Bằng Phong Đặng văn Âu
Cách đây một tuần, có người quen gửi cho tôi cái email (không ghi lời bình luận), chỉ thấy trong “attach file” có bài viết của Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn – một Phật tử – bày tỏ đôi điều với Thiếu tá Liên Thành, tác giả cuốn sách “Biến Động Miền Trung”. Đọc xong, tôi bèn viết một email nói lên vài cảm nghĩ cá nhân về nhà trí thức Trần Kiêm Đoàn cũng để gửi cho những người thân quen đọc chơi. Sau đó, một số người thân quen gửi email trả lời, yêu cầu tôi viết hẳn một bài để đưa lên diễn đàn hầu rộng đường ngôn luận. Do vậy, nay tôi xin khai triển cảm nghĩ của tôi:
Tôi được dịp đọc một số bài viết tả tình, tả cảnh, phiếm về Huế của ông Trần Kiêm Đoàn đăng rải rác trên các trang mạng và đăng trên các đặc san của các trường trung học ở Huế. Vì là người đi học và lớn lên ở Huế, tôi khá thích những gì ông Trần viết về Huế, nhất là cái văn phong nhẹ nhàng bóng bẩy rất nên thơ. Tìm hiểu thêm qua những người Huế, tôi được biết Trần Kiêm Đoàn tốt nghiệp Đại Học Sư phạm Huế, ra trường đi dạy học, sau năm 1975 vượt biển (?) đi tìm tự do, đến Hoa Kỳ làm việc cho cơ quan xã hội và tiếp tục học thêm để đạt bằng Tiến sĩ. Vừa có cảm tình với cái văn phong của tác giả, vừa chuộng con người hiếu học, tôi có viết một email ngợi khen gửi tới tác giả với tư cách là một độc giả. Đa số độc giả người Việt mình thường im lặng khi đọc được một tác phẩm có giá trị. Ngược lại, hễ đọc được một áng văn, thơ hoặc nghe một bài nhạc nào mà mình rung động, tâm đắc thì tôi liền viết thư hoặc điện thoại để cảm tạ công trình tim óc của tác giả. Tôi cho đó là phương cách bày tỏ lòng biết ơn người cung cấp cho mình món ăn tinh thần.
Nhưng kể từ khi đọc bài viết của ông Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn ca ngợi công đức của ông Võ Đình Cường vừa mới từ trần thì những cảm tình tốt đẹp mà tôi dành cho tác giả họ Trần không còn nữa, vì tôi cho rằng ông Đoàn là người thân Cộng. Tại sao? Vì cộng sản là tai họa cho Việt Nam.
Ông Võ Đình Cường, tác giả cuốn Ánh Đạo Vàng và vở kịch Mùa Gặt Ác, là người có ảnh hưởng lớn đối với quần chúng Phật tử tại Huế. Những huynh trưởng trong các Gia đình Phật tử như thầy Văn Đình Hy (Giám Học trường Quốc Học) cô Tịnh Nhơn (Hiệu trưởng Trường Đồng Khánh), anh Châu Tăng (Giáo sư Quốc Học), anh Hồ Viết Lợi (Giáo sư Quốc Học) đều sinh hoạt dưới sự chỉ đạo của ông Võ Đình Cường vì những vị này không biết ông Võ Đình Cường là cán bộ trí vận, tôn giáo vận của cộng sản. Cơ quan phản gián và tình báo Miền Trung đã bắt Võ Đình Cường một hai lần vì tình nghi ông Cường hoạt động cho cộng sản, nhưng ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn can thiệp để thả ông Cường do sự yêu cầu của Thích Trí Quang. Có thể vì mang mặc cảm làm Cố vấn cho ông anh (Tổng thống Ngô Đình Diệm) là người theo đạo Công Giáo, nên ông Cẩn hết sức tỏ ra nhân nhượng Trí Quang để khỏi mang tiếng kỳ thị tôn giáo? Những người dân Huế nào quan tâm đến chính trị đều biết mối giao du thân mật giữa ông Ngô Đình Cẩn và ông Trí Quang. Hầu như mỗi tuần họ đều đến thăm viếng, đàm đạo với nhau.
