khổ đau của nhân loại. Nhưng đồng thời, Cây Thánh Giá cũng là biểu tượng Ân Sủng của ơn Cứu Độ, của Tình Thương, hoặc gỉa, là biểu tượng của Bình An, nơi con người có thể đặt vào đó một niềm tin tuyệt đối. Cách riêng, đó lả biểu tượng Trung Thành trong đức tin của ngưởi công giáo trên hoàn vũ.
Thật vậy, trước khi Đức Giêsu Kitô, Người mà toàn thể nhân loại vui mừng chào đón ngày sinh vào ngày 25-12 hàng năm, bị treo lên Thập Tự Giá trên núi Sọ, Thập Giá chính là án phạt đau khổ nhất, ghê gớm nhất, nhục nhã nhất mà xã hội cách đây 2000 năm đã dành cho những tên tội phạm thuộc diện hung ác của xã hội. Nhưng khi Đấng Vô Tội là đức Giêsu Kitô bị treo lên đó. Ngài đã chết. Chết cho muôn người được sống thì Cây Thập Giá đó đã trở thành một biểu tương Thiêng Liêng tuyệt đối, Ân Sủng tuyệt đối, Tình Yêu tuyệt đối và đã đem An Bình, Hy Vọng tuyệt đôi đến ở trong lòng người.
Nói cách khác, trước biểu tượng Linh Thiêng viên mãn này, những độc ác tàn bạo, đầy uy lực của Neron, của Minh Mạng, Thiệu Trị và nay là Hồ chí Minh hay của những cường đạo Việt cộng Mạnh, Triết, Dũng, Trọng, Nghị, Thảo … có đáng là chi. Nếu như không muốn nói đó chẳng qua chỉ là những cỏ rác, rong rêu sẽ tàn lụi theo cát bụi của thời gian và để lại cho hậu thế những cái tên đáng ghê tởm. Phần Cây Thánh Giá, biểu tuợng kinh qua khổ đau sẽ mảĩ mãi muôn đời trổi vượt lên như một Ân Sủng toàn diện, một An Bình vĩnh cửu. một Niềm Tin vững chắc, một Hy Vọng tuyệt đối cho con người tìm đến để tín thác, để nương nhờ.
Vâng, hãy nhìn một người chiến binh thất trận, chạy tan hàng, lạc đồng đội và phía sau lưng là tiếng súng, tiếng giặc hò hét đuổi theo. Có lẽ đời anh sẽ không còn một nỗi kinh hoàng lo sợ, khủng hoảng nào hơn thế nữa. Nhưng khi anh chạy đến được một nơi có Cây Thánh Giá nằm trên đỉnh cao nhà thờ. Hoặc giả, tím vào bên bức vách của một căn nhà, mà trong nhà ấy trên bàn thờ có một Cây Thánh Giá thì âu lo, hoảng sợ vụt tan biến đi và thay vào đó là một niềm tin trong an bình, dù rằng đời anh chưa hề nghe biết đến từ ngữ đọc kinh hay cầu nguyện là gi! Tôi tin rằng anh ta sẽ tìm cách xin ở lại nương tựa vào Niềm Tin vừa đến ấy, hơn là, đạp đổ Cây Thánh Giá rồi lại trốn chạy quân thù trong lo âu!.
Rồi một anh cán binh Việt cộng bị thương, bị đồng đội bỏ lại trên đường mai phục để thoát chạy lấy thân. Ngoài cơn đau xé da thịt vì không được cứu chữa là sự uất hận bị bỏ rơi, anh còn lo sợ thần chết, lo sợ bị bắt và bị “nguỵ” chém giết, xẻ thịt banh da như những lời tuyên truyền nhồi sọ từ hàng ngũ cán bộ lãnh đạo trước khi đi gài mìn giết hại đồng bào. Anh đau đớn, tuyệt vọng khi lê thân vào những quãng đường, đồi, nương rẫy. Bỗng nhiên, cuộc sống như hồi sinh, dòng máu, nhịp tim lại dồn dập trong người. Một sự an bình như chưa bao giờ có đã chiếm trọn lấy cả tâm hồn và thể xác khi anh ta bò đến, và ôm được một cái chân cột. Lúc mở mắt nhìn lên. Đó chỉ là một Cây Thánh Giá thô sơ cắm trên ngôi mộ trong nghĩa trang của một xứ đạo miền quê. Anh gục đầu xuống, ôm chặt lấy và không còn muốn rời xa nữa. Bởi lẽ, dù không phải là người có đạo, chưa một lần biết cầu kinh, trái lại, còn được học tập, nuôi lờng căm thù những thành phần “tôn giáo phản động” bán nước. Kết quả, vào lúc này, anh chỉ còn duy nhất một ước mơ. Nếu có phải chết, anh xin được chết trong phút giây an bình dưới chân cây cột mà anh đang ôm trong tay. Anh không muốn chết vì lòng căm thù như đã được học tập.
Nhưng trái ngược với nhân bản tính của con người và anh cán binh kia, Hồ chí Minh và tập đoàn Việt cộng từ năm 1930, đã đem dân làm nô lệ cho ngoại bang, còn ra công sức xây dựng trên phần đất của Việt Nam một tổ chức phi nhân lấy chủ thuyết vô gia đình, vô tôn giáo vô tổ quốc làm lẽ sống. Lấy cường bạo, bất lương làm phương châm hành động. Từ đó, họ đã không ngừng gây ra muôn vàn thảm họa trên cả hai phương diện tinh thần lẫn thể chất cho dân tộc Việt.
Bên ngoài, dù được che đạy bởi lớp mỡ ngôn từ hào nhoáng, nhưng chẳng bao lâu sau ngày xuất hiện, người dân trên toàn đất nước đã nhận ra cái bản chất thật của tập đoàn lãnh đạo của nhà nước Việt cộng là bất nhân, gian dối: Chúng luôn luôn đẩy người dân vào những mâu thuẫn cục bộ từ gia đình, đến làng xóm, vào học đường, xã hội, để trục lợi, để nắm lấy quyền lực. Chúng không bao giờ muốn cho nhân dân có được cuộc sống gia đình yên vui, cơm no áo ấm. Không bao giờ muốn cho trẻ thơ được giáo dục nghiêm túc về trí dục và đức dục. Không bao giờ muốn xây dựng một xã hội có trật tự, biết tôn trọng luân thường đạo lý, tôn trọng luật pháp nhân bản. Cũng không bao giờ muốn thấy tôn giáo là điểm hẹn đến của công bằng đạo đức cho từng ngưòi từng nhà noi theo. Trái lại, chúng muốn đạp cho tan mọi ảnh hưởng gia đình. Phá cho nát niềm tin trong tôn giáo. Diệt cho hết truyền thống đạơ đức, luân lý xã hội và giải trừ tận căn nguyên nền Văn Hóa Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín là gốc sinh của dân tộc, để tất cả đều quy hướng về một nền luân lý vô đạo, phi nhân, vô luân, bất nghĩa, phi pháp của cộng sản.
