Phạm Bá Hoa
Ngày 26 tháng 3 năm 2004, Bộ Chính Trị, tức nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã ban hành nghị quyết số 36, qui định một chính sách toàn diện về Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Hải Ngoại mà họ gọi là những người Việt Nam ở nước ngoài.
Đọc qua nghị quyết này, dễ dàng nhận thấy nó là một văn kiện mà phần lớn là hệ thống hóa những qui định đã ban hành những năm trước đó, cộng với một số điểm mới. Điều đặc biệt là lãnh đạo cộng sản Việt Nam, đã nâng tầm quan trọng của quốc sách Kiều Vận lên cao hơn lúc nào hết. Không còn đóng khung trong những tổ chức có trách nhiệm vận động người Việt Nam ở nước ngoài như trước đây nữa, mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đặt trách nhiệm lên vai toàn bộ hệ thống chính trị, toàn bộ các tổ chức đảng, các tổ chức nhà nước, mặt trận tổ quốc, các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương, và các đoàn thể nhân dân, từ trong nước ra đến ngoài hải ngoại. Họ kêu gọi toàn dân phải coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Rõ ràng là lãnh đạo cộng sản Việt Nam, chánh thức chỉ huy cuộc tổng tấn công vào Cộng Đồng Tị Nạn Hải Ngoại chúng ta, bằng cách huy động toàn đảng, toàn nhà nước, và toàn dân, nói chung là toàn xã hội, tức 80 triệu người (năm 2004) trong nước vói tay ra khỏi biên giới mà tấn công vào Cộng Đồng 3 triệu người tị nạn hải ngoại. Phải chăng nhóm đỉnh cao tri tuệ tưởng như họ đang ở vào đầu tháng 3 năm 1975 với cái gọi là chiến dịch tổng tấn công mùa xuân của họ tấn công Việt Nam Cộng Hòa chúng ta hay sao ấy?
Nghị Quyết 36 hệ thống hóa những văn kiện và những tổ chức về Kiều vận:
Một là, Quyết định của Thủ Tướng cộng sản Việt Nam Phan Văn Khải ký ngày 27 tháng 10 năm 1999, về một số chính sách đối với người Việt Nam ở Nước Ngoài, đã được xếp vào mặt trận văn hoá. Năm sau đó, được bổ túc bởi một Quyết định nữa.
Hai là, Ủy Ban Liên Lạc Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, do Thứ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Đình Bin làm Chủ Nhiệm. Nay thì Nguyễn Đình Bin đã rời khỏi chức Thứ Trưởng Ngoại Giao, và Nguyễn Phú Bình thay thế.
Ba là, Ủy ban Vận Động Thành Lập Hội Liên Lạc Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, do tiến sĩ Nguyễn Văn Đạo, Giám đốc trường đại học tổng hợp Hà Nội làm Chủ Nhiệm. Nhiệm vụ của Ủy Ban này là vận động thành lập ít nhất là một Hội tại mỗi thành phố lớn cũng như tại mỗi tỉnh có thân nhân của chúng ta cư ngụ, để dùng thân nhân chúng ta áp lực chúng ta, làm thay họ về những công tác văn hoá xã hội mà lẽ ra họ phải phục vụ người dân.
Và bốn là, Quỹ Hỗ Trợ Vận Động Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, ra mắt giữa tháng 4 năm 2003, với ngân khoản đầu tiên là 7.000 tỷ đồng Việt Nam, tương đương với 450 ngàn mỹ kim tính theo hối suất lúc ấy. Theo lời của ông Nguyễn Đình Bin trong ngày ra mắt tại Bộ Ngoại Giao hồi tháng 4 năm 2003, thì Quỹ này tài trợ cho 8 mục tiêu mục tiêu của Quỹ đánh phá Cộng Đồng chúng ta mà họ gọi là giúp đỡ những người Việt Nam ở nước ngoài, để nắm quyền khống chế cai trị chúng ta như họ đang cai trị 83 triệu dân trong nước, mà người viết đã mổ xẻ trong loạt bài Quỹ Hỗ Trợ Cộng Đồng. Và 8 mục tiêu này gần như nằm trọn trong nội dung nghị quyết 36 mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã ban hành.
Quốc sách Kiều Vận của lãnh đạo cộng sản Việt Nam đối với Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại, mà họ gọi chúng ta là những người Việt Nam ở nước ngoài. Họ không xem chúng ta là một Cộng Đồng trên thế giới, mà họ cố tình đặt chúng ta vào cái thế những cá nhân riêng rẽ, ám chỉ chúng ta là những cá nhân di dân kinh tế chớ không có lý tưởng chính trị gì cả. Với nghị quyết 36, lãnh đạo cộng sản Việt Nam chánh thức mở cuộc tổng tấn công vào Cộng Đồng tị nạn hải ngoại bằng tất cả khả năng của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Mời quí vị vào những điểm căn bản của nghị quyết 36 trước khi vạch rõ những mục tiêu họ tấn công chúng ta, mà họ gọi là những nhiệm vụ chủ yếu.
Điểm căn bản thứ nhất. Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời, và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước.
Quí vị có thấy sự trơ trẽn của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam đến mức không thể tưởng tượng không? Vì họ thừa biết là mọi người Việt Nam nhất là người Việt Nam trong Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại, không thể nào quên thời kỳ 10 năm đầu kể từ năm 1975, khi mà những công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ không thể sống nỗi sự kềm kẹp chính trị trong khi tài sản bị họ cướp đoạt trắng trợn, nên đành phải vượt biên vượt biển đì tìm cuộc sống tự do với cái giá phải chấp nhận ở mức độ hiểm nguy rất cao do bị họ bắt bỏ tù, do bị mất xác trong rừng hay trên biển, trong khi hy vọng vượt thoát đến bến bờ tự do thật là mong manh! Lúc ấy, họ gọi chúng ta là bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn đĩ điếm lưu manh rác rưởi, bọn ôm chân đế quốc. Họ sử dụng tất cả những chữ nghĩa nào mà chửi rủa được là họ mang ra sử dụng để sỉ vả chúng ta là bọn này bọn kia. Nguyễn Thượng Nhân, Bộ Trưởng Y Tế của cộng sản, còn hô hào cổ võ cái quan điểm của ông ta là đem hết cái bọn đó ra mà treo cổ! Không biết bây giờ cái ông Nguyễn Thượng Nhân đó có nhận ra bản thân ông thuộc cái bọn gì không nhỉ? Bọn tham nhũng, bọn dâng đất dâng biển cho ngoại bang, hay bọn gì đó trong cái xã hội mới con người mới xã hội chủ nghĩa?
Cũng không thể nào quên 10 năm kế tiếp kể từ năm 1985, khi họ thấy Cộng Đồng chúng ta ổn định cuộc sống, từng bước hội nhập vào các lãnh vực sinh hoạt trong các xã hội kỹ nghệ tân tiến, và gởi tiền về quê hương giúp đỡ thân nhân thân quyến, lãnh đạo cộng sản Việt Nam hạ giọng gọi chúng ta là Việt Kiều yêu nước. Mà yêu nước theo ngữ nghĩa của chế độ cộng sản là gắn liền với yêu xã hội chủ nghĩa. Chữ với nghĩa này không phải tự tôi chế ra đâu, mà lãnh đạo cộng sản Việt nam cũng như các phương tiện truyền thông quốc doanh của họ sử dụng đó.
Và cũng không thể nào quên là từ năm 1996, khi thấy Cộng Đồng chúng ta đứng vững tại các quốc gia định cư, khối lượng tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại tốt nghiệp từ các nền giáo dục khoa học kỹ thuật tân tiến, nhất là tại Hoa Kỳ ngày càng đông đảo, và thật sự có mặt trong các cơ quan lập pháp, hành pháp, và tư pháp tại các quốc gia định cư. Về khối tài chánh trong Cộng Đồng mà điển hình là số tiền gởi về giúp thân nhân trên quê hương Việt Nam lên đến gần 3 tỷ mỹ kim, lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại hạ giọng thấp xuống nữa để gọi Cộng Đồng chúng ta là khúc ruột ly hương ngàn dặm. Cũng nhờ khối mỹ kim nhỏ nhoi đó từ Cộng Đồng tị nạn cộng sản mà lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước cộng sản Việt Nam, có khối tài sản hằng chục hằng trăm triệu mỹ kim, đã rửa khối tiền dơ bẩn của họ sạch sẽ trước khi đổ vào các ngân hàng tại ngoại quốc.
Giờ đây, năm 2004, lãnh đạo cộng sản Việt Nam nhận thấy Cộng Đồng tị nạn chúng ta phát triển mạnh mẽ, đã tạo được vị trí vững chắc trên các quê hương thứ hai, mà Cộng Đồng quan trọng hơn hết là tại hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Theo thống kê năm 2000 thì dân số toàn liên bang Hoa Kỳ là 281 triệu, trong số đó, cộng đồng Việt Nam là 1.122.528 người, chiếm 0.4%. Nếu tính bình quân một gia đình Việt Nam chúng ta có 5 người thì ta có 224.000 gia đình, và cứ cho là mỗi gia đình chỉ một người tốt nghiệp đại học thì ta có ngay con số 224.000 trí thức, cộng với các cộng đồng ở Châu Âu, Canada, và Châu Úc, chúng ta dễ dàng có 300.000 trí thức tốt nghiệp tại các quốc gia có nền giáo dục khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới. Đây là khối nhân lực quí giá hiện nay, đang góp phần phát triển tại các quê hương thứ hai bằng tất cả tài năng và kinh nghiệm, sẽ là nỗ lực chính trong mục tiêu nâng và đẩy nước Việt Nam dân chủ tự do cất cánh vào ngày mai.
Nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam, rất thèm muốn khối tài nguyên nhân lực quí giá này, cộng với sự thèm muốn khối tài chánh trong Cộng Đồng tị nạn chúng ta, một Cộng Đồng mà họ từng lớn tiếng rộng miệng mạt sát chúng ta là lưu manh đĩ điếm. Khối tài chánh trong Cộng Đồng chúng ta, tuy chưa đủ lớn để so với cộng đồng Do Thái hay cộng đồng Trung Hoa, nhưng tin chắc là đủ lớn để họ lấp vào lỗ hổng tài chánh mà các nhà đầu tư ngoại quốc đang rút dần ra khỏi nền kinh tế phát triển ngập ngừng và khập khễnh của Việt Nam.
Thế là con quái vật cộng sản Việt Nam đang vào vị trí cuối chu kỳ sống, bỗng dưng họ tưởng như ôm chầm lấy Cộng Đồng chúng ta qua nghị quyết 36. Không biết là họ có hôn lấy hôn để sau khi ôm chúng ta hay không, nhưng rõ ràng là họ rạp mình xuống để gọi chúng ta là bộ phận không tách rời, và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước. Họ cũng cố tình không hay không biết là đa số chúng ta đã trở thành công dân bản xứ, chớ có phải là công dân của cái chế độ nghe đến tên là muốn ... ấy đâu mà họ coi chúng ta như là công dân của họ.
Cũng xin nói thêm rằng, ngay trong phần 1 của nghị quyết, lãnh đạo cộng sản Việt Nam nói về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, ngoài thành phần tị nạn chúng ta hay nói cho chính xác là thành phần công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ, còn có hằng trăm ngàn công dân của họ đã ra ngoại quốc lao động, học tập, và tu nghiệp. Rõ ràng là họ cố tình gán ghép thành phần đó vào Cộng Đồng Tị Nạn chúng ta, vì thật ra những người trong thành phần này chỉ hợp lệ tại ngoại quốc khi mà sổ thông hành của họ còn giá trị, có nghĩa là tạm thời, nên không thể xem là một thành phần trong Cộng Đồng Tị Nạn chúng ta được.
Về nhóm chữ họ coi chúng ta là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với các quốc gia khác. Đúng là Cộng Đồng chúng ta có khả năng trong những cuộc vận động chính trị tại các quốc gia định cư, nhất là Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Úc, Gia Nã Đại, nhưng là để góp phần tấn công họ trong lãnh vực nhân quyền, và từ nhân quyền ảnh hưởng sang những lãnh vực khác trong mục tiêu chung là góp phần vào công cuộc dân chủ hoá chế độ chính trị tại Việt Nam, chớ chúng ta không sử dụng khả năng đó để hùa theo những chính sách đàn áp bắt bớ đồng bào, những dối trá tráo trở lật lọng của chế độ độc tài trong những chính sách cai trị đồng bào. Với lại hùa theo họ là mang tội với quốc gia, dân tộc, và mang tội với gia đình nữa. Chúng ta chờ đợi những hành động công khai của họ tại hải ngoại, chúng ta sẽ vận dụng tất cả khả năng chính trị của mình để ảnh hưởng những chính sách của chánh quyền bản xứ đối với lãnh đạo nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Gậy ông sẽ đập lưng ông mà.
Điểm căn bản thứ hai. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các tổ chức đảng, nhà nước, và các đoàn thể nhân dân, các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước, và toàn dân ta cần coi đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thưa quí vị, với những tháng đầu năm 2004 này, nghị quyết 36 là một văn kiện phơi bày mục tiêu của lãnh đạo cộng sản Việt Nam, là xua toàn bộ phương tiện từ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, mở cuộc tổng tấn công vào Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản trên khắp thế giới, mà trọng tâm của họ chắc chắn là Cộng Đồng tị nạn tại Hoa Kỳ. Trận chiến này chẳng khác những tháng đầu năm 1975, khi họ xua phần lớn quân chính qui từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, vượt vĩ tuyến 17 tràn xuống tổng tấn công đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng ta vậy.
Họ đã thật sự nâng tầm quan trọng của quốc sách Kiều Vận lên cao hơn lúc nào hết. Họ không còn đóng khung trong những tổ chức có trách nhiệm vận động người Việt Nam ở nước ngoài như trước đây nữa, mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đặt trách nhiệm lên vai toàn bộ hệ thống chính trị, toàn bộ các tổ chức đảng, các tổ chức nhà nước, mặt trận tổ quốc, các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương, và các đoàn thể nhân dân, từ trong nước ra đến ngoài hải ngoại. Họ kêu gọi toàn dân phải coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chính xác là lãnh đạo cộng sản Việt Nam, chánh thức chỉ huy cuộc tổng tấn công vào Cộng Đồng Tị Nạn Hải Ngoại chúng ta.