Thế nhưng sau khi thành công lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Trí Quang đã áp lực Tướng Nguyễn Khánh nhất định không được phép ký lệnh ân xá tử hình Ngô Đình Cẩn, mặc dầu nạn nhân đang bị bại liệt do chứng tiểu đường trầm trọng. Bà chị vợ của anh Phan Quang Đông đích thân đến lạy lục “Thầy” Trí Quang can thiệp cho Phan Quang Đông thoát khỏi án tử hình do Tòa Án Cách Mạng xử thì Trí Quang đã lạnh lùng khước từ, còn giả giọng đạo đức: “Tôi là người tu hành, không dính líu đến chính trị!”. Phan Quang Đông quê quán Nghệ An – cùng quê với tôi – có cha mẹ bị cộng sản đấu tố cho đến chết trong Cải Cách Ruộng Đất, nên nuôi mối thâm thù tận xương tủy đối với cộng sản. Để rửa mối thù cho cha mẹ, anh Phan Quang Đông tình nguyện hợp tác với ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn trong công tác gửi biệt kích xâm nhập Miền Bắc để tổ chức xây dựng hạ tầng cơ sở trong lòng địch. Anh Phan Quang Đông không hề dính líu đến vấn đề an ninh, tình báo ở Miền Nam nên không thể quy cho anh là một phần tử ác ôn (?) đàn áp Phật giáo như sự cáo buộc của các nhà sư tranh đấu ở Huế. Thế nhưng anh Phan Quang Đông đã bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng xử tử hình tại sân vận động Huế do áp lực của “qúy Thầy”. Tướng Đỗ Cao Trí là người biết rõ trách nhiệm công tác của anh Phan Quang Đông, không dính dáng gì đến an ninh nội địa Miền Trung, nhưng vì sợ “Các Thầy” nên không can thiệp, để mặc cho Phan Quang Đông bị xử tử.
Chiếc áo cà sa của “Thầy” Trí Quang đã vấy máu trong cái chết của Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông kể từ đó!
Sau Tháng Tư năm 1975, ông Võ Đình Cường hiện nguyên hình là một cán bộ trí vận cao cấp của cộng sản, gia nhập Đảng từ năm 1943. Thầy Văn Đình Hy, cô Tịnh Nhơn, anh Châu Tăng, anh Hồ Viết Lợi không biết Võ Đình Cường là cộng sản, nên hoạt động trong Gia đình Phật Tử dưới sự chỉ đạo của Võ Đình Cường là điều dễ hiểu. Còn sau năm 75 ông Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn đã biết rõ tung tích của Võ Đình Cường là cộng sản mà vẫn viết bài tán tụng, ca ngợi công đức của Võ Đình Cường, tức thị Trần Kiêm Đoàn phải có xu hướng thân Cộng. Không thân Cộng, tại sao đi tán tụng Cộng? Những tác phẩm nói về giáo lý của Đức Thích Ca trong Ánh Đạo Vàng của Võ Đình Cường chỉ là những viên thuốc bọc đường mê hoặc niềm tin tôn giáo, chứ không phải nhằm mục đích đưa con người về nẻo Từ Bi, Giác Ngộ bởi vì người cộng sản duy vật không tin vào Phật, Chúa, Alla! Và họ coi tôn giáo là thuốc phiện! Đã là kẻ thân Cộng thì dù đang sống dưới vòm trời tự do vẫn cứ phải ra sức bênh vực Cộng, cho nên con người đó không thể vô tư trong nhận định. Ấy là lý do tôi không còn tin vào những gì nhà văn Trần Kiêm Đoàn viết nữa. Một người Phật tử có cấp bằng Tiến sĩ lại đi tán tụng kẻ ác Võ Đình Cường lợi dụng danh nghĩa Phật Giáo là điều đáng tiếc, vì làm ô danh Phật giáo! Nếu ai tự cho mình là đệ tử của Phật, tín đồ của Chúa thì người ấy phải có nghĩa vụ lột mặt nạ những con qủy đội lốt tôn giáo của mình thì mới phải.
Giữa lúc hai kẻ đang đánh nhau chí mạng, lại có người nhân danh Phật, Chúa như Nhất Hạnh, Nguyễn Ngọc Lan đứng ra can gián mà lại ôm chân khóa tay một phía để cho phía khác tha hồ đấm đá túi bụi thì sao dám gọi là vì Công Lý, vì Hòa Bình? Ai đã nghe được từ Phong trào Nhân Dân Cứu Quốc của bác sĩ Lê Khắc Quyến, Phong trào Vì Công Lý, Vì Hòa Bình có một lời lên án Việt Cộng chính là kẻ gây tội ác, nguyên nhân của cuộc chém giết?
Nhất Hạnh đi dự hội nghị Phật giáo Thế giới ở Ấn Độ đã tố giác Miền Nam đủ thứ tội, trong khi ấy ông không hề có một lời buộc tội kẻ đầu nậu xâm lăng Miền Nam. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan đã âm thầm tư thông với Trần Bạch Đằng chạy ra bưng để cùng nhau toan tính kế họach giật sập chế độ “quân phiệt” Thiệu Kỳ. Thử hỏi hạng người mượn chiếc áo cà sa Thầy Chùa, chiếc áo chùng đen Linh Mục đó có phải là những kẻ tu hành lương thiện không? Hay là quân phản trắc lộn sòng giả dạng khoác áo tôn giáo?
