Phạm Ðào Nguyên
Hằng năm cứ vào ngày 30- 4, người Việt khắp nơi ở hải ngoại biểu tình, hay làm lễ tưởng niệm ngày Quốc hận. Bầu trời mờ đục che khuất dưới vòm mây xám. Năm nay trời mưa buồn lê thê như chia xẻ niềm ưu tư, và thông cảm nỗi xót xa của dân Việt trên toàn thế giới, có cả người trong nước đang bị gông xiềng dưới chế độ cộng sản.
Ngày 30-4-75 miền Nam tự do sụp đổ, đã đưa dân tộc Việt ở cả hai miền Nam Bắc đến tận cùng nỗi khổ. Nước Việt Nam đã biến thành địa ngục của trần gian. Lòng tôi bùi ngùi xúc động, nhớ lại những gì đã xảy ra trên quê hương tôi ngày ấy, 30- 4 -1975.
Bây giờ là tháng 4, tôi xin kể về những nỗi thống khổ của người miền Nam sau 1975, để chúng ta có dịp ôn cố tri tân. Sau tháng tư năm 1975, con dân nước Việt trên toàn cõi Việt nam đều ngậm ngùi rơi lệ, vì chúng ta đã mất tất cả. Một Việt nam Tự do không còn nữa, dù bạn là người miền Nam hay miền Bắc. Cho đến ngày nay, sau ba mươi bốn năm hoà bình, Việt Nam vẫn đang mãi quằn quại trong gông cùm nô lệ, đói nghèo, đàn áp, và xiềng xích của bọn cộng sản.
Bây giờ sống ở Mỹ, nhưng tôi cũng không biết tại sao tôi nhớ Việt nam? Nhiều lúc tôi hỏi chính mình, tôi nhớ qúa, nhớ con đường làng, nhớ chợ quê, nhớ ngày Tết, nhớ dòng sông! Ở đó có quá nhiều kỷ niệm, dù nhiều kỷ niệm đau thương đến với gia đình tôi. Hơn 20 năm xa xứ, tôi chưa về thăm lại một lần. Việt nam là quê hương tôi, là mồ mả cha ông, là bà con thân tộc, còn đối với người Mỹ, Việt nam vẫn mãi mãi là vết thương không bao giờ lành. Dù 30 năm sau, tất cả các cuộc chiến xảy ra, người Mỹ đã đem cuộc chiến Việtnam ra mổ xẻ, phân tích và nghiên cứu.
Tôi không phải là nhà văn, nhà báo, cũng không làm chính trị, không là cán bộ hay làm lính trước năm 1975. Tôi là một giáo viên. Nhiệm vụ của tôi là dạy dỗ con em yêu gia đình, yêu tổ quốc Việt nam, và giảng giải đời sống khoa học thực dụng chung quanh các em. Tôi chỉ mong làm tròn bổn phận một công dân trong xã hội, phục vụ nhân quần tròn trách nhiệm của mình. Tôi không tham gia chính trị, tôi cũng không cần phải liên hệ với chính trị đảng phái. Tôi sinh ra trước khi hiệp định Geneve ký kết và lớn lên ở Miền Nam; tôi được thừa hưởng mọi điều tự do tự nhiên không phân vân, hay thắc mắc. Từ sau ngày Cộng sản giết cha, cha tôi làm thầy thuốc bắc, nào có tội tình chi. Hai bác tôi là nông dân, cũng bị bắt lên núi rồi mất tích, lúc ấy tôi nhìn cộng sản như một loại khủng bố hung tàn, khi còn hai miền Nam Bắc đối nghịch nhau.
Sau 29-3-1975, tôi trở về sống ở làng quê với Cộng sản, tôi thấy rõ bộ mặt thật của cộng sản là khủng bố, độc tài và gian ác. Con người dưới chế độ cộng sản luôn luôn sợ hãi, đói nghèo, và nô lệ. Đảng cộng sản Việtnam là hiện thân của lừa bịp, láo khoét và tàn ác. Họ có khoảng chừng hai triệu người nhưng đã thống trị và đô hộ cả 80 triệu người khác dưới một chính sách ác nghiệt. Cộng sản là lũ qủy hay là loài thú dã man đội lốt người.
Bây giờ nhiều người nói rằng chuyện đã xưa rồi, hảy quên, nhớ làm gì, nhưng tôi vẫn cứ nhớ. Tôi muốn được kể cho con cháu tôi biết rằng tại sao chúng ta phải tha phương cầu thực. Tại sao các con là người Việt nam phải sống rải rác các nơi trên thế giới từ nước này đến nước khác sau ngày 30-4-75. Nhìn lại được nhau là nhờ mớ tóc đen, da vàng mũi tẹt. Gặp nhau hỏi thăm rằng anh là người Á châu? Thậm chí có người không còn muốn nhìn mình là người Việt nam. Vậy thì tôi xin viết ra đây những gì có thật bằng mắt thấy tai nghe, để con cháu tôi hãnh diện được làm người Việt nam mà không quay mặt phủ nhận gốc gác của mình.
Người Việt nam ra đi là người Việt nam đã hứng chịu chồng chất tai ương do cộng sản đổ lên đầu, sau ngày chế độ tự do miền Nam sụp đổ. Đến bây giờ sau 34 năm, Việt nam vẫn chưa có Tự do, không có quyền làm người, và dân chúng vẫn mãi đói nghèo, ngoại trừ hai triệu đảng viên. Có hàng trăm tên đảng viên cộng sản gởi tiền ở ngân hàng Thụy sĩ, mỗi người có đến từ 2-3 tỉ đô la? Tại sao chúng có nhiều tiền đến thế, mà trong khi dân chúng lại cơ hàn. Thế giới còn phải lên tiếng vì tình trạng đói nghèo của dân Việt Nam. Đàn bà, con gái, con nít, là sản phẩm để chế độ đem bán qua các gian thương cho ngoại quốc để lấy ngoại tệ!! Một dân tộc đang chìm đắm trong mọi hoàng cảnh nô lệ.
Tôi đã chứng kiến sự bạo tàn, áp chế của một chế độ đầy quyền lực sắt máu, và độc tài để cai trị nhân dân. Mạng sống của con người rẻ mạt như cỏ rác, họ muốn giết, nửa đêm gọi cửa, dẫn ra bải cát, hay triền núi bắn bỏ. Năm ba hôm sau có ai thấy được, thân nhân lượm xác về chôn. Đang đêm du kích dẫn cả bầy đến nhà, ùa vào đánh người mà có ai thèm điều tra, hay bảo vệ đâu. Ai kêu oan ta thán, chưởi bới là bị ghép phản động đưa đi tù. Nhiều danh từ mới mà người Nam chúng tôi chưa nghe thấy bao giờ như ,“Bọn ác ôn, bọn phản động hiện hành, giải phóng, cách mạng, thành phần bóc lột, tư sản mại bản, ngụy quân, ngụy quyền, hồ hởi phấn khởi, cải tạo tư tưởng, cải tạo lao động, cách mạng văn hóa, cách mạng nông nghiệp v.v...”. Tất cả những từ ngữ thật kêu này dùng để che lấp sự ngược đãi, đói nghèo, tù tội, và cướp bóc. Nhiều từ ngữ được đảo ngược lại, cũng như chính sách cai trị của họ với chính sách tự do ngày trước.