Quí vị có thấy chữ và nghĩa của lãnh đạo cộng sản Việt Nam dùng không? Theo chữ nghĩa của họ, nếu chúng ta hiểu theo nhận định của bác sĩ Fred C. Schwarz đã nói ờ đầu bài, thì chúng ta hiểu là họ ra lệnh cho toàn dân trong nước, phải coi cuộc tổng tấn công Cộng Đồng tị nạn hải ngoại là hành động đem lại sự đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước! Cũng từ trong nghị quyết 36, theo cách hiểu của người viết bài này thì chính sách của họ về sự ổn định tình hình trong nước là đặt trên căn bản lưỡi lê với nòng súng. Điều này hẳn là quí vị đã rõ. Còn đối với sự ổn định Cộng Đồng tị nạn hải ngoại theo chữ nghĩa của họ, thì họ đặt trên căn bản đồng tiền và lợi dụng văn hoá.
Tôi suy đoán là họ sẽ đặt cho những cá nhân, những tổ chức kể cả những tổ chức thiện nguyện, những công tác kể cả những công tác thiện nguyện, nói chung là những gì do chúng dàn dựng lên ngay trong sinh hoạt của Cộnf Đồng chúng ta, bằng những cái tên nghe thật đậm đà tình tự quê hương, nghe thân thương tha thiết, thậm chí rất nhân đạo phước đức, trong mục đích tạo xúc động mạnh ở những vị nhiều lòng nhân nhưng ít chịu suy xét là mình đang làm việc thiện, hay mình đang bị nhóm lãnh đạo cộng sản lợi dụng, hay có thể là mình vô tình làm lợi cho họ? Suy đoán là họ sẽ dùng tiền mua chuộc một cách kín đáo đến mức có thể người nhận tiền và làm công tác cho họ cũng không nghĩ đến là mình đã lọt vào bẩy của cộng sản. Bài bản này của cộng sản xưa cũ lắm rồi, nhưng khổ nỗi là bà con dễ quên lắm.
Nhân nói đến cái bẫy của lãnh đạo cộng sản Việt Nam, xin dẫn chứng cái bẩy mới nhất mà họ áp dụng phải nói là thành công. Đó là ngày 12 tháng 6 vừa qua (2004), họ công bố lệnh thả tù nhân lương tâm Lê Chí Quang trước thời hạn 2 năm. Cũng trong ngày đó, họ công bố lệnh giảm án cho linh mục Nguyễn Văn Lý xuống còn 5 năm. Thả tù hay giảm án tù, có gì mà phải công bố cho 80 triệu dân trong nước và thế giới biết tin? Với lại theo đúng Hiến pháp cũng như luật pháp của họ thì hai vị ấy không phạm tội gì cả, vậy mà cứ bỏ tù để khi thả ra sớm một chút là thiên hạ hoan hô họ. Điển hình là hầu hết các chương trình phát thanh Việt ngữ của đài BBC, RFI, RFA, hay VOA, cùng các tổ chức theo dõi nhân quyền, đều cho là lãnh đạo cộng sản Việt Nam tỏ thiện chí tốt. Thật ra đó chẳng qua là cái bẩy hay là cái kế của họ cuốn hút các cơ quan truyền thông vào đó để rồi ngày 15 tháng 6, tức 2 ngày sau đó, cái Quốc Hội bù nhìn của họ đã phê chuẩn Hiệp Định chánh thức hoá cho họ được dâng cho cộng sản Trung Hoa hơn 10.000 cây số vuông trong vịnh Bắc Việt, nhưng không thấy cơ quan truyền thông nào nói đến hành động ghê tởm này của họ cả. Vậy là trúng kế của lãnh đạo cộng sản Việt Nam rồi.
Điểm căn bản thứ ba. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, cần mang tính đồng bộ, kết hợp việc xây dựng cơ chế chính sách với công tác vận động, kết hợp các hoạt động trong nước với các hoạt động ở ngoài nước, và phải được tiến hành thông qua nhiều loại hình hoạt động và biện pháp phù hợp với các đối tượng và địa bàn khác nhau, trên cơ sở tự nguyện và không trái pháp luật, phong tục, tập quán của nước sở tại.
Họ làm như là họ đang ôm chúng ta vào cái chế độ ghê tởm của họ, thế là họ liền huy động toàn bộ hệ thống chính trị, các ngành, hình thành các tổ chức ngay trong Cộng Đồng tị nạn chúng ta, rồi kết hợp tất cả hoạt động từ trong nước ra đến hải ngoại, vận dụng các phương thức hoạt động và áp dụng các biện pháp thưởng phạt theo từng cá nhân từng tổ chức. Những ai hoạt động cho họ hay hùa theo họ, họ đều cài vào cái thế tự nguyện, nhưng chỉ thị của lãnh đạo cộng sản Việt Nam cho đàn em lẫn tay sai của họ là cố tránh vi phạm luật pháp và tập quán các quốc gia bản xứ. Nếu đàn em hay tay sai của họ phạm pháp, cầm chắc là phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao của họ lên tiếng chối bai bải là những người đó không liên quan gì đến nhà nước nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cả. Bài bản của họ là như vậy mà.
Một điều rất quan trọng là đa số bà con trong Cộng Đồng Tị Nạn chúng ta, ngày nay trở thành công dân Hoa Kỳ cũng như công dân của các quốc gia sở tại khác. Khi mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam xâm phạm đến quyền tự do căn bản của chúng ta, chính là họ vi phạm luật pháp Hoa Kỳ cũng như luật pháp các quốc gia bản xứ khác.
Đến đây mời quí vị quí bạn đi sâu vào phần 3 của nghị quyết 36 với 9 mục tiêu trong cuộc tổng tấn công Cộng Đồng tị nạn chúng ta. Người viết mở cuộc tổng phản công vào từng mục tiêu của họ, với những phân tách từng vế một với những dẫn chứng về miệng lưỡi của lãnh đạo CSVN lúc nào cũng vo tròn bóp méo, tráo trở lật lọng, dối trá ngang ngược, chẳng có lời nào chân thật cả, dẫn chứng về những hành động mà họ đã sử dụng để đánh phá triệt hạ những tổ chức trong Cộng Đồng tị nạn, trong mục tiêu cuối cùng là họ cai trị chúng ta ngay trên các quê hương thứ hai của chúng ta.
Mục tiêu thứ 1. Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống xã hội nước sở tại, đồng thời duy trì quan hệ gắn bó với quê hương đất nước.
Hỗ trợ ổn định cuộc sống. Nhưng thế nào là ổn định? Phải chăng hỗ trợ ổn định là những công dân Hoa Kỳ, công dân Anh, Pháp, Đức, Úc, Nhật,..v..v.. gốc Việt Nam, chỉ được suy nghĩ theo lãnh đạo, nói theo lãnh đạo, và làm theo lãnh đạo cộng sản Việt Nam không? Sử dụng internet cũng phải xin phép hay sao đây? Nay thì tòa lãnh sự gọi làm việc, mai thì tòa đại sứ gọi làm việc phải không? Rồi giải tán hết các Hội đoàn, các tổ chức, giải tán luôn các tôn giáo, để “đỉnh cao trí tuệ” đứng ra tổ chức giùm những thứ quốc doanh tại hải ngoại phải không?
Xin lỗi đỉnh cao trí tuệ với những bằng cấp loại nâng đỡ, trí tuệ theo kiểu chỉ có ở Việt Nam cộng sản là 1 năm có bằng trung học, 2 năm có bằng đại học. Trí tuệ kiểu đó mà thò tay vào Cộng Đồng tị nạn chúng tôi là ra tòa dễ như chơi đấy nhé! Sao trí tuệ mà không hiểu gì hết vậy, đụng đến công dân bản xứ là vi phạm pháp luật của các xã hội dân chủ pháp trị nghe chưa.
Tại sao từ 32 năm trước, hay 22 năm trước, thậm chí là 12 năm trước, không thấy lãnh đạo cộng sản Việt Nam hỗ trợ cho Cộng Đồng tị nạn mà toàn chửi rủa nhục mạ, bây giờ lại bỗng dưng tỏ ra thương yêu đến thế? Lãnh đạo CSVN muốn gì đây?
Cần nhân tài lắm hả? Xin giới thiệu Cộng Đồng tị nạn chúng tôi dễ dàng và ít nhất là có đến 300.000 trí thức hải ngoại. Theo thống kê năm 2000 thì toàn nước Mỹ là 281 triệu người. Trong số đó, cộng đồng Việt Nam là 1.122.528 người, chiếm 0.4%. Nếu tính bình quân một gia đình 5 người thì Cộng Đồng tị nạn chúng tôi có 224.000 gia đình, và cứ cho là mỗi gia đình chỉ có một người tốt nghiệp đại học thì chúng tôi có ngay con số 224.000 trí thức, cộng với các cộng đồng ở Châu Âu, Canada, và Châu Úc, chúng tôi dễ dàng có 300.000 trí thức tốt nghiệp tại các quốc gia có nền khoa học kỹ thuật tân tiến. Còn nếu chấp nhận cứ hai gia đình có 3 người tốt nghiệp đại học thì riêng tại Hoa Kỳ con số trí thức sẽ là 336.000 người, và Cộng Đồng tị nạn hải ngoại từng bị lãnh đạo cộng sản Việt Nam nhục mạ chửi rủa, dễ dàng có con số 500.000 trí thức. Đây chính là khối tài nguyên quí giá hôm nay, sẽ là nỗ lực chính, cùng với tuổi trẻ trong nước, thực hiện mục tiêu nâng và đẩy nước Việt Nam dân chủ tự do cất cánh vào ngày mai, ngày mà chế độ độc tài tàn lụi, sụp đổ. Các ông đỉnh cao trí tuệ thèm lắm phải không? Thèm để giúp cho đảng có lý do tồn tại, giúp cho lãnh đạo các cấp của các ông giàu thêm, chớ không phải thèm để giúp phát triển đất nước đâu. Hay nói cho đúng, phát triển đất nước chỉ là mục tiêu phụ của các ông trong khi mục tiêu chính là sự tồn tại của các ông thôi.
Cần nguồn tài chánh của Cộng Đồng tị nạn vì đầu tư ngoại quốc giảm mạnh phải không? Theo bản tin đài BBC ngày 2 tháng 4 năm 2004, hội nghị về Đầu Tư Ngoại Quốc đã tổ chức tại Hà Nội vào những ngày cuối tháng 3/2004. Hội nghị này qui tụ nhiều Bộ nhiều Ngành, cùng với nhiều cấp lãnh đạo nhà nước. Mục đích là thảo luận tìm nguyên nhân của sự sút giảm đầu tư, và tìm biện pháp sửa chữa để nguồn đầu tư ngoại quốc gia tăng trở lại. Các đại biểu tham dự hội nghị rất lo ngại về tình trạng thiếu hấp dẫn của môi trường đầu tư ngày càng suy giảm, mà nguyên nhân trước mắt là qui hoạch thiếu tính toán, và luật pháp vẫn gây nhiều trở ngại cho các doanh gia ngoại quốc.
Với những con số thống kê công bố chánh thức trong hội nghị, cho thấy vốn đầu tư ngoại quốc chưa thật sự đổ vào các ngành có kỹ thuật cao, mà chỉ quanh quẩn trong các ngành sản xuất những mặt hàng thông dụng. Điều này cho thấy là môi trường hấp dẫn của Việt Nam hãy còn non kém trong mục tiêu thu hút các đại công ty cũng như các công ty xuyên quốc gia từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, vì hầu như chưa có những công ty hay đại công ty kỹ thuật cao đổ vốn vào Việt Nam.
Hội nghị cũng thừa nhận những dự án lớn chưa có, nhưng ngay những dự án nhỏ ghi danh rồi thì đa số hoạt động kém hiệu quả, hoặc triển khai chậm, hoặc bị rút giấy phép trường hợp như tại Sài Gòn, trong năm 2003 có khoảng 80% số dự án ghi danh đã bị giải thể hoặc rút giấy phép. Trường hợp này tại Hà Nội thấp hơn, nhưng cũng chiếm đến 30% trong tổng số ghi danh trong năm 2003. Do vậy mà tâm lý các nhà đầu tư ngoại quốc, khi từ xa nhìn vào cứ tưởng Việt Nam là một thị trường béo bở, nhưng khi bắt tay vào việc thì họ gặp nhiều phiền phức hơn là họ nghĩ. Nhiệt tình ban đầu do vậy mà nguội lạnh nhanh chóng.
Theo những nhà đầu tư ngoại quốc dự họp, tình hình đầu tư ngoại quốc hiện nay tại Việt Nam xấu hơn nhiều so với những năm 90. Ông Vũ Khoan, Phó Thủ Tướng Việt Nam phát biểu: “Sự quy hoạch của Việt Nam còn khập khễnh, nặng tính bảo hộ, và trong thực tế hầu như loại trừ vốn đầu tư nước ngoài trong các lãnh vực như điện, xi măng, sắt thép, trong khi những ngành này rất cần vốn và kỹ thuật ngoại quốc”.
Nhân quyền bị phê phán dữ dội phải không? Bây giờ tìm kế cuốn hút mọi dư luận vào cái nghị quyết này để có được chút thời gian yên tỉnh hả? Lê Chí Quang cũng như linh mục Nguyễn Văn Lý chẳng vi phạm tội gì trong Hiến Pháp cũng như luật pháp, nhà nước vẫn cứ bắt, tòa án vâng lệnh đảng vẫn cứ tuyên án, nay ra cái điều thả sớm hay giảm án rồi hô hào nhà nước nhân đạo để thu hút các cơ quan truyền thông vào đấy, để rồi hai ngày sau khi tự khen là nhà nước nhân đạo thì Quốc Hội phê chuẩn hiệp ước tặng không cho đàn anh cộng sản Trung Hoa hơn 10.000 cây số vuông trong vịnh Bắc Việt. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam có muốn thế giới khen về tiến bộ trong hồ sơ nhân quyền không? Dễ lắm. Bước đầu, cứ áp dụng đúng nội dung bản Hiến Pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, rồi từng bước tiếp theo, với sự đóng góp của các luật gia trong Cộng Đồng tị nạn hải ngoại để xây dựng một hệ thống luật pháp thích hợp giữa văn hoá và hoàn cảnh đất nước, với hệ thống luật pháp mà thế giới văn minh và Liên Hiệp Quốc áp dụng. Thế là được cộng đồng thế giới và cả Cộng Đồng tị nạn hải ngoại khen ngay.