Kẻ thực sự yêu chuộng hòa bình, mong tiếng súng sớm chấm dứt chính là những người lính chiến của hai phía đang miệt mài ngoài trận mạc. Dù được Trời Phật che chở, độ trì, hộ mạng mà chiến tranh cứ kéo dài triền miên thì sao tránh khỏi có ngày vong mạng? Thế mhưng bọn tranh đấu nhân danh hòa bình, chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá đã miệt thị những người lính cầm súng gìn giữ an ninh cho họ thì bị họ gọi là bọn lính Ngụy của Thiệu Kỳ! Trong vụ khủng bố xảy ra hồi tháng 9 ngày 11 năm 2001, Nhất Hạnh đã bỏ ra cả trăm ngàn Mỹ kim để đăng một quảng cáo trên tờ nhật báo New York Times tố cáo Hoa Kỳ đã ném bom giết chết ba trăm ngàn (300.000) lương dân vô tội ở tỉnh Kiến Hòa thì nay có chết 3000 ngàn người Mỹ cũng chẳng nghĩa lý gì. Mỗi quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima hay Nagasaki chỉ giết chết 100 ngàn người Nhật, dân số thành phố Kiến Hòa lúc bấy giờ lấy đâu ra 300 ngàn để bị chết vì bom Mỹ? Nhất Hạnh cho rằng tai họa “9/ 11” là luật Nhân Quả mà nhân dân Hoa Kỳ phải lãnh đủ? Đối với một con người bình thường, đứng trước cái chết của bất cứ ai (ngay cả của kẻ thù đi nữa) cũng không thể nhẫn tâm tỏ một thái độ dã man như thế, huống chi là một vị Thiền Sư?! Mới đây, Nhất Hạnh viết một bức thư cho Nguyễn Minh Triết trong vụ Công An Cộng Sản đàn áp, đánh đập tăng thân ở tu viện Bát Nhã thì lại không dùng danh xưng Thiền Sư Nhất Hạnh, lại dùng cái tên Nguyễn Lang! Sao không dùng pháp danh Nhất Hạnh để dựa vào thế tôn giáo như trước kia từng lên án Việt Nam Cộng Hòa? Cái pháp danh Nhất Hạnh – chưởng môn của một giáo phái – dễ nổi đình nổi đám hơn, dễ mượn danh nghĩa tôn giáo hơn như cái hồi đi họp Hội nghị Phật Giáo Thế giới ở Ấn Độ tố gian VNCH , sao không dùng?
Cuốn “Biến Động Miền Trung” của Thiếu tá Liên Thành ra đời chắc chắn gây ra nhiều xôn xao, bởi vì ông tiết lộ nhiều điều bí mật chưa ai biết tới, đã khiến cho một thiểu số người phản đối. Trong nước, có Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan công kích Liên Thành chụp mũ cộng sản cho những Phật tử thuần thành (!); ngoài nước có Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn, thành viên trong phong trào tranh đấu tại Huế, thì biện bạch Đôn Hậu, Trí Quang không phải là cộng sản. Trước đó, luật sư Tạ văn Tài cũng lên tiếng biện hộ cho Trí Quang một cách nhiệt tình. Luật sư Tạ văn Tài là ai? Tôi chỉ biết ông Tài là người anh em đồng hao (cọc chèo) với luật sư Bùi Tường Huân, em trai của ông Bùi Tường Chiểu, một luật sư nổi tiếng của Sài Gòn vào thập niên 60. Hai ông Huân và Chiểu là bạn học của ông anh tôi – Đặng văn Châu – ở Pháp trước khi ông Ngô Đình Diệm được cựu hoàng Bảo Đại mời về nước thành lập Nội Các vào Tháng 7 năm 1954. Do đó, tôi cũng có hân hạnh quen biết hai ông Bùi Tường Chiểu và Bùi Tường Huân ở Sài Gòn. Có thể vì bị ảnh hưởng xu hướng tả khuynh của trí thức Pháp, ông Bùi Tường Huân cũng ngả theo Sư Phật giáo tranh đấu chống Mỹ Diệm và cũng nhờ sự hỗ trợ của các Sư tranh đấu, ông Huân được làm Viện trưởng Viện Đại học Huế, Tổng trưởng Giáo Dục. Ông Huân vừa lớn tuổi, vừa xấu trai nhưng lấy được chị Phương Thảo – một giai nhân có tiếng ở Huế, em gái ca sĩ Hà Thanh – là nhờ có địa vị cao trong chính quyền do sự đề bạt của các ông Sư tranh đấu. Sự ngây thơ của nhà trí thức tả khuynh Bùi Tường Huân đi theo “Các Thầy” đã bị trả giá bằng những năm tù tội trong trại Tập Trung Cộng Sản sau năm 1975. Ông Tạ văn Tài lấy cô Liên Như – em gái của chị Phương Thảo, của ca sĩ Hà Thanh – lên tiếng biện hộ cho Trí Quang không phải là đảng viên cộng sản, theo tôi nghĩ, cũng vì cái tình anh em đồng hao với Bùi Tường Huân, chứ chẳng phải do nhà cầm quyền trong nước thuê mướn làm thầy cãi.
