Tuesday, April 28, 2009

Phật Tử Vùng Lên Bảo Vệ Chánh Pháp - Trương Minh Hòa

    PHẬT TỬ VÙNG BẢO VỆ CHÁNH PHÁP, LẤY LẠI CHÙA, LÙA BỌN TU GIẢ RA KHỎI TỰ VIỆN
Trương Minh Hòa

Từ hàng chục năm qua ở hải ngoại khắp các châu lục, tuyệt đại đa số Phật tử và người Việt Nam tỵ nạn đã lầm "trông thành phần bất hảo cạo đầu, mặc ác cà sa mà tưởng là sư" sau khi đóng góp công của để xây dựng nhiều "tự viện hoàng tráng" cho những người mặc áo cà sa, cạo đầu, dựng lên các bàn thờ, tượng Phật, thu tiền, trở thành "tư bản Phật Giáo", mỉa mai qua câu: "tu nhất kiếp giàu nhất thời", không hề đổ mồ hôi làm việc để tạo ra của cải vật chất, nhưng: "không lao động mà lại vinh quang" nên đa số mỗi sư, ni đều có trong tay ít nhất là một ngôi chùa, đáng giá bạc triệu, có vị còn phát triển thêm nhiều ngôi chùa, dùng tiền bá tánh đóng góp để du hý, du dâm hơn 15 năm "tịnh thất":

- Như trường hợp của huề thượng Thích Phước Huệ, cư sĩ chùa Chánh Giác ở Tây Úc, lợi dụng việc làm từ thiện để ép phụ nữ tên Nguyễn Thị Huệ, trong hoàn cảnh khó khăn đưa con từ Việt Nam sang Úc để trị bịnh, nên bị đưa vào tròng phục vị sinh lý một cách "man rợ" đàng sau chánh điện;

- Như đại đức Thích Nguyên Trực, cởi ca sa giả dạng một "dân chơi bời lậu", trên đường tìm đến "hành lạc" với không phải "hành đạo", đón gái trên đường phố để tìm đường lên Niết Bàn, đến thế giới miền "Cụp Lạc" với giá 50 Úc Kim mà còm trả giá bớt 20%, thành 40, nay nhờ "công đức tu hành" nầy mà sau nầy lên chức Thượng Tọa, giữ chức Tổng Vụ Phó Tăng Sự (tức là phó vụ quản trị tăng ni của cánh nầy)... đa số chùa "phật Giáo ngày nay" còn có thêm "mặt mạnh" là công tác chủ yếu, bảo lãnh sư Vẹm từ các cơ sở giáo hội Phật Giáo quốc doanh sang tu giả, tu rửa tiền, trà trộn, và dần dần "bào giao trong vòng trật tự" các tự viện do Phật tử đóng góp cho sư ở Việt Nam sang, vốn thông suốt chủ nghĩa Marx Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh hơn là kinh Phật; sự kiện lộng hành, tiếp tay cho giặc trà trộn, khuynh đảo Phật Giáo hải ngoại được bạch hóa sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước, do hòa thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo, ban hành giáo chỉ số 9, nêu đích danh những kẻ mượn đạo tạo tiền, trở thành "lãnh đạo tinh thần ngang hông" thường đội mão y như "giáo hoàng Phật Giáo" tự biên tự diễn, lãnh đạo "không người lái", hiu hiu tự đắc, trong tiệm Phật, được "cung thỉnh" trong sinh hoạt cộng đồng, lễ hội, ngồi hàng ghế danh dự, được xướng danh thật long trọng, vênh váo với các chánh khách tại các nước tạm dung, nên chúng tưởng mình đúng là "thế gian ta Phật sắp thành" vừa đánh lừa Phật tử, tung hỏa mù ở xã hội .... nay bộ mặt "tiếm danh" đã bị phơi bày trước kính chiếu yêu "giáo chỉ số 9", cũng đúng theo luật nhân quả nhà Phật, bộ mặt thật lòi ra, là đám quỷ ma, lợi dụng danh đức Phật Thích Ca để ra vô hốt bạc, bày ra lễ nhạc, là đạt mục đích làm giàu nhanh, mạnh hơn bất cứ thương nghiệp nào trên thế gian, là tay ngang làm giàu bằng nghề không vốn, chẳng tốn công lao gì cả.