Giúp Cộng Đồng tị nạn hải ngoại yên tâm làm ăn sinh sống và hội nhập vào đời sống xã hội sở tại hả? Có lầm lẫn với cộng đồng gốc xuất ngoại lao động và du sinh tại các quốc gia cộng sản cũ không đây? Trong những năm cuối thập niên 70 sau không giúp mà bây giờ lại giúp vậy? Vì những năm đó Cộng Đồng tị nạn chân ướt chân ráo tại các quốc gia định cư, còn bây giờ thì đời sống quá vững vàng, đa số bà con trong Cộng Đồng tị nạn trở thành công dân các quốc gia sở tại. Các ông đỉnh cao trí tuệ coi chừng bị đưa ra tòa nếu như đụng đến quyền tự do cá nhân của Cộng Đồng tị nạn chúng tôi đấy, đừng tưởng Cộng Đồng chúng tôi là những công dân trên quê hương Việt Nam bị cái chế độ độc tài của các ông bịt mắt bịt miệng bịt tai rồi Công An muốn làm gì thì làm đâu nhé!
Giúp Cộng Đồng tị nạn chúng tôi gắn bó với quê hương hả? Sao nghị quyết 36 không cho một định nghĩa “thế nào là gắn bó” cho nó rõ nghĩa vậy. Phải chăng gắn bó là theo lệnh đảng theo lệnh nhà nước, đưa trí thức và mang tài chánh trong Cộng Đồng tị nạn cộng sản độc tài về giúp cộng sản độc tài làm giàu thêm phải không?
Luận điệu này độc lắm nghe bà con. Bà con mà gắn bó kiểu này thì toàn bộ hệ thống tuyên truyền của họ suốt ngày suốt tháng oang oang lên rằng, đảng với nhà nước nước Cộng Hòa Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam khoan hồng cho cái bọn ngụy quân ngụy quyền, cái bọn đĩ điếm lưu manh rác rưởi xã hội, đến cái bọn phản quốc như cựu Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng được khoan hồng về thăm quê hương, được gắn bó với quê hương, để chứng tỏ chế độ của họ là chế độ ưu việt, chế độ bách chiến bách thắng như họ đã từng vênh cái miệng của họ sau khi đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng ta đó. Và như vậy, cái chế độ độc tài tàn bạo của họ chẳng những không có tội với quốc gia dân tộc dù họ giết chết hằng chục triệu công dân Việt Nam để đạt mục đích chiến lược cho cộng sản quốc tế, dù họ làm kiệt quệ tài nguyên quốc gia, dù họ gây cảnh tương tàn trong cuộc chiến trải dài bao thế hệ trong trang sử đầy máu và nước mắt trong một giai đoạn lịch sử bi thương thù hận! Một cuộc chiến không vì quyền lợi quốc gia dân tộc Việt Nam mà chỉ vì quyền lợi của cộng sản quốc tế thôi.
Mục tiêu thứ 2. Hoàn chỉnh và xây dựng một hệ thống chính sách trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với những chuyên gia trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn quản lý và điều hành, chuyển giao công nghệ kỹ thuật cao cho đất nước, góp phần phát triển nền văn hoá nghệ thuật của nước nhà.
Một đoạn trong phần nhận định của nghị quyết, họ nói trắng trợn rằng: “Nhiều người đã về thăm gia đình, thăm quê hương, hợp tác kinh doanh, là xu hướng chủ yếu của người Việt Nam ở nước ngoài. Còn những người chưa về thăm đất nước nên chưa thấy những thành tựu phát triển nên còn mặc cảm, còn thành kiến với chế độ”. Họ còn nói cứ như thiệt rằng: “Nhu cầu giao lưu văn hoá và giữ gìn tiếng Việt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một nhu cầu rất lớn và trở nên bức thiết, nhưng chưa được đáp ứng”.
Vấn đề có thiệt không đây? Về Việt Nam là thăm thân nhân thân quyến. Đó là một góc trong đạo nghĩa dân tộc một cách tự nhiên mà, đừng tưởng cứ về thăm thân nhân là chấp nhận trở thành công dân để chịu sự cai trị của bộ máy nhà nước Việt Nam độc tài! Cái lối gán ghép này vẫn là một thứ bài bản “yêu tổ quốc là yêu chủ nghĩa xã hội mà họ luôn gán ghép như vậy”. Không tin thì bộ máy Công An thử kêu những người về Việt Nam nhưng chưa phải là công dân ngoại quốc và những người là công dân ngoại quốc gốc Việt Nam về thăm thân nhân, hù dọa và bảo họ ký giấy trở về Việt Nam sống và làm việc, có ai chịu ký không. Tương tự như vậy, Công An cứ gọi những người Việt Nam hải ngoại về thăm thân nhân đến cơ quan Phường Xã, rồi bảo những người đó ghi tên mua văn hoá phẩm xã hội chủ nghĩa, thử xem có ai mua không? Nếu mua thì mua loại nào? Và Công An theo dõi xem khi ra khỏi cơ quan họ liệng cái thứ văn hoá lộn đầu, cái thứ văn hoá ngược ngạo ấy ở đâu! Theo dõi là nghề của Công An mà, có gì khó khăn đâu.
Xin được cung cấp vài thông tin về chính sách và hành động mà lãnh đạo CSVN gọi là khoan hồng là nhân đạo sau khi họ chiếm Việt Nam Cộng Hòa, để nhận ra điều mà họ kêu gào 83 triệu dân trong nước, kêu gào những người Việt Nam ở nước ngoài -nói theo ngôn ngữ của họ- và kêu gào những quốc gia liên hệ đến sự sống còn của họ, hãy để quá khứ lại sau lưng. Họ luôn kêu gào như vậy bởi vì cái quá khứ sau lưng của họ ngập tràn máu, nước mắt, đầy dẩy sự dã man tàn bạo, cái quá khứ đầy xác người dân Việt trong nửa thế kỷ qua!
Trước hết là cướp đoạt bằng cách đổi tiền. Bốn tháng sau ngày chiếm Việt Nam Cộng Hòa, lãnh đạo CSVN mở màn cho chính sách cướp đoạt tài sản của công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ bằng chính sách đổi tiền. Đổi tiền mà gọi là cướp đoạt sao? Thoạt nghe tưởng như chuyện đùa, nhưng quả đúng như vậy. Đổi tiền của lãnh đạo cộng sản Việt Nam là một hành động cướp đoạt. Vì kế hoạch đổi tiền được họ chuẩn bị hết sức bí mật chẳng khác kế hoạch xua quân tràn qua vĩ tuyến 17 trên sông Bến Hải xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa vậy. Những nhân viên ngân hàng bị giữ lại tại chỗ để học tập, và hoàn toàn cách ly với gia đình. Rồi ngày 18/9/1975, một cơn sấm sét giáng xuống đầu người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ bằng cái lệnh đổi tiền, và rất giới hạn số tiền được đổi. Do vậy mà số tiền còn lại giống như những tờ giấy chẳng những vô dụng mà rất có thể bị khép vào tội tư sản là khác. Đổi thì đổi hết tức là trao cho nhà nước tất cả, nhưng chỉ được nhận lại 200 đồng tiền mới khả dĩ đủ sống trong những ngày trước mắt. Phần còn lại bị caá gọi là nhà nước giữ, mỗi khi cần sử dụng phải làm đơn kê khai nhu cầu với số tiền cần lấy, phải có chứng nhận của chánh quyền địa phương, và quyết định được lấy ra bao nhiêu là quyền của nhà nước chớ không phải của người chủ những đồng tiền đó. Quí vị có thấy là trên thế gian này có cái quốc gia văn minh nào mà người dân phải làm đơn xin chánh quyền địa phương để sử dụng tiền của mình không nhỉ?
Rồi cướp đoạt vàng khi người Việt gốc Hoa ghi danh vượt biển. Theo tác giả Lê Tùng Minh trong bài “Việt Nam Sau Tháng Tư Đen”. Theo đó, chánh phủ cộng sản cho phép các sở Công An địa phương tổ chức những chuyến vượt biển cho thành phần người Việt gốc Trung Hoa để lấy vàng bổ sung cho ngân sách nhà nước. Các Sở Công An nhất là tại các thành phố trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa cũ, áp dụng từ tháng 11 năm 1978. Chính sách này nhằm đẩy thành phần có nguồn gốc Trung Hoa ra khỏi Việt Nam, mà không mang tiếng là trục xuất một thành phần có thể là tai mắt của cộng sản Trung Hoa, vì lúc ấy tình hình bang giao giữa cộng sản Việt Nam với cộng sản Trung Hoa căng thẳng, do cộng sản Việt Nam đứng hẳn về phía cộng sản Liên Xô. Chính sách này có hai cái lợi cho lãnh đạo CSVN vừa đẩy được một số người ra khỏi Việt Nam, vừa thu được 7 lạng vàng từ mỗi người ghi danh vượt biển trong chính sách này. Theo lời của Đại Tá Trần Bình, Cục Trưởng Cục Công An, chỉ thị từ trung ương thu 3 lạng vàng trên mỗi đầu người nhưng thực tế các Sở Công An thu mỗi người ghi danh vượt biển đến 7 lạng vàng. Như vậy, từ năm 1978 đến 1972, họ thu được khoảng 700.000 lạng vàng. Vàng thì họ thu khi ghi danh tại các Sở Công An, còn bao nhiêu người thật sự thoát khỏi Việt Nam sau khi nạp vàng cho họ thì không ai biết được, vì có rất nhiều chuyến tàu chở người ghi danh vượt biển, nhưng khi ra biển họ viện dẫn có mưa giông bão tố gì đó và họ quay tàu vào bến, mọi việc xem như chấm dứt việc ra đi nhưng vàng thì không một ai được trả lại, cũng không một lời nào được công bố cho mọi người biết. Nhưng 700 ngàn lạng vàng mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam thu góp, có thật sự vào ngân sách nhà nước hay vào túi riêng của những người liên hệ và những người quyền thế, chỉ có họ với Trời mới biết thôi.
Đến tội ác trong chính sách cải tạo. Ngay từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi quân cộng sản của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chiếm trọn phần đất từ vĩ tuyến 17 trở xuống vùng Cực Nam tổ quốc, lãnh đạo cộng sản Việt Nam sử dụng chính sách “tập trung cải tạo” đối với quân nhân viên chức của Việt Nam Cộng Hòa vừa sụp đổ, mà họ gắn cho cái tên đầy miệt thị là ngụy quân ngụy quyền, nhưng về phía họ thì họ gọi là khoan hồng nhân đạo. Thật sự cho đến nay là năm 2008, chưa thấy một tài liệu nào nói về con số chính xác bị họ bắt nhốt trong khoảng 200 trại tù trên toàn cõi Việt Nam. Trong con số 200 này thì chỉ riêng Đoàn 776 của họ có đến 82 trại tù mang ám số từ AH1 đến AH 82, trực thuộc 6 Liên Trại rải rác trong vùng rừng núi Tây Bắc Hà Nội
Chỉ biết là vào cuối tháng 6 năm 1976, ông Phạm Hùng, Phó Thủ Tướng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lúc ấy, trả lời phóng viên hãng thông tấn AFP rằng: “Có 200 ngàn tù nhân đang lao động ở các trại tập trung cải tạo”.
Bốn tháng sau đó, tức ngày 16 tháng 9 năm 1976, người phát ngôn của chánh phủ CSVN tuyên bố với báo chí trong nước và ngoài nước tại Hà Nội rằng:
“95% người của chế độ Mỹ Ngụy bị bắt sau ngày 30/4/1975, đã được cho về đoàn tụ gia đình. Hiện chỉ còn 40 ngàn sĩ quan công chức có nhiều nợ máu với nhân dân, phải bị cải tạo trong thời hạn 3 năm. Sau đó, một số người sẽ bị đem ra xử án”.
Nếu theo câu trả lời trên đây thì số người bị bắt lên đến 800 ngàn, vì 40 ngàn người đang bị cải tạo chỉ là 5% trong tổng số bị bắt. Nhưng theo báo cáo của phòng lưu trữ hồ sơ thuộc Ban An Ninh/Sở Công An thành phố họ Hồ, đến ngày 30/7/1975, đã có 154.772 sĩ quan công chức của Việt Nam Cộng Hòa cũ chịu ra trình diện và bị bắt tập trung cải tạo. Cũng theo bản báo cáo này, tính đến ngày 30/10/1975, đã bắt thêm được 68.037 người trốn trình diện và đưa vào trại cải tạo. Như vậy, tính từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 10 năm 1975, số quân nhân cán bộ và viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ bị họ giam giữ tập trung cải tạo là 222.809 người.
Thưa quí vị, với những con số trên đây, con số nào đáng cho chúng ta tin cậy? Nếu chấp nhận con số do Ban An Ninh thuộc Sở Công An thì tổng số quân nhân cán bộ và viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ bị bắt tập trung cải tạo, tính đến tháng 10 năm 1975 là 222.809 người.
Nhưng có đúng là lãnh đạo CSVN lừa và bắt quân nhân cán bộ viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ học tập chỉ để cải tạo, hay đó là cách thực hiện từng bước trong chính sách tiêu diệt hơn 200 ngàn người mà họ gọi là ngụy quân ngụy quyền? Vì những nơi mà họ gọi là những khu kinh tế mới từ năm 1975, cộng với những khu cư trú trong vùng biên giới Việt-Lào thuộc tỉnh Thanh Hóa, mà đầu những năm 80 lãnh đạo CSVN có kế hoạch thành lập nhiều khu chỉ định cư trú để đưa các tù chính trị Việt Nam Cộng Hòa cũ và gia đình đến đó cư trú trong vòng tay kiểm soát của họ. Nhưng kế hoạch chỉ định cư trú này không thực hiện được sau khi đã đưa những toán nghiên cứu tại chỗ, nghe đâu bị áp lực từ phía Liên Xô mà Liên Xô bị áp lực từ phía Hoa Kỳ, vì thuở ấy Liên Xô cần Hoa Kỳ trợ giúp thực phẩm. Trong toán nghiên cứu chỉ định cư trú, có ba tù chính trị mà cựu Trung Tướng Nguyễn Hữu Có là một trong số đó.
Chỉ nhắc lại vài tội ác của lãnh đạo cộng sản Việt Nam từ ngày 30/4/1975, để xin quí vị đừng bao giờ quên tư cách tị nạn cộng sản của chúng ta, và cũng đừng quên là họ luôn đồng hóa đảng cộng sản của họ với đất nước nhé, vì họ nói yêu tổ quốc là yêu xã hội chủ nghĩa mà. Và họ cũng đồng hoá bản thân hàng lãnh đạo với đồng bào, vì bất cứ cá nhân hay tổ chức nào chống họ thì họ kết tội là chống đồng bào đó.
Mục tiêu thứ 3. Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài hoạt động đầu tư về kinh doanh trong nước, coi trọng các hình thức đâu tư kinh doanh qui mô vừa, và nhỏ, do người Việt Nam ở nước ngoài trực tiếp thực hiện, hoặc thông qua người thân trong nước thực hiện. Mờ rộng và tạo thuận lợi hơn nữa về chính sách kiều hối. Phát huy khả năng của người Việt Nam ở nước ngoài làm dịch vụ, thiết lập và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa Việt Nam. Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào trong nước, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng. Đồng thời xử lý các vi phạm đúng theo pháp luật, góp phần tạo môi trường pháp lý ổn định, làm cho người Việt Nam ở nước ngoài về đầu tư làm ăn được yên tâm tin tưởng.
