Mường Giang
Căm thù xã hội vì cha là Nguyễn Sinh Sắc uống rượu say đánh chết người, nên bị bãi quan tại Bình Ðịnh. Nguyễn Tất Thành vào Phan Thiết sống nhờ qua sự đùm bọc của Hồ Tá Bang, Trương Gia Mô và mấy người con của Nguyễn Thông một thời gian ngắn. Năm 1911, Thành được sang Pháp nhờ làm bồi trên tàu Latouche Tréville.
Sau khi gia nhập đảng cọng sản Pháp, tháng 5-1923 Hồ Chí Minh (tên mới của Nguyễn Tất Thành) sang Nga và bắt đầu một cuộc đổi đời về vật chất, cũng như được quan thầy Nga, huấn luyện dạy dỗ, trở thành một điệp viên cộng sản quốc tế. Rồi Hồ được lưu lại công tác tại Bộ Phương Ðông, phụ trách vấn đề các nước thuộc địa. Theo Hồng Hà, lúc đó Hồ được ở trong khách sạn Luych, lương tháng bảy Tchervonetz, tương đương với bảy chục đồng Rúp vàng hoặc 50 gam vàng.
Trong lúc đó tại Nga nạn đói đang diễn ra thê thảm, khắp cả nước giặc giã loạn lạc triền miên. Thế nhưng đảng cọng sản Nga lại cưng chiều Hồ, với thực phẩm ê hề, tiền nong đầy đủ, và chỗ ở thì đông vui nhất. Hèn chi Hồ đã sớm trở thành tên phản quốc số một của thời đại, suốt đời chỉ biết trung kiên và phục vụ cho chủ mà thôi. Chính nơi thiên đàng này, Hồ cho biết là mình đã được giác ngộ, hạnh phúc nên đã coi đây mới chính là quê hương và tổ quốc đích thực của mình. Cũng tại đây trong ngày quốc tế Lao Ðộng 1-5-1924, Hồ theo lệnh thượng cấp, đến nói chuyện trước đám đông trong cuộc biểu tình, dưới một biểu ngữ màu đỏ, để tang cho LêNin. Cũng theo Hồng Hà, Hồ đã hứa là sẽ đem Lá Cờ Búa Liềm của Liên Xô, cũng như chủ nghĩa xã hội của Ðệ Tam Cộng Sản Quốc Tế, về cấm tại tổ quốc VN và Y đã thực hiện đúng lời cam kết trước vong linh của Lê-Nin.
Từ bản chất mặc cảm đói nghèo, Hồ xuất dương qua động cơ thúc đẩy là kiếm sống và vươn lên trong xã hội, nên chúng ta sẽ không lấy làm lạ về chuyện Hồ nộp đơn xin vào học miễn thi tại trường thuộc địa Pháp hay xin Khâm Sứ Trung Kỳ cho cha là Nguyễn Sinh Sắc một chức quan nhỏ, để kiếm cơm nuôi miệng. Sống ở Nga trong suốt thời kỳ biến động, trời long đất lở, có lúc tưởng chừng chế độ Bonsovich sẽ bị tan tành. Nhưng chính hoàn cảnh đó, lại trở thành thân quen, đáp ứng đầy đủ ý thức nô lệ của một con người ôm đấy khát vọng, đã dạy cho Hồ những mô thức xã hội tương lai, rập khuôn theo Liên Xô qua 2 vấn đề: "thiếu nhi và nghệ thuật khủng bố của KGB".
Thật vậy ở Liên Xô thiếu nhi ngay từ thuở nhỏ, đã được đảng giáo dục và huấn luyên biết căm thù, yêu ghét theo mệnh lệnh. Ðây là chuyện mà Hồ thích nhất và đả đem nó về trồng người tại VN, về sau cũng chính những gieo trồng đó đã trở thành "thủ phạm trong mọi tội ác" mà đầu tiên là vụ án "cải cách ruộng đất" long trời lở đất tại đất Bắc, khi Hồ làm chúa nơi này. Kế tiếp là việc đem cấy ý niêm hận thù và đấu tranh giai cấp, được coi như kim chỉ nam trong đạo lý cách mạng. Chính hai chủ trương độc hại này được đảng VC gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh" suốt bảy mươi lăm năm qua, đã phá vỡ truyền thống tu thân, trị quốc và đạo đức ngàn đời của quốc dân Hồng Lạc, làm băng hoại xã hội, gia đình và nhân cách của con người VN.