Phía nội bộ, hàng hàng tủ sách vở trên thế giới đã ghi lại rằng: Đấu tranh phê bình trong sinh hoạt đảng cộng đồng nghĩa với việc học tập cách thức gian dối, cách thức hành động phi luân, bất nhân, bất nghĩa với mọi người (nguyên TBT Liên Sô, Gobachev). Thủ tướng Đức, tiến sĩ Angela Markel cũng có những công bố tương tự: “Cộng sản đồng nghĩa với gian dối, tạo ra gian dối". Nên việc rèn cán, chỉnh quân, thay máu này đã trở thành một lẽ sinh tử cho chúng. Bởi lẽ, nếu gian dối, độc ác không thành bản chất của đảng. Nếu vô luân bất nghĩa không phải là dòng máu luân lưu trong huyết quản của từ Minh, Đồng, Khu, Duẫn, Mười, Linh, Phiêu … cho đến đến những Kiệt, Khải, Cầm, Anh, Triết, Trọng, Dũng, Mạnh, Nghị Thảo Rứa …, đã không có những cuộc đấu tố đẫm máu nhân dân Việt Nam từ thời 1930 đến nay, để hơn 170,000 ngàn sinh mạng, (không kể những người chết trong chiến tranh) trong đó có rất nhiều những người đã dày công lao sinh thành, dưỡng dục, nuôi nấng, che chở, bảo vệ chúng trong cuộc chiến hàng nhiều năm trước, được đền trả bằng bản án phú, nông, địa, hào, tư sản, hoặc giả, tay sai bán nước! Đã không có những cuộc chiếm đoạt đất đai, cướp giật tài sản của các tôn giáo và đày ải các vị chân tu trong chốn lao tù. Đã không có cuộc chôn sống mấy ngàn người dân vô tội ở Huế. Đã không bịt miệng người giữa chốn gọi là công đường. Đã không có cảnh những dân oan, từng là mẹ liệt sỹ, gia đình cách cách mạng lang thang đi đòi đất đòi nhà. Và cũng không có hàng triệu người Việt Nam phải sống lưu đày nơi đất khách!
Theo đó, những sự kiện như Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý và rất nhiều những đơn vị cá nhân dân oan trải rộng trên bề diện cả nước, và nay là Đồng Chiêm, không xảy ra mới là chuyện lạ! Như thế, Đồng Chiêm, hay bất cứ tên của một địa danh nào đó, sau một đêm bất chợt, trở thành một địa điểm lưu ký sự bạo tàn của nhà cầm quyền Việt cộng thì phải được hiểu rằng: Đó không phải là địa điểm cuối. Nhưng nó chỉ là những cái tên như những mắt xích, tiếp diễn cuộc bạo hành bất lương theo chủ trương của chúng cho đến khi chúng bị tiêu diệt mà thôi.
Tuy nhiên, Đồng Chiêm hôm nay, sự việc không còn nằm trong chủ trương bạo lực trấn áp lương dân để chiếm đoạt tài sản nữa. Trái lại, chúng đã vượt qúa mức của cuộc bạo hành trong trí khôn của con người. Chúng đã chính thức chà đạp biểu tượng Niềm Tin, là Ân Sủng và Ơn Cứu Độ của người Công Giáo, không phải chỉ ở Đồng Chiêm, nhưng là toàn thể Giáo Hội Công Giáo Việt Nam! Chúng muốn thách đố một Niềm Tin chăng?
Nhớ lại, vào cuối năm 2007, phong trào cầu nguyện trong an bình để đòi Công Lý, đòi Tự Do tôn giáo cho người dân Việt Nam -- khởi đi từ Tổng giáo phận Hà Nội dưới sự coi sóc của Đức TGM Giuse Ngô quang Kiệt -- đã làm náo nức lòng người, làm rộn ràng mọi bước chân. Từ trong ra ngoài, không kể lương, không kể giáo, cũng không hề phân biệt chủng tộc, đều đổ dồn con mắt về Hà Nội để chờ đợi ngày chung thẩm của Công Lý. Ngày Tự Do. Nhân Quyền đến cho dân nước Việt Nam.
Trong khi đó, về phía nhà nước Việt cộng, sau gần mười năm hoà hoãn, đi cầu tự khắp nơi, kể cả việc chúng đến Roma để tìm chỗ tựa ngõ hầu tồn tại sau khi đế quốc đỏ tan vỡ, nay lại trở về với bản chất phi nhân bạo tàn. Ngoài thì dâng đất, dâng biển, dâng tài sản thiên nhiên của quốc gia cho Tàu cộng để cầu vinh. Bên trong thì mưu đồ áp chế, cướp đoạt tài sản của nhân dân và dùng bạo lực tiêu diệt Công Lý, bóp chết Tự Do, Nhân Quyền của con ngưòi. Kết qủa, cuộc đi đòi Công Lý không ngừng lại vì đàn áp, bạo lực của nhà nước. Trái lại, “Tuyên Ngôn Công Lý” lại hiển hiện rõ ràng trong lời công bố của TGM Hà Nội ngay giữa hội đường, trước mặt những kẻ nắm bạo quyền vào ngày 20-9-2008 tại Hà Nội: “Tự Do Tôn Giáo là cái quyền cơ bản của con người, Tự do Tôn giáo không phải là một ân huệ Xin - Cho”. Ai, và còn ai nữa đã hiên ngang vì Công Lý như thế? Công bằng mà trả lời rằng, ít nhất, trong thời gian ấy còn LM Nguyễn văn Lý cũng vì Công Lý mà ngồi tù. Luật sư Lê thị Công Nhân cũng vì đất nước vì nhân dân vì quyền làm người vì tương lai của dân tộc mà vào ngục như đi nhận một nhiệm sở mới!
Dĩ nhiên, Việt cộng biết rõ sức mạnh của toàn dân ngày nay không thuộc về chúng. Nhưng cơn mộng du bạo lực lại không thể rời xa những đôi mắt đảng, nên chúng tiến hành thêm cuộc bạo hành bắt người ở Thái Hà. Kết qủa hàng vạn vạn cành thiên tuế từ tay nhân dân đi đòi tự do tôn giáo, đi đòi Công Lý đã vươn cao trên khắp trời Hà Nội. Trong khi đó, dẫu gian ác là thế, nhà nước Việt cộng vẫn không thể tìm ra tội trạng để kết án tám anh chị em giáo dân Thái Hà. Sức mạnh của người dân chưa ngừng lại ở đó. Cả nửa triệu người đã như ngọn sóng dâng tràn tim về bên bờ sông Nhật Lệ. Tam Tòa không còn nhỏ bé, nằm chờ Xin – Cho, nhưng đã vươn mình trổi dậy với giang sơn trong cuộc trường chinh tìm Công Lý. Lúc ấy, nhiều người đã cho rằng, chẳng còn bạo lực nào có thể ngăn cản được lòng người mong tìm đến Sự Thật, tìm đến Công Lý …
Bỗng như một cơn khổ nạn. Giữa lúc người người hăm hở chờ đợi ngày cùng nhau dồn bước chân trên đường Công Lý. Một bản tin không rõ xuất xứ, không rõ chủ đích đăng tải trên Nét đã làm nghẽn hơi thở biết bao tim lòng. Làm chùn, làm chậm hàng triệu triệu đôi chân và làm bao dòng lệ vương tràn trên khoé mắt: Đó là bản tin Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt từ chức TGM Hà Nội!
Hỡi Trời ơi. Những tưởng rằng trời tan, đất lở. Toàn dân rúng dộng, giáo dân hoang mang, chính quyền hồ hởi. Họ hồ hởi vì từ mấy năm nay, có khi nào họ quên không tìm cách đẩy “Ông Công Lý” ra khỏi Hà Nội. Hơn thế ra khỏi Việt Nam càng tốt. Lý do, có khi nào kẻ thờ thần gian dối dám giáp mặt thần Công Lý?