Quê tôi giải phóng bao người đói
Cả vạn khối người bị cùm gông
Bỏ tù được gọi là cải tạo
Kinh tế mới, đón người khắp phố đông
Trời Nam tan tóc loài quỷ lộng
Tiếng khóc lời than ngập non sông
Liền sau ngày 30-3-75 khi Cộng sản tiếp thu Đà Nẵng, việc đầu tiên vô nhân đạo là vào bệnh viện Duy Tân, quân du kích, và bộ đội đuổi hết những thương binh, phế binh của miền Nam ra khỏi bệnh viện. Những thương bệnh binh còn đau, vết thương chưa lành. Những chiếc xe lăn của họ bị cướp đoạt, những người lính mù lòa cõng trên vai người lính cụt chân. Những thương bệnh binh còn mang bọc ruột bên ngoài được đồng đội què quặt dìu dắt. Họ vất vưởng trên đường phố, tôi đứng nhìn theo, mắt rơi lệ, lòng ngậm ngùi.
Một cuộc giải phóng của bọn cướp của giết người đã đưa mấy chục triệu người dân Nam Việt nam đến tận cùng nỗi khổ, và đói rét khốn cùng. Cộng sản biến miền Nam nước Việt thành địa ngục của trần gian, một nơi chốn đen tối nhất của xã hội loài người trên thế giới. Thế giới của cộng sản, một thế giới chết chóc, đói nghèo và tù tội.
Khoảng 200 ngàn người thanh niên, đàn ông vì tham gia bảo vệ miền Nam nay trở thành tội phạm. Họ trở nên những tên tù. Một thứ tù được bắt đi bằng những lời lưà bịp từ chính thể gọi là Việt nam Dân Chủ Cộng hoà, Độc lập Tự do Hạnh phúc của cộng sản Việt nam. Họ gọi là hoà giải hoà hợp và đưa những người của chính quyền cũ đi học tập chính sách 10-15 ngày tùy theo cấp bực. Một sự lưà bịp trắng trợn có cần gì chứng minh không vì nó rõ ràng trước mặt, họ thành những tên tù, đúng hơn là nô dịch không có án. Nhà tù mọc lên như nấm dọc theo Trường sơn. Có người làm nô dịch đến chết vì đói vì bịnh hay lao khổ. Con người không còn là con người mà là con vật người.
Người tù ở trong một nhà tù nhỏ, và người dân ở trong nhà tù lớn hơn, nhà tù cộng sản. Mọi người sống trong bóng tối cộng sản, không có được nguồn tin tức nào từ thế giới bên ngoài. Phố xá xác xơ, nghèo đói chết chóc vất vưởng chung quanh. Mọi người hoảng sợ lẫn nhau, vì mạng lưới công an khủng bố, tổ chức cài đặt khắp nơi có hệ thống để theo dõi mọi người, từ trẻ con đến đàn bà đàn ông, anh hàng xóm tới anh bộ đội. Mạng lưới khủng bố đe dọa kinh hoàng.
Kinh tế hoàn toàn bế tắc, mọi người không có việc làm, ngoại trừ làm ruộng. Lao động là vinh quang, là chủ thuyết làm cho dân nghèo đi để trị của cộng sản hay bọn cộng sản ngu?. Người dân ăn “sắn hay củ mì”, khoai, bo bo, chút ít gạo, có khi nhiều năm trường, con người trở nên xanh xao, bịnh hoạn. Nhiều thương gia, chính khách trước đây từng ủng hộ, họ âm thầm tiếp tế cho cộng sản, giờ hoảng hốt sợ hải, chờ tới phiên mình lên đoạn đầu đài, ân hận thì đã muộn màng. Đó là trường hợp của những người có học ở miền Nam tham gia Mặt Trận giải phóng miền Nam sau tháng 4-75 chỉ tồn tại ba tháng là bị đạp đổ. Trương như Tảng bỏ chạy, Nguyễn Hữu Thọ, Đoàn văn Toại, Kiều Mộng Thu, Trịnh Ðình Thảo, Phạm văn Thảo vv... bị đá văng ra khỏi cái chính quyền cộng sản một cách thê thảm. Một số bị tù? Người Mỹ như bà Jean Fonda mặc áo bà ba đen, ôm súng AK ủng hộ Hồ chí Minh, ủng hộ cộng sản vì người Mỹ chưa từng sống dưới sự cai trị tàn bạo của Cộng sản bao giờ.
Hơn mười năm sống với cộng sản, tôi thấy bằng chính mắt, nghe bằng chính tai tôi những tội ác của chế độ cộng sản phi nhân này gây ra. Những điều kinh hoàng về chế độ mà ngày trước 75, tôi sinh ra ở miền Nam, hay bây giờ con tôi lớn lên ở Mỹ, không thể tưởng tượng là có thật.
Trước năm 75 hằng ngày tôi chứng kiến cảnh chết chóc của những người lính từ hai miền Nam Bắc trên xóm làng quê hương tôi, tuy đau khổ nhưng không khổ bằng sau 75. Sau năm 75, số người chết tương đương với những năm chinh chiến: người tự tử hàng ngày từ miền quê đến thị thành vì áp bức, vì đói nghèo, vì khủng bố. Những người thanh niên, thanh nữ bị chết bởi bắt đi khai hoang vào những bải mìn, bãi cỏ bỏ hoang từ bao lâu nay. Hễ hở ra một tiếng thở dài ta thán, cũng bị theo dõi là có tư tưởng phản động.
Người đói chết trong tù, người đói chết bên đường. Người chết ngoài biển khơi, người chết trên rừng già. Người chết vì bị giết, hay bị lao dịch. Người chết vì vượt biên bị người Miên giết, bị cộng sản bắt được giết, hay bị Thái giết. Người thất chí nói chống đối bị bắt đánh tới chết, người khác bị bỏ tù, nhà tù mở ra như nấm từ thành phố đến Trường sơn.
Miền Nam Việt nam trở thành nhà tù hay địa ngục đầy kinh dị, mà tôi, người miền Nam chưa hề tưởng tượng hay nghe nói đến, trong lịch sử loài người. Nhớ những năm 78 người vượt biên bị bắt được gọi “Phản quốc, ” bị bắn tại chỗ, thế rồi bây giờ đổi thành “Việt Kiều Yêu Nước.” Đừng nghe những gì Việt cộng nói mà hãy nhìn những gì Việt cộng làm.
Người cộng sản dùng những chiêu bài như “Nước Việt nam là một, người Việt nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi.” Hay “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.” Mục đích là muốn chiếm trọn miền Nam để cướp bóc dã man từ tài sản đến nhân mạng bằng nhiều cách, nhiều chiến thuật, chính sách ấy thực hiện liên tục móc nối nhau: Thứ nhất đưa đàn ông đi tù làm nô dịch, rồi dân ở thành phố bị cô lập đến đói, thực phẩm không được chuyển vào thành phố. Giá cả thực phẩm ở thành phố tăng vọt hàng ngày hàng giờ. Trong khi những gia đình Ngụy, nhất là những người đàn bà trước kia là công chức, nay không có việc làm, họ đem bán tất cả đồ đạc có được như đồ trang sức, áo quần, bàn ghế, tất cả những gì có thể được để đổi lấy miếng ăn.
