Friday, April 24, 2009

Bài học nhiều giá trị nhưng cũng lắm xót sa - Phan Ðức Minh

Bài này đã đoạt giải "Thi viết về Ngày Quốc Hận 30 tháng 4" do "Viet Democratic Side’s International Forum" tổ chức và long trọng công bố kết quả tại Toronto – Canada -

*
**
Nam Việt Nam
Ngày 30 – 4 - 1975

(Kính tặng các chiến hữu, đồng bào và những người bạn trẻ của tôi)

Ngày kỷ niệm đau buồn 30 tháng 4 lại tới.. Nói đến chuyện đó, trước hết ta nên nhớ lại câu nói hàm chưá cả một âm mưu, tham vọng của Lenine, cha đẻ của cách mạng tháng 10 ở Nga, của Ðệ Tam Quốc Tế cộng sản, sư phụ của Hồ Chí Minh, sư tổ của phong trào cộng sản thế giới " … First, we will take eastern Europe, then the masses of Asia, then we will encircle United States which will be the last bastion of capitalism. We will not have to attack.

- Lenin - it will fall into our hands like an overripe fruit …" (The Death Of A Nation - John A. Stormer - 1978.- Liberty Bell Press,. Florissant, Missouri - U.S.A - Page 14). Tư tưởng, tham vọng này từ lâu đã sai bét hết cả rồi !

Nhà lãnh tụ được coi là vĩ đại nhất của phong trào cộng sản quốc tế này, trước đó hơn nửa thế kỷ, đã từng vạch ra một chiến lược để đánh thắng Hoa Kỳ mà không cần phải tấn công trực tiếp vào Hoa Kỳ, chỉ cần đem phong trào cộng sản đến thống trị Ðông Aâu, rồi thống trị khối nhân dân khổng lồ ở Á Châu , sau đó bao vây Hoa Kỳ, thành luỹ cuối cùng của chế độ tư bản. Hoa Kỳ sẽ như trái cây chín nẫu, rơi vào tay cộng sản. Chủ quan ghê gớm thật !

Sau vụ tấn công khủng bố kinh hoàng 11 tháng 9 -2001, đánh thẳng vào nước Mỹ, tháng 2 -2002, những cuộc thăm dò ý kiến dân Mỹ môâït cách đại quy mô: Tại sao nước Mỹ hùng cường, nhân đạo, từng giúp đỡ biết bao nhiêu quốc gia, dân tộc khi họ gặp cơn khốn kho,ù thoát cảnh bom đạn, máu xương, cơ cực, lầm than, đói khổ vv… mà sao nước Mỹ lại có quá nhiều kẻ thù ghét, không có nhiều bạn tốt, ít kẻ biết ơn chân thành, nước Mỹ lại phải nhận lãnh 2 trận tấn công khủng khiếp đánh vào chính ngay nước Mỹ, xưa nay vốn được coi là bất khả xâm phạm: Trung Tâm Thương Mại Thế Giới (World Trade Center) hoàn toàn xụp đổ, gây chết chóc cho mấy ngàn người, còn số bị thương, kẻ đau khổ, mất mát người thân và những trụ cột của gia đình thì phải hàng chục ngàn. Rồi Trung Tâm chỉ huy quân lực Hải-Lục-Không Quân Mỹ (Central Headquarters) tức là Ngũ Giác Ðài (Pentagon) ngay tại Thủ Ðô Hoa Thịnh Ðốn bị thiệt hại nặng về vật chất, tinh thần, nhân vật quân sự, uy tín của 1 Siêu Cường Quốc (Superpower). Tất cả đã gây ra sự tổn thất nặng nề về nhiều mặt không những cho nước Mỹ mà cho cả thế giới nữa ?

Câu trả lơì của 78% dân Mỹ thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, được hỏi ý kiến đại để là: Nước Mỹ hay các thế hệ chính quyền Mỹ đã phạm nhiều sai lầm lớn lao, chủ quan, dựa vào sức mạnh kinh tế và quân sự của mình để áp đặt, ép buộc nhiều quốc gia khác phải đi theo kiểu cách của mình, thiếu chung thuỷ với đồng minh, phản bội bạn bè nhược tiểu một cách dễ dàng vô tội vạ,ít tôn trọng tổ chức Liên Hiệp Quốc cũng như các quốc gia thành viên, nghiã là những sai lầm của nước Mỹ trong những vấn đề nằm trong các sách-lược đối ngoại (Foreign Policies & Strategies).

Có ai ngờ là nước Mỹ bị loại ra khỏi Uỷ Ban Nhân Quyền và Uỷ Ban Bài Trừ Ma Tuý của Liên Hiệp Quốc trong năm 2001, là những tổ chức do chính nước Mỹ chủ động lập ra để làm lợi khí gây áp lực trên các quốc gia khác ? Chuyện lạ nhưng có thực ! Lúc đó, Mỹ có đem vấn đề nhân quyền ra để gây áp lực với quốc gia khác, thí dụ Việt Nam thì Hà Nội lại bảo "Này ! Về nhà coi lại vấn đề nhân quyền của chính anh đi đã ! Anh bị đuổi ra khỏi tổ chức nhân quyền thế giới rồi đấy nghe !"

Năm 2002,trong dịp Lễ kỷ niệm 77 năm thành lập Học Viện Quân sự Whampoa, nơi huấn luyện Sĩ Quan cho cả Quốc Dân Ðảng và quân đội Giải Phóng Nhân Dân (cộng sản) trước khi cuộc nội chiến bắt đầu, 20 Tướng Lãnh cả về hưu và đang tại chức của Quân Lực Ðài Loan đã nâng ly trao đổi tại nhà khách sang trọng Diaoyutai Guest House tại Bắc Kinh với Phó Thủ Tướng Chu Dung Cơ và những Tướng Lãnh hàng đầu của quân đội cộng sản Trung Quốc, Tướng Ðài Loan Wang Wu-Mon 65 tuổi đã nói "Nếu Ðảng cộng sản tiếp tục thay đổi thì sẽ không có chiến tranh, nhưng là sự thống nhất". Một số Tướng Lãnh quân đội Ðài Loan đã trả lời phỏng vấn của Báo Chí là: Chúng tôi liên minh với Mỹ, một siêu cường quốc đứng đầu thế giới ngày nay là một điều tốt, nhưng kinh nghiệm lịch sử thế giới dậy cho chúng tôi thấy rằng: phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng khi nước Mỹ vì quyền lợi của chính nước Mỹ mà bỏ rơi chúng tôi thì tự chúng tôi phải lo liệu lấy để tránh những thiệt hại to lớn nhất khi phải đối đầu quân sự với Trung Hoa Lục Ðịa … Một Tướng Lãnh Ðài Loan khác nói "Hoa Kỳ đã một thời đóng vai trò tích cực bảo vệ Ðài Loan chống Trung Quốc bằng mọi giá, nhưng sự gắn bó kinh doanh giưã giới tài phiệt Mỹ và Trung Quốc đang tăng lên gấp bội theo đà tiến rất mạnh với sự gia nhập của Trung Quốc vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO - World Trade Organization) bất kể tình trạng Trung Quốc vi phạm nhân quyền một cách dữ dội thô bạo,và Trung Quốc còn là bạn đường có tầm mức quan trọng của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế " thì chúng tôi phải cảnh giác, coi chừng kẻo bị người ta “ lật ngửa lá bài “ trao đổi lấy một món hàng quan trọng hơn lúc nào không biết. Một Tướng Lãnh Ðài Loan khác nói " Chúng tôi không dám coi Hoa Kỳ là người bạn tin cậy lâu dài. Ðây là cuộc chiến của chúng tôi. Nếu không thắng được Hoa Lục thì tốt nhất là tìm cách gia nhập vào nó một cách êm đẹp".