Cũng kể từ đó, người Việt sống dưới chế độ cọng sản miền Bắc và cả nước từ sau tháng 4-1975, theo đề cương văn hóa được đảng giáo dục, cách yêu, cách ghét, cách sống và làm việc đã không còn là một con người, mà là những công cụ phản ảnh chính sách của đảng. Tóm lại, chính Hồ đã làm cho văn hoá và lịch sử VN vong thân, từ khi Y chính thức trở thành một tên nô lệ chủ nghĩa ngoại bang. Cũng vì vậy mà nay dù to mồm lắm miệng nói đổi mới, với cảnh phồn hoa giả tạo khắp phố phường, nhưng trong tận cùng, người dân nhất là ngư, nông, tầng lớp lao động ở mọi miền đất nước, đời sống tinh thần và vật chất, có hơn gì thời Pháp thuộc ? người vẩn nguyên là thân phận của trâu, ngựa, có khác chăng khi trước kẻ cưỡi, người chăn là thực dân da trắng, ngày nay chủ được thay thế là những tên tư bản đỏ mà sự bốc lột bạo tàn còn gấp trăm nghìn lần kẻ thù xưa củ. Ðó cũng là nhờ tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đạo.
Năm 1931 Trần Phú từ Liên Xô về, theo lệnh chủ dẹp bỏ tất cả những văn kiện được Hồ nhân danh quốc tế cọng sản, thông qua trong hội nghị thống nhất. Ðồng thời Phú thay LX, viết lại ‘ Luận Cương Chính trị’ khai lối vẽ đường cho VC theo đó mà thi hành. Cũng từ đó Hồ bị quan thầy LX cho ra rìa, chỉ hoạt động quanh quẩn tại các nước Ðông Nam Á. Rồi phong trào Xô Viết Nghệ Tỉnh bùng nổ và đẫm máu trong sự thất bại ề chề, cũng là thời gian Hồ bị gọi về giam lỏng tại LX, cho tới cuối thấp niên 30 mới thấy lộ diện và chính thức trở về VN vào mùa thu 1945 khi VC cướp được chính quyền đang bị bỏ trống hay rơi rớt bên vệ đường, vì quân phiệt Nhật đã đầu hàng Mỹ cùng Ðồng Minh, nên không thèm can thiệp.
Những nét khái quát kể trên, về một phần đời hoạt động của Hồ trong quốc tế cọng sản, qua những thay đổi theo thời gian của VC, nhưng cũng đủ cho ta thấy được rất rõ ràng, cái gọi là khuynh hướng dân tộc trong lòng đảng cọng sản VN thật sự chỉ là một ảo vọng, vì dưới lăng kính lịch sử không hề có thể xảy ra. Tất cả giờ đây đã gần như hiện nguyên hình, xác nhận Hồ cùng đảng cọng sản VN chỉ là quan hệ chủ tớ, trong một giai đoạn mà Nga-Tàu bành trướng chủ nghĩa khắp Ðông Nam Á và cũng từ đó, qua cái gọi là tư tưởng HCM đã nói lên sự nghiệp vĩ đại làm tay sai cho ngoại bang của Hồ và đảng VC trong suốt 75 năm qua tới giờ vẫn không thay đổi mà ai cũng biết.
Ngày nay, qua cuộc phong trần, trước đống núi tài liệu và bằng cớ xác thực những hành động quan liêu, phong kiến, bán nước và hủ bại của những người cọng sản, nhất là trong cung cách suy tôn Hồ Chí Minh, kể cả đám táng cái xác thối nằm ở Ba Ðình và những tuyên truyền lố lăng coi thường dư luận trong và ngoài nước, đặc biệt là việc phung phí công khố quốc gia, để bảo quản suốt mấy chục năm qua cái xác ướp của Hồ, rồi còn lập chùa, đúc tượng đồng mạ vàng thật, để Hồ chểm chệ ngồi ngang hàng với Phật-Thánh và Quốc Tổ Hùng Vương, hiện nay diễn ra khắp nước mà lố lăng nhất là đám sư sải phường chèo đang bày trò khỉ đột, tại một ngôi chùa quốc doanh trong tỉnh Bình Dương nằm sát Sài Gòn.