Từ lâu nay, các tay tu dỏm, tu giả, tu tiền, tu thịt, tu gái, tu theo đạo ù ù ... đã lợi dụng danh nghĩa của giáo hội do huề thượng Quảng Độ trong nước, sớm biến ngôi chùa thành Tiệm Phật mà không cần "kinh qua" giai đoạn quá độ, cứ âm thầm THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI mà "thanh tâm trường hốt bạc", lung lạc Phật pháp, thi đua xây bảo tháp để kinh doanh tro người chết, là lũ "đếch tu" mượn tượng Phật để kiếm xu, nên có nhiều Tam Tạm thời đại ngu, mang tiền đến chu, là lọt vào âm mưu gian tăng, ung dung an trên đầu bá tánh, lại lập nhiều phe cánh, tranh giành quyền lợi nhưng miệng đọc "Nam Mô" mà" trong lòng lại chứa "một bồ gươm dao", là đau lòng Phật tử thuần thành.

Do đó sau khi giáo chỉ số 9 ra đời, bọn ma tăng, quỷ ni như trúng phải ánh đạo vàng, khiến chúng hốt hoảng, ban hành nào là thông cáo chung gồm, 124 kẻ "mượn áo cà sa", mà đa số là tu sĩ được xuất khẩu với nhãn hiệu "made in Vietnam" đưa sang trà trộn. Tại Úc Châu, những kẻ tiếm danh cũng phản ứng, cũng hội thảo và tung ra cái gọi là "ban Điều Hành Liên Châu" là chiêu chống đỡ cuối cùng, gượng gạo của hòa thượng Thích Như Huệ và đồng bọn như Quảng Ba, Bảo lạc, Nguyên Trực, Viên Trí .... tuy nhiên bộ mặt tiếm danh đã lộ, không còn ăn khách là "đạo mạo, từ bi". Phật tử nhìn thấy nên không còn "kính tăng" như xưa, sau khi khám phá ta tăng còn tệ hơn người thường, có khi còn thua cả phong cách của những người bất lương, thì không thể làm gương cho bánh tánh, nên càng ngày Phật tử xa lánh bọn quỷ ma giả làm tăng chúng.

Tại tiểu bang Nam Úc (nước Úc Đại Lợi) thủ phủ là Adelaide, nhiều Phật tử đã vạch mặt "gian tăng, dỏm sư, giả ni" từ lâu nay, từ lâu núp bóng Phật đà, ăn trên đầu cha Phật tử, gây bao điều dữ, cuối cùng thiện nam tín nữ vùng lên, loại bỏ những tên gian tà tu giả, núp bóng từ bi. Đây là phản ứng tự nhiên, nhằm lấy lại chùa từ tay gian sư, là tài sản mà Phật tử đóng góp lâu nay, lẽ nào lại trở thành tài sản riêng của bọn "mượn đạo tạo tiền" và nhất là có chiều hướng bàn giao cho các sư ở Việt Nam sang, biến Phật Giáo hải ngoại nằm trong hệ thống quốc doanh, mà hiện tượng đám Tiếm danh do Thích Như Huệ cầm đầu đã từng mời tên sư Vẹm, đại đức Thích Nhật Từ sang "lếu láo" với danh nghĩa thuyết pháp, phổ biến những dĩa DVD của một số sư" áo vàng, đít đỏ "nhằm tuyên truyền, ru ngủ ....

Do đó, các Phật tử đã đứng lên giành lấy chùa Pháp Âm về tay Phật tử, thuộc Giáo Hội Phật Giáo trong nước, đang bị cơn đại pháp nạn, dưới sự lãnh đạo của huề thượng Thích Quảng Độ là điều cần phải hành động, nhất là trong giai đoạn nầy. Trong tương lai, các Phật tử cũng có khả năng giành lại luôn tiệm Phật Pháp Hoa, là bản doanh của huề thượng "tiệm chủ" Thích Như Huệ, để đưa về vị thế tôn nghiêm của một tự viện, là bảo vệ chánh pháp, chánh nghĩa "Đạo pháp gắng liền với dân tộc", giải độc trong đạo Phật tại hải ngoại.

Từng bước đứng lên, với đa số Phật tử, dùng hình thức dân chủ để lấy lại những gì đã bị bọn gian sư, mạo danh, lừa đảo từ bấy lâu nay, đã đến lúc ma tăng, quỷ ni, quái cư sĩ phải trả lại những gì mà chúng tạo ra từ thủ đoạn bất lương, mánh khóe dùng tượng Phật để thu tiền, phát triển nhiều dịch vụ ma chay, tụng niệm, cầu siêu, điểm nhãn .... và những cách dùng mê tín dị đoan hù dọa, phù phép, dựa vào kinh Phật mà hốt thêm tiền, dạy thiền kiếm bạc, lung lạc Phật tử, làm điều dữ mà cho là phụng sự đạo pháp. Đây là công việc cần thiết, cấp bách trong cơn pháp nạn và sự an nguy của Phật Giáo hải ngoại đang bị tác hại bởi các gian tăng, giả ni, nhất là có thê "sư về nguồn" sau kỳ Phật Đản "theo định hướng xã hội chủ nghĩa" tại Hà Nội năm 2008, lại thêm hơn 2,000 tên cán Cộng, gồm công an, gián điệp, được bảo lãnh từ Việt Nam sang dưới tàng lộng tôn giáo, trở thành "lực lượng đặc công tôn giáo vận" rất nguy hiểm cho Phật Giáo nói riêng và cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại nói chung.