Thời gian gần đây vì hao người, tốn của, mang tai mang tiếng với nhiều quốc gia đồng minh, bè bạn, cũng như đông đảo dân chúng trong nước về cuộc chiến tranh Iraq, thành quả đạt được không cân xứng với cái vốn bỏ ra, lại còn phải trải rộng quân lực trên khắp các “Tiền đồn chiến lược – Strategic advanced posts“ ngăn chặn sự bành trướng thế lực rõ ràng của Trung Quốc, ngăn chặn sự cố gắng cạnh tranh phục hồi vị trí siêu cường của Nga, lo tiêu diệt phong trào khủng bố quốc tế, quân số thiếu hụt, sự tuyển quân bị khó khăn (vì thanh niên ngán cuộc chiến tranh cù cưa, không chiến tuyến ở Iraq hiện nay, giông giống khá nhiều lối đánh nhau ở nam Việt Nam) cho nên tiếng nói có thẩm quyền của Mỹ đã vài phen nhắn nhe với giới lãnh đạo, quân dân Ðài Loan: hãy tự lo tối tân hóa quân đội, trang bị vũ khí hiện đại nhất (mua của ta tốt hơn là mua của Nga, Pháp, Ðức ...) đề phòng Trung Quốc tạo thời cơ bất thần tấn công hòn đảo Ðài Loan xưa nay vốn được coi là một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Chuyện đó trước sau rồi cũng phải thống nhất về một mối, bằng phương cách hòa bình không được thì bằng vũ lực cũng là điều hợp với tư tưởng Mao – Trạch – Ðông “Hòa bình, thống nhất ở đầu mũi súng“. Hiện nay Trung Quốc là cường quốc nguyên tử, kinh tế phát triển với tốc độ mạnh nhất thế giới, quân đội hiện dịch tác chiến (Combattant Active Forces) trang bị tối tân, tinh thần cuồng tín và quân số đông đảo bằng tổng số quân đội nhiều cường quốc cộng lại, chưa kể chủ lực quân của từng địa phương, mỗi Tỉnh có từ 2 đến 3 trung Ðoàn (Regiment) tùy theo tầm quan trọng về vị trí, lãnh thổ. Hải và Không Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp không còn giống như thời chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953), 700 phi đạn ngày đêm sẵn sàng chĩa vào mục tiêu Ðài Loan, chỉ chờ lệnh là phóng đi ào ạt ... Nếu Ðài Loan ho he lên tiếng chuyện ly khai, độc lập là Trung Cộng sẽ lập tức dập liền. Anh nào can thiệp, xía vô chuyện nội bộ của nó là bán đảo Triều Tiên lập tức có Hải-Lục-Không quân, thiết giáp của Trung Cộng sẽ cùng với quân lực Bắc Hàn (cả hai cùng có vũ khí nguyên tử và cuồng tín, dù có hi sinh hàng trăm ngàn quân để đạt chiến thắng cũng coi như chuyện vặt) tràn qua vĩ tuyến 38 như hồi năm 1950, nhưng sẽ không có chuyện quân Liên Hiệp Quốc dính vô đó. Ai cũng biết rồi ... Rồi chiến tranh sẽ bùng lên ở nhiều nơi khác và vũ khí nguyên tử cỡ nhỏ, phi đạn chống phi đạn sẽ có cơ hội để thử nghiệm mức độ chính xác cũng như hiệu quả thực sự.

Ngày 12 tháng 4 – 1975, thủ đô Nam-Vang của nước láng giềng, Cambodia, sắp thất thủ và Sứ Quán Hoa Kỳ đang vội vàng thoát ra khỏi Nam-Vang thì Thủ Tướng của nước này đã gửi khẩn cấp cho Ðại Sứ Mỹ 1 điện văn “... Tôi chân thành cảm ơn Ngài đã gửi thư và dành chỗ cho tôi để đến một nơi tự do, an toàn. Tôi rất tiếc không thể ra đi trong những điều kiện hèn nhát như vậy. Tôi chưa bao giờ dám nghĩ rằng có lúc Ngài và nước Mỹ lại ra đi hốt hoảng, bỏ lại những người bạn đồng minh ở nơi này mà không cần biết họ sống chết ra sao. Ngài và nước Mỹ đã bỏ mặc chúng tôi không như lúc ban đầu .... Tôi đã mắc một sai lầm trọng đại trong đời là đã đặt lòng tin của mình vào những người Mỹ.” Ông Thủ Tướng Sirak Matak can trường này đã ở lại đến phút cuối cùng của đất nước, và sau đó bị Khmer đỏ giết chết.

Chiến tranh vùng Vịnh 1991, Quân đội xâm lăng của Hung Thần Saddam Hussein bị quân dội Hoa Kỳ, trong chiến dịch “Bão Sa Mạc – Desert Storms“ dưới quyền Tư Lệnh của Tướng 4 sao Norman Schwarzkopf, đánh cho tan tác, rách như cái mền, phải bỏ mộng ciếm đóng Kuweit với những mỏ dầu quan trọng. Nếu gặp “Ông số 1“ ngày nay thì kể như bất cần trời đất, Ổng sẽ xóa sổ, bắt Saddam Hussein ngay từ hồi đó. Nhưng “Ông Bush Cụ“ nghỉ chơi, giao và yểm trợ cho các lực lượng chống đối và dân Kurds làm nốt nhiệm vụ. Công việc không xong, phe ta cũng lửng lơ bỏ rơi các lực lượng chống Saddam Hussein để cho tay Hung Thần này được dịp trả thù, đánh giết hết bất cứ đứa nào chống nó, giết luôn cả các Tướng Lãnh không trung thành, có dấu hiệu chống nó, giết cả Tướng Lãnh là con rể nó chạy trốn sang nước láng giềng, nó dụ dỗ gọi về, bảo là tha tội, cho phục hồi chức quyền, nhưng rồi nó cũng cho giết luôn ngay sau khi trở về trình diện. Ðem con bỏ chợ, bao nhiêu tội va, chết chóc, máu xươngï đổ hết lên đầu dân Kurds, các lực lượng chống đối, người dân thuộc giáo phái không phục tùng triệt để tay Hung Thần Saddam. Chiến thắng “Bão sa-Mạc 1991“ đã làm cho danh dự của Siêu Cường Hoa Kỳ được khôi phục lại phần nào sau thất bại đau đớn đầu tiên của Lịch Sử Siêu Cường Huê kỳ tại chiến trường Việt Nam. Tuy nhiên cuộc chiến Iraq năm 1991 (thắng chớp nhoáng bằng chiến tranh quy ước – Conventional War - là sở trường của quân đội Hoa Kỳ hùng mạnh, trang bị tối tân nhất hoàn vũ, có chính nghĩa (just cause) cho cuộc chiến, Saddam Hussein xâm lăng Kuweit, chiếm các nguồn dầu mỏ có liên hệ đến quyền lợi của cả thế giới, Liên Hiệp Quốc Ô Kê cho đánh. Cuộc chiến đó hoàn toàn khác hẳn cuộc chiến Iraq 2003 đến ngày nay về nhiều mặt: thiếu chính nghĩa, những lý do để đánh nó tìm hoài không ra, những người lãnh đạo cuộc chiến không “thuộc bài học, không biết tí ti con kiến nào về cuộc chiến Việt Nam trước kia“ cho nên một “Ðại Siêu Cường Quốc“ dốc toàn lực hùng hậu nhất loài người để đánh một quốc gia cò con, đã bị thương nặng từ lâu, sức chống cự chẳng có bao nhiêu, chiếm xong Thủ Ðổ, lật đổ chính quyền, nắm cổ Saddam Hussein nhốt vào tù, lập chính quyền mới, bầu cử này nọ đàng hoàng mà “chúng nó“ vẫn đánh, người Hồi Giáo từù những quốc gia khác vẫn kéo đến đánh hung hãn, đánh ngay tại Thủ Ðô và các thành phố phe ta đã chiếm đóng và kiểm soát cả mấy năm nay. Chưa chắc chắn đến bao giờ thì quân đội phe ta mới rút đi được hết, để giao lại thực quyền trọn vẹn cho chính quyền mới do phe ta yểm trợ, mà cái quốc gia đã và còn đang tan hoang, chết người hàng ngày đó được yên ổn không đánh nhau loạn xà ngầu liên tu, bất tận để giành nhau quyền lực, quyền lợi, vị trí thượng tôn của Giáo Phái, làm chủ các mỏ dầu như nhiều vùng đất trên thế giới này.