Tôi vẫn xé ra từng mục tiêu nhỏ của họ để phản công trực diện. Đầu tiên, họ nói là họ sẽ có một số chính sách nhằm thu hút những người trong Cộng Đồng tị nạn hải ngoại về Việt Nam bỏ tiền ra kinh doanh.
Hẳn quí vị còn nhớ từ khi lãnh đạo cộng sản Việt Nam “mở cửa và đổi mới” vào cuối năm 1986, họ đã ban hành những chính sách tương tự như vậy nhưng họ chỉ nhắm vào những doanh gia ngoại quốc, nhất là những doanh gia Châu Á. Giờ đây, qua nghị quyết 36, cuộc tổng tấn công của họ nhắm vào đánh phá Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại, vừa dụ dỗ lôi cuốn Cộng Đồng tị nạn hải ngoại về Việt Nam. Nói theo ngôn ngữ chính trị thế giới, thì lãnh đạo CSVN “tay phải cầm cây gậy sắt, tay trái cầm củ cà rốt ni lông”. Và củ cà rốt ni lông này là hậu thân của cái bánh vẽ mà ông Hồ thuở sanh tiền luôn sử dụng. Thông thường, sử dụng tay phải mạnh hơn tay trái, cho nên cây gậy và là cây gậy sắt trong tay phải, còn củ cà rốt bằng nhựa trong tay trái. Tôi muốn mô tả cái bản chất bạo lực sắt máu là tay phải, kèm theo chính sách tuyên truyền nhồi nhét là tay trái của lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Đây là sự kiện khách quan không ai phủ nhận được.
Nhưng tại sao đến bây giờ lãnh đạo CSVN kêu gọi Cộng Đồng tị nạn hải ngoại về Việt Nam làm ăn với họ? Phải chăng vì tình hình đầu tư ngoại quốc đang sút giảm trầm trọng mà họ quay sang tập trung toàn lực tổng tấn công Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại để mong sử dụng khối tài chánh trong Cộng Đồng tị nạn chúng ta? Họ xua quân vượt biên giới mà tổng tấn công chúng ta, mà họ sử dụng lời lẽ cứ như thành tâm lo cho Cộng Đồng tị nạn chúng ta, cái Cộng Đồng mà tất cả miệng lưỡi của lãnh đạo cộng sản Việt Nam và toàn bộ phương tiện tuyên truyền của họ chụm vào nhau miệt thị chúng ta là bọn này bọn kia để chửi rủa với tất cả lời lẽ xấu xa nhất. Cái chính sách chửi bới đó cũng hành hạ khủng bố thân nhân chúng ta trên quê hương Việt Nam, nay họ lại làm cái công việc mà họ gọi là vận động thành lập cái Hội buộc thân nhân chúng ta phải vào cái Hội đó, để rồi theo lệnh họ mà khuyên chúng ta điều này điều khác theo ý họ. Vì vậy, xin quí vị đừng bao giờ quên điều đó, vì điều đó cũng là sự thật khách quan không ai phủ nhận được nghe quí vị.
Bởi vì họ tổng tấn công vào Cộng Đồng chúng ta để dụ dỗ lôi cuốn những vị nào vô tình hay cố ý quên đi cái chính sách của họ đã từng nhục mạ mình, quên đi cái chế độ đã từng rình rập bắn giết mình trên sông trên biển, hay chận bắt bỏ tù khi mình tìm đường vượt thoát chế độ độc tài của họ. Khi dụ dỗ được, lôi cuốn được, từng bước họ sẽ khống chế chúng ta, rồi nắm quyền cai trị Cộng Đồng chúng ta ngay trên những quê hương thứ hai từng bảo bọc giúp đỡ chúng ta. Xin quí vị cần nhớ đến bộ máy nhà nước của họ không có thông tin mà chỉ có tuyên truyền, mà đã là tuyên truyền thì không có gì là thật hết. Ngay cả Hiến Pháp mà trên nguyên tắc, và cũng chính họ nói, đó là bộ luật cao nhất của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhưng trong thực tế họ chỉ áp dụng những gì bảo vệ cho chế độ độc tài của họ, còn những gì bảo vệ dân chủ tự do cho người dân thì họ chỉ để lòe đồng bào với thế giới thôi. Cũng vì thế mà luật gia trẻ của Hà Nội, anh Lê Chí Quang nói rằng: “Việt Nam có hai Hiến Pháp, một để cai trị và một kia để thế giới xem”. Anh bạn trẻ Lê Chí Quang nói hai Hiến Pháp, đó chỉ là cách diễn đạt cho dễ nhận chớ thật ra lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ có một Hiến Pháp nhưng áp dụng theo hai cách như vừa nói trên.
Mục tiêu nhỏ thứ hai là mở rộng kiều hối, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng trong nước, và phát huy khả năng người Việt hải ngoại làm dịch vụ.
Mở rộng kiều hối, là mở thêm nhiều cơ sở chuyển tiền, hay chuyển tiền với lệ phí nhẹ, hay hình thức nào khác nữa? Chưa biết sự mở rộng của họ như thế nào, nhưng có điều suy đoán gần như cầm chắc là họ sẽ mở thêm nhiều dịch vụ chuyển tiền nữa, chớ lệ phí quá nhẹ như 1 mỹ kim cho mỗi trăm mỹ kim gởi về Việt Nam chẳng hạn, thì Cộng Đồng chúng ta biết ngay là cơ sở của lãnh đạo CSVN và rất có thể họ sẽ bị tẩy chay. Vì những dịch vụ thông thường của tư nhân mà nhận lệ phí như vậy thì làm sao trang trải nỗi những chi phí thường ngày, kể cả tiền lương dù chỉ một nhân viên.
Và quí vị cũng thừa biết là càng nhiều cơ sở chuyển tiền thì họ càng nhiều cơ hội rửa những triệu mỹ kim của họ trước khi bỏ vào các ngân hàng ngoại quốc. Mà không chừng họ mở dịch vụ vừa chuyển tiền, vừa làm cơ sở phân phối sản phẩm xuất cảng từ Việt Nam dưới dạng nào đó, đồng thời với việc mà họ nói là phát huy khả năng người Việt hải ngoại làm dịch vụ, có phải là họ sẽ sử dụng thân quyến xa gần hoặc những tay sai của họ, đứng ra mở những dịch vụ kiều hối chăng?
Và vế cuối cùng trong mục tiêu thứ ba là sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc giải quyết những việc liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào trong nước nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng, đồng thời xử lý các vi phạm đúng theo pháp luật, góp phần tạo môi trường pháp lý ổn định làm cho người Việt Nam ở nước ngoài về làm ăn yên tâm tin tưởng.
Quí vị có nghĩ là dường như lãnh đạo cộng sản Việt Nam tưởng Cộng Đồng tị nạn chính trị tại hải ngoại, đều mắc bệnh mất trí nhớ hay sao ấy? Vì chỉ có mắc bệnh mất trí nhớ mới làm cho chúng ta quên cái cốt lõi của nguyên nhân trốn chạy hay rời khỏi quê hương đất nước của mình, để hình thành một Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại 89 quốc gia trên thế giới! Và chỉ khi nào quên cái nguyên nhân đó, người mất trí nhớ mới nghe theo cái ngôn ngữ tuyên truyền dối trá từ trong mọi thứ văn bản, chớ không riêng gì cái nghị quyết 36 của con người mới văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, kể cả cái Hiến Pháp của họ.
Họ nói đến bảo vệ người Việt Nam ở nước ngoài về đầu tư kinh doanh, như là xử lý đúng theo pháp luật tạo môi trường ổn định pháp lý để làm cho người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm tin tưởng mà trở về.
Quí vị có thấy là riêng nhóm chữ xử lý đúng theo pháp luật, tự nó cho thấy là từ trước đến giờ họ không thực hiện đúng theo pháp luật, cho dù pháp luật của họ. Nếu nói rằng pháp chế xã hội chủ nghĩa của họ không giống ai, e có phần quá đáng, nhưng rõ ràng là ngữ nghĩa trong pháp chế xã hội chủ nghĩa của họ rất không rõ nghĩa, cho nên đảng với nhà nước Việt Nam giải thích thế nào tùy theo quyền lợi tùy theo mục đích chính trị của họ. Như vậy, khi họ nói tạo môi trường ổn định pháp lý, quí vị có tin nỗi không? Vì nếu lãnh đạo CSVN làm đúng như họ hứa hẹn trong nghị quyết 36, thì họ hãy hành động như một bằng chứng cụ thể là ngay tức khắc, họ trả tự do cho tất cả những ai đang bị họ giam giữ, bị họ bỏ tù, và những ai đang bị họ quản chế đi. Vì nếu căn cứ vào luật pháp và hiến pháp của họ thì những vị đó không ai có tội gì để phải bị quản chế hay bị bỏ tù cả. Trước mắt, nếu làm được như vậy, lãnh đạo cộng sản mới nói đến môi trường pháp lý ổn định để làm yên lòng Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, từ đó lời dụ dỗ của họ may ra có tác dụng phần nào trong Cộng Đồng tị nạn chúng ta.
Mục tiêu thứ 4. Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các hình thức tập hợp với mục đích đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, khuyến khích những hoạt động hướng về tổ quốc của bà con, nhất là của các thế hệ trẻ trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với pháp uật và phong tục tập quán quốc gia sở tại. Hỗ trợ các dự án của người Việt Nam ở nước ngoài nhằm mục tiêu trên. Chủ động mở rộng tiếp xúc với người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả với những người còn định kiến mặc cảm với nhà nước và chế độ ta, tức chế độ độc tài.
Trong mục tiêu này có 3 vế. Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các hình thức tập hợp với mục đích đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài quan tâm giúp đỡ lẫn nhau.
Thưa quí vị, ngay trong vế đầu này được hiểu là những phương cách trước đây mà tay chân của lãnh đạo cộng sản Việt Nam áp dụng để xâm nhập Cộng Đồng tị nạn chúng ta đã không thành công, nên trong cuộc tổng tấn công này họ phải thay đổi phương cách khác, và không phải một mà là nhiều phương cách khác nhau để xâm nhập mà họ gọi là vận động.
Tôi suy đoán rằng, bước đầu xâm nhập được vào cộng Đồng chúng ta, mà cũng có thể là ngay chính họ chưa xâm nhập nhưng họ sử dụng những tên tay sai do mua chuộc bằng vật chất hay trúng kế mỹ nhân của họ, sẽ đưa ra phương thức nào đó để hình thành một hay nhiều tổ chức mà bước đầu mang tính cách nhân đạo để trợ giúp những thành phần trong nước nhờ có chế độ độc tài của họ mà trở nên nghèo khổ, bệnh tật, nghiện ngập, trộm cướp, mà họ thực hiện đúng theo phương châm của chế độ cộng sản độc tài là vô sản toàn thế giới nói chung, và vô sản mọi người dân Việt nói riêng, ngoại trừ những đỉnh cao trí tuệ lãnh đạo ở các cấp là hữu hữu sản. Thưa quí vị, tôi sử dụng hai chữ hữu để nói lên rằng, chẳng những họ có tài sản mà còn có nhiều thiệt nhiều nữa quí vị ạ!
Bước kế tiếp, một mặt có thể họ sẽ luồng vào các tổ chức trong Cộng Đồng tị nạn chúng ta để dùng tiền lèo lái các sinh hoạt. Mặt khác, họ thành lập những cơ quan hay tổ chức gì đó dưới sự bảo trợ của ông này bà kia, mà thật sự là thuộc cơ quan ngoại giao của họ. Và mục đích của họ là qui tụ các tổ chức của họ được ngụy trang, hoặc những tổ chức mà những vị đứng đầu có bệnh mất trí nhớ vào đó, để được sự trợ giúp phương tiện trong những sinh hoạt lễ hội như: Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ, xá tội vong nhân Rằm Tháng Bảy, lễ hội Tết Trung Thu, nói chung là những lễ hội nhìn từ bên ngoài xem như vô thưởng vô phạt về mặt tuyên truyền của họ. Cũng có thể, bỗng dưng từ cá nhân hay tổ chức nào đó tỏ ra rộng lượng, trợ giúp tài chánh một cách hào phóng cho tổ chức khác nhân lễ hội gì đó, mang ý nghĩa nhân đạo kèm theo một vài điều kiện nhỏ như: gợi ý cho người tham dự nên quên quá khứ, như quảng bá khéo cho cái nhản hiệu hòa giải hòa hợp, hoặc kêu gọi mời mọc nên tham gia vào những tổ chức nhân đạo để cứu giúp đồng bào nghèo khổ trong nước, thậm chí khi bị ngấm vào đồng tiền trợ giúp của họ có thể họ đưa ra điều kiện không nên chào quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ nữa đó, dĩ nhiên họ phải tạo dựng những lý lẽ theo cách của họ để ban tổ chức bị bệnh mất trí nhớ, hoặc bị trúng kế mỹ nhân, hay trúng đồng mỹ kim kế, dễ chấp nhận điều kiện mà họ gọi là nhỏ nhoi.
Vế thứ hai là khuyến khích những hoạt động hướng về tổ quốc của bà con, nhất là của các thế hệ trẻ trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với pháp luật và phong tục tập quán quốc gia sở tại, đồng thời hỗ trợ các dự án của người Việt Nam ở nước ngoài cũng nhằm mục tiêu trên.
Quí vị có thấy là lãnh đạo cộng sản Việt Nam chơi chữ chưa? Họ khuyến khích những hoạt động của Cộng Đồng tị nạn cộng sản chúng ta hướng về tổ quốc, tức là hướng về đảng cộng sản độc tài của họ đó, vì họ đồng hóa đảng của họ vào tổ quốc mà. Quí vị có nhớ là từ giữa năm 2001, hằng loạt những đảng viên cộng sản trẻ lẫn đảng viên cộng sản lão thành, lần lượt lên án lãnh đạo đảng cộng sản đã đem đất đem biển dâng cho cộng sản Trung Hoa, thế là những người đó đều bị lãnh đạo đảng và lãnh đạo nhà nước cộng sản Việt Nam, thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đã cực lực lên án là nói xấu đảng, làm mất đoàn kết với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa láng giềng, gây tổn thương đến lợi ích đất nước. Và rồi, những người dám nói sự thật đó không lãnh án tù ngồi cũng bị tù cải tạo, hay ít nhất cũng bị quản chế tại nhà hay tại nơi nào đó.