Bây giờ, trước cánh cửa tri thức, điện toán và trên hết là sự giải mật phần lớn các tài liệu có liên hệ tới những lãnh tụ chính trị, trong đó có đảng cọng sản VN từ năm 1930 tới giờ. Bởi vậy khi đọc qua những tài liệu có dính líu tới lịch sử, đã cho nhiều cảm xúc bất ngờ. Hơn ai hết, người Bình Thuận-Phan Thiết không biết đã làm nên tội ác gì đến đổi trời xui đất khiến, tạo nên nghịch cảnh éo le, trong màn kịch đồng song chung khoá, giữa cử nhân Trương Gia Mô với Phó Bảng Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Nguyễn Sinh Sắc. Rồi thì trong một chuyến đưa bạn Trần Quý Cáp tới nhiệm sở Ninh Hòa, nhân tiện thẳng đường vào Phan Thiết. Cũng từ đó đã gây cho hậu thế trăm năm sau, cái họa ‘anh thanh niên Nguyễn Tất Thành ‘ dạy học tại trường Dục Thanh và xuất dương tìm đường cứu nước.
Người Phan Thiết vô cớ lãng xẹt khi phải làm nhân chứng bất đắc dĩ của một thời đại nhiễu nhương ba xạo. Buổi trước ông cha ta vì bản chất an phận thủ thường và trên hết là do nghịch cảnh một tròng bốn cổ, nên phải giả vờ lấy vải thưa che mắt thánh, để miệng hoan hô đã đảo loạn ngầu cho an thân. Trò hề trống đánh xuôi kèn thổi ngược hòa đồng trong tiếng trống chầu của bọn hề chèo ngông nghênh viết lách, nhiều chuyện trên trời dưới biển, vu vơ sáo rỗng, chỉ có tác động tuyên truyền ra oai, làm cho người nay càng bi phẫn khinh miệt. Lịch sử, nhất là lịch sử VN đã dạy cho hậu thế nhiều đạo lý làm người, nhất là trong thời đại mạt pháp, mạt vận của dân tộc đang ngoi ngóp trong vũng bùn xã nghĩa VC.
Ai cũng biết đảng CSVN hiện đang chới với trong sự lựa chọn làm đày tớ cho Trung Cộng hay Hoa Kỳ. Tình hình bang giao giữa ba nước rất phức tạp nhất là lúc Mỹ đang thay ngựa và khủng hoảng nội bộ về kinh tế, tài chánh lẫn ý thức hệ chính trị. Tàu đỏ đã lợi dụng thời cơ "ngàn năm có một này" tìm đủ mọi cách lôi kéo bác bộ phủ về phe mình, để thủ đắc quyền lợi "dầu khí và ngư nghiệp" trên biển Ðông trong hải phận VN tại hai quần đảo Hoàng Sa-Truờng Sa, hiện đang tranh chấp giữa nhiều nước mà động lực gây cấn nhất vẫn là VN có Mỹ hứa hẹn giúp đở.
Về cái được gọi là tài liệu của GS Hồ Tuấn Hùng ở Ðài Loan nói Hồ Chí Minh đã chết trong nhà tù Hồng Kông vào năm 1932 và chứng minh có một người Tàu gốc Hạ Phương tên Hồ Tập Chương thay thế Hồ tới khi y chết vào ngày 2-9-1969 tại Hà Nội. Thật ra câu chuyện cũng chẳng có gì mới mẽ vì đã được nhiều sử sách trong và ngoài nước đề cập tới nhiều lần qua các diễn đàn Nhưng điều quan trọng chắc chúng ta quên để ý là tại sao tin nóng này, nay lại phải lựa đúng lúc VC đang chết sửng trong việc đu giây giữa Tàu Ðỏ và Mỹ, mới công bố và công bố một cái tin cũ rích như trên, thật sự với mục đích gì ?