Biết như vậy rồi, bây giờ chúng ta bắt đầu nhìn lại những biến cố đã xẩy ra trên đất nước mình : ngày 30 – 4 – 1975, để rồi cùng nhau dưạ vào kinh nghiệm lịch sử , vào trào lưu tiến hoá nhân loại, cầu xin các Ðấng thiêng liêng phù trợ mà tìm ra một phương cách tự cứu lấy bản thân, cứu lấy dân tộc, quê hương, đất nước của mình.

Ngày 6 - 1 - 1975: Tỉnh Phước Long và Thị Xã Phước Bình, cách Sài Gòn 60 dặm về phiá Bắc, rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Sau vụ "Mùa Hè đỏ lửa" ở vùng điạ đầu giới tuyến Quảng Trị, năm 1972 thì Phước Bình là Thị Trấn đầu tiên của Nam Việt Nam bị quân cộng sản đánh chiếm. Không Quân Việt Nam Cộng Hoà thiệt hại 20 máy bay trong công cuộc bảo vệ Tỉnh Phước Long. Nhiều máy bay bị bắn hạ bằng hoả tiễn SA-7 của Liên Sô (The South Vietnamese Air Force loses 20 planes defending the province, many to SA-7 missiles made by the Soviet Union).

Sự thiếu phản ứng quân sự của Hoa Kỳ càng xúi giục cộng sản làm tới vì các chiến lược gia của cộng sản biết rằng đã đến lúc Hoa Kỳ phải rời bỏ Việt Nam. Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẫn và Bộ Chính Trị của Ðảng cộng sản quyết định tăng cường các cuộc tấn công trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam để phát động một cuộc Tổng nổi dậy vào năm 1976. Cộng sản chỉ dám mong điều đó vào năm 1976 mà thôi.

Ngày 28 - 1 - 1975: Tổng Thống Hoa Kỳ, Gerald Ford , yêu cầu Quốc Hội tăng thêm quân viện cho Nam

Việt Nam và Kampuchia với ngân khoản 522 triệu Mỹ Kim vì lúc này Tổng Thống Ford được biết quân cộng sản Bắc việt đã có mặt tại Nam Việt Nam tơiù mức 289.000 người. Xe tăng, trọng pháo, hoả lực phòng không, do Liên Sô và Trung Quốc chi viện rất hùng hậu. Ðể giữ vững "Một tiền đồn chống cộng" ở Ðông Nam Á Châu thì ngân khoản 522 triệu đô la có là bao ? Thế mà cũng không xong. Người ta đã muốn bỏ đi rồi.

Ngày 5 - 2 - 1975: Ðại Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng vào Nam để chỉ huy quân đội cộng sản.

Ngày 10 - 3 - 1975: Quân Bắc Việt, với những Sư Ðoàn thiện chiến , phương tiện chiến tranh hiện đại của Liên Sô và Trung Quốc , tấn công Ban Mê Thuột từ ngày 10 - 3. Ba ngày sau, quân cộng sản tràn ngập thị trấn này, trong khi những trận đánh lớn khác bùng nổ trên mặt trận Cao Nguyên Trung Phần.

Ngày 14 - 3 - 1975: Sau khi họp bàn với một số Tướng Lãnh và nhân vật thân cận (?), Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, bỏ vùng cao nguyên Trung Phần và các Tỉnh phiá Bắc của Nam Việt Nam. Các Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, Phạm Văn Phú, và Quân Ðoàn I, Ngô Quang Trưởng, ngỡ ngàng, sửng sốt, không biết tại sao lại bỏ những vùng đất quan trọng, cưả ngõ, quyết định sự sống chết của Nam Việt Nam vào lúc này, chưa đánh nhau chi cả,trong khi các lực lượng chiến đấu của 2 Quân Ðoàn (Army Corps) Việt Nam Cộng Hoà rất hùng mạnh, sẵn sàng đọ sức với quân đội cộng sản. Mất Ban Mê Thuột đâu có nghĩa là phải mất luôn cả Quân Khu I và Quân Khu 2 ! Ông Thiệu làm như thế để gây áp lực với chính phủ Mỹ: phải quyết tâm tăng cường viện trợ mọi mặt cho Nam Việt Nam, nếu không thì "Tiền đồn chống cộng ở Ðông Nam Á Châu của Mỹ" là Nam Việt Nam sẽ xụp đổ . Ông Thiệu khờ khạo quá trời quá đất ù! Tại sao ? - Bởi vì người Mỹ đã tìm cách tháo lui khỏi cái "Vũng lầy Việt Nam" để ra đi một cách ít phũ phàng, ít mất mặt chừng nào hay chừng đó , sau khi ông Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Mỹ, Henry Kissinger đã cố dọn đường, mở lối cho Tổng Thống Richard Nixon sang Trung Cộng năn nỉ với Mao Trạch Ðông vào năm 1972 , qua sự giàn xếp của Tổng Thống Hồi Quốc Yahya Khan. Mao Trạch Ðông với sức mạnh đàn anh, từng viện trợ, cố vấn tích cực cho cộng sản Hà Nội, đãõ ép cộng sản Hà Nội bớt ương ngạnh, ngưng chơi trội và bắt bí Mỹ ở Hội Nghị Paris, diễn ra tại Salle de Conférence Kléber. Trong vụ này, Mỹ được tí chút lợi lộc là ký được cái "Hiệp Ðịnh Ngưng Bắn - Agreement of Cease-Fire" để tháo lui có văn bản đàng hoàng, mà phe cộng sản coi như mớ giấy lộn, chẳng có giá trị gì cả, nhưng trong đó Mỹ phải bấm bụng làm lơ , không được nói năng chi tới cái chuyện quân Bắc Việt đã vào Nam cả mấy chục Sư Ðoàn (Divisions) rồi. Tội vạ đổ lên đầu người bạn đồng minh Việt Nam Cộng Hoà hết cả..Phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà phản đối mấy cũng hoài hơi mà thôi vì "Xếp" đã chơi đòn " tháu cáy "rồi thì ráng mà chịu cho quen. Dân nhược tiểu chơi với anh bạn khổng lồ là vậy! Việc Mỹ làm cú đi đêm (Furtive Conspiracy) liên kết với Trung Cộng để chống Liên Sô thì kể như 2 bên cùng có lợi, nhưng riên phần Trung Cộng thì lời to: Trung Cộng nhẩy vào ngồi cái ghế "Hội viên thường trực - Permanent Member" của Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, với quyền phủ quyết (Veto) đáng giá cả … tỉ tĩ Mỹ Kim, đánh văng Ông Quốc Dân Ðảng Trung Hoa ra Ðài Loan mà chơi luôn, mặc dầu Trung Cộng đánh thắng và kiểm soát lục địa Trung Hoa từ năm 1949. Thêm cái lợi nữa là chính quyền Nixon phải lén lút, dấu diếm bán vũ khí tối tân cho Trung Cộng để chống Liên Sô mà không được cho ai biết hết, nhất là Liên Sô, kể cả Quốc Hội, Dân Chúng và Báo Chí Mỹ nữa. Ðó ! Mỹ dã tìm cách tháo lui bằng mọi giá, với thế bị đánh bại rồi thì Ông Thiệu có bỏ 2 Quân Khu 1 và 2, chớ Ông Thiệu có bỏ luôn cả Quân Khu 3, Quân Khu 4 và Biệt Khu Thủ Ðô, bỏ hết miền Nam Việt Nam chăng nữa thì Mỹ cũng chẳng bao giờ dại dột quay đầu trở lại để cứu Nam Việt Nam nữa. Nếu nói là cứu thì cứu hết sức từ 1965 đến 1973, với 58 ngàn quân nhân Mỹ hi sinh, mấy ngàn người mất tích, hàng trăm ngàn bị thương, hàng triệu người đau khổ, mất mát, mà đâu có cứu nổi ! Nay trong lúc đã tan hàng, bỏ chạy thì còn cứu cái nỗi gì nữa đây? Rút mau chừng nào hay chùng đó ! Ông Thiệu phải biết chớ ! Dù cách nào đi nữa, Ông Thiệu ra lệnh bỏ 2 Quân Khu, bắt 2 Quân Ðoàn phải bỏ chạy khi chưa đánh nhau với ai cả thì: Làm rối loạn hàng ngũ quân đội và dân chúng, làm mất nước mà không chiến đấu, không kháng cự gì cả là tội to tầy trời của Ông Thiệu ! Lịch sử cận đại Việt Nam không thể bỏ qua chỗ này ! Ðại quân cộng sản đã từng chiếm đóng thành phố Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968, đã từng đánh chiếm Quảng Trị và kiểm soát hoàn toàn Thị Trấn An Lộc trong Muà Hè đỏ lưả 1972 mà có Quân Khu nào bị mất, phải bỏ chạy đâu ? Trái lại, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã phản công một cách vô cùng anh dũng, để giành lại những địa điểm chiến lược đã rơi vào tay giặc. Thế thì tại sao mới mất có Ban Mê Thuột mà phải bỏ Quân Khu I, trong khi Danh Tướng Ngô Quang Trưởng của Muà hè Ðỏ Lưả 1972, từng được thế giới biết đến và kính phục, luôn luôn nắm vững tình hình Quân Khu của Ông, trong khi Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Khu 2, phải lớn tiếng cự lại Tổng Thống Thiệu trong hệ thống liên lạc Vô tuyến Siêu Tần Số, dù Ông biết rằng làm như thế là có thể mất lon, phải ra trước Toà Aùn Quân Sự Mặt Trận. Tướng Phú đang sẵn sàng chờ địch tiến đánh Pleiku, vì Tướng Phú biết rằng: đánh thì chưa chắc đã chết, nhưng tự dưng bỏ chạy thì chắc chắn cả lính lẫn dân đều phải chết bi thảm trong cảnh hỗn loạn, dưới những làn mưa bão pháo binh, hoả tiễn của cộng sản, tự do hoành hành mà không gặp sức chống trả.