Phía Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thì hoàn toàn giữ im lâng. Đã yên lặng trước hướng đi của hàng triệu dôi chân tìm Công Lý, đòi tự do tôn giáo cho Việt Nam, lại càng thủ kỹ trước bản tin. Các Ngài yên lặng đến nỗi tạo ra nghi ngờ trong hàng ngũ giáo dân, làm hoang mang lòng người.Và làm ly tán thêm niềm tin của giáo dân vào Hội Đồng vì những bản tin đồn cứ vùn vụt loan đi: “Nào là có nhiều vị giám mục không đồng thuận với hướng đi tìm Công Lý của Đức Cha Kiệt. Nào là các Ngài không muốn hướng đi tìm Công Lý của đức TGM Hà Nội làm ảnh hưởng đến ân huệ Xin-Cho" đã thành nếp trong Giáo phận của các Ngài. Nào là đa số các Ngài hài lòng với phương cách “đối thoại Xin Cho” để được dễ dãi trong việc xuất ngoại …. xin tiền về xây cất, mở mang, tổ chức lễ lạc cho to lớn linh đình ... hơn là cố công xây dựng đền thờ Công Lý nơi lòng ngườì nhu tinh thần của thư chung năm 1980 của HĐGMVN. Và nào là phải yên lặng để chờ nhà nước chấm điểm, ra ơn cho về Hà Nội, Sài Gòn!”
Tệ hơn thế, bản tin đồn còn mang đi những mầm mống độc hại như "một số vị trong HĐGMVN dịp Ad limina ờ Roma cũng muốn đức TGM Hà Nội từ chức”. Thêm cho bản tin đồn ấy là việc đức TGM Hà Nội đau bệnh phải đi tĩnh dưõng lại Nho Quan càng làm cho bản tin đồn có cơ sở và cho lòng người héo úa với những dòng nước mắt sầu muộn lã chã rơi! Phần Ngài, giọt nước mắt cô đơn, giọt nước mắt thương dân có lẽ chưa ngưng đọng. Từ đó, có người còn đưa tin đồn là "đức TGM Hà Nội sẽ xuất hiện trong ngày khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện, nhưng là để từ biệt hơn là trở lại với đoàn chiến"!
Nhưng mấy ai ngờ, lịch sử vẫn chỉ là những giây phút tình cờ tiếp nối nhau. Từ ngàn xưa, Đức Giêsu Kitô cũng đã trải qua khổ nạn trên thập tự gía trước khi Phục Sinh để giải thoát con ngươi. Cũng thế, hôm nay sức sống đã bừng lên. Nhà thờ lớn Hà Nội như muốn nổ tung ra vì sức ép hân hoan của hàng vạn đôi tay vỗ vào nhau. Rồi những buồng phổi đang co cụm bỗng dãn hơi thở, tràn lên tất cả mọi khuôn mặt những nét rạng rỡ, tiếng cười reo như trẻ thơ, trong lúc dòng lệ lại vội lăn trào xuống trên đôi gò má! Ôi! nước mắt. Nước mắt tại sao lại tuôn trào? Lệ mừng! Lệ Mừng ư? Rồi chẳng ai bảo ai, Bàn tay này. Ánh mắt kia, giao hòa, ôm choàng lấy nhau và trao nhau trọn vẹn một niềm tin và người ta đã khóc trong nỗi vui mừng khôn tả.
Thật, chẳng còn một ngôn ngữ nào có thẻ diễn đạt nổi niềm vui mừng của người giáo dân Hà Nội khi Đức Hồng Y Roger Etchégaray, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình, đứng chủ tế thánh Lễ Tại Nhà thờ Lớn Hà Nội đã trao trả cây gây Mục Tử lại cho đức TGM Ngô Quang Kiệt và nói rằng: “Đây là cây gậy mục tử của đức TGM Hà Nội, tôi trả lại cho Ngài, tôi không muốn mang về Roma"!? Chỉ ngần ấy tiếng âm vang, Ngài đã vực “kẻ chết sống lại”, đã “tiêu diệt” muôn khổ đau khô đọng trong lòng người. Ngài làm cho mọi người bàng hoàng như thấy trời mở ra. Người người ôm choàng lấy niềm hạnh phúc của một giấc mơ tưởng chừng đã chết.
Chẳng còn một ai muốn nhớ đến tình hình sức khỏe của vị TGM ra sao, và cũng chẳng còn ai muốn nghe lại cái chữ từ chức hôm nào nữa. Tất cả đã là dĩ vãng. Không, tất cả đã là tiền kiếp. Chỉ còn lại đây, Ngài và cây gây mục tử của Ngài hiện diện với dân thành Hà Nội, và với niềm tin Công Lý và Sự Thật soi đường như ngài nhắc nhở trong thư chung vào ngày 25-11-2009.
“Không thể sống Năm Thánh trọn vẹn nếu thiếu những việc thực hành”. Và một trong ba điểm trong việc thực hành của năm thánh là: “tích cực thực thi công bình bác ái. Trong Cựu Ước, Năm Thánh buộc ta trả lại cho người khác những gì thuộc về họ như quyền sở hữu, quyền tự do"(x. Lv 25, 8-17) Điều này, Ngài không chỉ nói để hướng dẫn cho giáo dân, nhưng cũng cho các đối tác trong xã hội nữa.
Vâng! Đó là ước mơ nhân bản. Đó là niềm tin yêu, hy vọng của cuộc sống. Và nếu trên đôi cao kia còn có Cây Thánh Giá giang tay che chở cho lời Công Lý thì dưới lũng sầu, hẳn nhiên là không thiếu bóng kẻ tà ma phá phách. Theo đó, Cây Thánh Gía, trên Núi Thờ của Đồng Chiêm, dầu đã đứng trên đỉnh cao ấy hàng trăm năm, nhưng cũng khó có ngoại lệ!
Theo tin tức loan đi, vào khoảng 2 giờ sáng ngày 06-1-2010, một lực lượng hùng hậu có từ 600 đến 1000 công an sắc phục, thường phục, chó nghiệp vụ, dân quân đã kéo đến vây chặt lấy giáo xứ Đồng Chiêm và đổ quân lên chiếm cứ và đập nát Cây Thánh Gía trên Núi Thờ. Đồng thời lực lượng này cũng tấn công đánh đập nhiều giáo dân bằng lựu đạn cay, lụu đạn khói … làm máu chảy thầm áo lương dân và nước mắt chảy tràn trên cánh Đồng Chiêm!…
Khi đọc bản tin, nhiều người tưởng lầm rằng mình đang sống trong khoảng tiền bán thế kỷ 20. Và họ nhận ra ở cái nước xã hội chủ nghĩa Việt cộng cái gì cũng lạ. Xem ra không giống xã hội loài người. Không giống là bởi vì:
1. Cây Thánh Gía trên núi Thờ ở Đồng Chiêm dã giang tay đứng đó như để che chở, đem đến niềm ủi an cho những nầm mộ mồ côi, cho những ánh mắt thẫn thờ mệt mỏi trong chiều tàn, hàng trăm năm rồi. Cây Thanh Giá ấy chẳng lấn đất dành dân với ai. Hơn thế, không phải là kẻ thù của loài người mà nhà nước Việt cộng lại phải tổ chức một cuộc hành quân đêm, đến đột kích và phá sập thì không một người nào không thấy lạ.
2. Nếu bảo rằng Cây Thánh Gía đứng ở đó trái luật, thì cứ đua luật ra mà tính. Hoặc gỉa, gọi những ngưòi phạm luật ra mà trị, Phép nước nào có vị thân? Tại sao lại phải hành quân đêm? Chẳng lẽ nhà nước phải làm như thế cho phù hớp với lời ca: “Con ơn nhớ lấy lời này, cướp đêm là giặc cưóp ngày là quan!” May mắn thay, nhà nước ta thì được tiếng cả ngày lẫn đếm nhỉ?