Ông Tạ văn Tài bác bỏ những dữ kiện của Liên Thành tố giác Trí Quang là cộng sản dựa theo lời khai của cán bộ tình báo Hoàng Kim Loan và lời tiết lộ của ông Tố Hữu từng đứng ra nhận lời tuyên thệ của Trí Quang khi gia nhập Đảng Cộng Sản. Cả hai ông Tạ văn Tài và Trần Kiêm Đoàn đều ra đưa ra luận cứ Trí Quang, Đôn Hậu đã từng có hành động phản đối Đảng Công Sản Việt Nam sau năm 75 bắt buộc Phật Giáo Thống Nhất phải sáp nhập vào Phật Giáo Việt Nam (một loại tổ chức Phật Giáo Quốc Doanh) để biện minh rằng Trí Quang, Đôn Hậu không phải là cộng sản. Mặc dầu không phải là luật sư, tôi cho rằng những luận cứ của ông Tài và ông Đoàn không đủ sức thuyết phục, bởi vì ông Nguyễn Hộ từng chống lại việc Đảng CSVN giải thể Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam; Tướng Trần Độ từng chống lại chính sách độc tài toàn trị của Đảng CSVN thì không có nghĩa rằng hai ông Nguyễn Hộ, Trần Độ không phải là đảng viên cộng sản!
Mới đây tôi có xem video cuộc phỏng vấn Đại tướng Nguyễn Khánh cũng nghe ông Khánh mạnh dạn bảo Trí Quang không phải là cộng sản, mà là người của C.I.A. bằng lập luận rằng nếu Trí Quang là cộng sản thì Trí Quang đã được cộng sản “xài” sau năm 1975, chứ không bị quản chế như hiện nay. Tôi e rằng ông Đại tướng lập luận hơi … nông cạn. Cái nòi cộng sản chuyên trị vắt chanh bỏ vỏ, ăn cháo đá bát mà Đại tướng không thấu hiểu hay sao? Chiếu theo lập luận của ông Đại tướng, tôi xin hỏi lại rằng nếu Trí Quang là người của C.I.A. mà cộng sản lại để yên cho Trí Quang an lành ngồi dịch kinh kệ hay sao? Quân cán chính VNCH đâu có phải là người của C.I.A. đều bị đày đọa trong các trại tập trung mà Đại tướng không biết hay sao? Phạm Xuân Ẩn là đảng viên cộng sản làm gián điệp nằm vùng, sau năm 1975, cũng còn bị đi học tập đấy thôi!
Đã có nhiều cán bộ đảng viên cao cấp cộng sản từng tạo thành tích lớn cho Đảng, mà chỉ vì bất bình với Đảng đều bị cho ra rìa hoặc bị tù tội! Sau Tết Mậu thân, có một số Phật tử dù thân nhân bị sát hại cũng có luận điệu bênh vực Đôn Hậu bị Việt Cộng “áp giải” ra Bắc, chứ không phải “Ngài” tự ý. Hãy tạm tin vì bị Việt Cộng dùng vũ lực áp giải, Đôn Hậu phải đành chịu bó tay. Nhưng xin hỏi cái việc Đôn Hậu lên đài phát thanh cộng sản ở Hà Nội kêu gọi binh lính Miền Nam buông súng đầu hàng cũng bị cộng sản bắt buộc phải không? Vậy thì tinh thần “Vô Úy” của Đạo Phật mà Đôn Hậu thường rao giảng cho tín đồ để đâu lại không đem ra dùng khi bị bắt buộc?