Họ nhắm vào thành phần trẻ là ưu tiên trong cuộc tổng tấn công này đó quí vị, có vẻ như lãnh đạo cộng sản Việt Nam cho rằng, tuổi trẻ hải ngoại chẳng biết gì về tội ác của họ từ năm 1945 đến nay, cho nên họ nghĩ là họ sẽ xâm nhập vào thành phần này dễ dàng hơn thành phần trung niên trở lên. Phải chăng họ chưa tin là những tổ chức của tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại, đã và đang hoạt động không phải do chính tuổi trẻ tổ chức và điều hành, nên họ nhắm thẳng vào tuổi trẻ. Dĩ nhiên là cũng có thể có một số nào đó, chỉ quan tâm đến học hành rồi làm việc kiếm nhiều tiền và thụ hưởng, nhưng chưa chắc là thành phần này dễ dàng bị họ xâm nhập đâu. Dẫu sao thì tuổi trẻ cũng biết rằng, sự có mặt tại hải ngoại là do nguyên nhân cha mẹ chạy trốn chế độ cộng sản độc tài, chớ không phải tự nhiên mà trở thành công dân các quốc gia sở tại.
Vế thứ ba là chủ động mở rộng tiếp xúc với người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả với những người còn định kiến mặc cảm với nhà nước và chế độ ta, tức chế độ độc tài đó quí vị.
Có thiệt không đây? Vì ngay cả tòa đại sứ tại Washington DC là cơ quan cao nhất của lãnh đạo cộng sản Việt Nam, trong những tháng cuối năm 2002 và đầu năm 2003, đã luân phiên nhau chạy vào chạy ra Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ như con thoi để vận động van xin can thiệp cho thành phố Westminster và Cộng Đồng Việt nam tị nạn cộng sản đừng xây dựng tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ tại đó, còn chẳng có kết quả gì. Thế rồi vào hạ tuần tháng 4 năm 2003, tượng đài uy nghi đã được khánh thành rất trọng thể, trang nghiêm, với sự tham dự của nhiều nhân vật trong cơ quan lập pháp lẫn hành pháp Hoa Kỳ tham dự, cùng với hằng chục ngàn bà con trong Cộng Đồng tị nạn từ nhiều nơi đổ về tham dự, đã không thể nén được nỗi xúc động khi quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ từ từ kéo lên song hàng với quốc kỳ Hoa Kỳ và cờ tiểu bang California.
Tháng 8 năm 2003, một phái đoàn tòa đại sứ cộng sản Việt Nam từ Washington DC. đến Boston gặp Hội Đồng thành phố. Lúc đầu ra cái điều dạy dỗ nếu treo cờ Việt Nam trên nóc toà thị sảnh thì nên treo lá cờ máu của họ và họ sẳn sàng cung cấp lá cờ đó, khi thấy không xong họ bèn hạ giọng để yêu cầu gở lá cờ Việt Nam trên nóc tòa thị sảnh xuống, đồng thời hủy bỏ nghị quyết công nhận quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ. Kết quả là bà nghị viên Henigan, thay mặt Hội Đồng thành phố trả lời rất ngoại giao, là phái đoàn tòa đại sứ hãy mang những vấn đề chính trị về Washington DC nói chuyện với Bộ Ngoại Giao, vì thành phố có luật của thành phố.
Nhân đây cũng xin nêu con số các địa phương tại Hoa Kỳ đã công nhận quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ chúng ta, tinh đến ngày 6 tháng 1 năm 2008, gồm: trọn 15 tiểu bang, 7 quận hạt, 88 thành phố. Và 110 địa phương này thuộc 29 tiểu bang. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam thảm bại hoàn toàn trong trận chiến này mà tôi gọi là Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ quí vị à!
Đến cái thảm bại tệ hơn nữa là một phái đoàn 6 nhân vật thuộc hàng lãnh đạo do ông Nguyễn Phúc Thanh, Phó Chủ Tịch Quốc Hội dẫn đầu, xin thăm chánh thức khu Little Saigon và tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ nơi đây trong ngày 29 và 30 tháng 4 năm 2004, gọi là bày tỏ thiện chí với ngưởi Việt Nam ở nước ngoài, nhưng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ bác bỏ, vì Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại thành phố Westminster và những thành phố lân cận, sẳn sàng dàn chào bằng cuộc mít tinh biểu tình vĩ đại với một rừng cờ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, và rất nhiều thùng cà chua trứng thúi. Cũng trong thời gian này, Hội Đồng thành phố Westminster và thành phố Garden Grove kế cận, đệ nạp 2 dự thảo nghị quyết thành phố không chấp nhận đón tiếp những phái đoàn cộng sản Việt Nam. Và hai Hội Đồng thành phố đã thông qua hai dự thảo nghị quyết “no VC zone” hay là “vùng không Việt cộng” với số phiếu 100% vào ngày 19/5/2004. Đây là hai văn bản lập pháp cấp thành phố, nhưng là thành phố cấp bậc thủ đô của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại, đã như hai nhát kiếm thống nhất, cùng một lúc, xé toạt nghị quyết 36 của lãnh đạo cộng sản Việt Nam vậy. Ít nhất cũng là đối với Cộng Đồng tị nạn tại vùng Nam California.
Với lại quí vị cũng không thể nào quên vụ Trần Trường trương cờ cộng sản với hình họ Hồ, dẫn đến sự phẫn nộ trong Cộng Đồng tị nạn chúng ta và liên tục mít tinh biểu tình, cuối cùng chúng ta đã thành công. Trong vụ này, thành phố Westminster đã chi ra 348 ngàn mỹ kim để trả lương phụ trội cho Cảnh Sát và Cứu Hỏa giữ trật tự trong suốt thời gian biểu tình phản đối Trần Trường, mà có thể là hắn đã theo lệnh lãnh đạo CSVN thực hiện hành động thăm dò phản ứng Cộng Đồng tị nạn chúng ta đấy. Mà cho dù có phải hay không phải, thì Trần Trường rõ ràng là tay sai của họ. Vì vậy mà thành phố Westminster và thành phố Garden Grove, nhanh chóng thông qua hai dự thảo nghị quyết đại loại là 'vùng không có Việt cộng', trước là theo đòi hỏi chính đáng của khối cử tri người Mỹ gốc Việt, và hai là tránh cho ngân sách thành phố thiếu hụt vì cái chuyện hoàn toàn không mang lại lợi ích cho cư dân thành phố.
Họ còn nói đến những người còn định kiến hay mặc cảm với cái chế độ độc tài sắt máu của họ mà họ sẽ tiếp xúc vận động. Nhân danh là một người trong những người mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam gọi là còn định kiến và mặc cảm, tôi mạnh mẽ xác nhận rằng, không có vấn đề còn hay không còn định kiến gì đó, mà chỉ có vấn đề bổn phận công dân đối với tổ quốc Việt Nam dân chủ tự do. Với bổn phận đó, chúng tôi tự thấy phải thực hiện bổn phận của mình trong mọi hoàn cảnh, cho dù tuổi trẻ hay tuổi già cũng đều tha thiết với bổn phận đó mà thôi.
Còn mặc cảm, xin hỏi mặc cảm gì? Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại, từ những bàn tay trắng gần 30 năm trước, mà nay đã có một Cộng Đồng gần 3 triệu người, lớn mạnh về nhiều mặt, như: khối tài nguyên nhân lực có trình độ khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, nhiều hơn trong nước với 83 triệu dân (tính đến 1/7/2007), khối tài chánh mà chỉ riêng số tiền gởi về giúp thân nhân thân quyến ngang bằng hoặc nhiều hơn phân nửa ngân sách nhà nước hằng năm, với khối vật lực toàn máy móc kỹ thuật mới nhất, với hơn phân nửa trong Cộng Đồng đã trở thành công dân các quốc gia sở tại, có gì mà mặc cảm với cái chế độ độc tài khắc nghiệt đến mức không chịu nỗi, đành phải rời quê hương mà tìm cuộc sống chính trị tự do nơi xứ người. Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, rất tự hào về những thành tích đạt được vượt quá dự tưởng khi tìm thấy đời sống tự do nơi các quốc gia dân chủ văn minh trên thế giới.
Chính họ, nhóm lãnh đạo CSVN mới là những người mang nặng mặc cảm với Cộng Đồng tị nạn chính trị tại hải ngoại, bằng chứng là từ giữa thập niên 70 cứ rình rập bắn giết hay bắt bỏ tù những người vượt biên vượt biển trong khi luôn miệng chửi rủa miệt thị bọn này bọn kia, rồi từ giữa thập niên 80 khi thấy những người mà họ đã không bắn được, cũng không bắt được, và đã định cư tại ngoại quốc có cơ ngơi với mọi thứ tiện nghi trong cuộc sống, rồi gầy dựng được cơ sở kinh doanh dịch vụ, nói chung là phát đạt và gởi tiền về giúp thân nhân. Từ đó, cái mặc cảm sai lầm, cái mặc cảm tội lỗi, buộc họ hạ giọng gọi chúng ta là Việt kiều yêu nước.
Chúng ta, một Cộng Đồng tị nạn hải ngoại gần 3 triệu người, không hề bỏ quê hương như lãnh đạo cộng sản Việt Nam luôn gán ghép chúng ta như vậy. Một Cộng Đồng rất yêu quê hương của mình, rất trân trọng đất nước của mình, một đất nước có chiều dài lịch sử gần 5000 năm với biết bao anh hùng liệt nữ. Yêu quê huơng đất nước, nhưng không bao giờ yêu cái chế độ xã hội chủ nghĩa mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam luôn gán ghép cho đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta. Chính vì Cộng Đồng tị nạn chúng ta yêu quê hương đất nước, mà từ đó phát sinh tinh thần trách nhiệm, và tự phát hình thành những tổ chức dẫn đến hình thành Cộng Đồng, với những hình thức sinh hoạt khác nhau nhưng trong cùng mục tiêu bảo tồn văn hoá dân tộc, đồng thời hỗ trợ công cuộc dân chủ hóa chế độ chính trị trên quê hương Việt Nam.
Rồi quí vị có thấy là từ giữa thập niên 90, khi lãnh đạo cộng sản Việt Nam nhận thấy Cộng Đồng mà họ từng bắn giết bỏ tù và chửi rủa, nay lớn mạnh về tất cả các lãnh vực sinh hoạt trong các xã hội dân chủ văn minh trên thế giới, làm cho mặc cảm của họ nặng thêm khi họ hạ giọng thêm nữa để gọi chúng ta là khúc ruột ly hương ngàn dặm, và họ luôn tìm mọi cách để moi tất cả những gì bên trong những khúc ruột ly hương này đấy quí vị à!
Xin hỏi: Nhóm đỉnh cao trí tuệ có gì hơn Cộng Đồng tị nạn hải ngoại mà tiếp xúc vận động? Và vận động cái gì? Họ chỉ có cái bài bản là hãy quên quá khứ mà lo xây dựng tương lai chăng? Nhưng tương lai như thế nào? Có phải nó là cái tương lai mờ mịt mà tuổi trẻ Việt Nam trong nước đã và đang trông thấy chăng?
Vậy thì lãnh đạo cộng sản Việt Nam và những tay sai chủ động cách nào đây? Cho những tên tay sai quen biết với những cá nhân năng nổ trong hoạt động hỗ trợ công cuộc dân chủ hoá chế độ chính trị trên quê hương Việt Nam, tiếp xúc dọa dẫm mua chuộc bằng tiền chăng? Hay mua chuộc bằng tình như một tổ chức xuất hiện tại hải ngoại mấy năm nay, chuyên lừa những vị có dòng máu yêu nước nhưng cũng nhiều giọt máu tình, đã từng thực hiện thành công? Vì vậy mà nhiều vị vào dễ nhưng khó ra vì hình ảnh trần trụi đầy dẫy trong băng nhựa và phim ảnh rồi. Đó là bài bản sở trường của lãnh đạo CSVN nhưng không hiểu vì sao mà tổ chức đó áp dụng y chang như vậy nữa. Chẳng lẽ lại trùng hợp ngẫu nhiên?
Mục tiêu thứ 5. Tích cực đầu tư cho chương trình dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho kiều bào, cải tiến các chương trình dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền hình, truyền thanh, và trên mạng internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Việt. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh thiếu niên ngưởi Việt Nam ở nước ngoài. Tổ chức các đoàn nghệ thuật, nhất là các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn phục vụ. Tạo điều kiện cho các nghệ sĩ, vận động viên là người Việt Nam ở nước ngoài về biểu diễn, thi đấu, tham gia các đoàn Việt Nam đi biểu diễn và thi dấu quốc tế. Thường xuyên tổ chức các chương trình giao lưu văn hoá, văn học, nghệ thuật, triển lãm hội thảo, và du lịch về nguồn.
Trong mục tiêu thứ năm có 3 mục tiêu nhỏ. Đầu tiên họ nói sẽ gia tăng đầu tư cho chương trình dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho kiều bào, cải tiến các chương trình dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền hình, truyền thanh, và trên mạng internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Việt.
Thật ra thì ai cần học tiếng Việt đây? Lãnh đạo cộng sản Việt Nam hay Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại? Bởi vì tiếng Việt mà lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước Việt Nam sử dụng, đã lai một thứ ngôn ngữ nào không ai biết. So với ngữ nghĩa thông thường từ trong lịch sử dân tộc mà bao thế hệ ông cha đã sử dụng, hơn 50 năm cai trị đất nước, họ đã tráo nghĩa để thành một nghĩa khác, họ bẻ cong ngữ nghĩa theo điều mà họ gọi là văn hoá mới xã hội chủ nghĩa do họ sáng chế, và họ dám khoe là chính họ dựng nên nền văn hoá mới cho lịch sử nữa chớ!
Đến sách giáo khoa mà họ nói là họ sẽ hoàn chỉnh. Chữ hoàn chỉnh mà lãnh đạo CSVN dùng ở đây, chắc không có cách nào hiểu khác hơn là họ sẽ đưa sách giáo khoa xã hội chủ nghĩa của họ in lại bìa cho sáng sáng một chút để đưa ra ngoại quốc xâm nhập vào Cộng Đồng tị nạn chúng ta đó quí vị à! Cái thứ sách giáo khoa mà lúc còn trong tù trên đất Bắc, tôi có đọc tập sách dạy lớp mẫu giáo. Họ dạy rằng: 3 tên Ngụy chết cộng với 2 tên Mỹ chết, là 5. Quí vị có thấy là họ đầu độc tuổi thơ về chế độ chính trị, về hận thù, về bắn giết, một cách khủng khiếp không? Ngay từ tuổi lên bốn lên năm đã bị đầu độc như vậy cho đến tuổi thành niên, thử hỏi những thế hệ đó nhìn mọi người không cộng sản như thế nào, nếu Cộng Đồng tị nạn chúng ta tại hải ngoại cũng như thế giới văn minh không kịp giúp phần nào trong những thế hệ đó nhìn thấy mặt bên kia của cuộc sống, thì toàn bộ xã hội Việt Nam ngày nay ra sao! Mặt bên kia tức đối nghịch với xã hội xã hội chủ nghĩa mà trong đó tuổi trẻ trên quê hương Việt Nam luôn bị bịt mắt bịt tai bịt miệng.