3. Tàu cộng cướp đất, cướp biển, bát ngư dân của Việt Nam. Chúng là những tội phạm đúng nghĩa theo luật. Luật nước, luật quốc tế. Tại sao nhà nước Việt cộng lại không dám hành quân đêm đến tiêu diệt địch và giải thoát nhân dân của mình nhỉ? Đã thế, còn xây đài tưởng niệm với những bảng đề “Nghĩa trang liệt sĩ Trung quốc”. Trong khi đó biết bao nhiều chiến sĩ Việt Nam đã bỏ mình khi chiến đấu bảo vệ biên giới, chiến đấu bảo vệ vùng biển thì không thấy có được một nấm mồ yên phận. Ấy là chưa nói đến câu hỏi là: Nếu những quân bành trướng Trung quốc được xây lăng mộ trên đất Việt với danh nghĩa "Nghiã trang liệt sĩ Trung quốc” thì những cán binh Việt Nam chết trong những cuộc chiến với Trung quốc sẽ đưọc gọi là gì? “Nghĩa trang phản quốc hay nghĩa trang của những thằng … khờ dại?” Lạ! đến lạ!
Khó ai có thể trả lời được câu hỏi này. Tuy nhiên, cha ông ta đã từng nói: “gieo gió thì gặt bão”. Việt cộng đã gây ra thảm họa cho dân, chúng phải gánh lấy cái hậu qủa của cơn bão từ nhân dân.
Riêng người dân Đồng Chiêm, rõ ràng là nước mắt tràn trên mặt mẹ, cha, chảy ròng xuống trên khuôn mặt con cháu mà lại không phải là nước mắt thương đau, sầu khổ. Nhưng lại là Lệ Mừng:
- Mừng vì Thánh giá vẫn ở trong lòng ta và con cháu ta. Riêng Thánh Gía trên núi bị côn đồ hạ xuống, dân ta dựng lại lúc nào mà chả được. Đã thế, còn uy nghi vững vàng hơn!
- Mừng vì chủ chiên lại quần áo dơn sơ đến thăm dân Người như ngày nào lặn lội bùn sâu đi thăm đoàn chiên trong trời giông bão.
- Mừng vì khi thấy tất cả các vị Giám Mục ở ngoài Bắc đã ngay lập tức gời thư Hiệp Thông đến vị TGM Hà Nội, bày tỏ một ý chí thống nhất cho hướng đi tìm Công Lý và Sự Thật. Và đòi buộc nhà cầm quyền phải tôn trọng Tự Do Tôn Giáo.
- Mừng vì đây là sự Hiệp Nhất, không phải là hiệp thông.
- Mừng vì những bước chân từ Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý, nay là Đồng Chiêm và rồi, từ khắp nôi lại sẵn sàng lên đường vì Công Lý, vì Tự Do sau những ngày khổ nạn.
Thật vậy, ngày 19-6-1098, ngày 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam được tuyên phong lên hành hiển thánh là một biến cố lớn trong lịch sử của Giáo Hội Việt Nam. Ngày ấy, Giáo Hội đã xác minh lòng Trung Thanh tuyệt đối của các vị tử dạo Việt Nam với Thánh Gía của Đức Giêsu Kitô. Ngày mà chính những ngưòi còn sống, có khi còn nằm trong guồng máy lãnh đạo của nhà nước này, dù không vui vẻ gì với Biến Cố ấy, cũng phải hiểu thấu đáo rằng. Người Công Giáo có thể chết vì Niềm Tin của mình. Mà biểu tượng lớn nhất ở trong đức tin của họ chính là Thánh Gía của Đức Kitô.
Như thế, Đồng Chiêm hôm nay không còn là một sự kiện có liên quan đến tranh chấp đất đai với nhà nước. Nhưng là một Biến Cố. Hơn thế, có cơ trở thành một biến cố lớn trong dòng lịch sử của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Một khi Đồng Chiêm đã trở thành Biến Cố, không còn là một sự kiện nhỏ của địa phương nữa, thì thật khó có thể lường trươc được cái kết qủa sẽ ra sao.
· Máu sẽ tiếp tục đổ ra và liệu người Công Giáo hôm nay có nằm yên chờ chết, hay nằm ôm chặt lấy cây thánh giá và để cho nhà nước độc quyền lôi đi chà đạp nhân phẩm, chà đạp Đức Tin của họ, Hoặc gỉa, đem đi tù đày hay đưa ra pháp trường dép râu nón côí hay không?.
· Hay máu sẽ đổ và khối ngưòi anh dũng vì Đức Tin kia, cùng với mọi người kháp năm châu bốn bề đồng chuyển mình, mở ra một vận hội mới, không phải chỉ là đòi lại tự do tốn giáo. Nhưng là đem lại Công Lý, Tự Do, Nhân Quyền và Dân Chủ cho Việt Nam?.
Cuộc chuyển minh ấy sẽ ra sao và đất nước này đi về đâu? Đó là chuyện của ngày mai. Hiện tại, người ta chỉ thấy cuộc chuyển mình đã bắt đắu. Bắt đầu bằng thư Hiệp Nhất của tất cả các Giám Mục thuộc Giáo Khu Tổng Giáo Phận Hà Nội. Trong thư có những điều rất đáng ghi nhận tính Hiệp Nhất là:
“Vì thế chúng tôi xin Đức Cha đề xuất vối giới hữu trách chính quyền:
1. Xét lại luật về đất đai.
2. Cần chọn giải pháp ít tổn thất lòng người.
Trong thư cũng xác định hướng đi của người CGVN là: ”GHCGVN luôn ước mong góp phần xây dựng một đại gia đình Việt Nam, trong đó mọi thành viên cùng chung sống hòa bình và tôn trọng lần nhau.”
Điều ấy có nghĩa là, Đồng Chiêm không lẻ loi, Hà Nội không cô đơn một minh. Nhưng tất cả mọi hành động vì Đức Tin vì Công Lý thì toàn thể Giáo Hội đều chung một nhịp bước. Chính lý lẽ này đã làm sống lại một hướng đi, và khiến lòng người thêm mạnh mẽ hiên ngang. Đã biến nước mắt sầu khổ của ngưòi dân Đồng Chiêm, nước mắt đơn côi của Hà Nội, nước mắt tủi hờn của Tam Tòa, Loan Lý ... thành Lệ Mừng. Lệ Mừng reo vui trong ngày hội tìm Công Lý.
Nắng sẽ lên, Công Lý sẽ đến và người Việt Nam đang đứng trươc cơ hội, trăm năm mới có một lần, để cùng nhau nắm lấy giấy phút tình cờ ấy để tạo nên lịch sử, tạo nên một ngày hội trong Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lý cho Việt Nam.
“Nếu lửa Tam Tòa không nóng tời Phát Diệm, Bùi Chu, Hải Phòng, Hà Nôi, Cao Bắc Lạng, Sơn Tây. Không chiếu quang đến Huế Đà Năng Nha Trang Phan Thiết, Đà Lạt, Kontum, Sài Gòn. Lại qúa xa với Đồng Nai, Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Long, Phước Long. Còn xa hơn nữa với Mỹ Tho, An Giang, Cần Thơ, Cà Mâu, Trà Vinh, Rạch Giá … và lửa ở nhà thờ Tam Tòa không bén sang cửa nhà Phật, không thổi hơi nóng tới Thánh Thất Cao Đài, Hoà Hảo và rồi Tam Tòa ở mô? Hoặc giả, hồn ai nấy giữ … phần ta, lửa chưa đến cứ ăn ngon ngủ kỹ thì Tam Toà không phải là cái tên cuối nổi lên trong cuộc bạo hành bất lương do nhà nước Việt cộng tạo ra. Nhưng đó chỉ là một trong chuỗi những địa danh lần lượt được nếm trải mùi bạo lực trong chủ trương triệt hạ ảnh hưởng tôn giáo trên phần đất này của nhà nước Việt cộng mà thôi”.