Ai đi buôn thì bị đón bắt tịch thu dọc đường, vì người đi buôn là có tội, tội lười biếng không lao động. Chiến dịch “Ngăn sông, cấm chợ, và lao động là vinh quang,” một chính sách dã man, ăn cướp cạn, không luật pháp. Cộng sản là bọn thú đội lốt người. Luật trên đầu súng, luật của cộng sản là luật rừng của bọn cướp.
Dần dà người thành phố vì đói nghèo, đành bỏ phố mà ra đi theo áp lực của chính quyền cộng sản phải đi vào những miền mà Cộng sản đặt tên “Kinh tế mới,” để lao động. Một số đàn bà bị họ dụ dỗ, lừa đảo là đi Kinh Tế Mới để chồng con được tha về, cùng nhau lên núi tạo đời sống mới. Nhưng khi người vợ đi rồi, nhà cửa bị họ lấy bằng cách thu mua rẻ mạt, còn chồng con vẫn mãi ở trong tù. Núi non trùng điệp, rừng thiêng nước độc, những người đàn bà tay yếu chân mềm từ trước đến nay, đến đây ít tháng con cái bị bệnh sốt rét hoành hành, đói khát, chết dở sống dở, đành chạy về lại thành phố sống la lết ở rầm cầu, xó chợ qua ngày. Rồi thì công an bắt được đưa đi tù, bỏ đàn con đói khát, khốn khổ bơ vơ. Trẻ con làm đủ thứ nghề để sống, con gái làm điếm, con trai ma cô, trộm cướp du đãng. Tai họa đến thì phải đi tù. Có khi một gia đình cha bị tù vì làm việc trước 75, mẹ tù vì cư ngụ bất hợp pháp hay chống đối, còn con cái vì làm điếm, hay trộm cướp đi tù. Ai thấu cho nỗi niềm đau của dân chúng miền Nam sau thời 75.
Số đàn bà nào ù lì ở lại thành phố thì sa ngay vào chiến dịch “HOA HỒNG,” tức là những nhà đàn bà có chồng đi cải tạo, được chính quyền gởi cán bộ, bộ đội tới ở trong nhà. Họ dùng bằng được mọi thủ đoạn nhặt khoan để họ cướp vợ. Làm sao họ cướp được của rồi, họ phải cướp vợ của người miền Nam. Làm sao để người miền Nam tan tóc, đổ nát, thì họ mới vui. Biết bao người đàn bà lấy cán bộ. Bọn cộng sản đã tài chủ hóa, sở hữu hoá những nhà này, vợ này thành của họ. Những người lính hay cán bộ chính quyền cũ trình diện học tập 10 ngày, nay trở thành nô dịch vô hạn định. Làm nô dịch không án tù, không ai biết được số phận của mình. Những đứa con của họ không được tiếp tục theo học tiếp sau trung học.
Cộng sản bài trừ triệt để những người của thế hệ sau, liên hệ với người chính quyền cũ đến ba đời. Những đứa con có cha làm cho chính quyền Quốc gia chỉ còn cách cắt đá, làm đường sắt, làm công nhân, và không bao giờ có cơ hội ngóc đầu nổi. Một nạn kỳ thị khủng khiếp phủ lên đầu con dân miền Nam bằng cái “Hộ Khẩu” mà có người nói lái là hậu khổ, chưa từng có trên thế gian này, ngoại trừ người Việt nam.
Những chiến dịch khủng bố tinh thần xảy ra liên tục từ 1-5-1975, cộng sản quyét sạch văn hoá tự do bằng cách tịch thu sách báo, tạp chí, đặc san của người miền Nam, mà họ gọi là sách báo đồi trụy. Bắt đầu, họ tổ chức những đội thanh niên xung phong đi tịch thu ở từng nhà một, tất cả các lọai sách báo miền Nam. Cấm hát tất cả loại nhạc miền Nam, cộng gọi là nhạc vàng, làm con người yếu hèn. Ai cất dấu bắt được, bị bắt, bị tù.
Nhà tù nhan nhản trên miền núi, vì ở đó họ đang cần công nhân nô lệ làm nô dịch để sản xuất phụng sự cho 2 triệu cán bộ và quân đội. Những bản nhạc chém giết như “Giải phóng miền Nam, Tiếng chày trên sóc Mâm bô, Tiếng đàn ta lư, Ai yêu bác Hồ...” toàn là lời nhạc chém giết như ,“Cầm gươm ôm súng xông tới...” hát theo kiểu Tàu éo éo chói tai. Chiến dịch bài trừ này kéo dài theo thời gian từ 1-5-75 cho đến năm 1982 thì nhẹ bớt, và nỗ lực ráo riết nhất là 1981 cho đến khi thật sự không còn sách báo nữa mới thôi.
Những sách báo miền Nam được chia làm năm loại: được đăng tải trên các báo cộng sản như Tạp chí Cộng sản, Tin sáng, Quân đội nhân dân, Sài gòn giải phóng vv...
Loại A là loại sách chống cộng và ca tụng chính thể tự do của Mỹ như sách cuả Nguyễn mạnh Côn, Duyên Anh, Nhất Linh..vv... sách dịch gồm những tác giả André Gide, Pearl Buck, Pasternak v.v..
Loại B là loại sách khêu gợi, đầu độc, cộng sản gọi là văn hóa đồi trụy như của Miller, Kazan, Francoise Sagan, Trần thanh Hiệp, Thanh tâm Tuyền vv...
Loại C là loại sách tình cảm, nhạc vàng, gồm những tác giả như Bàng bá Lân, Mộng Tuyết, Tuệ Nga, Eric Sagan, S. Maugham, R. Nathan, A. Dumas, Lamartine vv..
Loại D là loại sách về tôn giáo và triết học. Trong loại này được chấp nhận một số ít vì có vài loại sách chống Mỹ.
Loại E loại phản chiến và khoa học kỹ thuật. Loại sách này nếu bắt được tạm thời tha.
Loại F là loại gồm sách đấu tranh, sáng tạo hay nghệ thuật.
Số sách tịch thu được nhiều nhất là 1981, thành phố Sài gòn khoảng 60 tấn, ba tỉnh Bình Trị Thiên khoảng 50 tấn, tỉnh Quảng Nam 10 tấn. Cùng năm này, công an lùng bắt và nhiều người còn giữ sách đã bị ra toà án nhân dân và bị đi lao dịch.
Trên mặt trận kinh tế, họ đổi tiền ba lần để bần cùng hoá người dân miền Nam. Lần thứ nhất ngày 22-9-75 với tỉ lệ là 1 đồng mới bằng 500 đồng tiền cũ giới hạn 200 đồng cho mỗi hộ. Trong đợt này họ phát hành 8 loại giấy bạc: 10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng và 50 đồng. Rất khó khăn nhất cho người dân miền Nam là đồng bạc 50 đồng, vì không có tiền thối lại.
Lần thứ hai ngày 3-5-78 đổi tiền cả hai miền Nam Bắc. Miền Bắc 1 đồng đổi 1 đồng thống nhất, nhưng 1 đồng miền Nam bằng 8 hào thống nhất. Đợt này họ phát hành thêm 5xu, 10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, và 100 đồng.