Cũng là sách giáo khoa. Vào cuối năm 1991 khi tôi làm việc ở quận Cam, Nam California, cùng với cựu giáo sư Võ Hồng Lạc. Anh kể cho nghe câu chuyện về bản thân của Anh như thế này.
“Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, anh là Hiệu Trưởng trường trung học Mạc Đỉnh Chi, Phú Lâm, Sài Gòn. Ngay sau đó, Anh chỉ là giáo sư sử địa vì chức Hiệu Trưởng có người từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa nhận rồi. Trước khi dạy, Anh cầm cuốn sử địa vào trình với Hiệu Trưởng bài giảng về sông Cửu Long. Theo sách giáo khoa xã hội chủ nghĩa thi sông Cửu Long chảy ngang Sài Gòn, Anh bảo điều này không đúng nên Anh không thể dạy học trò được. Thế là Hiệu Trưởng liền gọi người nào đó có vẻ là cơ sở đảng của nhà trường thì phải. Anh ta hỏi giáo sư Lạc: Anh nói gì? Sau khi anh ta nghe giáo sư Lạc trình bày, anh ta bảo: 3 giờ chiều gặp hắn. Đến giờ hẹn, giáo sư Võ Hồng Lạc nghe hắn phán một câu không thể nào tưởng tượng được cái mức độ đần độn của hắn. Câu mà hắn phán như thế này: Sách giáo khoa đã do trung ương đảng duyệt, mà khi trung ương đảng duyệt thì không có vấn đề sai sót gì hết. Nếu anh không dạy tức là anh chống đối đảng. Anh Lạc bèn làm đơn xin nghỉ việc. Lập tức Anh bị qui tội chống đảng vì đã không thi hành lệnh đảng. Thế là anh Lạc tối tăm mặt mũi vì tự nhiên bị gắn cho cái tội chống đảng tuy Anh chưa biết tội này sẽ bị trừng phạt ra sao. Thôi thì xuống nước năn nỉ để được thất nghiệp còn hơn là mang cái tội chưa từng nghe thấy bao giờ”.
Cái thứ sách giáo khoa xã hội chủ nghĩa mà lãnh đạo CSVN nói là sẽ mang ra dạy cho Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, trở thành con người mới văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, quí vị nghe có thông không?
Còn cử giáo viên ra hải ngoại để giúp bà con học tiếng Việt nữa chớ! Có thiệt không đây? Nếu lãnh đạo CSVN cần gởi giáo viên ra hải ngoại để nhờ Cộng Đồng tị nạn dạy những bài học thế nào là tiếng Việt chân chính thì rất nên, và trường hợp này Cộng Đồng tị nạn sẳn lòng dạy miễn phí. Vì chỉ riêng Cộng Đồng tị nạn tại Hoa Kỳ, đã có hằng trăm trung tâm dạy Việt ngữ, chẳng những dạy cho tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại mà con dạy cho tuổi trẻ ngoại quốc nữa, nhất là tuổi trẻ Hoa Kỳ. Với lại, môn học Việt ngữ cũng đã xâm nhập vào hệ thống giáo dục bậc trung học tại một số tiểu bang, và lác đác ở bậc đại học nữa. Đó là bằng chứng cho thấy Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại rất quan tâm đến vấn đề dạy Việt ngữ cho những thế hệ sinh ra và lớn lên trên quê hương thứ hai.
Vậy, lãnh đạo cộng sản Việt Nam nên gia tăng ngân sách giáo dục để xây dựng và hoàn chỉnh toàn bộ sách giáo khoa thích hợp với nền nếp dân tộc, thích hợp với hoàn cảnh đất nước, và thích hợp với trào lưu dân chủ trên toàn thế giới, để đưa vào hệ thống giáo dục trên quê hương Việt Nam là điều nên làm.
Trong vế thứ hai, họ nói sẽ tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh thiếu niên ngưởi Việt Nam ở nước ngoài. Tổ chức các đoàn nghệ thuật, nhất là các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn phục vụ. Tạo điều kiện cho các nghệ sĩ, vận động viên là người Việt Nam ở nước ngoài về biểu diễn, thi đấu, tham gia các đoàn Việt Nam đi biểu diễn và thi đấu quốc tế.
Thưa quí vị, quí vị có nghĩ là các cơ quan ngoại giao của lãnh đạo cộng sản có dám công khai tổ chức những trại hè mà họ nói trong nghị quyết 36 hay không? Tôi suy đoán là họ không dám hành động công khai như vậy đâu, mà những trại hè đó nếu có, sẽ do họ lòn tiền vào những tay sai ở tổ chức nào đó trong Cộng Đồng tị nạn chúng ta để tổ chức. Cũng có thể họ không có tay sai trong tổ chức mà họ muốn qua đó để họ đạt mục đích, họ sẽ làm như người tốt bụng nào đó bỗng dưng yểm trợ một khoản tiền đáng kể, rồi ra vẻ như vui miệng kèm theo một vài điều kiện mà ban tổ chức tưởng như chẳng có gì dính dáng đến chính trị chính em, thế là nhận tiền và nhận lời. Vậy là trúng kế của họ rồi, vì khi nhận tiền thì nay họ thêm một ý kiến mai thêm một ý kiến theo ý họ, thế là mình thực hiện nhưng mục đích thì họ đạt. Cái gì chớ mưu mô mánh khóe láu lỉnh thì lãnh đạo cộng sản Việt Nam là bậc thầy đó quí vị à!
Họ lại nói đến mục tiêu như là trao đổi giữa các lực sĩ cùng với những nghệ sĩ trong nước ra hải ngoại và hải ngoại về trong nước. Ở cái khoản này, quí vị cũng rõ là Cộng Đồng tị nạn hải ngoại chúng ta chưa có một vị hay một tổ chức, khả dĩ đủ tư cách để hoạch định chương trình chung cho bất cứ vấn đề gì, vì lẽ các tổ chức trong Cộng Đồng tị nạn chúng ta trên toàn thế giới đều do tinh thần trách nhiệm mà tự phát hình thành. Trong khi lãnh đạo cộng sản Việt Nam nắm quyền hoạch định thời biểu, chỉ định các lực sĩ cũng như văn nghệ sĩ của họ, và giao nhiệm vụ cho từng cá nhân hay từng nhóm, trước khi ra hải ngoại xâm nhập Cộng Đồng tị nạn chúng ta mà họ gọi là phục vụ chúng ta, thì những văn nghệ sĩ hay lực sĩ trong Cộng Đồng tị nạn chúng ta hoàn toàn hành động riêng rẽ. Điều này tự nó không có gì để phàn nàn, điều đáng phàn nàn là khi về nước thì những cá nhân đó không thể nào hành động hoàn toàn theo ý mình được. Chỉ mong là những vị nào nhân danh văn nghệ sĩ hay lực sĩ trong Cộng Đồng tị nạn, vui lòng đừng bao giờ quên cái bản chất lọc lừa dối trá của lãnh đạo CSVN, cũng đừng quên cái tư cách tị nạn chính trị của mình.
Còn những người do đảng với nhà nước cộng sản Việt Nam chỉ định ra hải ngoại xâm nhập Cộng Đồng tị nạn chúng ta để làm gì? Thuần túy trình diễn nghệ thuật, hay tạo tiền đề cho sự xâm nhập ở bước kế tiếp, chuẩn bị vai trò nội ứng cho cuộc tổng tấn công như Tết Mậu Thân đầu năm 1968, hay mùa hè năm 1975 đây?
Đến vế chót trong mục tiêu thứ 5 là thường xuyên tổ chức các chương trình giao lưu văn hoá, văn học, nghệ thuật, triển lãm hội thảo, và du lịch về nguồn.
Nhớ lại rằng, từ năm 1945 đến 1975 trên đắt Bắc, và từ 1976 đến nay trên toàn cõi Việt Nam, nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã phá tan cội rễ nền tảng xã hội nông thôn làng xóm, và đảo lộn luân thường đạo lý trong cấu trúc xã hội Việt Nam. Chúng ta hãy nghe bà Dương Thu Hương, nhà văn chuyên nghiệp của Việt Nam, đã chua chát pha lẫn đớn đau khi thốt lên rằng: 'trong lịch sử, không có chế độ nào man rợ bằng chế độ cộng sản, một chế độ bắt con gái con dâu tố cáo cha hiếp dâm mình, một chế độ bắt vợ chồng, cha mẹ, anh em, con cái, chủ tớ, láng giềng, đấu tố lẫn nhau, giết hại lẫn nhau'.
Vậy thì ai cần giao lưu văn hoá đây? Ai cần phục vụ văn hoá đây? Vì văn hoá mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam nói đến, là thứ văn hoá lộn đầu, văn hoá nói ngược, nói thế này phải hiểu thế khác. Chất thật thà trong sáng trong văn hóa truyền thống dân tộc từ ngàn xưa, đã bị nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam làm băng hoại tất cả, để du nhập từ cộng sản quốc tế cái gọi là 'văn hoá xã hội chủ nghĩa' vào xây dựng một xã hội sống với nhau bằng lọc lừa dối trá theo đúng bản chất của chế độ độc tài. Vì trong xã hội xã hội chủ nghĩa có cái gì tốt đẹp đâu, cho nên phải nói dối làm dối, báo cáo dối, chẳng những dối người khác mà dối cả chính bản thân của họ nữa. Cộng Đồng Tị Nạn Hải Ngoại đâu có cần thứ văn hoá đó mà đòi giao lưu. Trái lại, Cộng Đồng Tị Nạn Hải Ngoại sẳn sàng dạy cho họ những bài học vỡ lòng về văn hoá dân tộc, và tất cả đều miễn phí, không cần phải giao lưu gì cho tốn công và tốn cả tiền nữa.
Nếu bây giờ lãnh đạo CSVN trở nên hiền lành tốt bụng, biết lo cho dân cho nước thì chịu khó xem lại đống sách tịch thu của xã hội Việt Nam Cộng Hòa cũ, may ra còn sót lại cuốn nào sau khi thiêu hủy như hành động của vua Trung Hoa Tần Thỉ Hoàng, hãy đem ra ấn loát và đưa vào sử dụng trong hệ thống giáo dục, giúp xã hội Việt Nam khôi phục lại nền nếp văn hoá dân tộc ngày xưa đi. Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại đâu cần cái thứ văn hoá xã hội chủ nghĩa đó mà giao lưu.
Mục tiêu thứ 6. Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin tuyên truyền, giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng tình hình đất nước và chính sách của đảng với nhà nước. Đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài trên làn sóng phát thanh, phát hình, và internet. Chú trọng đổi mới nội dung, hình thức, và kỹ thuật. Hỗ trợ việc ra báo viết, và xây dựng thư viện trên mạng internet để phục vụ người Việt Nam sống xa tổ quốc. Hỗ trợ kinh phí vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hoá phẩm ra ngoài phục vụ người Việt Nam.
Theo vế một trong mục tiêu này cho thấy lãnh đạo CSVN sẽ nâng công tác tuyên truyền lên trọng tâm cao hơn, đồng thời mở các đài phát thanh phát hình tại hải ngoại, để tấn công Cộng Đồng tị nạn chúng ta ngay trên quê hương thứ hai của chúng ta, mà họ gọi là giúp người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng tình hình đất nước, cùng những chính sách của họ. Đầu tư cho các chương trình phát thanh phát hình và internet dành cho người Việt Nam ở nước ngoài. Chú trọng đổi mới nội dung, hình thức, và kỹ thuật của các chương trình.
Chắc quí vị hiểu ngay chính sách tuyên truyền của họ, sẽ gây rối loạn giữa thông tin với tuyên truyền, điều mà từ trước đến nay không xảy ra vì không có làn sóng phát thanh phát hình nào của họ ngay tại hải ngoại, làm cho những ai mắc bệnh mất trí nhớ trong Cộng Đồng tị nạn chúng ta sẽ hoang mang, vì lời lẽ mà họ nói sẽ đổi mới toàn diện. Theo cách nói đó, tôi suy đoán là họ sẽ không có thay đổi quan trọng nào trong nội dung tuyên truyền đâu, mà họ chỉ thay đổi về hình thức và kỹ thuật tuyên truyền thôi. Họ còn nói là giùp cho người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng tình hình đất nước nữa chớ! Chữ hiểu đúng mà họ dùng ở đây phải hiểu là họ dụ dỗ chúng ta hiểu theo cách hiểu của họ đó quí vị à! Chữ và nghĩa của họ ngược ngạo như vậy mà.
Về nội dung tuyên truyền, chẳng lẽ lãnh đạo cộng sản Việt Nam dám nhắc đến những khẩu hiệu như: tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, hay Liên Xô là thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội, hoặc ngọn cờ chủ nghĩa xã hội là bách chiến bách thắng chăng? Tôi tin là họ không dám đâu, mà họ sẽ sử dụng toàn ngôn ngữ vuốt ve Cộng Đồng tị nạn chúng ta, vì vuốt ve o bế trong ý nghĩa mánh mung tráo trở lật lọng là nghề của họ mà quí vị. Tôi nghĩ là họ sẽ không thể trực tiếp thực hiện, mà cầm chắc là sẽ thông qua những thân nhân xa gần hay những tay sai của họ thực hiện. Nghĩa là sẽ không bao giờ có cái đài nào có kèm theo cái tên Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được. Bằng chứng là cái đài phát thanh do tay sai trong hàng ngũ một tôn giáo thực hiện tại Nam California chỉ 3 tuần là im tiếng, vì sự chống đối liên tục của Cộng Đồng tị nạn nơi đây. Chương trình phát hình của họ thông qua một đài truyền hình tư nhân tại Australia cũng tắt lịm bởi sự chống đối liên tục và mạnh mẽ của Cộng Đồng tị nạn tại Úc Châu.