Như thế, Đồng Chiêm hôm nay cũng chỉ là một mắt xích nối tiếp từ Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý … đến những địa danh khác trong tương lai. Nhưng Đồng chiêm hôm nay, sự kiện tưởng chừng giống như những nơi khác, trong thực tế, sự kiện Đồng Chiêm là một cuộc tấn công khác. Một cuộc tấn công trực diện vào biểu tượng niềm tin của ngưòi Công Giáo. Nên từ đó có khả năng khai mở ra một chân trời khác, tạo ra một hướng đi khác, tích cực hơn trong Niềm Tin của những người đi tìm Chân Lý, tìm Tự Do và Công Bằng Xã Hội.
Trước hết, có một điều không ai phủ nhận là: Cây Thánh Giá được coi như một biểu tượng khổ đau của nhân loại. Nhưng đồng thời, Cây Thánh Giá cũng là biểu tượng Ân Sủng của ơn Cứu Độ, của Tình Thương, hoặc gỉa, là biểu tượng của Bình An, nơi con người có thể đặt vào đó một niềm tin tuyệt đối. Cách riêng, đó lả biểu tượng Trung Thành trong đức tin của ngưởi công giáo trên hoàn vũ.
Thật vậy, trước khi Đức Giêsu Kitô, Người mà toàn thể nhân loại vui mừng chào đón ngày sinh vào ngày 25-12 hàng năm, bị treo lên Thập Tự Giá trên núi Sọ, Thập Giá chính là án phạt đau khổ nhất, ghê gớm nhất, nhục nhã nhất mà xã hội cách đây 2000 năm đã dành cho những tên tội phạm thuộc diện hung ác của xã hội. Nhưng khi Đấng Vô Tội là đức Giêsu Kitô bị treo lên đó. Ngài đã chết. Chết cho muôn người được sống thì Cây Thập Giá đó đã trở thành một biểu tương Thiêng Liêng tuyệt đối, Ân Sủng tuyệt đối, Tình Yêu tuyệt đối và đã đem An Bình, Hy Vọng tuyệt đôi đến ở trong lòng người.
Nói cách khác, trước biểu tượng Linh Thiêng viên mãn này, những độc ác tàn bạo, đầy uy lực của Neron, của Minh Mạng, Thiệu Trị và nay là Hồ chí Minh hay của những cường đạo Việt cộng Mạnh, Triết, Dũng, Trọng, Nghị, Thảo … có đáng là chi. Nếu như không muốn nói đó chẳng qua chỉ là những cỏ rác, rong rêu sẽ tàn lụi theo cát bụi của thời gian và để lại cho hậu thế những cái tên đáng ghê tởm. Phần Cây Thánh Giá, biểu tuợng kinh qua khổ đau sẽ mảĩ mãi muôn đời trổi vượt lên như một Ân Sủng toàn diện, một An Bình vĩnh cửu. một Niềm Tin vững chắc, một Hy Vọng tuyệt đối cho con người tìm đến để tín thác, để nương nhờ.
Vâng, hãy nhìn một người chiến binh thất trận, chạy tan hàng, lạc đồng đội và phía sau lưng là tiếng súng, tiếng giặc hò hét đuổi theo. Có lẽ đời anh sẽ không còn một nỗi kinh hoàng lo sợ, khủng hoảng nào hơn thế nữa. Nhưng khi anh chạy đến được một nơi có Cây Thánh Giá nằm trên đỉnh cao nhà thờ. Hoặc giả, tím vào bên bức vách của một căn nhà, mà trong nhà ấy trên bàn thờ có một Cây Thánh Giá thì âu lo, hoảng sợ vụt tan biến đi và thay vào đó là một niềm tin trong an bình, dù rằng đời anh chưa hề nghe biết đến từ ngữ đọc kinh hay cầu nguyện là gi! Tôi tin rằng anh ta sẽ tìm cách xin ở lại nương tựa vào Niềm Tin vừa đến ấy, hơn là, đạp đổ Cây Thánh Giá rồi lại trốn chạy quân thù trong lo âu!.
Rồi một anh cán binh Việt cộng bị thương, bị đồng đội bỏ lại trên đường mai phục để thoát chạy lấy thân. Ngoài cơn đau xé da thịt vì không được cứu chữa là sự uất hận bị bỏ rơi, anh còn lo sợ thần chết, lo sợ bị bắt và bị “nguỵ” chém giết, xẻ thịt banh da như những lời tuyên truyền nhồi sọ từ hàng ngũ cán bộ lãnh đạo trước khi đi gài mìn giết hại đồng bào. Anh đau đớn, tuyệt vọng khi lê thân vào những quãng đường, đồi, nương rẫy. Bỗng nhiên, cuộc sống như hồi sinh, dòng máu, nhịp tim lại dồn dập trong người. Một sự an bình như chưa bao giờ có đã chiếm trọn lấy cả tâm hồn và thể xác khi anh ta bò đến, và ôm được một cái chân cột. Lúc mở mắt nhìn lên. Đó chỉ là một Cây Thánh Giá thô sơ cắm trên ngôi mộ trong nghĩa trang của một xứ đạo miền quê. Anh gục đầu xuống, ôm chặt lấy và không còn muốn rời xa nữa. Bởi lẽ, dù không phải là người có đạo, chưa một lần biết cầu kinh, trái lại, còn được học tập, nuôi lờng căm thù những thành phần “tôn giáo phản động” bán nước. Kết quả, vào lúc này, anh chỉ còn duy nhất một ước mơ. Nếu có phải chết, anh xin được chết trong phút giây an bình dưới chân cây cột mà anh đang ôm trong tay. Anh không muốn chết vì lòng căm thù như đã được học tập.
Nhưng trái ngược với nhân bản tính của con người và anh cán binh kia, Hồ chí Minh và tập đoàn Việt cộng từ năm 1930, đã đem dân làm nô lệ cho ngoại bang, còn ra công sức xây dựng trên phần đất của Việt Nam một tổ chức phi nhân lấy chủ thuyết vô gia đình, vô tôn giáo vô tổ quốc làm lẽ sống. Lấy cường bạo, bất lương làm phương châm hành động. Từ đó, họ đã không ngừng gây ra muôn vàn thảm họa trên cả hai phương diện tinh thần lẫn thể chất cho dân tộc Việt.
Bên ngoài, dù được che đạy bởi lớp mỡ ngôn từ hào nhoáng, nhưng chẳng bao lâu sau ngày xuất hiện, người dân trên toàn đất nước đã nhận ra cái bản chất thật của tập đoàn lãnh đạo của nhà nước Việt cộng là bất nhân, gian dối: Chúng luôn luôn đẩy người dân vào những mâu thuẫn cục bộ từ gia đình, đến làng xóm, vào học đường, xã hội, để trục lợi, để nắm lấy quyền lực. Chúng không bao giờ muốn cho nhân dân có được cuộc sống gia đình yên vui, cơm no áo ấm. Không bao giờ muốn cho trẻ thơ được giáo dục nghiêm túc về trí dục và đức dục. Không bao giờ muốn xây dựng một xã hội có trật tự, biết tôn trọng luân thường đạo lý, tôn trọng luật pháp nhân bản. Cũng không bao giờ muốn thấy tôn giáo là điểm hẹn đến của công bằng đạo đức cho từng ngưòi từng nhà noi theo. Trái lại, chúng muốn đạp cho tan mọi ảnh hưởng gia đình. Phá cho nát niềm tin trong tôn giáo. Diệt cho hết truyền thống đạơ đức, luân lý xã hội và giải trừ tận căn nguyên nền Văn Hóa Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín là gốc sinh của dân tộc, để tất cả đều quy hướng về một nền luân lý vô đạo, phi nhân, vô luân, bất nghĩa, phi pháp của cộng sản.