Lần thứ ba đổi tiền ngày 14-9-85. Một lần nữa họ đổi tiền theo tỷ giá 10 đồng tiền cũ được 1 đồng tiền mới. Họ phát hành tiền loại 2 đồng, 10 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng. Năm 1978 là năm mà kinh tế miền Nam khủng hoảng nhất, dân miền Nam đói rét khủng khiếp nhất. Người miền Nam từ thiên đường rơi tỏm xuống địa ngục. Khi đói nghèo thì ta thán, bỏ chạy, còn nhân dân miền Bắc thì chịu đựng những cơn đói hành hạ từng bao nhiêu chục năm trường trước đây, họ trở nên lì hơn.
Mục đích những lần đổi tiền là làm nhỏ đi đồng tiền miền Nam Việt Nam, nghĩa là bần cùng hóa nhân dân miền Nam để cai trị. Ba lần như vậy, người miền Nam không còn gì hết, từ nghèo đến đói và tóc tang. Đồng thời cùng một lúc với các chiến dịch đổi tiền, tịch thu sách báo, họ đánh tư sản mại bản nhiều lần. Họ kiểm kê tài sản hàng hóa những thương gia miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, rồi đưa nhóm người này vào tù. Họ lấy tất cả nhà cửa, hàng hóa, vàng bạc, đưa thương gia đi lao dịch, và vợ con đi vào kinh tế mới để sản xuất. Núi rừng thâm sơn gió chướng, bệnh hoạn giết chết bao người!
Đầu năm 1978, chiến dịch đuổi người Tàu ra khỏi nước, bằng cách thu nộp mỗi người 10-20 lượng vàng để đóng tàu bè ra đi. Người muốn đi ngoại quốc phải ký giao nhà cửa cho cán bộ quản lý hay đúng ra là hình thức ăn cướp hay hối lộ. Họ làm hỏng máy và cho những chiếc tàu ra khơi không an toàn vào ngày gió bão để giết người hàng loạt trên biển Đông. Có những tàu quá trọng tải nên vừa ra khơi là chìm, miễn sao cán bộ cộng sản lấy được tiền, vàng bạc, nhà của. Số cán bộ làm giàu rất mau lẹ trên xương máu người đồng chủng không thương tiếc, không còn có chút cảm giác của con người. Đó là loại người cộng sản, loại người lạnh máu, loại người vô nhân đạo nhất thế gian này.
Ở nông thôn, họ tịch thu ruộng đất của dân chúng, thành lập hợp tác xã. Của cải tài sản của dân nay biến thành của nhà nước hay cán bộ, và dân chúng đi làm thuê, cán bộ tính công hàng ngày. Cộng sản cấm buôn thúng bán bưng, mọi dịch vụ thương mại đi vào hợp tác xã mua bán, và dẹp chợ, vì mọi người phải đi lao động hàng ngày. Mỗi ngày làm 8 tiếng có được từ 6 đến 10 điểm đến khi chúng tính chia chỉ có hai ký lúa, khoảng 1 ký gạo? Làm sao đủ sống? Hàng năm mỗi người còn phải đóng thuế thân là 360 điểm cho xã hội chủ nghĩa. “Lao động là Vinh quang,” câu khẩu hiệu, câu châm ngôn đầu môi mép miệng của bọn cộng sản. Mọi người dân từ thành thị đến thôn quê kêu trời không thấu, ngữa mặt thấy máu rơi, tội tù và đói khổ.
Cộng sản giết người bằng những thủ đoạn âm thầm, thâm độc mà người ngoại quốc mới nhìn vào cứ tưởng là khoan hồng. Thật ra, những người miền Nam có tội tình gì? Tội bảo vệ tự do, tội chống lại sự xâm lăng của miền Bắc, tội bảo vệ tài sản mình ư? Dưới chế độ cộng sản, con người không còn quyền làm người, ra khỏi thôn là phải xin phép công an, đám giổ đám cúng phải xin phép vì luật không tụ họp quá hai người. Nếu chính quyền địa phương không cho phép thì sẽ bị bắt đi tù. Ban đêm tụi công an mật vụ đi rình từng nhà nghe thử có ai nói lời bất mãn không. Hằng ngày có ai đến nhà, họ nói gì, ai ăn ngon mặc đẹp mà khai nghèo, thì sẽ phải đi tù vì khai baó không thật thà? Không được đi lại, không được nói, không được ăn, không được đi chùa đi nhà thờ, tất cả là không. Không còn gì nữa cả dưới chế độ cộng sản. Vô sản, vô quyền, vô thần mới đúng nghĩa của chính sách của cộng sản Việt nam. Tất cả đời sống con người bị kiểm sóat, kiềm kẹp chặt chẽ bằng mọi cáh. Đi đến đâu là có mật vụ theo dỏi, ngay cả con nít cũng bị đầu độc trong việc này.
Con người dưới chế độ cộng sản là sống trong một nhà tù khổng lồ, vô cùng khiếp sợ. Việt nam, nơi tôi sinh ra, lớn lên và tôi đã tìm đường bỏ chạy. Không những riêng gì tôi, mà hàng triệu người, ai chạy được thì chạy, tìm sự sống trong cái chết. Có người nói rằng, cột đèn miền Nam nếu chạy được cũng muốn chạy, huống hồ chi con người. Ra đi để các con chúng tôi có đời sống tự do, có chút không khí tự do để hít thở, để sống và để làm lại con người. Hàng triệu người bỏ trốn, từ bỏ cái xã hội chủ nghĩa, từ bỏ cái thiên đường cộng sản, dù phải chết trên biển cả hay trong rừng già. Thiên đường cộng sản là thiên đường mù, hay thiên đường lót đầy máu của dân chúng Việt Nam.
Trên chuyến hải hành đầy gian khổ, lênh đênh trên biển khơi, đói khát với giông bão hãi hùng, cái giá của tự do quá đắt với người Việt chúng tôi. Một phần ba số người ra đi chết trên biển cả. Đến bến bờ tự do, gia đình tôi có được tự do, thì chúng tôi phải đương đầu với những khó khăn về ngôn ngữ, thời tiết, và văn hóa. Dù gì đi nữa, thì con cái chúng tôi còn có được chút không khí tự do để thở và hy vọng ngày mai. Hy vọng ngày tự do sẽ đến với dân tộc Việt nam chúng tôi sớm hơn.
Thế giới bây giờ đã thấy được bộ mặt thật của cộng sản Việt nam, ông Hồ chí Minh không còn là thần tượng của bà Jean Fonda, và những người phản chiến nước ngoài nữa. Dù cộng sản Việt nam bưng bít thế nào đi nữa, láo khoét mãi với thế giới loài người bên ngoài, để đày đọa người dân trong nước, thì bây giờ cũng không còn dấu diếm được nữa.
Thế giới của những nhà độc tài đã lần lần bị thoái hóa, và bị tiêu diệt bơỉ ánh sáng văn minh tiến bộ bên ngoài. Phải chăng tôi đang hy vọng ảo, là ánh sáng sẽ có ở cuối đường hầm, nhưng dù gì thì tôi vẫn tin và hy vọng ở ngày mai. Tất cả những nhà độc tài đã từ từ triệt tiêu vì lạc hậu và vô nhân đạo, và ngày ấy Tự do sẽ đến với Việt Nam tôi. Tự do sẽ đến để cho những người bà con tôi, thân nhân tôi, dù là con cái của đời sau, họ cũng có được chút không khí tự do, ánh sáng tự do, để hít thở, và để có được quyền sống, quyền làm người như bao người khác trên thế giới.