Là một người lính Việt Nam Cộng Hòa, thuần túy tác chiến ngoài mặt trận, không phải là sĩ quan chiến tranh tâm lý hoặc tình báo, tôi không có bằng chứng, dữ kiện cụ thể để quy cho Trí Quang là cán bộ cộng sản. Nhưng qua những hành động gây rối liên tục của Trí Quang sau khi đã thành công trong việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm thì rõ ràng Trí Quang muốn dâng Miền Nam cho cộng sản Hà Nội. Chiếc áo cà sa của Trí Quang nguy hiểm và lợi hại hơn Dép Râu, Nón Cối và súng AK, vì được tín đồ và dư luận mù quáng quốc tế hỗ trợ. Cộng sản coi tôn giáo là thuốc phiện, nhưng chúng đã dùng tôn giáo để gây mâu thuẫn, chia rẽ trong hàng ngũ đối phương rất thâm độc. Xin liệt kê một số hành động nguy hại cho Miền Nam của Trí Quang:
– Trí Quang đã cáo buộc tất cả các chính phủ sau năm 1964 đều là chính quyền Diệm không Diệm, liên tục xách động quần chúng Phật tử xuống đường đòi lật đổ. Thậm chí Cụ Trần văn Hương, kỹ sư Phan Khắc Sửu, bác sĩ Phan Huy Quát là những Phật tử, từng chống chế độ Ngô Đình Diệm cũng bị Trí Quang đòi lật đổ. Ngoài tiền tuyến, Cộng Quân gia tăng áp lực quân sự; ở nội thành Trí Quang gia tăng quấy rối, xáo trộn không ngừng, lại thêm gian thương đầu cơ tích trữ khiến cho đòi sống kinh tế của nhân dân thêm khó khăn thì thử hỏi có chính phủ nào đủ khả năng tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để viết Hiến Pháp? Bất cứ ai lãnh đạo Miền Nam sau ngày 1 tháng 11 năm 1963 cũng phải dùng cán bộ được đào tạo dưới chế độ Ngô Đình Diệm để điều hành việc nước. Chỉ có cách sử dụng cán bộ cộng sản thì mới tránh được sự cáo buộc “chính quyền Diệm không Diệm” của Trí Quang.
– Nếu không khoác chiếc áo Cà Sa thì các ông Trí Quang và băng đảng không thể vận động quần chúng Phật tử mang bàn thờ xuống đường để ngăn cản Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa hành quân truy lùng địch và diệt địch hầu mang lại an ninh cho đồng bào. Trí Quang dùng chiêu bài bảo vệ đạo pháp để đưa ra những yêu sách không thể nào chấp nhận, để xách động tín đồ mù quáng làm theo lệnh của Thầy. Thực chất là cố tình gây hấn để dồn chính quyền phải ra tay dẹp bạo loạn, gây đổ máu thì mới có thể hô hoán với thế giới rằng Phât giáo bị đàn áp. Cái yêu sách đòi tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để viết Hiến Pháp, thiết lập chính quyền dân sự để loại bỏ chính quyền quân nhân cũng chỉ là thủ đoạn của Trí Quang mà thôi. Trí Quang không phải là người tha thiết đến vấn đề Tự Do, Dân Chủ nên đã ngậm miệng dưới chế độ độc tài cộng sản. Tại sao Trí Quang không tự thiêu như Bồ Tát Quảng Đức đã tự thiêu để phản đối độc tài Ngô Đình Diệm?
– Vì không thể đương đầu với tình hình khó khăn, hai ông Phan Khắc Sửu và Phan Huy Quát đành phải trao quyền lãnh đạo Đất Nước cho Quân Đội; chứ không phải Quân Đội làm cuộc đảo chánh lật đổ chính quyền dân sự để thoán đoạt quyền bính. Tại sao Trí Quang cứ xách động quần chúng Miền Trung đòi lật đổ tập đoàn “quân phiệt” Thiệu Kỳ? Khi Đại sứ Cabot Lodge hỏi: “Ngài đòi hạ bệ Nguyễn Cao Kỳ xuống thì Ngài sẽ đưa ai lên?”, Trí Quang thản nhiên đáp: “Tôi sẽ đưa Nguyễn Cao Kỳ lên”. Mưu toan gì mà lạ lùng vậy? Hạ bệ Nguyễn Cao Kỳ để chính mình đưa Nguyễn Cao Kỳ lên, phải chăng chỉ nhằm khuấy động cho tình hình nát bấy để dâng Miền Nam cho cộng sản?
– Miền Nam bị Miền Bắc xâm lăng bằng quân sự nên phải dựa vào sức mạnh của Hoa Kỳ để tồn tại. Dù kẻ nào ngu lắm cũng phải biết rõ điều đó. Tại sao các sư tranh đấu dưới sự chỉ đạo của Trí Quang cứ đòi đuổi Mỹ ra khỏi Miền Nam và ngưng chiến, hòa bình bất cứ giá nào mà không hề kêu gọi Miền Bắc rút “Bộ Đội Cụ Hồ” về bên kia vỹ tuyến để Miền Nam tự giải quyết vấn đề nội bộ? Người Mỹ đã bị các phe tranh đấu đòi tống cổ thì không có lý do gì họ phải ở lỳ để tốn người hao của. Họ đâu có cuốn gói bỏ đi ra khỏi các quốc gia đồng minh của họ như Đài Hàn, Nhật Bản?