Phía nội bộ, hàng hàng tủ sách vở trên thế giới đã ghi lại rằng: Đấu tranh phê bình trong sinh hoạt đảng cộng đồng nghĩa với việc học tập cách thức gian dối, cách thức hành động phi luân, bất nhân, bất nghĩa với mọi người (nguyên TBT Liên Sô, Gobachev). Thủ tướng Đức, tiến sĩ Angela Markel cũng có những công bố tương tự: “Cộng sản đồng nghĩa với gian dối, tạo ra gian dối". Nên việc rèn cán, chỉnh quân, thay máu này đã trở thành một lẽ sinh tử cho chúng. Bởi lẽ, nếu gian dối, độc ác không thành bản chất của đảng. Nếu vô luân bất nghĩa không phải là dòng máu luân lưu trong huyết quản của từ Minh, Đồng, Khu, Duẫn, Mười, Linh, Phiêu … cho đến đến những Kiệt, Khải, Cầm, Anh, Triết, Trọng, Dũng, Mạnh, Nghị Thảo Rứa …, đã không có những cuộc đấu tố đẫm máu nhân dân Việt Nam từ thời 1930 đến nay, để hơn 170,000 ngàn sinh mạng, (không kể những người chết trong chiến tranh) trong đó có rất nhiều những người đã dày công lao sinh thành, dưỡng dục, nuôi nấng, che chở, bảo vệ chúng trong cuộc chiến hàng nhiều năm trước, được đền trả bằng bản án phú, nông, địa, hào, tư sản, hoặc giả, tay sai bán nước! Đã không có những cuộc chiếm đoạt đất đai, cướp giật tài sản của các tôn giáo và đày ải các vị chân tu trong chốn lao tù. Đã không có cuộc chôn sống mấy ngàn người dân vô tội ở Huế. Đã không bịt miệng người giữa chốn gọi là công đường. Đã không có cảnh những dân oan, từng là mẹ liệt sỹ, gia đình cách cách mạng lang thang đi đòi đất đòi nhà. Và cũng không có hàng triệu người Việt Nam phải sống lưu đày nơi đất khách!
Theo đó, những sự kiện như Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý và rất nhiều những đơn vị cá nhân dân oan trải rộng trên bề diện cả nước, và nay là Đồng Chiêm, không xảy ra mới là chuyện lạ! Như thế, Đồng Chiêm, hay bất cứ tên của một địa danh nào đó, sau một đêm bất chợt, trở thành một địa điểm lưu ký sự bạo tàn của nhà cầm quyền Việt cộng thì phải được hiểu rằng: Đó không phải là địa điểm cuối. Nhưng nó chỉ là những cái tên như những mắt xích, tiếp diễn cuộc bạo hành bất lương theo chủ trương của chúng cho đến khi chúng bị tiêu diệt mà thôi.
Tuy nhiên, Đồng Chiêm hôm nay, sự việc không còn nằm trong chủ trương bạo lực trấn áp lương dân để chiếm đoạt tài sản nữa. Trái lại, chúng đã vượt qúa mức của cuộc bạo hành trong trí khôn của con người. Chúng đã chính thức chà đạp biểu tượng Niềm Tin, là Ân Sủng và Ơn Cứu Độ của người Công Giáo, không phải chỉ ở Đồng Chiêm, nhưng là toàn thể Giáo Hội Công Giáo Việt Nam! Chúng muốn thách đố một Niềm Tin chăng?
Nhớ lại, vào cuối năm 2007, phong trào cầu nguyện trong an bình để đòi Công Lý, đòi Tự Do tôn giáo cho người dân Việt Nam -- khởi đi từ Tổng giáo phận Hà Nội dưới sự coi sóc của Đức TGM Giuse Ngô quang Kiệt -- đã làm náo nức lòng người, làm rộn ràng mọi bước chân. Từ trong ra ngoài, không kể lương, không kể giáo, cũng không hề phân biệt chủng tộc, đều đổ dồn con mắt về Hà Nội để chờ đợi ngày chung thẩm của Công Lý. Ngày Tự Do. Nhân Quyền đến cho dân nước Việt Nam.
Trong khi đó, về phía nhà nước Việt cộng, sau gần mười năm hoà hoãn, đi cầu tự khắp nơi, kể cả việc chúng đến Roma để tìm chỗ tựa ngõ hầu tồn tại sau khi đế quốc đỏ tan vỡ, nay lại trở về với bản chất phi nhân bạo tàn. Ngoài thì dâng đất, dâng biển, dâng tài sản thiên nhiên của quốc gia cho Tàu cộng để cầu vinh. Bên trong thì mưu đồ áp chế, cướp đoạt tài sản của nhân dân và dùng bạo lực tiêu diệt Công Lý, bóp chết Tự Do, Nhân Quyền của con ngưòi. Kết qủa, cuộc đi đòi Công Lý không ngừng lại vì đàn áp, bạo lực của nhà nước. Trái lại, “Tuyên Ngôn Công Lý” lại hiển hiện rõ ràng trong lời công bố của TGM Hà Nội ngay giữa hội đường, trước mặt những kẻ nắm bạo quyền vào ngày 20-9-2008 tại Hà Nội: “Tự Do Tôn Giáo là cái quyền cơ bản của con người, Tự do Tôn giáo không phải là một ân huệ Xin - Cho”. Ai, và còn ai nữa đã hiên ngang vì Công Lý như thế? Công bằng mà trả lời rằng, ít nhất, trong thời gian ấy còn LM Nguyễn văn Lý cũng vì Công Lý mà ngồi tù. Luật sư Lê thị Công Nhân cũng vì đất nước vì nhân dân vì quyền làm người vì tương lai của dân tộc mà vào ngục như đi nhận một nhiệm sở mới!
Dĩ nhiên, Việt cộng biết rõ sức mạnh của toàn dân ngày nay không thuộc về chúng. Nhưng cơn mộng du bạo lực lại không thể rời xa những đôi mắt đảng, nên chúng tiến hành thêm cuộc bạo hành bắt người ở Thái Hà. Kết qủa hàng vạn vạn cành thiên tuế từ tay nhân dân đi đòi tự do tôn giáo, đi đòi Công Lý đã vươn cao trên khắp trời Hà Nội. Trong khi đó, dẫu gian ác là thế, nhà nước Việt cộng vẫn không thể tìm ra tội trạng để kết án tám anh chị em giáo dân Thái Hà. Sức mạnh của người dân chưa ngừng lại ở đó. Cả nửa triệu người đã như ngọn sóng dâng tràn tim về bên bờ sông Nhật Lệ. Tam Tòa không còn nhỏ bé, nằm chờ Xin – Cho, nhưng đã vươn mình trổi dậy với giang sơn trong cuộc trường chinh tìm Công Lý. Lúc ấy, nhiều người đã cho rằng, chẳng còn bạo lực nào có thể ngăn cản được lòng người mong tìm đến Sự Thật, tìm đến Công Lý …
Bỗng như một cơn khổ nạn. Giữa lúc người người hăm hở chờ đợi ngày cùng nhau dồn bước chân trên đường Công Lý. Một bản tin không rõ xuất xứ, không rõ chủ đích đăng tải trên Nét đã làm nghẽn hơi thở biết bao tim lòng. Làm chùn, làm chậm hàng triệu triệu đôi chân và làm bao dòng lệ vương tràn trên khoé mắt: Đó là bản tin Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt từ chức TGM Hà Nội!