Thật ra thì Hồ Chí Minh và bè lũ VC từ nhỏ tới lớn, có là người gì (Việt, Tàu, Nga, Cu Ba, Bắc Hàn..) hay súc vật đầu thai, thì cũng chỉ thế thôi : bán nước, hại dân, trộm cướp và đầu hàng kẻ thù làm nhục tiên tổ.. nên đâu có gì quan trọng mà phải gọi là ‘ nghi vấn thế kỷ ? ‘
1. BÍ SỬ DƯỚi TRIỀU HỒ:
Tới bây giờ, dù sự thật lịch sử VN đã gần như phơi bày toàn vẹn trước ánh sáng của nhân loại nhưng trong nước, hầu hết người dân kể cả người miền Bắc, vẫn không biết đích thực ‘ Hồ Chí Minh ‘ là ai ? vì từ lúc ra đời với cái tên Nguyễn Sinh Cung (Cuông), tới năm 1942 Hồ đã thay tên đổi họ tới 26 lần (Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Linov, PC Lin, Hồ Quang, Vương Quốc Tuấn, Sáu Sán, Hồ Chí Minh..). Năm 1944 Hồ từ Côn Minh về nước, lúc đó chỉ mới 53 tuổi nhưng bắt buộc mọi người gọi mình là "Cụ". Vì Trần Huy Liệu lúc đó đang giữ chức trưởng ban tuyên truyền của đảng, thường nghe các cán bộ gốc Thanh, Nghệ, Tỉnh mỗi khi gọi Hồ là "Cụ" lại phát âm như không có dấu nặng, nên âm thanh rất chướng tai và bất nhã. Do vậy Liệu cấm mọi người gọi Hồ là "Cụ’"mà đổi thành "Bác" từ đó.
Về chuyện tếu có liên hệ tới việc dân ta đã gọi ‘ bác Hồ ‘ là Người, cũng lại được chính Hồ sáng tạo như đã tự mình viết sách ca tụng mình. Ðể nhận chữ "người Hồ bịa chuyện từ định nghĩa “ Nhân là thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào”, nên chữ nhân này là Ðức Nhân, chứ không phải là chữ Nhân thông thường, dùng để chỉ con người. Hỡi ơi sự đời tráo trở đến thế là hết ý, vì ai cũng biết "Nhân giả nhân dã" của triết lý Ðông Phương tự ngàn đời, nói về "Ðức Người".Chính Khổng Phu Tử cũng đã nhận rằng "Nhân viễn hồ tai, ngã dục nhân tư nhân chí hĩ", ý ngài nói lòng Nhân đâu ở xa, nếu ta muốn thực hiện, thì sẽ có ngay trước mặt. Ngoài ra ai cũng biết "Ðức Nhân" là sự kết tụ tinh túy của mọi đức tính khác của con người như Trung, Tín, Trí, Dũng, Nghĩa, Lễ, Cương Nghị, Hiền Lành ...
Hồ Chí Minh suốt một kiếp người, từ khi xuất dương năm 1911 tới lúc nhắm mắt năm 1969, là một kẽ xảo ngôn, phô sắc, gian ác, hiểm độc, bán nước, phản dân tộc, xét về tư cách và hành động, đích thật là một tiểu nhân. Như vậy đương sự lấy gì, để tự mình cuồng điệu về Ðức Nhân, Lòng Khoan Hồng Ðại Ðộ cùng với sự Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Công Bằng... để bắt buộc mọi người gọi Mình là Cụ, Bác và Người (viết Hoa).
Sau ngày 30-4-1975, bộ mặt thật của Hồ và Ðảng CSVN lần lượt rơi rớt vì đã hết cơ hội để "Bác" tạo thêm sự nghiệp cứu nước, khi đòi độc lập và thống nhất cho quốc gia dân tộc. Tất cả đã trở thành phường chèo trước mắt của đồng bào miền Nam, khiến cho không ai, kể cả đám văn nô quốc doanh, còn dám bẽ cong ngòi bút, để tuyên truyền dụ dổ những người nhẹ dạ nhắm mắt chạy theo Hồ và đảng Cộng Sản như thuở hồng hoang buổi trước:
"đồng bào hãy vùng lên
quyết tâm theo bác Hồ
nông dân sẽ có đất
người nghèo sẽ có ăn
gạo lúa sẽ đầy sân..."
Bởi vì các thế hệ VN, kể cả lớp người sinh sau cuộc chiến, đâu có ai quên được những cuộc thanh trừng đẳm máu của Hồ và phe cánh, đối với những người được gọi là đồng chí đồng đảng, để tranh giành quyền lực, trong thâm cung bí sử triều Hồ. Ai quên được sự sát hại người Quốc Gia của Hồ, trong Mặt Trận Việt Minh và những lần hòa hợp, hòa giải Quốc-Cộng, suốt chín năm kháng Pháp. Ai quên được Hồ ra lệnh tàn sát hằng triệu đồng bào vô tội ở miền Bắc, qua chiến dịch cải cách ruộng đất vào thập niên 50, mà trong số này có rất nhiều người đã từng xã thân chống Pháp , để dành độc lập cho dất nước và nửa mãnh sơn hà cho Hồ.