Phạm Ðào Nguyên
Hằng năm cứ vào ngày 30- 4, người Việt khắp nơi ở hải ngoại biểu tình, hay làm lễ tưởng niệm ngày Quốc hận. Bầu trời mờ đục che khuất dưới vòm mây xám. Năm nay trời mưa buồn lê thê như chia xẻ niềm ưu tư, và thông cảm nỗi xót xa của dân Việt trên toàn thế giới, có cả người trong nước đang bị gông xiềng dưới chế độ cộng sản.
Ngày 30-4-75 miền Nam tự do sụp đổ, đã đưa dân tộc Việt ở cả hai miền Nam Bắc đến tận cùng nỗi khổ. Nước Việt Nam đã biến thành địa ngục của trần gian. Lòng tôi bùi ngùi xúc động, nhớ lại những gì đã xảy ra trên quê hương tôi ngày ấy, 30- 4 -1975.
Bây giờ là tháng 4, tôi xin kể về những nỗi thống khổ của người miền Nam sau 1975, để chúng ta có dịp ôn cố tri tân. Sau tháng tư năm 1975, con dân nước Việt trên toàn cõi Việt nam đều ngậm ngùi rơi lệ, vì chúng ta đã mất tất cả. Một Việt nam Tự do không còn nữa, dù bạn là người miền Nam hay miền Bắc. Cho đến ngày nay, sau ba mươi bốn năm hoà bình, Việt Nam vẫn đang mãi quằn quại trong gông cùm nô lệ, đói nghèo, đàn áp, và xiềng xích của bọn cộng sản.
Bây giờ sống ở Mỹ, nhưng tôi cũng không biết tại sao tôi nhớ Việt nam? Nhiều lúc tôi hỏi chính mình, tôi nhớ qúa, nhớ con đường làng, nhớ chợ quê, nhớ ngày Tết, nhớ dòng sông! Ở đó có quá nhiều kỷ niệm, dù nhiều kỷ niệm đau thương đến với gia đình tôi. Hơn 20 năm xa xứ, tôi chưa về thăm lại một lần. Việt nam là quê hương tôi, là mồ mả cha ông, là bà con thân tộc, còn đối với người Mỹ, Việt nam vẫn mãi mãi là vết thương không bao giờ lành. Dù 30 năm sau, tất cả các cuộc chiến xảy ra, người Mỹ đã đem cuộc chiến Việtnam ra mổ xẻ, phân tích và nghiên cứu.
Tôi không phải là nhà văn, nhà báo, cũng không làm chính trị, không là cán bộ hay làm lính trước năm 1975. Tôi là một giáo viên. Nhiệm vụ của tôi là dạy dỗ con em yêu gia đình, yêu tổ quốc Việt nam, và giảng giải đời sống khoa học thực dụng chung quanh các em. Tôi chỉ mong làm tròn bổn phận một công dân trong xã hội, phục vụ nhân quần tròn trách nhiệm của mình. Tôi không tham gia chính trị, tôi cũng không cần phải liên hệ với chính trị đảng phái. Tôi sinh ra trước khi hiệp định Geneve ký kết và lớn lên ở Miền Nam; tôi được thừa hưởng mọi điều tự do tự nhiên không phân vân, hay thắc mắc. Từ sau ngày Cộng sản giết cha, cha tôi làm thầy thuốc bắc, nào có tội tình chi. Hai bác tôi là nông dân, cũng bị bắt lên núi rồi mất tích, lúc ấy tôi nhìn cộng sản như một loại khủng bố hung tàn, khi còn hai miền Nam Bắc đối nghịch nhau.
Sau 29-3-1975, tôi trở về sống ở làng quê với Cộng sản, tôi thấy rõ bộ mặt thật của cộng sản là khủng bố, độc tài và gian ác. Con người dưới chế độ cộng sản luôn luôn sợ hãi, đói nghèo, và nô lệ. Đảng cộng sản Việtnam là hiện thân của lừa bịp, láo khoét và tàn ác. Họ có khoảng chừng hai triệu người nhưng đã thống trị và đô hộ cả 80 triệu người khác dưới một chính sách ác nghiệt. Cộng sản là lũ qủy hay là loài thú dã man đội lốt người.
Bây giờ nhiều người nói rằng chuyện đã xưa rồi, hảy quên, nhớ làm gì, nhưng tôi vẫn cứ nhớ. Tôi muốn được kể cho con cháu tôi biết rằng tại sao chúng ta phải tha phương cầu thực. Tại sao các con là người Việt nam phải sống rải rác các nơi trên thế giới từ nước này đến nước khác sau ngày 30-4-75. Nhìn lại được nhau là nhờ mớ tóc đen, da vàng mũi tẹt. Gặp nhau hỏi thăm rằng anh là người Á châu? Thậm chí có người không còn muốn nhìn mình là người Việt nam. Vậy thì tôi xin viết ra đây những gì có thật bằng mắt thấy tai nghe, để con cháu tôi hãnh diện được làm người Việt nam mà không quay mặt phủ nhận gốc gác của mình.
Người Việt nam ra đi là người Việt nam đã hứng chịu chồng chất tai ương do cộng sản đổ lên đầu, sau ngày chế độ tự do miền Nam sụp đổ. Đến bây giờ sau 34 năm, Việt nam vẫn chưa có Tự do, không có quyền làm người, và dân chúng vẫn mãi đói nghèo, ngoại trừ hai triệu đảng viên. Có hàng trăm tên đảng viên cộng sản gởi tiền ở ngân hàng Thụy sĩ, mỗi người có đến từ 2-3 tỉ đô la? Tại sao chúng có nhiều tiền đến thế, mà trong khi dân chúng lại cơ hàn. Thế giới còn phải lên tiếng vì tình trạng đói nghèo của dân Việt Nam. Đàn bà, con gái, con nít, là sản phẩm để chế độ đem bán qua các gian thương cho ngoại quốc để lấy ngoại tệ!! Một dân tộc đang chìm đắm trong mọi hoàng cảnh nô lệ.
Tôi đã chứng kiến sự bạo tàn, áp chế của một chế độ đầy quyền lực sắt máu, và độc tài để cai trị nhân dân. Mạng sống của con người rẻ mạt như cỏ rác, họ muốn giết, nửa đêm gọi cửa, dẫn ra bải cát, hay triền núi bắn bỏ. Năm ba hôm sau có ai thấy được, thân nhân lượm xác về chôn. Đang đêm du kích dẫn cả bầy đến nhà, ùa vào đánh người mà có ai thèm điều tra, hay bảo vệ đâu. Ai kêu oan ta thán, chưởi bới là bị ghép phản động đưa đi tù. Nhiều danh từ mới mà người Nam chúng tôi chưa nghe thấy bao giờ như ,“Bọn ác ôn, bọn phản động hiện hành, giải phóng, cách mạng, thành phần bóc lột, tư sản mại bản, ngụy quân, ngụy quyền, hồ hởi phấn khởi, cải tạo tư tưởng, cải tạo lao động, cách mạng văn hóa, cách mạng nông nghiệp v.v...”. Tất cả những từ ngữ thật kêu này dùng để che lấp sự ngược đãi, đói nghèo, tù tội, và cướp bóc. Nhiều từ ngữ được đảo ngược lại, cũng như chính sách cai trị của họ với chính sách tự do ngày trước.