Hỡi Trời ơi. Những tưởng rằng trời tan, đất lở. Toàn dân rúng dộng, giáo dân hoang mang, chính quyền hồ hởi. Họ hồ hởi vì từ mấy năm nay, có khi nào họ quên không tìm cách đẩy “Ông Công Lý” ra khỏi Hà Nội. Hơn thế ra khỏi Việt Nam càng tốt. Lý do, có khi nào kẻ thờ thần gian dối dám giáp mặt thần Công Lý?
Phía Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thì hoàn toàn giữ im lâng. Đã yên lặng trước hướng đi của hàng triệu dôi chân tìm Công Lý, đòi tự do tôn giáo cho Việt Nam, lại càng thủ kỹ trước bản tin. Các Ngài yên lặng đến nỗi tạo ra nghi ngờ trong hàng ngũ giáo dân, làm hoang mang lòng người.Và làm ly tán thêm niềm tin của giáo dân vào Hội Đồng vì những bản tin đồn cứ vùn vụt loan đi: “Nào là có nhiều vị giám mục không đồng thuận với hướng đi tìm Công Lý của Đức Cha Kiệt. Nào là các Ngài không muốn hướng đi tìm Công Lý của đức TGM Hà Nội làm ảnh hưởng đến ân huệ Xin-Cho" đã thành nếp trong Giáo phận của các Ngài. Nào là đa số các Ngài hài lòng với phương cách “đối thoại Xin Cho” để được dễ dãi trong việc xuất ngoại …. xin tiền về xây cất, mở mang, tổ chức lễ lạc cho to lớn linh đình ... hơn là cố công xây dựng đền thờ Công Lý nơi lòng ngườì nhu tinh thần của thư chung năm 1980 của HĐGMVN. Và nào là phải yên lặng để chờ nhà nước chấm điểm, ra ơn cho về Hà Nội, Sài Gòn!”
Tệ hơn thế, bản tin đồn còn mang đi những mầm mống độc hại như "một số vị trong HĐGMVN dịp Ad limina ờ Roma cũng muốn đức TGM Hà Nội từ chức”. Thêm cho bản tin đồn ấy là việc đức TGM Hà Nội đau bệnh phải đi tĩnh dưõng lại Nho Quan càng làm cho bản tin đồn có cơ sở và cho lòng người héo úa với những dòng nước mắt sầu muộn lã chã rơi! Phần Ngài, giọt nước mắt cô đơn, giọt nước mắt thương dân có lẽ chưa ngưng đọng. Từ đó, có người còn đưa tin đồn là "đức TGM Hà Nội sẽ xuất hiện trong ngày khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện, nhưng là để từ biệt hơn là trở lại với đoàn chiến"!
Nhưng mấy ai ngờ, lịch sử vẫn chỉ là những giây phút tình cờ tiếp nối nhau. Từ ngàn xưa, Đức Giêsu Kitô cũng đã trải qua khổ nạn trên thập tự gía trước khi Phục Sinh để giải thoát con ngươi. Cũng thế, hôm nay sức sống đã bừng lên. Nhà thờ lớn Hà Nội như muốn nổ tung ra vì sức ép hân hoan của hàng vạn đôi tay vỗ vào nhau. Rồi những buồng phổi đang co cụm bỗng dãn hơi thở, tràn lên tất cả mọi khuôn mặt những nét rạng rỡ, tiếng cười reo như trẻ thơ, trong lúc dòng lệ lại vội lăn trào xuống trên đôi gò má! Ôi! nước mắt. Nước mắt tại sao lại tuôn trào? Lệ mừng! Lệ Mừng ư? Rồi chẳng ai bảo ai, Bàn tay này. Ánh mắt kia, giao hòa, ôm choàng lấy nhau và trao nhau trọn vẹn một niềm tin và người ta đã khóc trong nỗi vui mừng khôn tả.
Thật, chẳng còn một ngôn ngữ nào có thẻ diễn đạt nổi niềm vui mừng của người giáo dân Hà Nội khi Đức Hồng Y Roger Etchégaray, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình, đứng chủ tế thánh Lễ Tại Nhà thờ Lớn Hà Nội đã trao trả cây gây Mục Tử lại cho đức TGM Ngô Quang Kiệt và nói rằng: “Đây là cây gậy mục tử của đức TGM Hà Nội, tôi trả lại cho Ngài, tôi không muốn mang về Roma"!? Chỉ ngần ấy tiếng âm vang, Ngài đã vực “kẻ chết sống lại”, đã “tiêu diệt” muôn khổ đau khô đọng trong lòng người. Ngài làm cho mọi người bàng hoàng như thấy trời mở ra. Người người ôm choàng lấy niềm hạnh phúc của một giấc mơ tưởng chừng đã chết.
Chẳng còn một ai muốn nhớ đến tình hình sức khỏe của vị TGM ra sao, và cũng chẳng còn ai muốn nghe lại cái chữ từ chức hôm nào nữa. Tất cả đã là dĩ vãng. Không, tất cả đã là tiền kiếp. Chỉ còn lại đây, Ngài và cây gây mục tử của Ngài hiện diện với dân thành Hà Nội, và với niềm tin Công Lý và Sự Thật soi đường như ngài nhắc nhở trong thư chung vào ngày 25-11-2009.
“Không thể sống Năm Thánh trọn vẹn nếu thiếu những việc thực hành”. Và một trong ba điểm trong việc thực hành của năm thánh là: “tích cực thực thi công bình bác ái. Trong Cựu Ước, Năm Thánh buộc ta trả lại cho người khác những gì thuộc về họ như quyền sở hữu, quyền tự do"(x. Lv 25, 8-17) Điều này, Ngài không chỉ nói để hướng dẫn cho giáo dân, nhưng cũng cho các đối tác trong xã hội nữa.
Vâng! Đó là ước mơ nhân bản. Đó là niềm tin yêu, hy vọng của cuộc sống. Và nếu trên đôi cao kia còn có Cây Thánh Giá giang tay che chở cho lời Công Lý thì dưới lũng sầu, hẳn nhiên là không thiếu bóng kẻ tà ma phá phách. Theo đó, Cây Thánh Gía, trên Núi Thờ của Đồng Chiêm, dầu đã đứng trên đỉnh cao ấy hàng trăm năm, nhưng cũng khó có ngoại lệ!
Theo tin tức loan đi, vào khoảng 2 giờ sáng ngày 06-1-2010, một lực lượng hùng hậu có từ 600 đến 1000 công an sắc phục, thường phục, chó nghiệp vụ, dân quân đã kéo đến vây chặt lấy giáo xứ Đồng Chiêm và đổ quân lên chiếm cứ và đập nát Cây Thánh Gía trên Núi Thờ. Đồng thời lực lượng này cũng tấn công đánh đập nhiều giáo dân bằng lựu đạn cay, lụu đạn khói … làm máu chảy thầm áo lương dân và nước mắt chảy tràn trên cánh Đồng Chiêm!…
Khi đọc bản tin, nhiều người tưởng lầm rằng mình đang sống trong khoảng tiền bán thế kỷ 20. Và họ nhận ra ở cái nước xã hội chủ nghĩa Việt cộng cái gì cũng lạ. Xem ra không giống xã hội loài người. Không giống là bởi vì:
1. Cây Thánh Gía trên núi Thờ ở Đồng Chiêm dã giang tay đứng đó như để che chở, đem đến niềm ủi an cho những nầm mộ mồ côi, cho những ánh mắt thẫn thờ mệt mỏi trong chiều tàn, hàng trăm năm rồi. Cây Thanh Giá ấy chẳng lấn đất dành dân với ai. Hơn thế, không phải là kẻ thù của loài người mà nhà nước Việt cộng lại phải tổ chức một cuộc hành quân đêm, đến đột kích và phá sập thì không một người nào không thấy lạ.