Năm ngày sau, khi quân đội và dân chúng đang tháo chạy một cách thê thảm, hỗn loạn thì Ông Thiệu lại ra lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng là phải "Tử thủ thành phố Huế" (… five days later, Thieu orders Hue held at all costs …). Ông Thiệu vốn được chính giới coi là khôn ngoan, mưu mô, xảo quyệt từ ngày còn là Ðại TáTư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, tham gia đảo chính lật đổ Ông Diệm năm 1963, rồi lên làm Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, rồi lên làm Tổng Thống Việt Nam, Ðệ Nhị Cộng Hoà, nhiệm kỳ I, kỳ 2, rồi còn định vận động Quốc Hội sưả đổi Hiến Pháp để Ông làm luôn Tổng Thống keo thứ 3 nữa, mà sao lúc này Ông Thiệu lại khờ khạo đến mức độ… nhiều người, nhất là nhiều Sĩ Quan trong quân đội cho là (xin lỗi) đại ngu xuẩn, để ra lệnh bỏ 2 Quân Khu, không đánh đấm chi cả, trong khi 2 Quân Ðoàn Việt Nam Cộng Hoà đang trong tư thế sẵn sàng chờ địch để thêm một lần nữa cho cộng sản học lại những bài học Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. Tướng Ngô Quang Trưởng trả lời là: không thể nào làm được việc đó vì trước đó 5 ngày, Ông Thiệu đã hạ lệnh rút bỏ Quân Khu I. quân đội và cả triệu dân chúng hỗn loạn rút chạy suốt 5 ngày rồi, làm sao mà trở lại vị trí cũ, tổ chức, phối trí lực lượng để mà "tử thủ !" Ông Thiệu là Tướng Lãnh, là Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh quân đội mà không biết việc đó hay sao ? Chẳng lẽ Ông ta (xin lỗi) điên hay ngu dại đến mức kỳ lạ như vậy ?

Ngày 24 - 3 - 1975: Thấy tình thế thuận lợi, cộng sản Hà Nội quyết định chính thức mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh. Hà Nội giao cho Tướng Văn Tiến Dũng một "Thời khoá biểu" phải kịp thời đánh chiếm hoàn toàn Nam Việt Nam trước khi mùa mưa bắt đầu vào tháng 5. Muốn vậy, quân Bắc Việt phải vào chiếm Sài Gòn chậm nhất là tuần lễ cuối cùng của tháng 4, trước khi quân đội miền Nam có thể tái phối trí lực lượng hầu bảo vệ Sài Gòn và Quân Khu 4 ở miền Tây.

Ngày 25 - 3 - 1975: Ông Thiệu ra lệnh bỏ thành phố Huế. Trong có mấy ngày mà ra lệnh bỏ Quân Khu 1, có Huế trong đó, rồi lại ra lệnh Tử thủ Huế, rồi lại ra lệnh bỏ Huế ! Ðúng là điên hạng nặng ! Vào lúc này, dân chúng đông tới hàng triệu người. Họ không quên cảnh cộng sản tàn sát tập thể dân chúng cũng như viên chức chính quyền, nhân vật Ðảng Phái vào dịp Tết Mậu Thân- 1968 - nên đã kéo nhau tràn xuống thành phố Ðà Nẵng, lúc đó đang bị quân cộng sản tấn công từ xa bằng hoả tiễn 122 ly của Trung Cộng và đại bác 130 ly của Liên Sô. Ông Thiệu còn ra lệnh: Không giữ được Huế thì cũng phải cố mà giữ lấy vùng duyên hải Ðà Nẵng, coi như vị trí chiến lược làm đầu cầu cho quân đội Mỹ đổ bộ lên, một khi chính quyền Mỹ quyết định trở lại cứu vớt Việt Nam Cộng Hòa, đương đầu với cuộc xâm lăng đại quy mô của cộng sản. Trời Ðất quỷ thần ơi ! Tới lúc này mà Ông Thiệu còn hi vọng Mỹ trở lại cứu Việt Nam Cộng Hòa thì trên thế gian này, Lãnh Tụ Quốc Gia, Tổng Tư Lệnh Quân Ðội chỉ có Ông là một mà thôi ! Không thể có kẻ thứ 2 kiểu như thế ở cõi đời này ! Ông Thiệu là Tổng Thống, “chơi“ với Mỹ, đồng minh thân thiết của Mỹ, lãnh tụ “Tiền đồn chống cộng“ của Mỹ tại Ðông Nam Á Châu mà Ông Thiệu đâu có biết gì về Mỹ: ngày 29 - 6 - 1973 Hạ Viện Hoa Kỳ đã biểu quyết dự luật cấm các hoạt động quân sự của Hoa kỳ trên toàn lãnh thổ Ðông Nam Á Châu. Dự luật này được lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 21 – 9 – 1973. Kế theo đó, ngày 12 – 10 – 1973, lưỡng Viện lại thông qua dự luật hạn chế quyền của Tổng Thống Mỹ trong việc đưa quân đội Hoa Kỳ ra ngoại quốc (sau bài học cay đắng tại Việt Nam ). Kissinger, trong chuyến “đi đêm“ với Trung Quốc, đã nâng ly “vui vẻ“ với Chu – Ân – Lai, Thủ Tướng Trung Quốc: “... Quý vị hãy ngăn chặn, chỉ cho Hà Nội đánh chiếm hoàn toàn Nam Việt Nam, sau khi quân đội Mỹ của chúng tôi đã ra đi an toàn, với khoảng cách thời gian đủ coi là...chúng tôi không thua trận, bỏ chạy, và Nam Việt Nam sụp đổ là do lỗi của họ không chịu chiến đấu để bảo vệ chính mình...” Cay đắng chưa ! Nếu Kissinger bỏ chạy, nhưng Hoa Thịnh Ðốn vẫn tiếp tục viện trợ cho Nam Việt Nam, nhất là phương tiện chiến đấu cần thiết như Cộng Sản Quốc Tế đang viện trợ tối đa cho Hà Nội thì dù cho Kissinger và Hoa Thịnh Ðốn có bỏ chạy đi nữa, quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn dư sức đánh bật cộng sản trở lại bên kia vĩ tuyến 17 như “mùa hè đỏ lửa 1972“ để luôn luôn giữ vững trận địa của mình. Ông Thiệu lúc này loạng quạng, quáng gà là đúng thôi vì Ông không biết gì về người bạn dồng minh và cũng chẳng biết gì về công việc phải làm của mình nữa...