Quê tôi giải phóng bao người đói
Cả vạn khối người bị cùm gông
Bỏ tù được gọi là cải tạo
Kinh tế mới, đón người khắp phố đông
Trời Nam tan tóc loài quỷ lộng
Tiếng khóc lời than ngập non sông
Liền sau ngày 30-3-75 khi Cộng sản tiếp thu Đà Nẵng, việc đầu tiên vô nhân đạo là vào bệnh viện Duy Tân, quân du kích, và bộ đội đuổi hết những thương binh, phế binh của miền Nam ra khỏi bệnh viện. Những thương bệnh binh còn đau, vết thương chưa lành. Những chiếc xe lăn của họ bị cướp đoạt, những người lính mù lòa cõng trên vai người lính cụt chân. Những thương bệnh binh còn mang bọc ruột bên ngoài được đồng đội què quặt dìu dắt. Họ vất vưởng trên đường phố, tôi đứng nhìn theo, mắt rơi lệ, lòng ngậm ngùi.
Một cuộc giải phóng của bọn cướp của giết người đã đưa mấy chục triệu người dân Nam Việt nam đến tận cùng nỗi khổ, và đói rét khốn cùng. Cộng sản biến miền Nam nước Việt thành địa ngục của trần gian, một nơi chốn đen tối nhất của xã hội loài người trên thế giới. Thế giới của cộng sản, một thế giới chết chóc, đói nghèo và tù tội.
Khoảng 200 ngàn người thanh niên, đàn ông vì tham gia bảo vệ miền Nam nay trở thành tội phạm. Họ trở nên những tên tù. Một thứ tù được bắt đi bằng những lời lưà bịp từ chính thể gọi là Việt nam Dân Chủ Cộng hoà, Độc lập Tự do Hạnh phúc của cộng sản Việt nam. Họ gọi là hoà giải hoà hợp và đưa những người của chính quyền cũ đi học tập chính sách 10-15 ngày tùy theo cấp bực. Một sự lưà bịp trắng trợn có cần gì chứng minh không vì nó rõ ràng trước mặt, họ thành những tên tù, đúng hơn là nô dịch không có án. Nhà tù mọc lên như nấm dọc theo Trường sơn. Có người làm nô dịch đến chết vì đói vì bịnh hay lao khổ. Con người không còn là con người mà là con vật người.
Người tù ở trong một nhà tù nhỏ, và người dân ở trong nhà tù lớn hơn, nhà tù cộng sản. Mọi người sống trong bóng tối cộng sản, không có được nguồn tin tức nào từ thế giới bên ngoài. Phố xá xác xơ, nghèo đói chết chóc vất vưởng chung quanh. Mọi người hoảng sợ lẫn nhau, vì mạng lưới công an khủng bố, tổ chức cài đặt khắp nơi có hệ thống để theo dõi mọi người, từ trẻ con đến đàn bà đàn ông, anh hàng xóm tới anh bộ đội. Mạng lưới khủng bố đe dọa kinh hoàng.
Kinh tế hoàn toàn bế tắc, mọi người không có việc làm, ngoại trừ làm ruộng. Lao động là vinh quang, là chủ thuyết làm cho dân nghèo đi để trị của cộng sản hay bọn cộng sản ngu?. Người dân ăn “sắn hay củ mì”, khoai, bo bo, chút ít gạo, có khi nhiều năm trường, con người trở nên xanh xao, bịnh hoạn. Nhiều thương gia, chính khách trước đây từng ủng hộ, họ âm thầm tiếp tế cho cộng sản, giờ hoảng hốt sợ hải, chờ tới phiên mình lên đoạn đầu đài, ân hận thì đã muộn màng. Đó là trường hợp của những người có học ở miền Nam tham gia Mặt Trận giải phóng miền Nam sau tháng 4-75 chỉ tồn tại ba tháng là bị đạp đổ. Trương như Tảng bỏ chạy, Nguyễn Hữu Thọ, Đoàn văn Toại, Kiều Mộng Thu, Trịnh Ðình Thảo, Phạm văn Thảo vv... bị đá văng ra khỏi cái chính quyền cộng sản một cách thê thảm. Một số bị tù? Người Mỹ như bà Jean Fonda mặc áo bà ba đen, ôm súng AK ủng hộ Hồ chí Minh, ủng hộ cộng sản vì người Mỹ chưa từng sống dưới sự cai trị tàn bạo của Cộng sản bao giờ.
Hơn mười năm sống với cộng sản, tôi thấy bằng chính mắt, nghe bằng chính tai tôi những tội ác của chế độ cộng sản phi nhân này gây ra. Những điều kinh hoàng về chế độ mà ngày trước 75, tôi sinh ra ở miền Nam, hay bây giờ con tôi lớn lên ở Mỹ, không thể tưởng tượng là có thật.
Trước năm 75 hằng ngày tôi chứng kiến cảnh chết chóc của những người lính từ hai miền Nam Bắc trên xóm làng quê hương tôi, tuy đau khổ nhưng không khổ bằng sau 75. Sau năm 75, số người chết tương đương với những năm chinh chiến: người tự tử hàng ngày từ miền quê đến thị thành vì áp bức, vì đói nghèo, vì khủng bố. Những người thanh niên, thanh nữ bị chết bởi bắt đi khai hoang vào những bải mìn, bãi cỏ bỏ hoang từ bao lâu nay. Hễ hở ra một tiếng thở dài ta thán, cũng bị theo dõi là có tư tưởng phản động.
Người đói chết trong tù, người đói chết bên đường. Người chết ngoài biển khơi, người chết trên rừng già. Người chết vì bị giết, hay bị lao dịch. Người chết vì vượt biên bị người Miên giết, bị cộng sản bắt được giết, hay bị Thái giết. Người thất chí nói chống đối bị bắt đánh tới chết, người khác bị bỏ tù, nhà tù mở ra như nấm từ thành phố đến Trường sơn.
Miền Nam Việt nam trở thành nhà tù hay địa ngục đầy kinh dị, mà tôi, người miền Nam chưa hề tưởng tượng hay nghe nói đến, trong lịch sử loài người. Nhớ những năm 78 người vượt biên bị bắt được gọi “Phản quốc, ” bị bắn tại chỗ, thế rồi bây giờ đổi thành “Việt Kiều Yêu Nước.” Đừng nghe những gì Việt cộng nói mà hãy nhìn những gì Việt cộng làm.
Người cộng sản dùng những chiêu bài như “Nước Việt nam là một, người Việt nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi.” Hay “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.” Mục đích là muốn chiếm trọn miền Nam để cướp bóc dã man từ tài sản đến nhân mạng bằng nhiều cách, nhiều chiến thuật, chính sách ấy thực hiện liên tục móc nối nhau: Thứ nhất đưa đàn ông đi tù làm nô dịch, rồi dân ở thành phố bị cô lập đến đói, thực phẩm không được chuyển vào thành phố. Giá cả thực phẩm ở thành phố tăng vọt hàng ngày hàng giờ. Trong khi những gia đình Ngụy, nhất là những người đàn bà trước kia là công chức, nay không có việc làm, họ đem bán tất cả đồ đạc có được như đồ trang sức, áo quần, bàn ghế, tất cả những gì có thể được để đổi lấy miếng ăn.