2. Nếu bảo rằng Cây Thánh Gía đứng ở đó trái luật, thì cứ đua luật ra mà tính. Hoặc gỉa, gọi những ngưòi phạm luật ra mà trị, Phép nước nào có vị thân? Tại sao lại phải hành quân đêm? Chẳng lẽ nhà nước phải làm như thế cho phù hớp với lời ca: “Con ơn nhớ lấy lời này, cướp đêm là giặc cưóp ngày là quan!” May mắn thay, nhà nước ta thì được tiếng cả ngày lẫn đếm nhỉ?
3. Tàu cộng cướp đất, cướp biển, bát ngư dân của Việt Nam. Chúng là những tội phạm đúng nghĩa theo luật. Luật nước, luật quốc tế. Tại sao nhà nước Việt cộng lại không dám hành quân đêm đến tiêu diệt địch và giải thoát nhân dân của mình nhỉ? Đã thế, còn xây đài tưởng niệm với những bảng đề “Nghĩa trang liệt sĩ Trung quốc”. Trong khi đó biết bao nhiều chiến sĩ Việt Nam đã bỏ mình khi chiến đấu bảo vệ biên giới, chiến đấu bảo vệ vùng biển thì không thấy có được một nấm mồ yên phận. Ấy là chưa nói đến câu hỏi là: Nếu những quân bành trướng Trung quốc được xây lăng mộ trên đất Việt với danh nghĩa "Nghiã trang liệt sĩ Trung quốc” thì những cán binh Việt Nam chết trong những cuộc chiến với Trung quốc sẽ đưọc gọi là gì? “Nghĩa trang phản quốc hay nghĩa trang của những thằng … khờ dại?” Lạ! đến lạ!
Khó ai có thể trả lời được câu hỏi này. Tuy nhiên, cha ông ta đã từng nói: “gieo gió thì gặt bão”. Việt cộng đã gây ra thảm họa cho dân, chúng phải gánh lấy cái hậu qủa của cơn bão từ nhân dân.
Riêng người dân Đồng Chiêm, rõ ràng là nước mắt tràn trên mặt mẹ, cha, chảy ròng xuống trên khuôn mặt con cháu mà lại không phải là nước mắt thương đau, sầu khổ. Nhưng lại là Lệ Mừng:
- Mừng vì Thánh giá vẫn ở trong lòng ta và con cháu ta. Riêng Thánh Gía trên núi bị côn đồ hạ xuống, dân ta dựng lại lúc nào mà chả được. Đã thế, còn uy nghi vững vàng hơn!
- Mừng vì chủ chiên lại quần áo dơn sơ đến thăm dân Người như ngày nào lặn lội bùn sâu đi thăm đoàn chiên trong trời giông bão.
- Mừng vì khi thấy tất cả các vị Giám Mục ở ngoài Bắc đã ngay lập tức gời thư Hiệp Thông đến vị TGM Hà Nội, bày tỏ một ý chí thống nhất cho hướng đi tìm Công Lý và Sự Thật. Và đòi buộc nhà cầm quyền phải tôn trọng Tự Do Tôn Giáo.
- Mừng vì đây là sự Hiệp Nhất, không phải là hiệp thông.
- Mừng vì những bước chân từ Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý, nay là Đồng Chiêm và rồi, từ khắp nôi lại sẵn sàng lên đường vì Công Lý, vì Tự Do sau những ngày khổ nạn.
Thật vậy, ngày 19-6-1098, ngày 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam được tuyên phong lên hành hiển thánh là một biến cố lớn trong lịch sử của Giáo Hội Việt Nam. Ngày ấy, Giáo Hội đã xác minh lòng Trung Thanh tuyệt đối của các vị tử dạo Việt Nam với Thánh Gía của Đức Giêsu Kitô. Ngày mà chính những ngưòi còn sống, có khi còn nằm trong guồng máy lãnh đạo của nhà nước này, dù không vui vẻ gì với Biến Cố ấy, cũng phải hiểu thấu đáo rằng. Người Công Giáo có thể chết vì Niềm Tin của mình. Mà biểu tượng lớn nhất ở trong đức tin của họ chính là Thánh Gía của Đức Kitô.
Như thế, Đồng Chiêm hôm nay không còn là một sự kiện có liên quan đến tranh chấp đất đai với nhà nước. Nhưng là một Biến Cố. Hơn thế, có cơ trở thành một biến cố lớn trong dòng lịch sử của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Một khi Đồng Chiêm đã trở thành Biến Cố, không còn là một sự kiện nhỏ của địa phương nữa, thì thật khó có thể lường trươc được cái kết qủa sẽ ra sao.
· Máu sẽ tiếp tục đổ ra và liệu người Công Giáo hôm nay có nằm yên chờ chết, hay nằm ôm chặt lấy cây thánh giá và để cho nhà nước độc quyền lôi đi chà đạp nhân phẩm, chà đạp Đức Tin của họ, Hoặc gỉa, đem đi tù đày hay đưa ra pháp trường dép râu nón côí hay không?.
· Hay máu sẽ đổ và khối ngưòi anh dũng vì Đức Tin kia, cùng với mọi người kháp năm châu bốn bề đồng chuyển mình, mở ra một vận hội mới, không phải chỉ là đòi lại tự do tốn giáo. Nhưng là đem lại Công Lý, Tự Do, Nhân Quyền và Dân Chủ cho Việt Nam?.
Cuộc chuyển minh ấy sẽ ra sao và đất nước này đi về đâu? Đó là chuyện của ngày mai. Hiện tại, người ta chỉ thấy cuộc chuyển mình đã bắt đắu. Bắt đầu bằng thư Hiệp Nhất của tất cả các Giám Mục thuộc Giáo Khu Tổng Giáo Phận Hà Nội. Trong thư có những điều rất đáng ghi nhận tính Hiệp Nhất là:
“Vì thế chúng tôi xin Đức Cha đề xuất vối giới hữu trách chính quyền:
1. Xét lại luật về đất đai.
2. Cần chọn giải pháp ít tổn thất lòng người.
Trong thư cũng xác định hướng đi của người CGVN là: ”GHCGVN luôn ước mong góp phần xây dựng một đại gia đình Việt Nam, trong đó mọi thành viên cùng chung sống hòa bình và tôn trọng lần nhau.”
Điều ấy có nghĩa là, Đồng Chiêm không lẻ loi, Hà Nội không cô đơn một minh. Nhưng tất cả mọi hành động vì Đức Tin vì Công Lý thì toàn thể Giáo Hội đều chung một nhịp bước. Chính lý lẽ này đã làm sống lại một hướng đi, và khiến lòng người thêm mạnh mẽ hiên ngang. Đã biến nước mắt sầu khổ của ngưòi dân Đồng Chiêm, nước mắt đơn côi của Hà Nội, nước mắt tủi hờn của Tam Tòa, Loan Lý ... thành Lệ Mừng. Lệ Mừng reo vui trong ngày hội tìm Công Lý.
Nắng sẽ lên, Công Lý sẽ đến và người Việt Nam đang đứng trươc cơ hội, trăm năm mới có một lần, để cùng nhau nắm lấy giấy phút tình cờ ấy để tạo nên lịch sử, tạo nên một ngày hội trong Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lý cho Việt Nam.
Tháng 1 năm 2010
Bảo Giang
No comments:
Post a Comment