Ngày 29 - 3 - 1975: Cộng sản chiếm thành phố Ðà Nẵng, đang rối loạn, mà chẳng tốn 1 viên đạn nào. Dân chúng tìm mọi cách thoát khỏi vùng này bằng mọi giá, chấp nhận chết chóc , đau đớn chia lià trong máu và nước mắt … Kẻ viết bài này kẹt lại Ðà Nẵng, rồi đi tù cải tạo hơn 12 năm vì trước đó phi đạo Ðà Nẵng bị hỏa tiễn Trung Cộng cầy nát, không sử dụng được nữa, trực thăng không có, tầu Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa từ trong Nam kéo ra bãi biển Mỹ Khê, Quận 3 Ðà Nẵng cứu nạn, nhưng đủ thứ người trốn chạy cộng sản giành nhau leo lên tầu bằng đủ mọi cách đã gây nên cảnh kinh hoàng, người già, trẻ con rơi xuống biển như những chíếc lá mùa thu. Kẻ này phải vỗ vai Ðại Úy Từ Khánh Sinh, Quản Ðốc Quân Lao Ðà Nẵng, cựu Ðại Ðội Trưởng nhẩy dù: “Không đi bằng cách này được ! Mấy đứa trẻ này sẽ chết hết !". Ðại Úy Sinh kiếm được tay Nghĩa Quân, đàn em, hắn lôi cái thuyền nhỏ xíu dìm dưới nước lên và tính chuyện ra khơi, lên tầu Mỹ. Ngay tức khắc, hàng chục mũi súng AK của du kích địa phương đã chĩa vào cái thuyền: thuyền ra là bắn tất cả ngay ! Cả 2 chúng tôi cùng đi tù cải tạo với nhau nơi rừng sâu, núi thẳm ghê người! Ðiều an ủi cho kẻ này là trước đó chỉ non một ngày, nhân danh Sĩ Quan cấp chức cao nhất của 2 Tòa Án Quần Sự Mặt Trận và Thường Trực tại Quân Khu I còn có mặt, tôi đã ra lệnh phóng thích tất cả non 1 ngàn quân phạm, bất kể loại nào, tiểu hay đại hình, xếp hàng , cứ 10 người một chạy ra khỏi Quân Lao, về lo chuyện gia đình trước họa cộng sản đang tràn đến. Ai cũng có thân nhân, gia đình, ai cũng là người cả !

Ngày 6 đến 15 - 4 - 1975: 2 Trung Ðoàn thuộc Sư Ðoàn 2 Bộ Binh V.N. Cộng Hòa cùng với 1 Lữ Ðoàn nhẩy dù được đổ xuống phi trường Phan Rang vào ngày 6 để hi vọng đánh trận phản công. Côâïng sản thấy hơi khó ăn vì ngán quân nhẩy dù nên để cho tình hình yên tĩnh 3 ngày. Thế là Lữ Ðoàn nhẩy dù được bốc đi Xuân Lộc là nơi đang có trận đánh lớn giưã Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VN. Cộng Hoà dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Minh Ðảo với 2 Sư Ðoàn quân Bắc Việt. Thay thế cho Lữ Ðoàn nhẩy dù thiện chiến, người ta đưa tới đó 1 đơn vị Biệt Ðộng Quân. Lập tức quân cộng sản cho xe tăng T-54 của Liên Sô ào ạt tiến vào, chọc thủng phòng tuyến Phan Rang và chiếm đóng vùng này không khó khăn.

Ngày 7 - 4 - 1975: Lê Ðức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính Trị cộng sản Hà Nội, tới Tổng Hành Dinh quân cộng sản ở Miền Nam, đóng tại Lộc Ninh để xem xét tình hình và quyết định kế hoạch cho giai đoạn chót của cuộc đánh chiếm miền Nam. Lúc này, cộng sản đã kiểm soát được 2/3 lãnh thổ Nam Việt Nam.

Ngày 8 đến 21 - 4 -1975: Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VN Cộng Hoà do Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy, chống giữ oanh liệt trước sức tấn công vũ bão của 2 Sư Ðoàn cộng sản nhằm tiến chiếm Sài Gòn bằng cách phá vỡ phòng tuyến cuối cùng này. Một Trung Ðoàn thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh và Lữ Ðoàn nhẩy dù từ Phan Rang được đưa vào tăng viện. Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng phải tung vào mặt trận này 2 Sư Ðoàn nữa là 4 Sư Ðoàn tất cả để hòng dứt điểm càng sớm càng tốt. Ðánh chiếm miền Nam muà xuân năm 1975, đây là mặt trận duy nhất quân cộng sản gặp sức chiến đấu dũng mãnh, oanh liệt của quân đội VN Cộng Hoà, cộng sản phải dùng số quân 4 đánh 1, trong lúc thế mạnh mọi mặt đang ở phiá chính họ. Tướng Homer Smith, tùy viên Quốc Phòng Mỹ tại Sài Gòn, ngày 13, đã gửi 1 bức điện văn cho Tướng George S. Brown, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Ky,ø ca ngợi ý chí và tinh thần chiến đấu can đảm, dũng mãnh tuyệt vời của Quân Dội Việt Nam Cộng Hòa, dù những bất lợi đang đè nặng tên vai họ. Tướng Smith, sau khi theo dõi cuộc chiến đấu tại Xuân Lộc, đã nói: “Sự dũng cảm và chiến đấu anh hùng của quân chính phủ Miền Nam, kể cả Ðịa Phương Quân Tỉnh Long Khánh đã chứng tỏ họ chiến đấu giỏi hơn đối phương của họ rất nhiều ...” Nếu Ông Nguyễn Văn Thiệu không ra lệnh bỏ 2 Quân Khu 1 và 2 ngay từ lúc chưa đánh nhau chi cả thì quân đội miền Nam Việt Nam sẽ có biết bao nhiêu trận đánh oanh liệt như thế này, và nếu chính quyền Mỹ không cố ý bỏ chạy khỏi Việt Nam thì làm sao cộng sản chiếm nổi Nam Việt Nam một cách dễ dàng như đã xẩy ra ? Cuối cùng phòng tuyến Xuân Lộc chỉ rơi vào tay quân cộng sản, đông và hoả lực mạnh gấp 4 lần, vào ngày 21 - 4 - 1975, khi Tướng Tư Lệnh Quân Đồn 3 ra lệnh rút bỏ phịng tuyến cuối cùng này vì ơng khơng nỡ bắt những chiến sĩ anh hùng dũng cảm này phải hy sinh tất cả, bị tiêu diệt trong thế trận bất quân bình quá lớn lao, cay nghiệt này… Ngày 21 đến 25 - 4 - 1975: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị áp lực từ nhiều phía, phải tuyên bố từ chức, chuyển giao quyền hành cho Phó tổng Thống Nguyễn Văn Hương để ra ngoại quốc, đem theo những gì Ông đã lo liệu từ trước cho cuộc sống ở nước ngoài, bỏ lại đằng sau: Quê Hương, Chiến Hữu và Ðồng Bào của Ông, là những gì thiêng liêng mà Ông đã từng long trọng tuyên đọc lời thề khi nhậm chức Tổng Thống, cũng như trong các dịp Quốc Lễ là sẽ sống chết bảo vệ đến hơi thở cuối cùng.