Ai quên được xương máu VN của cả hai miền Nam Bắc, khi Hồ bày trò ‘ Ðánh Mỹ-Ngụy cứu nước ‘.Thảm tuyệt nhất trong lịch sử Việt, cũng vẫn là những vụ tàn sát đồng bào vào Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, trên các đại lộ kinh hoàng Quảng Trị-Huế, Bình Ðịnh, Kon Tum-Pleiku và Bình Long-An Lộc năm 1972 và khắp VNCH vào những ngày tháng 4-1975. Ai quên được các cuộc tàn sát trả thù Quân Công Cán Cảnh VNCH của CS Hà Nội sau ngày 30-4-1975, các cuộc cướp giựt tài sản đồng bào Miền Nam VN qua những lần đổi tiền, đánh tư sản, xuất cảng người vươt biển, lao động, làm điếm ... để Hồ và Ðảng hoàn thành sự nghiệp cách mạng vô sản quốc tế, đưa đất nước lên Xã Hội Chủ Nghĩa mạt rệp.
Nhưng Hồ Chí Minh là ai và tới bây giờ đố ai biết được, ngoại trừ chính bản thân của đương sự. Vì chỉ riêng năm sinh của ‘ bác’ theo các tài liệu hiện hành đã có tới (5) thời điểm khác nhau như 1890, 1891, 1892, 1894 và 1895. Trong thông hành vào Liên Bang Sô Viết lần đầu, Hồ mang tên Nguyễn tất Thành bí danh Chen Vang sinh năm 1895. Năm 1920, Hồ qua thông hành mang tên Nguyễn Ái Quốc sinh năm 1894. Sau khi cướp được chính quyền vào tháng 9-1945, Hồ Chí Minh công bố vào năm 1946, sinh ngày 19-5-1890. Về ngày sinh của Hồ là 19-5 cũng là huyển hoặc, được ngụy tạo vì nhu cầu chính trị mà thôi. Theo nhiều nguồn tài liệu được phổ biến, thì sở dĩ Hồ bịa ngày sinh của mình là 19-5, để hôm đó bắt nhân dân Hà Nội mở hội hoa đăng, nói là ăn mừng sinh nhật Hồ, mặt thật là để đón tiếp Cao Ủy Pháp là Ðô Ðốc D’ Argenlieu khi hắn tới nơi này. Cũng nhờ có cuộc đón tiếp long trọng trên, mà Hồ và thực dân Pháp đã đạt được sự dồng thuận, cho phép quân Pháp từ Sài Gòn đổ bộ lên đất Bắc, tiếp tục gây chến tranh. Có như vậy Hồ mới nhân danh là lãnh tụ Mặt Trận Liên Hiệp Việt Minh, kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến chống Pháp từ cuối năm 1946. Còn Pháp thi vin vào cớ Việt Minh gây chiến, nên phải đánh nhau, chứ không phải vì muốn cướp nước VN như dư luận thế giới đã lên án.
Ngoài ra để danh chánh ngôn thuận như Phạm Văn Ðồng thường nói "Bác là ánh sáng dân tộc". Bắc Bộ Phủ đã sửa soạn cho Hồ rất chu đáo trước khi ra diễn tuồng, Ðảng ra lệnh cho Cao Xuân Huy, Ðào Duy Anh, Trần Văn Giáp... ngay từ năm 1956, phải ngụy tạo cho "bác" một lá số tử vi, thật le lói vì có chân mạng đế vương, cốt cách thần thánh. Có vậy Hồ mới tuyên truyền dụ dỗ được dân chúng Miền Nam theo Ðảng đánh Mỹ-Ngụy cứu nước.