Vậy, những đài đó nếu có, thể nào cũng có hai chữ Việt Nam, cộng thêm nhóm chữ nào đó mà theo thói quen thì họ thường dùng những cái tên dài ngoằn. Còn cái nội dung chính trị, đại loại có thể là họ sẽ viện dẫn đất nước có độc lập có hòa bình rồi, hãy để quá khứ lại sau lưng, đừng nghe theo những người đi ngược lại lợi ích dân tộc, mà hãy tự hào mình là người Việt Nam mà về giúp Việt Nam, gời tiền về Việt Nam nhiều thêm, giúp cho đồng bào nghèo nhiều hơn nữa, giúp xây trường học, giúp nuôi dưỡng trẻ mồ côi, giúp người già bệnh tật,, v..v... Tự hào là sự kiện hiển nhiên rồi, nhưng giúp giữ vững ngôi vị của cái chế độ độc tài là không à nghe.
Cho dẫu họ dùng những cái tên gì đó cho những chương trình thoạt nghe rất ư là nhân đạo, rất ư là nên làm, nhưng chúng ta cũng dễ dàng nhận ra những lợi ích cho họ nếu như mục đích của họ thành công: Điều lợi thứ nhất là họ sẽ khoe với thế giới rằng, chế độ xã hội chủ nghĩa của họ là ưu việt, bằng chứng là những người Việt Nam ra nước ngoài bị họ chửi như tát nước, mà khi nghe họ nói sẽ có những chính sách trọng dụng nhân tài và đãi ngộ nhân tài là hưởng ứng ngay. Điều lợi thứ hai là họ chứng minh với thế giới, với đồng bào trong nước, là do chính sách khoan hồng nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa, tha tội chết cho cái bọn ngụy quân ngụy quyền, cái bọn phản quốc, cái bọn rác rưởi đĩ điếm, về sống và an tâm phục vụ quê hương đất nước. Nhưng lạ là những người mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã gọi là bọn này bọn kia để chửi rủa nhục mạ đủ điều, nay lại thành trí thức thành chuyên viên đến mức họ phải xuống nước dụ dỗ vậy kìa! Và điều lợi thứ ba của họ là họ sẽ xoa tay mà chạy tội với quốc gia dân tộc. Chạy tội vì họ cho rằng, chế độ xã hội chủ nghĩa của họ không ngược đãi người dân dưới quyền cai trị của họ, còn những người đang sống ở nước ngoài chẳng qua là những người không có lý tưởng chính trị gì cả nên không có vấn đề chính trị. Vậy, xin quí vị đừng bao giờ tin theo lời ngon tiếng ngọt của họ nghe quí vị. Họ tuyên truyền không hà, mà tuyên truyền thì toàn láo khoét cả.
Nếu thật sự lãnh đạo cộng sản Việt Nam chăm lo vấn đề thông tin cho Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, thì hãy dùng những phương tiện đó mà lo cho 80 triệu đồng bào trong nước đi. Vì đồng bào trên quê hương rất cần những thông tin nhanh chóng, trung thực, và đầy đủ cho mọi người biết để không còn ai lén lút nghe các đài phát thanh ngoại quốc qua chương trình tiếng Việt nữa. Vì Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại thừa thải thông tin rồi, đâu có cần cái thứ thông tin một chiều mà lại không trung thực nữa.
Đến mục tiêu nhỏ kế tiếp trong mục tiêu lớn thứ 6 là họ ra báo viết, và xây dựng thư viện trên mạng internet để phục vụ cho người Việt Nam sống xa tổ quốc.
Quí vị có thấy là mưu đồ của lãnh đạo cộng sản Việt Nam nhằm phủ trùm các phương tiện truyền thông quốc doanh lên Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại không? Vậy, từ nay nếu quí vị thấy có tờ báo mới nào xuất hiện tại các chợ cũng như các cơ sở kinh doanh thương mãi, xin quí vị lưu ý để tránh lẫn lộn giữa những tờ báo thật sự của bà con trong Cộng Đồng tị nạn với báo của lãnh đạo cộng sản Việt Nam nghe quí vị, dĩ nhiên là do những tay sai của họ đứng tên chớ không phải cộng sản chánh cống đâu. Tốt hơn hết là quí vị có cơ sở kinh doanh thương mại trong Cộng Đồng đừng đăng quảng cáo trên những tờ đó, nếu lỡ đăng đến khi nhận ra là tay sai của cộng sản thì xin quí vị chấm dứt liên hệ với họ giùm nghe. Cũng xin bà con trong Cộng Đồng tẩy chay những tờ báo cộng sản bằng cách đừng cầm lên vì chỉ làm bẩn tay quí vị thôi.
Đến cái thư viện trên NET. Nếu quí vị quí bạn có vào thư viện đó của họ, mong quí vị xem nó như nơi tham khảo, và điều quan trọng là tham khảo nhưng phải hiểu theo cách hiểu thông thường chớ đừng hiểu theo ngữ nghĩa của lãnh đạo cộng sản Việt Nam nghe quí vị. Chữ với nghĩa của họ sử dụng không bình thường như chúng ta sử dụng đâu, nghe theo họ là trúng kế của họ đó.
Mục tiêu cuối cùng trong nhiệm vụ thứ 6 của họ hỗ trợ kinh phí vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hoá phẩm ra ngoài phục vụ người Việt Nam.
Quí vị có thấy là lãnh đạo cộng sản nói giao lưu văn hoá trong mục tiêu thứ 5, nhưng trong mục tiêu thứ 6 này họ chỉ nói đến việc hỗ trợ kinh phí đưa sách báo và nói chung là văn hoá phẩm từ trong nước ra hải ngoại thôi. Cho nên họ nói giao lưu tức trao đổi hai chiều, nhưng thật sự chỉ có một chiều, giống như người dân trong nước chỉ được cho thấy một mặt của cuộc sống, còn mặt bên kia hoàn toàn bị họ che kín, vì nếu người dân biết rõ mặt bên kia, tức những xã hội dân chủ tự do và phát triển của thế giới không cộng sản, thì người dân đâu ngồi yên cho họ cai trị.
Mục tiêu thứ 7. Hoàn chỉnh chính sách khen thưởng đối với người Việt Nam ở nước ngoài, đưa vào nền nếp việc khen thưởng các tổ chức và cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài có thành tích trong vận động xậy dựng cộng đồng, đóng góp xây dựng đất nước, tổ chức và cá nhân người Việt Nam ở trong nước có thành tích trong công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Giải quyết có tình có lý và trên cơ sở đạo lý Việt Nam các vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại nhằm thực hiện chủ trương đại đoàn kết dân tộc, đồng thời có biện pháp phù hợp đấu tranh với những biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích dân tộc, phá hoại quan hệ giữa các nước có đông người Việt Nam sinh sống với Việt Nam, hoặc gây chia rẽ trong cộng đồng người Việt ở nước sở tại.
Một trong 3 mục tiêu nhỏ là lãnh đạo CSVN nói sẽ hoàn chỉnh chính sách khen thưởng đối với người Việt Nam ở nước ngoài, đưa vào nền nếp việc khen thưởng các tổ chức và cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài có thành tích trong vận động xây dựng cộng đồng, đóng góp xây dựng đất nước, tổ chức và cá nhân người Việt Nam ở trong nước có thành tích trong công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài.
Có thiệt không đây? Vì có ai trong Cộng Đồng tị nạn dám công khai tự nhận là có thành tích phá hoại Cộng Đồng mà họ gọi là vận động xây dựng Cộng Đồng không? Rồi liệu lãnh đạo cộng sản Việt Nam có dám công khai tổ chức khen thưởng tại các cơ quan ngoại giao ở hải ngoại không, hay len lén gọi về Việt Nam khen thưởng như đã làm hồi tháng 4 năm 2003? Lúc đó, trên giấy tờ nói là khen thưởng đến 60 người Việt Nam ở nước ngoài, nhưng chỉ có 6 người tham dự. Cũng không biết con số 60 là có thật hay không nữa, vì cái bản chất dối trá lừa gạt, cho nên làm dối báo cáo dối là ngón nghề của họ mà. Họ cần phô trương để người ham thứ 'danh hư danh ảo' nhận làm tay sai cho họ, và đó chính là mục đích của họ đấy quí vị à!
Còn những người ở trong nước có được khen thưởng về thành tích trong công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, cầm chắc là thân nhân bằng hữu của bà con trong Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại trong những cái Hội có tên là Hội Liên Lạc Với Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, tức là họ dùng thân nhân chúng ta như một loại phương tiện để họ buộc thân nhân chúng ta yêu sách chúng ta điều này điều khác. Tại thành phố Houston đã xảy ra trường hợp này rồi nghe quí vị. Họ nhân danh cái Hội đó tại Cần Thơ, gởi thư đến những người có thân nhân hay bạn bè cũ còn ở Cần Thơ, vận động góp tiền gởi về để họ xây dựng trường trung học Phan Thanh Giản thay cho trường cũ mà họ gọi là tàn tích thực dân, nhưng không một ai hưởng ứng cả. Theo mánh khóe của họ trong cai trị xã hội từ trước đến nay, những cái thư vận động kiểu đó cũng không chắc là do cái Hội đó viết đâu, mà rất có thể là do lãnh đạo địa phương viết sẳn chỉ đưa là ký thôi, không ký thì Công An gọi làm việc là cái chắc.
Đến trường hợp họ dự trù những biện pháp phù hợp đấu tranh với những biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích dân tộc, phá hoại quan hệ giữa các nước có đông người Việt Nam sinh sống với Việt Nam, hoặc gây chia rẽ trong cộng đồng người Việt ở nước sở tại.
Thưa quí vị, theo nhóm chữ 'lợi ích dân tộc' trong nghị quyết 36 của lãnh đạo cộng sản Việt Nam, thì quí vị định nghĩa thế nào đây? Căn cứ vào chữ và nghĩa của họ, tôi tin là quí vị sẽ định nghĩa như thế này: Lợi ích dân tộc, tức là lợi ích của lãnh đạo cộng sản Việt Nam, vì họ là lãnh đạo đảng lãnh đạo nhà nước cai trị dân tộc mà. Như vậy, những ai hay những tổ chức trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại, mà hành động ngược lại lợi ích của họ thì họ xếp vào thành phần mà họ chỉ dám nói đến biện pháp đấu tranh chống lại những thành phần đó. Họ mà nêu ra biện pháp lạng quạng là họ nhiều cơ hội ra hầu tòa lắm đó.
Thế nào là phá hoại quan hệ giữa các nước với nước cộng sản của họ? Thôi, chẳng cần tìm định nghĩa làm chi, chỉ biết là Cộng Động tị nạn chúng ta nhất là những viên chức trong dòng sinh hoạt chính tại các quê hương thứ hai, trong mọi trường hợp đều phối hợp những cuộc vận động chính trị ảnh hưởng vào cơ quan lập pháp, hành pháp, về những quyết định liên quan đến lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Dĩ nhiên tốt về phía chúng ta, và không tốt về phía họ.
Họ cũng nói đến biện pháp với những ai gây chia rẽ trong cộng đồng người Việt ở nước sở tại. Đoạn này phải hiểu sao đây? Chẳng lẽ lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại trừng trị họ, vì họ chính là những người mánh mung láu lỉnh, chuyên gây xáo trộn gây chia rẽ trong Cộng Đồng tị nạn mà? Nào, hãy rút tay lại, tức khắc không còn những xáo trộn hay chia rẽ trong Cộng Đồng tị nạn nữa. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam đừng ra cái điều 'thương quá là thương' những người Việt Nam ở nước ngoài, mà cứ thập thò hai ngón tay vừa kẹp tiền và kẹp miếng giấy ban khen từ trong bóng tối đưa ra cho những tay sai nữa, coi chừng có ngày bị bắt quả tang là cả hai bị lôi ra tòa đó.
Họ cũng nói một cách tổng quát là giải quyết có tình có lý và trên cơ sở đạo lý Việt Nam các vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại nhằm thực hiện chủ trương đại đoàn kết dân tộc.
Quí vị có thấy là lãnh đạo cộng sản Việt Nam nói như thiệt không? Tôi có cảm tưởng như họ đang nói với ai ở bên ngoài trái đất chúng ta thì phải, vì nhân loại trên trái đất này ai cũng hiểu cái bản chất của cộng sản, khi họ nói đến đạo lý là cái thứ đạo lý xã hội chủ nghĩa mà họ gọi là đạo đức cách mạng, mà họ định nghĩa như thế này: đạo đức cách mạng là phải theo đảng, chấp hành lệnh đảng, và chết cho đảng. Hoàn toàn không hề mang ý nghĩa đạo đức dân tộc trong đó. Và qua định nghĩa của họ, chúng ta hiểu là họ giải quyết trên cơ sở theo lệnh đảng, không hơn không kém.
Còn các vấn đề gì đó mà họ gọi là vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại nhằm thực hiện chủ trương đại đoàn kết dân tộc. Không biết họ muốn nói đến vấn đề gì đây? Đại đoàn kết có nghĩa là đứng sau lưng họ phải không? Hay đại đoàn kết theo kiểu ông Chí Minh hồi năm 1945 kêu gọi các đảng phái không cộng sản đoàn kết chống Pháp, để rồi bị ông Hồ cho thi hành một loạt những vụ bắt cóc thủ tiêu các nhân vật lãnh đạo đó phải không? Có một vấn đề nhân đạo lớn nhất và duy nhất mà lịch sử để lại là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã bội ước khi xua toàn lực đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa hơn 29 năm trước, bây giờ muốn công dân nước Việt Nam Cộng Hòa cũ bao gồm Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, vì nhân đạo mà tha thứ hay sao đây?
Lãnh đạo cộng sản Việt Nam muốn thực hiện đại đoàn kết hả? Dễ lắm. Vào một ngày mát trời nào đó, hãy sắn tay áo lên rồi gắn nụ cười trên môi mà công bố trên các phương tiện truyền thông rằng: Kể từ hôm đó, toàn bộ đảng cộng sản Việt Nam và tất cả các tổ chức ngoại vi của đảng đều tự giải thể. Chánh phủ hiện tại tạm thời điều hành đất nước, và có trách nhiệm tổ chức Đại Hội Diên Hồng trong vòng 60 ngày, qui tụ tất cả các thành phần trong xã hội, kể cả những tổ chức Cộng Đồng Việt Nam hải ngoại khắp nơi trên thế giới, và những tổ chức trong những Cộng Đồng đó. Đại Hội sẽ quyết định phương thức thực hiện chế độ dân chủ tự do và thời gian thực hiện. Tên nước, quốc kỳ, quốc ca, có thể do Đại Hội chọn và quyết định tạm, hoặc sẽ dành quyền cho Quốc Hội lập pháp sau này. Chỉ có thế là có đại đoàn kết ngay mà chẳng cần kêu gọi gì cả.