Đọc bài “Đôi điều …” của ông Trần Kiêm Đoàn, tôi nhận thấy tác giả có luận điệu giống Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan và Việt Cộng Nguyễn Đắc Xuân. Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan chê Liên Thành là một Trưởng ty Cảnh sát tồi, kém khả năng cho nên Miền Nam thua cũng phải! Ông Trần Kiêm Đoàn chê Liên Thành là một Trưởng ty Cảnh sát tỉnh lẻ, là kẻ nói … phách tấu. Việt Cộng Nguyễn Đắc Xuân trong bài “Những bạo hành ở Tu viện Bát Nhã, xin giải thích giùm tôi” lên án chế độ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo (Phật giáo) nên mới có phong trào tranh đấu bảo vệ đạo pháp; còn ông Trần Kiêm Đoàn cho rằng Liên Thành viết cuốn “Biến Động Miền Trung” là do sự hỗ trở mạnh mẽ của nhóm “Phù Ngô Phục Hận” đầy bản lĩnh đang đứng ở hậu trường (?!) Không rõ ông Trần Kiêm Đoàn căn cứ vào đâu để cáo buộc tác giả viết cuốn sách “Biến Động Miền Trung” là do sự chỉ đạo của chân tay Nhà Ngô đứng ở hậu trường?
Những thành phần tranh đấu ở Huế cho đến nay vẫn cương quyết buộc tội anh em nhà Họ Ngô đàn áp Phật Giáo để biện minh cho lý do làm loạn của họ. Vì thời cuộc, vì kém nhận thức, năm 1963 tôi cũng nghĩ chế độ Ngô Đình Diệm chủ trương gia đình trị, chèn ép Phật giáo. Tuy không trực tiếp nhúng tay vào việc lật đổ chế độ, nhưng anh em tôi đã cho ông Trần Quang Thuận “tỵ nạn” trong nhà ở 57 D Tú Xương, Sàigòn sau khi ông Thuận lái xe chở Hòa thượng Quảng Đức ra góc đường Lê văn Duyệt – Phan Đình Phùng tưới xăng châm lửa hỏa thiêu Hòa thượng Quảng Đức, lúc ông Thuận bị nhà cầm quyền săn bắt. Ông Trần Quang Thuận – hiện ở Hoa Kỳ – pháp danh Trí Độ (lâu ngày tôi chẳng biết tôi có nhớ đúng pháp danh không) con rể cụ Tôn Thất Hối và em rể bác sĩ Tôn Thất Niệm, từng nằm cạnh giường tôi ở nhà ông anh tôi trong thời gian trốn tránh công an cảnh sát. Ai cũng có thể kiểm chứng với ông Trần Quang Thuận về chi tiết vừa nêu. Thuật lại điều này để độc giả hiểu rằng tôi là một Phật tử, từng ủng hộ những người chống chế độ Ngô Đình Diệm.
Qua nhiều biến cố xảy ra trên Đất Nước sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tâm tư lắng đọng, có thời giờ nhìn lại giai đoạn lịch sử vừa qua, tôi thật tình hối hận và thương xót cho số phận của nhà ái quốc Ngô Đình Diệm cùng gia đình. Ông Diệm được vua Bảo Đại trao cho trách nhiệm lãnh đạo Miền Nam vào một thời điểm cực kỳ khó khăn, trong khi Miền Bắc đang ca khúc khải hoàn nhờ âm vang chiến thắng Điện Biên Phủ được thế giới – nhất là thế giới thứ ba – khâm phục. Anh em ông Diệm không có cán bộ của riêng mình, họ phải sử dụng viên chức hành chánh, quân sự, công an cảnh sát do thực dân Pháp đào tạo để lại, phần lớn kém khả năng chuyên môn và ý thức “quốc gia – cộng sản” rất mù mờ. Thủ đô Sài Gòn là một xã hội đen do bọn ma cô, tướng cướp của sòng bạc Đại Thế Giới và ổ điếm Bình Khang lộng hành. Ông Diệm cử Tướng Nguyễn văn Hinh – một người có quốc tịch Pháp – làm Tổng Tham mưu trưởng thì ông Hinh đã trả lời một cách hỗn láo: “Tôi không thèm nhận, vì tôi không biết ông là ai”. Trong khi ấy lực lượng giáo phái Bình Xuyên, Hòa Hảo chống anh em ông Diệm bằng vũ trang thì buộc lòng anh em ông Diệm phải ra tay đánh dẹp. Mặt khác, chiếu theo thỏa ước Genève, phe quốc gia phải rút về phía Nam vĩ tuyến 17 và phe cộng sản phải rút về phía Bắc vĩ tuyến 17, nhưng trong thực tế thì cộng sản chôn dấu vũ khí và cài cán bộ của chúng vào các hạ tầng cơ sở để chuẩn gây chiến tranh khuynh đảo. Tất nhiên ông Diệm phải phát động phong trào Tố Cộng để thanh lọc hàng ngũ “Quốc – Cộng”, thì không sao tránh khỏi bị những thuộc cấp xấu lạm dụng quyền thế, gây oan ức, phẫn nộ trong nhân dân. Tiếng ác do bộ máy tuyên truyền của cộng sản cứ gieo vào gia đình ông Diệm khiến cho quần chúng dễ tin vào sự đồn đãi vô tội vạ. Cho nên mới có lời truyền khẩu vô bằng: “Ngô Đình Diệm kéo lê máy chém khắp Miền Nam để chém đầu cộng sản” mà một người từng đặt chân từ Bến Hải đến Cà Mâu như tôi chưa hề thấy hình thù cái máy chém ra sao cả. Chưa hết, đối thủ chính trị (quốc gia và cộng sản) còn đồn đãi ông Diệm thông dâm với cô em dâu lăng loàn là bà Trần thị Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu để triệt hạ uy tín đạo đức của ông Diệm. Bà Trần thị Lệ Xuân sinh năm 1925 trở thành góa phụ lúc mới 38 tuổi tràn đầy nhựa sống, bà đã sống cuộc đời thầm lặng thờ chồng nuôi con cho tới hôm nay, chứ không như bà Jacqueline Kennedy vội lấy ông già tỉ phú Artistotle Onassis (với mục đích moi tiền) mà gần đây có tác giả thân cận dòng họ Kennedy còn tiết lộ mối quan hệ luyến ái của bà Jacqueline Kennedy có với ông em chồng – Robert Kennedy.