Về tướng diện của Hồ Chí Minh, qua các bức ảnh cũ trên báo chí sách vở lưu hành trong và ngoài nước, trước năm 1955 là niên lịch Hồ sang Nga sửa sắc đẹp. Theo tướng mệnh học, thì mặt Hồ thuộc loại tứ phủ trơ xương, râu lơ thơ như râu tôm kho có thể đếm được. Trong các giác quan, đôi tai không thay đổi từ lúc sinh ra cho tới chết và là biểu hiện đặc tính của con người. Tai Hồ to thuộc loại luân quách phản, đó là tướng của người bất nhân độc ác. Do hình tướng như vậy, nên trước năm 1955, mọi người xếp Hồ vào loại ‘ Mặt Dơi Tai Chuột ‘.Và dù sau đó qua Nga sửa mặt, cấy râu cấy tóc để có dung nhan của cha già dân tộc Nhưng tai Hồ cho tới khi chết vẫn là tai chuột, vì khoa học thẩm mỹ thời đó bất lực.
Lịch sử là sinh mệnh của dân tộc, nhờ nó mà người miền Bắc mới biết được sự tàn khốc của chế độ Cộng Sản, khi Ho và Ðảng chiếm được nữa nước VN từ bên kia cầu Hiền Lương chạy lên tới biên giới Hoa-Việt qua Hiệp Ðinh Ngưng Bắn Genève năm 1954. Rồi ngày 30-4-1975 quân Bắc Việt vào Sài Gòn và từ ấy đến nay (2008) nhờ lịch sử, người Miền Nam mới biết rõ bộ mặt thật của Hồ và Ðảng là gì ?. Cho nên dù người Việt trong nước hôm nay vì bị bóp họng bịt miệng khóa tay nên đã không thể ghi được những câu chuyện thật của cận sử nhưng họ đã dồn hết gia thù quốc hận suốt bao chục năm qua, thành những vết hằn lịch sử vong quốc trên từng khuôn mặt, khóe môi, vừng trán, ánh mắt kể cả nụ cười của người dân đang sống dưới cùm gông nô lệ. Ðó mới chính là sự bảo lưu quá khứ để biến thành cái "Thần" của Việt Sử, một sự trái ngược hoàn toàn với những câu chuyện "Sử Ngụy Tạo" của bồi bút Ðảng dành tâng bốc và phong thánh cho lãnh tụ Hồ Chí Minh.
+ CHUYỆN DÀI CỦA HOÀNG ÐẾ HỒ CHÍ MINH QUA SÁCH BÁO ÐẢNG:
Cõi thế vốn vô thường nên con người từ xưa tới nay không ai có thể thoát được qui luật tử sinh, một điều tất yếu cho dù ai cũng đều khao khát đến sự vĩnh cửu trường tồn, để kéo dài thêm sinh mệnh như trời đất. Ðể đạt được khát vọng trường sinh bất tử, vua chúa Tàu ngày xưa đã không ngớt đi tìm linh đan thần dược, giúp họ trở thành thiên thu bât hoại. Tư Mã Thiên trong Sử Ký, có ghi lại cái chết đột ngột của Tần Thỉ Hoàng khi đi tuần thú tại Sa Khâu. Lúc đó thừa tướng Lý Tư sợ có biến loạn, nên không phát tang và bày kế cho người gánh cá thối đi kềm theo xe chở xác nhà vua, để che mắt văn võ bá quan theo hộ tống. Bức tranh vân cẩu trên đầy mai mĩa và bi thảm, nói về lòng tham vô giá của con người.
1955-1969 Hồ Chí Minh làm hoàng đế nửa nước VN nên đảng mặc sức tuyên truyền, chẳng những bằng hò vè thơ truyện, mà còn đề ra sách lược đánh bóng và đưa lãnh tụ lên tận mây xanh, trong đó có những bịa đặt lịch sử địa chất liên quan tới dân tộc Việt ngay từ thời Tổ Hùng dựng nước Văn Lang. Ðây là mục đích chính của đảng CSVN, vì các vua Hùng khi được chứng minh là có thật trong lịch sử Việt, sẽ tạo cơ hội cho Hồ có dịp nói "Các vua Hùng đã có công dựng nước, ‘bác’ cháu ta phải cùng nhau giữ nước".Có như vậy, Hồ mới theo chân Lê Nin, Stalin cũng ướp xác, xây lăng như các bậc đế vương thời trước, bắt quần chúng rồng rắn xếp hàng chờ vào thi hành bổn phận "chiêm ngưỡng một xác ướp".