Ngày 23 - 4 - 1975: Tại Hoa kỳ, Tổng Thống Ford (Gerald Rudolph Ford – Tổng thống thứ 38 – ÔngTổng Thống duy nhất của Hoa Kỳ làm Tổng Thống mà không hề được dân chúng, cử tri bầu vào chức vụ Tổng Thống hay Phó Tổng Thống, dù là chỉ 1 phiếu) nói "Chiến tranh Việt Nam kể như chấm dứt". Dư luận hiểu rằng "Chính quyền Mỹ lúc đó đã buông tay và … chạy làng" bằng mọi giá, trong khi Liên Sô và Trung Cộng hồ hởi, phấn khởi là đã hoàn thành nhiệm vụ "Dứt điểm tiền đồn chống cộng của Mỹ tại Á Châu".

Ngày 28 - 4 - 1975: Bị áp lực nặng nề cũng từ nhiều phiá, Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành cho Tướng 4 sao Dương Văn Minh, người đã đóng vai chính trong vụ đảo chính lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm tháng 11 năm 1963, để cho chính quyền Mỹ đổ quân tác chiến vào Nam Việt Nam và lãnh đạo cuộc chiến tranh ở đây theo kiểu "chiến tranh nhà giầu của Mỹ" nhưng hoàn toàn vô hiệu đối với kiểu "chiến tranh nhân dân - People's War" không có mục tiêu, không trận tuyến, lẫn lộn với nhân dân của cộng sản. Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống theo đúng với sự sắp xếp của Hà Nội, qua trung gian của người em ruột Dương Văn Nhựt , Sĩ Quan cao cấp của cộng sản, đã có liên lạc với Dương Văn Minh từ hồi Tướng Minh được Ông Diệm cho thăng Trung Tướng sau khi Tướng Minh đánh tan các lực lượng giáo phái vũ trang ở miền Tây. Chuyện đó bại lộ. Tướng Minh, vì có công trạng, và Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, người bà con, cùng quê quán xin cho, nên được 2 Ông Diệm, Nhu tha tội, chỉ bị mất chức cầm quân, ngồi ghế Tổng Thanh Tra hữu danh nhưng vô vô thực. Tổng Thống Dương Văm Minh luôn luôn phải nhận lệnh qua điện thoại với Ông Thích Trí Quang, cua cong san tu 1946, một nhân vật trong hàng lãnh đạo tôn giáo, người gốc Bắc Việt, đã 2 lần bị Tây bắt từ hồi chiến tranh Việt-Pháp vì tình nghi hoạt động cho Việt Minh cộng sản, người đã lãnh đạo dân chúng đấu tranh tôn giáo lật dổ Ông Ngô Ðình Diệm (… Thích Trí Quang, a politically sophisticated Monk of North Vietnamese origin, twice arrested by French on suspicion of Vietminh connections , stirs the people against Ngo Dinh Diem …) đấu tranh tôn giáo chống chính quyền Thiệu - Kỳ - Có hồi 1966 ở Miền Trung Việt Nam, nhưng cuối cùng bị Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ, với cương vi Thủ Tướng, cùng 1 tôn giáo với Ông, cho quân đội và quân cảnh từ trong Nam ra dẹp tan, bắt Ông Thích Trí Quang nhốt lại, dẹp yên chuyện đấu tranh rối loạn lung tung, làm nát bét xã hội miền Nam, hoàn toàn chỉ có lợi cho cộng sản. Nhân vật Thích Trí Quang, sư phụ của ông Dương Văn Minh đã chính thức hoạt động cho cộng sản Việt Nam từ năm 1946.

Tướng Dương Văn Minh, một Tướng đánh giặc giỏi nhưng hoàn toàn không biết gì về chính trị, lại nhẩy ra làm Tổng Thổng trong giai đoạn nước sắp mất, với 1 cổ 2 tròng, nhận lệnh từ 2 nơi (Cả ông Thích Trí Quang lẫn đại diện cộng sản Hà Nội đều hưá hẹn với Ông những điều tốt đẹp) thì làm được cái gì đây ? Ông Minh làm Tổng Thống chỉ làm được có mỗi một việc : theo lệnh của cộng sản, đã chiếm xong dinh Ðộc Lập, lên tiếng tuyên bố "đầu hàng vô điều kiện" mà thôi. Ôi ! Giây phút xót sa, đau đớn cho biết bao nhiêu tâm hồn, nhất là những người quốc gia đã bao năm quyết tâm chống cộng sản Hà Nội để giữ vững Nam Việt Nam. Kẻ viết bài này đã bật khóc, hai tay ôm lấy mặt, trong lúc đang bị tạm giam tại trại tập trung Vĩnh-Ðiện, Quảng Nam cùng với hàng chục ngàn người trong hoàn cảnh tan hàng, thua trận, bị cầm tù một cách đau buồn và tủi nhục. Năm 1951, với tuổi 20, đang đi kháng chiến chống Pháp, mình bị Tây bắt ở Huyện Tiên Hưng, Thái Bình, đem về tập trung ở sân vận động tĩnh Thái Bình, rồi đưa về giam ở Nhà Máy Rượu, thành phố Nam – Ðịnh mà có sao đâu, coi là chuyện thường vì đấu tranh cho đại cuộc là như thế, không thấy đau buồn tủi nhục bằng hơn 20 năm chống cộng sản, bị cộng sản cầm tù, đưa đi cải tạo, rồi phải theo lệnh bộ đội cộng sản, dí súng vào sau lưng, bắt vỗ tay hoan hô khi nghe Dương Văn Minh, qua hệ thống truyền thanh, tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Thế là nước mất, nhà tan, đau buồn, uất hận vì... mất hết ! mất hết ! mất cả thể xác lẫn tâm hồn.