Ai đi buôn thì bị đón bắt tịch thu dọc đường, vì người đi buôn là có tội, tội lười biếng không lao động. Chiến dịch “Ngăn sông, cấm chợ, và lao động là vinh quang,” một chính sách dã man, ăn cướp cạn, không luật pháp. Cộng sản là bọn thú đội lốt người. Luật trên đầu súng, luật của cộng sản là luật rừng của bọn cướp.
Dần dà người thành phố vì đói nghèo, đành bỏ phố mà ra đi theo áp lực của chính quyền cộng sản phải đi vào những miền mà Cộng sản đặt tên “Kinh tế mới,” để lao động. Một số đàn bà bị họ dụ dỗ, lừa đảo là đi Kinh Tế Mới để chồng con được tha về, cùng nhau lên núi tạo đời sống mới. Nhưng khi người vợ đi rồi, nhà cửa bị họ lấy bằng cách thu mua rẻ mạt, còn chồng con vẫn mãi ở trong tù. Núi non trùng điệp, rừng thiêng nước độc, những người đàn bà tay yếu chân mềm từ trước đến nay, đến đây ít tháng con cái bị bệnh sốt rét hoành hành, đói khát, chết dở sống dở, đành chạy về lại thành phố sống la lết ở rầm cầu, xó chợ qua ngày. Rồi thì công an bắt được đưa đi tù, bỏ đàn con đói khát, khốn khổ bơ vơ. Trẻ con làm đủ thứ nghề để sống, con gái làm điếm, con trai ma cô, trộm cướp du đãng. Tai họa đến thì phải đi tù. Có khi một gia đình cha bị tù vì làm việc trước 75, mẹ tù vì cư ngụ bất hợp pháp hay chống đối, còn con cái vì làm điếm, hay trộm cướp đi tù. Ai thấu cho nỗi niềm đau của dân chúng miền Nam sau thời 75.
Số đàn bà nào ù lì ở lại thành phố thì sa ngay vào chiến dịch “HOA HỒNG,” tức là những nhà đàn bà có chồng đi cải tạo, được chính quyền gởi cán bộ, bộ đội tới ở trong nhà. Họ dùng bằng được mọi thủ đoạn nhặt khoan để họ cướp vợ. Làm sao họ cướp được của rồi, họ phải cướp vợ của người miền Nam. Làm sao để người miền Nam tan tóc, đổ nát, thì họ mới vui. Biết bao người đàn bà lấy cán bộ. Bọn cộng sản đã tài chủ hóa, sở hữu hoá những nhà này, vợ này thành của họ. Những người lính hay cán bộ chính quyền cũ trình diện học tập 10 ngày, nay trở thành nô dịch vô hạn định. Làm nô dịch không án tù, không ai biết được số phận của mình. Những đứa con của họ không được tiếp tục theo học tiếp sau trung học.
Cộng sản bài trừ triệt để những người của thế hệ sau, liên hệ với người chính quyền cũ đến ba đời. Những đứa con có cha làm cho chính quyền Quốc gia chỉ còn cách cắt đá, làm đường sắt, làm công nhân, và không bao giờ có cơ hội ngóc đầu nổi. Một nạn kỳ thị khủng khiếp phủ lên đầu con dân miền Nam bằng cái “Hộ Khẩu” mà có người nói lái là hậu khổ, chưa từng có trên thế gian này, ngoại trừ người Việt nam.
Những chiến dịch khủng bố tinh thần xảy ra liên tục từ 1-5-1975, cộng sản quyét sạch văn hoá tự do bằng cách tịch thu sách báo, tạp chí, đặc san của người miền Nam, mà họ gọi là sách báo đồi trụy. Bắt đầu, họ tổ chức những đội thanh niên xung phong đi tịch thu ở từng nhà một, tất cả các lọai sách báo miền Nam. Cấm hát tất cả loại nhạc miền Nam, cộng gọi là nhạc vàng, làm con người yếu hèn. Ai cất dấu bắt được, bị bắt, bị tù.
Nhà tù nhan nhản trên miền núi, vì ở đó họ đang cần công nhân nô lệ làm nô dịch để sản xuất phụng sự cho 2 triệu cán bộ và quân đội. Những bản nhạc chém giết như “Giải phóng miền Nam, Tiếng chày trên sóc Mâm bô, Tiếng đàn ta lư, Ai yêu bác Hồ...” toàn là lời nhạc chém giết như ,“Cầm gươm ôm súng xông tới...” hát theo kiểu Tàu éo éo chói tai. Chiến dịch bài trừ này kéo dài theo thời gian từ 1-5-75 cho đến năm 1982 thì nhẹ bớt, và nỗ lực ráo riết nhất là 1981 cho đến khi thật sự không còn sách báo nữa mới thôi.
Những sách báo miền Nam được chia làm năm loại: được đăng tải trên các báo cộng sản như Tạp chí Cộng sản, Tin sáng, Quân đội nhân dân, Sài gòn giải phóng vv...
Loại A là loại sách chống cộng và ca tụng chính thể tự do của Mỹ như sách cuả Nguyễn mạnh Côn, Duyên Anh, Nhất Linh..vv... sách dịch gồm những tác giả André Gide, Pearl Buck, Pasternak v.v..
Loại B là loại sách khêu gợi, đầu độc, cộng sản gọi là văn hóa đồi trụy như của Miller, Kazan, Francoise Sagan, Trần thanh Hiệp, Thanh tâm Tuyền vv...
Loại C là loại sách tình cảm, nhạc vàng, gồm những tác giả như Bàng bá Lân, Mộng Tuyết, Tuệ Nga, Eric Sagan, S. Maugham, R. Nathan, A. Dumas, Lamartine vv..
Loại D là loại sách về tôn giáo và triết học. Trong loại này được chấp nhận một số ít vì có vài loại sách chống Mỹ.
Loại E loại phản chiến và khoa học kỹ thuật. Loại sách này nếu bắt được tạm thời tha.
Loại F là loại gồm sách đấu tranh, sáng tạo hay nghệ thuật.
Số sách tịch thu được nhiều nhất là 1981, thành phố Sài gòn khoảng 60 tấn, ba tỉnh Bình Trị Thiên khoảng 50 tấn, tỉnh Quảng Nam 10 tấn. Cùng năm này, công an lùng bắt và nhiều người còn giữ sách đã bị ra toà án nhân dân và bị đi lao dịch.
Trên mặt trận kinh tế, họ đổi tiền ba lần để bần cùng hoá người dân miền Nam. Lần thứ nhất ngày 22-9-75 với tỉ lệ là 1 đồng mới bằng 500 đồng tiền cũ giới hạn 200 đồng cho mỗi hộ. Trong đợt này họ phát hành 8 loại giấy bạc: 10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng và 50 đồng. Rất khó khăn nhất cho người dân miền Nam là đồng bạc 50 đồng, vì không có tiền thối lại.
Lần thứ hai ngày 3-5-78 đổi tiền cả hai miền Nam Bắc. Miền Bắc 1 đồng đổi 1 đồng thống nhất, nhưng 1 đồng miền Nam bằng 8 hào thống nhất. Đợt này họ phát hành thêm 5xu, 10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, và 100 đồng.