Cục diện chính trị xã hội Miền Nam, phe mệnh danh là phe Quốc Gia nát bấy như tương như thế thì làm sao có nhân vật nào đủ khả năng ổn định để thi hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước? Miền Bắc tố cáo ông Diệm vi phạm thỏa ước Genève, mà lại có những phần tử ở Miền Nam phụ họa theo luận điệu kẻ thù là điều vô cùng bất công. Ông Diệm đã tổ chức cuộc di cư vĩ đại thành công, định cư cho một triệu người, vãn hồi an ninh trật tự, xây dựng những đổ nát hoang tàn sau chiến tranh, thiết lập một nền giáo dục nhân bản, khai phóng. Trong khi ở Miền Bắc, Hồ Chí Minh vâng lệnh Trung Cộng thi hành nhiều chính sách tàn bạo dã man chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà.
Có phải chủ trương của chế độ Ngô Đình Diệm là dành đặc quyền cho Công Giáo và triệt hạ các tôn giáo khác? Đức Cha Lê Hữu Từ, người xây dựng khu tự trị Bùi Chu Phát Diệm, sau 1954 vào Nam yêu cầu ông Diệm cho phép giữ lại bộ phận quân sự của Đức Cha thì bị ông Diệm từ chối, vì ông Diệm quan niệm rằng Quân Đội phải được thống nhất, chiến đấu dưới ngọn cờ Quốc Gia duy nhất do một vị Tổng Tư Lệnh chỉ huy. Dưới thời ông Diệm, các chùa chiền được trùng tu, các khuôn hội Phật Giáo và hệ thống trường Bồ Đề được phát triển tự do, không hề bị hạn chế. Giả dụ ông Diệm là một Phật tử, chắc chắn cộng sản sẽ dùng Công Giáo để đánh đổ, bởi vì gây chia rẽ tôn giáo là một thế võ làm cho đối phương khó chống đỡ nhất. Do kinh nghiệm thành công trong cuộc xâm lăng Miền Nam nhờ vận dụng tôn giáo, bọn cộng sản cầm quyền ngày nay cương quyết “nhốt” tất cả các đoàn thể tôn giáo vào Mặt Trận Tổ Quốc (một loại nhà tù trá hình). Dù trong quá khứ Nhất Hạnh đã ra sức làm tay sai cho cộng sản, thì ngày nay tăng thân của Thiền Sư vẫn bị cộng sản hành hạ, đánh đập như thường. Ma vương, qủy sứ không bao giờ chấp nhận tôn giáo. Chúng chỉ dùng tôn giáo cho mục đích gian tà của chúng mà thôi!
Người ta thường nói “Hãy để lịch sử phán xét”. Chế độ Ngô Đình Diệm đã sụp đổ 46 năm rồi. Thời gian trôi qua đã đủ dài để phán xét một cách vô tư, công minh. Tôi nghĩ rằng ông Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc chân chính, luôn luôn đặt chủ quyền Đất Nước lên trên danh vọng, mạng sống của mình. Năm 33 tuổi, ông Diệm được vua Bảo Đại phong làm Thượng thư Bộ Lại (chức Thủ tướng ngày nay), muốn cải tổ đường lối cai trị nhưng bị người Pháp không bằng lòng, ông đã xin phép vua rút lui. Không chấp nhận yêu sách của Hoa Kỳ đưa quân vào nước mình, ông Diệm và hai người em đã bị giết. Trong khi ở Miền Bắc, Hồ Chí Minh cứ cúi đầu thi hành những mệnh lệnh của Quốc tế Cộng sản dù phi nhân, dù thiệt hại quyền lợi xứ sở đến đâu. Bằng chứng rõ ràng nhất còn lưu lại hậu thế là Hồ Chí Minh ra lệnh cho Phạm văn Đồng viết văn thư nhìn nhận Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Cộng.