Xin trở lại: rạng sáng Ngày 30 tháng 4, quân cộng sản tiến vào Sài Gòn, vẫn còn gặp vài ổ kháng cự lẻ tẻ. Xe tăng cộng sản hung hăng ủi xập cổng Dinh Ðộc Lập để quân cộng sản tiến vào. Dương Văn Minh cứ yên trí theo bài bản đã nhận được từ "cấp trên" qua điện thoại, ra đón tiếp quân "giải phóng" và sau đó "xin bàn giao chính quyền". Viên Ðại Tá chỉ huy quân cộng sản lúc đó quát vào mặt Dương Văn minh "Các Anh còn cái gì nữa vào lúc này mà đòi bàn giao ? Chỉ có chấp nhận đầu hàng vô điều kiện mà thôi !" Ðại Tá cộng sản Bùi Tín (đã bỏ đi Pháp) lúc đó đóng vai Chính Uỷ bên cạnh viên Ðại Tá Chỉ huy quân giải phóng, vào Dinh Ðộc Lập. Bùi Tín khôn ngoan, nhỏ nhẹ hơn nên nói "Chúng tôi chấp nhận việc đầu hàng của các Ông. Các Ông không có chi phải sợ cả. Người Mỹ là kẻ xâm lăng đã bị đánh bại. Nếu các bạn là những người yêu nước thì hãy coi giờ phút này là niềm vui chung của dân tộc, và trên đất nước của chúng ta, chiến tranh đã chấm dứt !" Buổi sáng hôm đó, cộng sản bắt Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trước quân cộng sản. Chiến tranh đã chấm dứt, đất nước đã thống nhất nhưng dân chúng miền Nam không vui mừng, sung sướng, hạnh phúc mà lại xô nhau chạy đi mọi ngả, tìm cách thoát chạy khỏi chính quê hương, đất nước của mình để tránh họa cộng sản, bất kể mọi gian nguy, bị giết chóc, cướp bóc, hải tặc hãm hiếp, quăng xác xuống biển. Chính quyền mới truy lùng, tiêu diệt, bắt bớ những kẻ đã phục vụ cho chế độ cũ, nhân vật Ðảng Phái chính trị, tống họ vào những trại tập trung cải tạo ở các vùng rừng núi âm u, hiểm hóc, cách biệt hẳn với xã hội loài người. Nam Bộ là cái túi đựng người quá đông đảo mà lại không có rừng núi thích hợp cho việc thiết lập các trại cải tạo, vưà an toàn lại có lợi nhiều cho nên cộng sản mới phải đưa số đông "kẻ thù" của họ ra Bắc, tống lên các trại cải tạo vùng Thượng Du Bắc Việt.

Cán bộ cộng sản từ lớn đến nhỏ, ngơ ngáo nhìn Sài Gòn và Nam Việt Nam trong sảnh xác sơ, buồn thảm nhưng vẫn không làm mất, che dấu được sự phồn thịnh, phát triển quá cao so với “thiên đàng hay địa ngục Bắc Bộ“, thi nhau vơ vét tài sản của kẻ bỏ chạy, của nhân dân Miền Nam "tay sai Mỹ Ngụy" đem về Bắc như những chiến lợi phẩm của 1 cuộc chiến thắng. Sau này, có cơ hội tiếp xúc với người thân ở Bắc Việt Nam, từng giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền cộng sản thời gian này, kẻ viết được biết mật lệnh của cộng sản Hà Nội lúc đó có những điểm rất kinh khủng: bắt nhốt hết mọi kẻ có khả năng chống cự, nổi dậy sau này, tịch thâu mọi loại vũ khí có tầm sát hại tập thể hay cá nhân, khi có dấu hiệu hay mầm mống biến động thì tất cả những kẻ ít nguy hiểm nhất cũng phải tập trung cải tạo (vì thế khi Trung Cộng tràn vào đánh phá 6 Tỉnh miền Bắc Việt Nam tháng 2 – 1979 để “dậy cho cộng sản Hà Nội 1 bài học“ thì ngay ngày hôm sau, tất cả mọi Sĩ Quan đã giải ngủ lâu hay mau, không đi cải tạo sau 30 – 4 – 1975, cũng phải nhốt đầu lại hết), cán bộ, nhất là công an phải tìm cách dụ dỗ vợ con, làm áp lực để phá tan các gia đình sĩ quan đã đi cải tạo để lấy hết, vét hết, không cho lực lượng sĩ quan khi trở về, còn có thể làm chi được nữa, chỉ còn lo miếng cơm ăn cũng không nổi. Thân phận của một Ðất Nước nhỏ bé đã có "Ngàn năm nô lệ giặc Tầu - Trăm năm nô lệ giặc Tây" nhưng cũng có 900 năm độc lập, tự chủ, sau trận đánh thắng lẫy lừng của Ngô Quyền trên sông Bạch Ðằng, đánh bại đạo quân xâm lược khổng lồ của nhà Nam Hán, lúc này lại như thế đó !

Ðất nước Việt Nam cuối cùng chỉ là bãi chiến trường để 2 phe đối nghịch ý thức hệ quốc tế tiêu thụ vũ khí chiến tranh và thử nghiệm chính sách của mình: 1 bên là chính sách ngăn chặn (Containment Policy) của Mỹ chống lại Chủ nghiã bành trướng (Expansionism) của phong trào cộng sản quốc tế. Sự việc này thực ra đã được nhìn thấy truớc và ra sức ngăn chặn không cho Nam Việt Nam rơi vào hoàn cảnh đó: Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu. Hai nhân vật này đã bị những người thân cận chung quanh lợi dụng uy thế để kiếm danh kiếm lợi, làm hỏng kế hoạch chống cộng có sách lược hiệu quả (Effective Policy & Strategy) hẳn hoi, đã bị sức ép, mưu hại từ phiá người bạn đồng minh khổng lồ, lúc đó bị bị giới tài phiệt (Financial Oligarchy) khynh đảo, chủ trương buôn bán chiến tranh, tìm cách loại trừ bằng sức mạnh quân đội và tôn giáo của chính Miền Nam Việt Nam.

Có bao giờ những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dám nghĩ rằng: Một ngày nào đó Hoa Kỳ phải chịu sự thua trận đầu tiên, với cái giá quá cao, thê thảm như vậy không ? Thê thảm đến nỗi Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, Graham Martin, suýt nữa thì không kịp ôm lá cờ "Bách chiến bách thắng" chui vào phi cơ trực thăng để tháo chạy hay không ? Thật là đau đớn ! Tuy nhiên, ở đây kẻ viết cũng xin nói lên lời ghi ơn ông Ðại Sứ Martin đã cương quyết và khéo léo chống lại kế hoạch của Hoa Thịnh Ðốn muốn di tản hàng ngàn người Mỹ bị kẹt lại ở Sài Gòn vào lúc quân cộng sản đã chuẩn bị vào làm chủ vùng đất này, theo phương cách: đưa Thủy Quân Lục Chiến Mỹ vào Sài Gòn giữ vòng đai an ninh quanh khu vực Tòa Ðại Sứ để phi cơ trực thăng từ Hạm Ðội Thái Bình Dương liên tục bốc người Mỹ và một số nhân viên làm việc cho Tòa Ðại Sứ và các cơ sở phụ thuộc của Mỹ mà thôi, không cho dân chúng Sài Gòn, Nam Việt Nam dính ké vào vụ di tản kinh hoàng này. Ông Ðại Sứ khôn ngoan và ít nhiều nhân đạo Martin đã chống lại quyết định của Hoa thịnh Ðốn với lý luận: Sĩ Quan, quân lính Nam Việt Nam còn đông đảo tại Sài Gòn và vùng phụ cận với tâm trạng tức giận lẫn bàng hoàng, họ còn các loại vũ khí lớn nhỏ trong tay. Nếu người Mỹ di tản theo cách ích kỷ và tàn nhẫn đó thì những chiếc trực thăng sẽ bị bắn hạ như trái cây chín rụng và cuộc chiến đẫm máu, tàn khốc giữa những chiến binh Nam Việt Nam và thủy quân lục chiến Mỹ bắt buộc phải xẩy ra, Sài Gòn và dân chúng vô tội sẽ lãnh nhiều hậu quả không cách nào lường trước được.