Lần thứ ba đổi tiền ngày 14-9-85. Một lần nữa họ đổi tiền theo tỷ giá 10 đồng tiền cũ được 1 đồng tiền mới. Họ phát hành tiền loại 2 đồng, 10 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng. Năm 1978 là năm mà kinh tế miền Nam khủng hoảng nhất, dân miền Nam đói rét khủng khiếp nhất. Người miền Nam từ thiên đường rơi tỏm xuống địa ngục. Khi đói nghèo thì ta thán, bỏ chạy, còn nhân dân miền Bắc thì chịu đựng những cơn đói hành hạ từng bao nhiêu chục năm trường trước đây, họ trở nên lì hơn.
Mục đích những lần đổi tiền là làm nhỏ đi đồng tiền miền Nam Việt Nam, nghĩa là bần cùng hóa nhân dân miền Nam để cai trị. Ba lần như vậy, người miền Nam không còn gì hết, từ nghèo đến đói và tóc tang. Đồng thời cùng một lúc với các chiến dịch đổi tiền, tịch thu sách báo, họ đánh tư sản mại bản nhiều lần. Họ kiểm kê tài sản hàng hóa những thương gia miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, rồi đưa nhóm người này vào tù. Họ lấy tất cả nhà cửa, hàng hóa, vàng bạc, đưa thương gia đi lao dịch, và vợ con đi vào kinh tế mới để sản xuất. Núi rừng thâm sơn gió chướng, bệnh hoạn giết chết bao người!
Đầu năm 1978, chiến dịch đuổi người Tàu ra khỏi nước, bằng cách thu nộp mỗi người 10-20 lượng vàng để đóng tàu bè ra đi. Người muốn đi ngoại quốc phải ký giao nhà cửa cho cán bộ quản lý hay đúng ra là hình thức ăn cướp hay hối lộ. Họ làm hỏng máy và cho những chiếc tàu ra khơi không an toàn vào ngày gió bão để giết người hàng loạt trên biển Đông. Có những tàu quá trọng tải nên vừa ra khơi là chìm, miễn sao cán bộ cộng sản lấy được tiền, vàng bạc, nhà của. Số cán bộ làm giàu rất mau lẹ trên xương máu người đồng chủng không thương tiếc, không còn có chút cảm giác của con người. Đó là loại người cộng sản, loại người lạnh máu, loại người vô nhân đạo nhất thế gian này.
Ở nông thôn, họ tịch thu ruộng đất của dân chúng, thành lập hợp tác xã. Của cải tài sản của dân nay biến thành của nhà nước hay cán bộ, và dân chúng đi làm thuê, cán bộ tính công hàng ngày. Cộng sản cấm buôn thúng bán bưng, mọi dịch vụ thương mại đi vào hợp tác xã mua bán, và dẹp chợ, vì mọi người phải đi lao động hàng ngày. Mỗi ngày làm 8 tiếng có được từ 6 đến 10 điểm đến khi chúng tính chia chỉ có hai ký lúa, khoảng 1 ký gạo? Làm sao đủ sống? Hàng năm mỗi người còn phải đóng thuế thân là 360 điểm cho xã hội chủ nghĩa. “Lao động là Vinh quang,” câu khẩu hiệu, câu châm ngôn đầu môi mép miệng của bọn cộng sản. Mọi người dân từ thành thị đến thôn quê kêu trời không thấu, ngữa mặt thấy máu rơi, tội tù và đói khổ.
Cộng sản giết người bằng những thủ đoạn âm thầm, thâm độc mà người ngoại quốc mới nhìn vào cứ tưởng là khoan hồng. Thật ra, những người miền Nam có tội tình gì? Tội bảo vệ tự do, tội chống lại sự xâm lăng của miền Bắc, tội bảo vệ tài sản mình ư? Dưới chế độ cộng sản, con người không còn quyền làm người, ra khỏi thôn là phải xin phép công an, đám giổ đám cúng phải xin phép vì luật không tụ họp quá hai người. Nếu chính quyền địa phương không cho phép thì sẽ bị bắt đi tù. Ban đêm tụi công an mật vụ đi rình từng nhà nghe thử có ai nói lời bất mãn không. Hằng ngày có ai đến nhà, họ nói gì, ai ăn ngon mặc đẹp mà khai nghèo, thì sẽ phải đi tù vì khai baó không thật thà? Không được đi lại, không được nói, không được ăn, không được đi chùa đi nhà thờ, tất cả là không. Không còn gì nữa cả dưới chế độ cộng sản. Vô sản, vô quyền, vô thần mới đúng nghĩa của chính sách của cộng sản Việt nam. Tất cả đời sống con người bị kiểm sóat, kiềm kẹp chặt chẽ bằng mọi cáh. Đi đến đâu là có mật vụ theo dỏi, ngay cả con nít cũng bị đầu độc trong việc này.
Con người dưới chế độ cộng sản là sống trong một nhà tù khổng lồ, vô cùng khiếp sợ. Việt nam, nơi tôi sinh ra, lớn lên và tôi đã tìm đường bỏ chạy. Không những riêng gì tôi, mà hàng triệu người, ai chạy được thì chạy, tìm sự sống trong cái chết. Có người nói rằng, cột đèn miền Nam nếu chạy được cũng muốn chạy, huống hồ chi con người. Ra đi để các con chúng tôi có đời sống tự do, có chút không khí tự do để hít thở, để sống và để làm lại con người. Hàng triệu người bỏ trốn, từ bỏ cái xã hội chủ nghĩa, từ bỏ cái thiên đường cộng sản, dù phải chết trên biển cả hay trong rừng già. Thiên đường cộng sản là thiên đường mù, hay thiên đường lót đầy máu của dân chúng Việt Nam.
Trên chuyến hải hành đầy gian khổ, lênh đênh trên biển khơi, đói khát với giông bão hãi hùng, cái giá của tự do quá đắt với người Việt chúng tôi. Một phần ba số người ra đi chết trên biển cả. Đến bến bờ tự do, gia đình tôi có được tự do, thì chúng tôi phải đương đầu với những khó khăn về ngôn ngữ, thời tiết, và văn hóa. Dù gì đi nữa, thì con cái chúng tôi còn có được chút không khí tự do để thở và hy vọng ngày mai. Hy vọng ngày tự do sẽ đến với dân tộc Việt nam chúng tôi sớm hơn.
Thế giới bây giờ đã thấy được bộ mặt thật của cộng sản Việt nam, ông Hồ chí Minh không còn là thần tượng của bà Jean Fonda, và những người phản chiến nước ngoài nữa. Dù cộng sản Việt nam bưng bít thế nào đi nữa, láo khoét mãi với thế giới loài người bên ngoài, để đày đọa người dân trong nước, thì bây giờ cũng không còn dấu diếm được nữa.
Thế giới của những nhà độc tài đã lần lần bị thoái hóa, và bị tiêu diệt bơỉ ánh sáng văn minh tiến bộ bên ngoài. Phải chăng tôi đang hy vọng ảo, là ánh sáng sẽ có ở cuối đường hầm, nhưng dù gì thì tôi vẫn tin và hy vọng ở ngày mai. Tất cả những nhà độc tài đã từ từ triệt tiêu vì lạc hậu và vô nhân đạo, và ngày ấy Tự do sẽ đến với Việt Nam tôi. Tự do sẽ đến để cho những người bà con tôi, thân nhân tôi, dù là con cái của đời sau, họ cũng có được chút không khí tự do, ánh sáng tự do, để hít thở, và để có được quyền sống, quyền làm người như bao người khác trên thế giới.
Phạm Ðào Nguyên
No comments:
Post a Comment