Ông Ngô Đình Nhu là người mưu trí, đọc nhiều sử sách, chắc chắn ông phải biết Hồ Chí Minh đã từng ký thỏa hiệp với Thực dân Pháp chấp nhận kẻ thù trở lại Đông Dương, nhằm rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia yêu nước, thì ông Nhu cũng có thể khuyên anh mình thỏa hiệp với Hoa Kỳ chấp nhận cho Hoa Kỳ đưa quân vào Việt Nam để rảnh tay tiêu diệt những phần tử đội lốt tôn giáo gây bạo loạn. Nhưng anh em ông Diệm đã không làm, vì sợ ô danh với lịch sử về cái tội nô lệ ngoại bang! Giả sử ông Diệm chấp nhận yêu sách của Hoa Kỳ thì dù có đến mười ông Trí Quang cũng không thể lật đổ chế độ, vì các Tướng không được Hoa Kỳ bỏ tiền ra mua để tạo phản.
Ngày nay Cộng Sản Việt Nam dành mọi đặc quyền cho Trung Cộng khai thác tài sản Đất Nước mà bất cứ người dân nào có lời nói, hành vi chống lại Trung Cộng đều bị đánh đập, cầm tù. Chủ quyền của Đất Nước ta nay đã bị rơi vào tay kẻ thù truyền kiếp! Đó là thành quả tranh đấu của Trí Quang và băng đảng sau bao năm gây rối ở Miền Nam!
Nhắc lại công lao với Đất Nước của Tổng thống Ngô Đình Diệm, mong độc giả đừng nghĩ rằng tôi muốn làm sống lại nền Đệ Nhất Cộng Hòa – một nền Cộng Hòa bị thọ địch tứ bề. Điều tôi muốn nói với thế hệ trẻ rằng quyền lợi Tổ Quốc (chủ quyền Quốc Gia) là trên hết, hãy noi gương người xưa, dù phải hy sinh tính mạng cũng phải gìn giữ cho bằng được, bởi vì không có dân tộc nào, ngoại bang nào yêu thương mình cả! Chỉ có cách duy nhất là đoàn kết với nhau để tồn tại. Tấm gương lịch sử cận đại còn đó. Nguyễn Phúc Ánh nhờ sức mạnh của người Pháp lật đổ nhà Tây Sơn để thống nhất Đất Nước, cuối cùng Đất Nước rơi vào sự đô hộ của Thực dân Pháp. Hồ Chí Minh mượn khí giới Nga Tầu để thống nhất Đất Nước, cuối cùng Đất Nước rơi vào tay Trung Cộng. Công lao thống nhất Đất Nước không bằng cái tội đưa trăm họ vào sự nô lệ ngoại bang. Anh em trong nhà hãy tự giải quyết sự xung đột với nhau, đừng mượn tay người ngoài.
Nhờ đọc bài của ông Trần Kiêm Đoàn ca tụng, tán dương người cán bộ trí vận, tôn giáo vận cộng sản Võ Đình Cường mà tôi mới biết xu hướng thân cộng của tác giả để cảnh giác. Nếu cứ tin vào người có bằng cấp Tiến sĩ thông hiểu giáo lý Phật giáo, có văn tài như ông Đoàn thì một tín đồ Phật giáo như tôi rất dễ rơi vào bến mê bởi vọng ngữ của tác giả. Cuốn sách của Liên Thành sẽ còn gây nhiều tranh cãi, vì đụng đến các Sư tranh đấu, mặc dầu tác giả là cháu của Ngài Tăng thống Tịnh Khiết. Ngay cả Hoàng tộc Nguyễn Phúc cũng khai trừ Liên Thành, nhưng chưa bao giờ lên tiếng khai trừ một người nào trong Hoàng tộc đi theo cộng sản để tạo nên một xã hội tồi tệ như hôm nay. Sùng đạo là một điều qúy hóa, nhưng không nên mù quáng bảo vệ những kẻ đội lốt tôn giáo để cho cộng sản thống trị giống nòi. Vì cộng sản là qủy sứ, là ma vương.
Tôi mong ông Đoàn đừng nối gót Võ Đình Cường từng mượn mầu tôn giáo để cho cộng sản thống trị, vì tình trạng Đất Nước Việt Nam mình ngày hôm nay ra sao thì ông cũng đã thấy rõ rồi! Xin lặp lại một lần nữa: Cộng Sản là tai họa ghê gớm cho dân tộc Việt Nam!
Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 20 tháng 11 năm 2009