Do đó, ngọn "đuốc từ bi" từ tiểu bang Nam Úc đang chiếu sáng khắp năm châu, làm cho đám sư tiếm danh lo âu, đó là "thứ sâu" nằm trong cửa Phật lâu nay phải có ngày bị hiện nguyên hình. Những bước lấy lại chùa bước đầu, đưa tiệm Phật thành chùa Phật, dưới sự lãnh đạo của hòa thượng Quảng Độ, đang nằm trong tay Phật tử hải ngoại, với đa số tuyệt đối, có thể dùng sức mạnh để "gianh lấy chùa về tay Phật tử" với những biện pháp khả thi như sau:

- Dùng lối sinh hoạt dân chủ để ứng cử vào các ban trị sự chùa, nếu các sư gian có lệ bầu cử theo nhiệm kỳ

- Nếu không có bầu cử, các Phật Tử đứng lên thành lập "ban trị sự" với danh sách số đông Phật Tử, là nguyên tắc dân chủ được tôn trọng tại các nước Tây Phương. Sau đó yêu cầu "ban trị sự thiểu số" do gian sư lãnh đạo phải "triệt thoái" ra khỏi chùa, vì họ không còn là đa số đại diện nữa. Khi có tranh chấp trước pháp đình, thì chính cái đa số nầy là ưu điểm để tống cổ lũ gian sư ra khỏi chùa bằng pháp luật các nước dân chủ và đồng thời thanh lọc những tăng ni giả, được móc nối bảo lãnh sang, từ lâu nay phá đạo một cách qui mô, có sách lược, đang trên đà lập lại những biến động Phật Giáo trước đây tại Việt Nam.

Nếu chúng ngoan cố, thì hãy nhờ đến "kiếng chiếu yêu SỞ THUẾ" để bắt buộc các gian sư "trụ trì" chưa chịu từ bỏ chùa theo "ý Phật tử là ý trời" qua số đông, cũng là những người đóng góp công, của nhiều nhất. Cứ báo với sở thuế, vì hầu hết các sư, ni đều "không bao giờ làm việc", đóng thuế, mà trong tay có tài sản bạc triệu; đương nhiên là trong phạm vi chuyên môn, nhân viên sở thuế sẽ đặt nhiều câu hỏi cho các sư nào muốn chiếm đoạt tài sản từ mồ hôi của Phật tử như:

- Tiền ở đâu mà có?
- Tiền có đóng thuế từ năm nào?

Nếu chùa do sư đứng tên, thì đây là yếu tố pháp lý quan trọng để tống cổ chúng ra khỏi nơi mà phật tử đổ biết bao công sức để cho họ hưởng, mà còn làm nhiều việc ác nhân, tà dâm, tham lam, nối giáo cho quỷ đỏ vô thần, thò bàn tay lông lá, dùng cửa chùa để đánh phá cộng đồng hải ngoại. Tại các nước dân chủ, người ta có câu: "con người không ai tránh khỏi chết và đóng thuế", nên tất cả mọi người đều trả thuế và ngay cả các cơ quan từ thiện cũng phải khai thuế hàng năm. Tại các cộng đồng người Việt Tự Do Úc Châu, dù có được chính phủ cấp tiền để hoạt động, nhưng hàng năm ban chấp hành phải khai thuế. Tuy nhiên, hiện tượng các chùa giàu "nức tượng Phật" là điều mà người ta thắc mắc.

Chắc chắn là những câu hỏi nầy của sở thuế, trở thành bí lối đối với tất cả tăng ni nào trong các giáo hội tiếm danh và nhiều khi nhân viên chuyên môn sở thuế còn tìm ra được những "đường dây rửa tiền" từ trong nước, do đảng cướp Việt Cộng ngầm thực hiện, để làm bàn đạp xâm nhập lâu dài tại hải ngoại, có phương hại đến nền an ninh quốc gia, kinh tế các nước dân chủ.