Mà bà con ơi! Cho dẫu họ có công bố như vậy đi nữa, bà con trong Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại cũng đừng tin vội nghe, mà phải chờ xem họ thực hiện cụ thể như thế nào đã.
Mục tiêu thứ 8. Các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức và đoàn thể nhân dân theo chức năng nhiệm vụ của mình, tham gia tích cực vào công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Ủy Ban Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài với các cơ quan hữu quan, với mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, giữa trong nước với ngoài nước. Củng cố và phát triển các tổ chức xã hội làm công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, như Hội Liên Lạc Với Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, các Hội Thân Nhân Kiều Bào, và các hình thức tập hợp chính đáng khác, phù hợp với ý nguyện và đặc điểm của cộng đồng ở địa bàn cư trú. Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, là một nhiệm vụ chính trị quan trọng đẩy mạnh công tác bảo hộ công dân và bảo vệ những quyền lợi chính đáng của Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, tích cực chủ động tăng cường tiếp xúc vận động, tuyên truyền và phổ biến chủ trương chính sách của đảng với nhà nước tớì bà con.
Thưa quí vị, vế thứ nhất trong mục tiêu này là lãnh đạo cộng sản Việt Nam ra lệnh cho tất cả các tổ chức đảng, các tổ chức nhà nước, và các tổ chức nhân dân, từ trung ương đến địa phương, từ trong nước ra đến hải ngoại, tùy theo chức năng mà tham gia tích cực vào cuộc tổng tấn công Cộng Đồng tị nạn chúng ta, mà họ gọi là công tác đối với người Việt nam ở nước ngoài.
Do nội dung nghị quyết 36 đã thể hiện quyết định của lãnh đạo cộng sản Việt Nam, vận dụng toàn lực thực hiện cái quốc sách kiều vận, nên tôi gọi đó là cuộc tổng tấn công Cộng Đồng tị nạn chúng ta, từ đó mà tôi trình bày quan điểm một cuộc tổng phản công vào toàn lực của họ, bằng phương thức xẻ các mục tiêu lớn của họ ra từng mục tiêu nhỏ và đánh vào đó, chắc không quá đáng hả quí vị?
Vế thứ hai là họ ra lệnh cho toàn bộ máy cai trị của họ phải củng cố và phát triển các tổ chức xã hội làm công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, như ội Hội Liên Lạc Với Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, các Hội Thân Nhân Kiều Bào, và các hình thức tập hợp chính đáng khác, phù hợp với ý nguyện và đặc điểm của cộng đồng ở địa bàn cư trú. Đây là nhiệm vụ của những tổ chức trong nước.
Quí vị có thấy là họ luôn sử dụng nhóm chữ tự nguyện, chính đáng, cũng như phù hợp với luật pháp quốc gia sở tại không? Họ ra vẻ như mọi hoạt động của họ là chân chính quí vị à! Nhưng quí vị, và nói chung là bà con trong Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, có thấm thía từ những kinh nghiệm mồ hôi, máu, và nước mắt, khi bà con trực tiếp hay gián tiếp dưới sự cai trị bởi chế độ độc tài khắc nghiệt của lãnh đạo cộng sản Việt Nam không? Tôi nghĩ là những kinh nghiệm đó luôn nhắc nhỡ bà con trong Cộng Đồng tị nạn, lúc nào cũng thận trọng những gì cộng sản nói nghe quí vị. Vì vậy mà khi họ nói những hình thức tập hợp chính đáng, phải hiểu là họ hoặc tay sai của họ sẽ dùng lời lẽ thân thương tha thiết, thậm chí nghe rất nhân đạo, để dụ dỗ bà con tham gia tổ chức thiện nguyện nào đó do họ lập ra, và khi hình thành rồi họ sẽ dùng đồng mỹ kim dẫn dắt bà con trong những tổ chức đó từng bước vào mục tiêu của họ. Khi bà con nhận ra được những hoạt động của họ thì quá muộn nghe bà con. Lúc đó bà con không nhúc nhích nỗi vì bà con bị xem là những người tự nguyện mà, lúc đó bà con có muốn lôi họ ra tòa cũng không được nữa. Chính đáng hay ý nguyện theo họ nói, là như vậy đó bà con à!
Đến vế thứ ba là họ ra lệnh cho những cơ quan của họ ở ngoài nước rằng: các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, coi đây là một nhiệm vụ chính trị quan trọng đẩy mạnh công tác bảo hộ công dân và bảo vệ những quyền lợi chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài, tích cực chủ động tăng cường tiếp xúc vận động, tuyên truyền và phổ biến chủ trương chính sách của đảng với nhà nước tới bà con.
Quí vị có nghe lãnh đạo cộng sản Việt Nam gọi chúng ta là bà con không quí vị? Từ gọi chúng ta là bọn này bọn kia, rồi xuống giọng gọi là Việt kiều yêu nước, lại xuống giọng thêm nữa để gọi chúng ta là khúc ruột ly hương ngàn dặm, đến gọi chúng ta là một bộ phận không thể tách rời cộng đồng dân tộc, và trong mục tiêu thứ 8 này họ gọi chúng ta là bà con.
Có thiệt không quí vị? Quí vị có tin họ nỗi không? Cái bài bản lùi một bước để tiến hai bước, cái kiểu xuống một chân để nhảy cả hai chân, cũ lắm rồi phải không quí vị? Nhưng xin quí vị trong Cộng Đồng tị nạn chúng ta, cũng nên thận trọng để tránh bị họ lợi dụng nghe quí vị. Xin được nhắc lại rằng, bất cứ hành động gì thuộc loại mánh mung gian trá, là nghề của họ nghe quí vị!
Từ mục tiêu 1 đến mục tiêu 7, lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẽ ra những mục tiêu cùng với cách tấn công chúng ta, mà họ gọi là những nhiệm vụ chủ yếu và chi tiết hóa những công tác phải làm. Đến mục tiêu thứ 8 này, họ ra lệnh riêng cho những tổ chức trong nước, và cái lệnh riêng khác cho những tổ chức ngoài nước.
Mục tiêu thứ 9. Ủy Ban Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài cần được kiện toàn với cơ cấu tổ chức, biên chế và phương tiện hoạt động đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. Tăng cường cán bộ chuyên trách về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài tại các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở những nơi có đông người Việt Nam sinh sống. Một số bộ, ngành, và một số tỉnh, thành phố, có quan hệ nhiều với người Việt Nam ở nước ngoài, cần có bộ phận giúp cơ quan lãnh đạo trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Bổ sung kinh phí cho công tác này.
Trong mục tiêu này, lãnh đạo cộng sản Việt Nam ra lệnh cho Ủy Ban Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, lo kiện toàn tổ chức cùng phối trí nhân sự thích hợp cho nhiệm vụ mới. Đồng thời, đặt bộ phận nhân viên cạnh các cơ quan ngoại giao để điều hợp cuộc tổng tấn công Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản.
Cùng lúc, họ cũng ra lệnh cho tất cả những tổ chức nào ở trong nước có liên hệ nhiều với người Việt Nam ở nước ngoài như những Hội gồm những người có thân nhân ở hải ngoại, hỗ trợ các cơ quan lãnh đạo cuộc tổng tấn công này.
Họ cũng nói đến nhu cầu bổ sung kinh phí cho cuộc tổng tấn công vào Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, nhưng không thấy họ chỉ định cơ quan nào cung cấp kinh phí, và cung cấp bao nhiêu cho những cơ quan nào, hay nói tưởng như chung chung nhưng chính trung ương cấp nguồn kinh phí bổ sung cho kinh phí đầu tiên hồi tháng 4 năm 2003 chăng?
Tóm lại. Nghị quyết 36 của lãnh đạo cộng sản Việt Nam, là một thứ lệnh hành quân trong cuộc tổng tấn công vào Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại, với tất cả lực lượng từ đảng đến nhà nước, từ nhân dân đến các phương tiện truyền thông, từ trong nước ra đến hải ngoại.
Hẳn quí vị cũng nhận thấy qua chứng nghiệm trong hơn 50 năm cai trị, lãnh đạo cộng sản Việt Nam nói chân lý mà làm không chân lý, nói cách mạng mà hành động phản cách mạng, nói độc lập mà hành động chư hầu, nói dân chủ tự do mà độc tài tàn bạo, nói quí trọng con người nhưng sử dụng con người như một thứ phương tiện đa dụng. Cái gì nói của dân đều là của đảng. Nói cách mạng là đầy tớ của dân mà đè đầu cỡi cổ cướp đoạt của dân. Mỗi khi nhắc đến tổ tiên là lúc lợi dụng tổ tiên cho mục tiêu chính trị, nhưng khi nói đến đảng cộng sản là triệt để phục vụ đảng. Cho nên nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam bị chống đối dữ dội theo qui luật mà họ thường áp dụng: "Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh". Đấu tranh từ trong đảng ra đến dân, từ trong nước ra đến hải ngoại!
Rất có thể quí vị cũng đồng ý với tôi rằng: Cách mạng, với ý nghĩa chính trị cao đẹp của nó là xây dựng một xã hội tốt hơn, mọi người sống trong đó, có tự do, có dân chủ, có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Nhưng ông Hồ và nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam, hơn 50 năm gọi là làm cách mạng, đã thay những điều tốt lẫn điều xấu bằng những điều xấu hơn, thay những việc làm hay lẫn những việc làm dở bằng những việc làm dở hơn, thay những cái mới lẫn cái cũ bằng cái cũ hơn. Bởi vì, lãnh đạo cộng sản Việt Nam, làm những điều hay rất dở, nhưng làm những điều dở rất hay. Những điều hay là thuyết phục được mọi thành phần dân tộc cùng quyết tâm xây dựng một xã hội dân chủ công bằng, một xã hội luôn tạo cơ hội tiến thân cho mọi người, một đất nước phát triển xứng hợp với khả năng và tiềm năng quốc gia, xứng hợp từ tài nguyên nhân lực, vật lực, đến tài lực. Những điều dở là những tiểu xảo thấp hèn như ngăn chận những tràng hoa phúng điếu ông Trần Độ, làm như thi hài ông Trần Độ sẽ ngồi dậy từ trong quan tài nếu như ông thấy những tràng hoa đó vậy, những tiểu xảo như khi đánh lừa hơn 200.000 quân nhân viên chức cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ đi học tập 30 ngày nhưng nhốt tù 17 năm, những hành động với muôn vàn hình thức kiểu cách khác nhau trong một hệ thống tham ô nhũng lạm chằng chịt bộ máy đảng bộ máy nhà nước, để bảo vệ sự tồn tại của đảng, ..v..v...
Nhìn lại lịch sử Việt Nam cận đại và đương đại, chưa thấy nhóm lãnh đạo nào khắc nghiệt và tàn bạo như nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Chưa thấy nhóm lãnh đạo nào giết người hằng loạt và giết một cách dã man như nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Cũng chưa thấy nhóm lãnh đạo nào dối trá với đồng bào như nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Và lãnh đạo cộng sản Việt Nam, nếu không thể tự lột xác để hòa nhập vào cộng đồng dân tộc, chỉ có cách duy nhất là tất cả trong ngoài vùng lên lật đổ họ, để xây dựng một nước Việt Nam dân chủ tự do, và phát triển xứng hợp với khả năng cùng tiềm năng quốc gia một cách hài hòa giữa khoa học kỹ thuật với văn hoá dân tộc. Mời quí vị nghe nhà văn cộng sản Dương Thu Hương và đảng viên lão thành Hà Sĩ Phu, theo hai đảng viên này thì lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã đẩy hơn 10 triệu người miền bắc vào cõi chết chỉ vì quyền lợi của đảng cộng sản, để tạo nên những nấc thang cho một số đảng viên leo lên và sử dụng quyền thế chiếm đoạt khối tài sản khổng lồ của xã hội, và đưa quốc gia dân tộc xuống mức tệ hại hơn bao giờ hết so với các quốc gia trong khu vực, kể từ khi đảng cộng sản giẫm chân trên đất nước Việt Nam!
Rồi quí vị có để ý là lãnh đạo cộng sản Việt Nam, luôn miệng kêu gào chúng ta, kêu gào thế giới, hãy quên đi cái quá khứ hoặc để quá khứ qua một bên, cái quá khứ mà chính họ đã gây ra biết bao đau thương mất mát cho dân tộc, biết bao điêu tàn cho tổ quốc, trong một giai đoạn lịch sử đầy bi thương! Họ kêu gào hãy quên quá khứ, để quên cái tội ác kinh hoàng của họ, để chúng ta hòa hợp với họ mà giúp họ phát triển không? Nhưng có điều quí vị thấy là họ kêu gào quên quá khứ, nhưng chính họ chưa bao giờ và có thể tin chắc là họ không bao giờ chứng tỏ là họ quên quá khứ hay để quá khứ qua một bên cả, bằng chứng là họ vẫn độc tài, họ vẫn đàn áp bắt giữ bỏ tù bất cứ ai ở trong nước mà dám phát biểu quan điểm dân chủ tự do khác với quan điểm chính trị của họ. Vẫn quan điểm như vậy xuất phát từ những cá nhân hay những tổ chức hải ngoại, họ gắn cho cái tên là đi ngược lại lợi ích dân tộc mà trong nghị quyết có nói đến biện pháp xử lý thích đáng! Quí vị có thấy là họ đồng hóa họ với dân tộc không? Nếu họ vì dân tộc thì họ hãy lột xác bằng cách giải thể đảng cộng sản, tiến hành bầu cử quốc hội lập hiến để soạn thảo Hiến Pháp trên căn bản thể chế chính trị dân chủ tự do thật sự, vậy là họ có điều kiện để hòa nhập vào cộng đồng dân tộc rồi. Và rất có thể họ sẽ được hoan nghênh nữa, phải không quí vị?
Vậy, xin quí vị, nói chung là xin bà con trong Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, cho dẫu quí vị quí bà con có điều gì không bằng lòng cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đi nữa, cũng xin vui lòng đừng bao giờ quên câu nói của ông. Ông nói rằng: Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm. Và bác sĩ Fred Schwarz, người Úc Đại Lợi, đã bỏ ra gần hai chục năm nghiên cứu về cộng sản, kết quả công trình của ông chỉ gồm một câu ngắn gọn, là: Bạn có thể nghe cộng sản nói, nhưng đừng bao giờ tin cộng sản. Hai câu nói trên đây, cho đến bây giờ vẫn nguyên giá trị của nó. Và đây là sự thật khách quan không ai phủ nhận được, ngoại trừ nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam, và những ai mắc bệnh mất trí nhớ.
Orlando, ngày 10 tháng 7 năm 2004.
Nhật tu ngày 10/1/2008.
Phạm Bá Hoa
No comments:
Post a Comment