Giới truyền thông của Mỹ, trước và sau ngày Miền nam xụp đổ, đa số đã sa vào mê hồn trận của Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, bị ảnh hưởng của phong trào phản chiến do Ðảng Cộng sản Mỹ chủ trương và lãnh đạo, đánh giá Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà qua hình ảnh những ngày rút quân, bỏ chạy tán loạn do lệnh của ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Báo chí Mỹ bị mặc cảm lần đầu tiên thua trận, bỏ cuộc, chạy làng cho nên đã không tiếc lời đổ hết mọi tội lên đầu Quân Ðội VN Cộng Hoà là thiếu tinh thần chiến đấu. Họ đâu có biết Quân Ðội VN Cộng Hoà chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt ra sao, chiến đấu không ngưng nghỉ, phương tiện thiếu thốn chớ đâu có được chiến đấu trong hoàn cảnh "nhà giầu" như quân đội Mỹ ở Việt Nam lúc đóùõ, được bảo vệ, yểm trợ một cách gần như tuyệt đối. Họ đâu có biết chính quyền của Ông Johnson ở Hoa Thịnh Ðốn đổ quân vào Việt nam, hòng tiêu diệt cộng sản ở đây trong vòng 3 năm, nhưng lại làm cái việc kỳ quái, mà chỉ có giới tài phiệt Mỹ mới hiểu được là "… Johnson's administration made agreements to sell or give the Soviet Union and her commuinist satellites hundreds of millions of dollars worth of food, electronics computers, chemical plants. oil refinery equipment, airborne radar apparatus, jet aircraft engines, machine tools for an $800-million auto assembly plant and military rifles…" Ðó! Bán hoặc cho cộng sản Liên Sô và các nước cộng sản chư hầu thực phẩm, máy điện toán, dụng cụ, hoá chất, động cơ máy bay phản lực, máy Radar, nhà máy chế tạo xe cộ,súng đạn, để rồi tất cả những thứ đó lại đổ lên quân cảng Hải Phòng, đem vào chiến trường Miền Nam để giết lính Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà! Chỉ có Trời mới hiểu nổi !

Ở đây, kẻ viết chỉ muốn nói lên một điều: Quân Ðội VN Cộng Hoà nói chung, đã chiến đấu rất anh dũng, kiên cường, bất chấp mọi trở ngại, khó khăn, thiếu thốn. Miền Nam xụp đổ, nhiều Tướng Lãnh: Nguyễn khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng vv... và nhiều Sĩ Quan cao cấp đã tự sát trong khung cảnh vô cùng oanh liệt, chưa từng có trong quân đội 1 quốc gia nào trên thế giới, họ không chịu đầu hàng hay để bị bắt làm tù binh, hàng triệu quân nhân, viên chức chính phủ, nhân vật Ðảng Phái chính trị bị nhốt vào các trại tù cải tạo khổng lồ nơi rừng thiêng, nước độc, dân chúng ồ ạt bỏ nước ra đi, bỏ hết tài sản, không kể sống chết, thảm hoạ kinh hoàng trên biển cả vv… là những vấn đề vượt quá khả năng và tầm tay của người Việt Miền Nam chúng ta. Chỉ có các Ðấng thiêng liêng, chỉ có Lịch Sử mới hiểu được mà thôi !

Ðiều đáng mừng cho chúng ta là càng ngày, dân chúng Hoa Kỳ cũng như thế giới loài người càng hiểu ra sự thật của cuộc chiến tranh Việt Nam (mà có những nhà chính trị, Giáo Sư Ðại Học lẩm cẩm kêu là cuộc nội chiến, tức là người Việt Nam đánh lộn với nhau) một Bài Học Ðắt Giá , quý báu cho người Việt Nam, cho siêu cường quốc Hoa Kỳ và tất cả các quốc gia nhược tiểu khác trên thế giới. Nước nhỏ yếu mà chỉ trông cậy, giao vận mạng dân tộc mình vào tay một nước lớn mạnh khác lo hộ hoàn toàn thì nhiều chuyện nguy hiểm bắt buộc sẽ phải đến. Nước lớn, dù là Ðệ Nhất Siêu Cường Quốc mà thiếu chung thủy, coi thường Ðồng Minh, bạn bè, phản bội dễ dàng những người đã từng sống chết với mình trên cùng một chiến tuyến, coi thường Liên Hiệp Quốc là cơ quan quốc tế có thẩm quyền cao nhất để giải quyết những khó khăn, tháo gỡ những rắc rối, tranh chấp điên khùng của loài người ngày nay có nhiều tham lam, ích kỷ, ưa dùng bạo lực, ít biết đến giá trị của hòa bình ... thì không được đồng minh, bạn bè chân thành kính nể, rồi không lúc này thì cũng lúc khác sẽ bị những thế lực thù địch khác, mà tất nhiên có nhiều kẻ thù lớn nhỏ, tìm cơ hội đánh cho những đòn chí mạng, thảm khốc, kinh hoàng, loài người xưa nay chưa từng thấy, chưa dám nghĩ đến, nhất là trong một thế giới ngày nay khoa học, kinh tế, vũ khí chiến tranh, quyền lợi, tôn giáo xung đột, phát triển mau hơn, mạnh hơn so với mức độ hòa giải, tuy có, nhưng khó khăn và chậm chạp. Cho đến tháng 3 – 2006, một số các nhân vật chính trị, các Giáo Sư Sử Học, Chính Trị Học mới tụ họp nhau lại ở Boston để tìm ra phần nào những sai lầm, thiếu sót của chính quyền Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, như đã nói sơ lược ở trên, trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo, không phải là 1 cuốn sách, hầu cải thiện tình trạng bế tắc, hiểm nghèo, sa lầy của cuộc chiến tranh tại Iraq giữa 1 Siêu Cường Quốc (Superpower) hàng đầu của thế giới loài người với 1 quốc gia nhỏ bé, tầm thường, đã bị thương nặng trong cuộc chinh phạt thần tốc (lighting-speed expedition) của lực lượng Ðồng Minh, Dân Chủ, Tự Do mà chính yếu là Hoa Kỳ, vào năm 1991. Chúng ta có quyền hy vọng ở tương lai: thế hệ trẻ Việt Nam, những người yêu nước trong cũng như ngoài nước, với trình độ kiến thức, hiểu biết rộng rãi về "Tiến trình của nhân loại - Process of Human Society", hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, nhất là với niềm tự hào của một Dân tộc tuy nhỏ bé, gần như suốt đời này qua đời khác, luôn luôn bị xâm lăng, thống trị dã man, tàn bạo, nhưng không bao giờ đánh mất Niềm Tin vào Tổ Quốc, từng có những trang sử oanh liệt của Ngô Quyền, Lê Lợi, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Quang Trung Nguyễn Huệ vv… sẽ mãi mãi muôn đời có mặt trong Cộng Ðồng Thế Giới Tự Do, Tiến bộ và thật sự Văn Minh.

San Diego, California
Phan Ðức Minh

Tài liệu tham khảo:

* The Death of A Nation.- John A. Stormer.- Liberty Bell Press.- Missouri - 1978.
* The World Almanac of The Vietnam War -John S. Bowman ( General Editor ).- Bison Books Corp, New York.-1985
* Vietnam - The History & The Tactics.- Ashley Brown & Adrian Gilbert.- Orbis Publishing Limited, London -1982.
* Kennedy.- Theodore Sorensen.- Harper & Row. New York - 1965.
* New Standard Encyclopedia. Standard Educational Corporation. Chicago – 1981.
* Henry Kissinger’s Diplomacy.- Simon & Schuster.- New York, 1994.
* A Book of U.S. Presidents.- George Sullivan.-Scholastic Incorporation, New York - 1984.
* Một số tài liệu chọn lọc trên Internet của những Nhân Vật chính trị, Giáo Sư Chính Trị và Sử học danh tiếng.

No comments:

Post a Comment