Chỉ có lực lượng "thiên lôi thuế vụ" mới làm cho những tăng ni tiếm danh phải bỏ chùa mà chạy, để tài sản về tay điều hành và quản trị của Phật tử, là những người xứng đáng được trông nôm tài sản chung qua ban trị sự được chính Phật tử bầu ra. Phật tích tâm, nên khi mọi người có lòng thành, thì không cần sư, nhất là sư gian, có tâm địa thuộc TỨ DIỆU XÚ: "giam, ác, tham, dâm", biến chùa thành Tiệm Phật, làm nhiều chuyện tà dâm, thì Phật cũng tránh xa và đương nhiên quỷ ma nhập vào, làm hao chánh pháp ... nên việc hạ bệ sư bá láp là biện pháp khả thi, để đức từ bi được tránh khỏi thời suy pháp nạn.

Trong Phật tử có nhiều người học cao, tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư .... thuưa khả năng để am hiểu những kinh sách nhà Phật, trong khi đó, tuyệt đại đa số sư, ni không được đào tạo một cách đứng đắn, nhiều khi ít học mà cạo đầu, mặc y phục cà sa và trở thành "THẦY", nên họ không có khả năng thấu hiểu Phật pháp, rồi lái sang mê tín dị đoan, lãnh đạo tinh thần và làm hoen ố cả đạo Phật, chính những người không hiểu đạo mà hành đạo là nguyên nhân chính tạo nên mạt pháp. Do đó, khi Phật tử dứng ra điều hành giáo hội, chùa, thì việc "đảnh lễ" Phật không khó khăn, kinh sách có sẵn, ma chay cứ lấy kinh ra đọc, với tấm lòng thành, thì cũng coi như được Phật chứng minh.

Trong khi gian sư như thích Phước Huệ, Như Huệ, hay những dâm tăng "dơ dái" trong ba quyển "giặc thầy chùa" của Đặng Văn Nhâm, đọc kinh cầu siêu cho người chết, công phu trước chánh điện ... là trò hề, che mắt thế gian qua bức màng the "phật sự". Trong hàng Phật tử có biết bao người đạo hạnh, lòng thành, tư cách còn hơn những người tự nhận là "thầy" rất nhiều. Cư sĩ cũng điều hành chùa, như ở Tây Úc, cư sĩ Lê Tấn Kiết đã điều hành chùa Chánh Giác 29 năm, cũng tụng kinh, ma chay .... tuy nhiên cư sĩ nầy "ít học" nên đọc kinh không đúng chữ, nếu ở đây, các Phật tử đứng lên lấy lại chùa, tự quản lý, thì trong nghi thức, có nhiều Phật tử có trình độ văn hóa. Và nay thì cư sĩ Lê Tấn Kiết bị lột mặt, nên Phật tử Tây Úc cần đoàn kết lại, thành lập ban trị sự, tự điều hành như ở Nam Úc và nhất là: "không bao giờ mời sư từ Việt Nam sang với danh nghĩa trụ trì" là vô tình mời công an sang đấy, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Như Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo, do cư sĩ Võ Văn Ái điều hành, vẫn chạy việc như thường .... nếu mai nầy, các ban trị sự, văn phòng ... trở cờ, thì chính Phật tử đứng lên điều hành, tiếp tục bảo vệ đạo pháp.

Trong xã hội loài người, từ xưa đến nay, đã có thành phần TRUNG GIAN mà trong từ ngữ kinh tế tiếng Anh gọi là BROKER, là những người làm ít hay không làm gì mà hưởng nhiều nhất.

- Thời bộ lạc, giai cấp tù trưởng, thầy mo, tự nhận là "thay thần linh" để cai trị dân trong các bộ tộc, là thứ broker giữa thần và các thành viên bộ tộc, nên tự ban cho minh quyền hành sanh sát trong tay, dưới nhản hiệu thần linh.

- Thời phong kiến, vua chúa chính là Boker, cũng tự nhận là "giới trung gian" giữa trời và dân, họ tự nhận là con trời. Nếu đất nước có được Broker lương thiện, thì dân được thái bình, là những minh quân; nhưng gặp thứ broker xấu, là những tên hôn quân, nhan nhản trong lịch sử các nước từ Âu sang Á.

- Tại các nước dân chủ, những bộ máy điều hành quốc gia chính là "broker" giữa chính quyền và dân chúng, nơi nầy cũng có nhiều đảng phái khác nhau, thi đua vào làm "broker" nên các đảng phái luôn tìm những chính sách để phục vụ dân chúng để giữa "công ty trung gian", nếu không sẽ bị dân đá văng ra khỏi bộ máy cai trị. Trong khi đó tại các nước Cộng Sản, giới Broker bất lương chính là tập đoàn đảng Cộng Sản, vì không có bất cứ đảng phái nào cạnh tranh, nên đảng Cộng Sản là thứ Broker độc quyền, tha hồ làm mưa làm gió, tự ý ban hành những thứ luật rừng để hưởng lợi.

- Trong thương trường, các super market là những broker giữa các công ty sản xuất và người tiêu thụ, nên các broker phải cạnh tranh nhau để được người tiêu thụ đến mau càng đông càng tốt. Do yếu tố cạnh tranh lành mạnh, theo luật pháp nên đa số các thương nghiệp là những broker lương thiện, giá cả đàng hoàng; tuy nhiên khi gặp phải gian thương, sau thời gian mánh mun, rồi vũng bị bể và bị chế tài theo luật pháp.

Trong tôn giáo cũng thế, tu sĩ chính là giới BROKER giữa trời, Phật, chúa và tín đồ, nên đây là sợi dây quan hệ mật thiết giữa đạo và đời. Do đó đức thầy Huỳnh Giáo Chủ, đạo Hòa Hảo có hai câu thơ ý nghĩa:

"Đời không đạo, đời vô liêm sĩ.
Đạo không đời, đạo biết dạy ai?"

Trong tôn giáo, giới tu sĩ Broker rất quan trọng, nên việc đào tạo là nhu cầu cần thiết trong việc bảo tồn và phát triển. Thiên Chúa giáo đào tạo tu sĩ rất kỹ, nên những chức sắc phải là những người thông hiểu kinh hơn các con chiên, đào tạo như vậy mà thỉnh thoảng cũng có những linh mục, giám mục làm sai và bị chế tài bởi giáo hội. Hồi giáo cũng có một số giáo sĩ cực đoan (Cleric), tự nhận là trung gian giữa Hallah và tín đồ, rồi có một số broker tự cho mình có quyền năng, cấp "chiếu kháng" cho bất cứ tín đồ nào ôm bom tự sát, dưới chiêu bài "thánh tử đạo" là nguyên nhân gây ra nạn khủng bố.

Phật giáo vốn lỏng lẻo về đào tạo, nên giới tu sĩ Broker làm sai chiếm khá nhiều, trong thương trường là gian thương, thì trong Phật giáo là gian tăng, nhan nhản trong các tự viện, khi làm sai mà không có ai chế tài, thì coi như đám gian sư lộng hành và tiếp tục phá đạo. Một số broker làm ăn khắm khá như thiền sư Thích Nhất vẹm, có cả hệ thống "supper Budhha market" từ Pháp sang Mỹ, sản nghiệp kếch xù hàng trăm triệu Mỹ kim. Hệ thống Phước Huệ công đức tùm lum, hệ thống phái Như Huệ .... và các tiệm Phật khắp nơi trên thế giới càng phát triển. Giới gian sư, ma ni trong Phật Giáo rất đông, nên giới tiêu thụ chính là các Phật tử hảy chọn nơi nào tốt để cùng nhau tu học, tìm đường giải thoát. Do đó, việc lấy lại các tự viện về tay Phật tử quản lý là điều cần thiết, trong tinh thần "đại hùng, đại lực, đại từ bi" là giúp đạo vượt qua cơn pháp hạn. Khi Phật tử đứng ra điều hành, thì sáng suốt hơn cá nhân các sư, và trong tương lai, nếu giáo hội trong nước bị nhuộm đỏ, hay bị khống chế, bị lái sang "định hướng xã hội chủ nghĩa" thì những tự viện ở hải ngoại do chính Phật tử điều hành, là nơi bảo tồn đạo pháp để chờ ngày bọn quỷ đỏ tiêu diệt, chấn hưng đạo, giúp đời. Nếu tự viện nào được minh sư hướng dẫn thì theo và nơi nào gặp gian sư, Phật tử nên làm cuộc đứng lên giành lấy chùa, bảo vệ chánh pháp.

Ánh sáng từ chùa Pháp Âm vùng sáng trên nền trời chánh đạo, hy vọng các nơi khác, khắp các châu lục, Phật tử hảy vùng lên lấy lại chùa, bảo vệ chánh pháp, là công đức to tát trong thời Mạt Pháp, tống cổ bọn gian sư, bao năm bòn rút mồ hôi trở thành MẬP PHÁT trong các Tiệm phật; đã đến lúc phải làm cái gì, bằng không thì ma quái tiếp tục lộng hành.

Trương Minh Hòa
27.4.2009


No comments:

Post a Comment