- NGUYỄN TẤT THÀNH: CON NGƯỜI TRĂM MẶT
Nhiều năm sau ngày "bác" lên ngai Chủ Tịch nhà nước, người ta mới biết được cái tên Hồ Chí Minh, chỉ là một trong hằng trăm tên của Nguyễn Sinh Cung hay anh thanh niên thầy giáo Nguyễn Tất Thành, đã có một thời gian dạy học tại trường Dục Thanh, Phan Thiết, trước khi rời Bến Nhà Rồng ở Sài Gòn, qua Pháp tìm đường cứu nước. Theo các sử gia cũng như các nhà biên khảo nghiên cứu trong và ngoài nước, thì cho tới nay vẫn chưa ai biết hết tất cả các bí danh của Nguyễn Tất Thành. Trước đó, căn cứ vào tài liệu của Liên Xô, thì "bác" có chừng 19 tên. Năm 1982, nhà biên khảo Huỳnh kim Khánh nói "người" có 32 bí danh. Một tác giả Việt Nam khác kiểm kê được 76 tên của Hồ. Nói chung, không riêng gì tên họ, mà cả ngày sinh và tên cúng cơm cũng vô cùng bí mật, không biết đâu mà mò. Quả thật đây là một con người có nhiều tên nhất trên trái đất, từ cổ tới kim, đông sang tây. Do không biết chính xác tên khai sinh khi lọt lòng mẹ là Côn, Cuông hay Cung, vì vậy ta thấy sách vở đã chọn cái tên Nguyễn Tất Thành như là một điểm tựa, nhất là sau năm 1983, ba cái đơn của "bác" bị phát giác.
Trong số 100 tên, có lẽ cái tên "Nguyễn Ái Quốc" xuất hiện lần đầu tiên tại Paris là sôi động và đã gây ra không biết bao nhiêu tranh cãi, từ ấy cho đến bây giờ, vẫn chưa chấm dứt. Ai cũng biết, nói láo và bịa chuyện là bệnh nan y của người cộng sản, nhất là trong rừng sử sách của đảng, nhằm thần thánh hóa lãnh tụ "Hồ Chí Minh". Gạt bỏ những huyền thoại của đảng viết về Bồi Ba, theo các nhà viết sử cho biết tới nay, họ vẫn còn rất mù mờ về giai đoạn của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1919, ngoài ba chi tiết công khai: đó là Thành làm công trên tàu Latouche-Tréville của hãng Ðầu Ngựa, sống tại nước Anh thời đệ nhất thế chiến (1914-1918) và có mặt tại Pháp qua cái tên Nguyễn Ái Quốc trên . Người đã vậy, tên cũng vậy, do đó các nhà viết sử cận đại, cũng đành vậy, nghĩa là cứ cho rằng ngày 19-5 là ngày sinh của Nguyễn Tất Thành. Có như vậy, hằng năm thiên hạ mới có dịp "đào mồ cuốc mã tên đại phản quốc" để rửa hận cho quốc dân VN
- VỤ ÁN NGUYỄN ÁI QUỐC:
Về vụ án lịch sử Nguyễn Tất Thành biếm xưng tên gọi của nhóm Nguyễn Ái Quốc, khi Hồ sống tại Pháp từ 1911-1923, cũng đã được tranh cãi sôi nổi giữa cơ quan tuyên truyền của đảng và nguồn dư luận trong cũng như ngoài nưóc. Ðọc "Chủ tịch Hồ Chí Minh-tiểu sử và sự nghiệp" do đảng ấn hành, tuyên bố là tất cả những bài viết và tranh vẽ trên báo Le Paria số 1, đều của Nguyễn Ái Quốc sáng tạo. Ta biết tờ Le Paria hay "Người Cùng Khổ" do Hội Liên Hiệp Thuộc Ðịa chủ trương, từ số 1 đến số 12 đều do J.B Meyrat làm quản lý. Các số khác từ số 13 về sau do G.Sarotte và Léopol Mesnard chịu trách nhiệm, đặc biệt số 1 ra ngày 1-4-1922 không có một bài nào của Nguyễn Ái Quốc. Vậy mà Ban Nghiên Cứu Lịch Sử của Trung Ương Ðảng VC, dám tuyên bố "bác", tức là đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm quản lý tờ báo này. Ngoài ra cũng trên tờ Le Paria, có nhiều bài viết hay tranh vẽ ký tên Nguyễn Le Patriote, là biệt danh của Nguyễn Thế Truyền và các sinh viên trong Hội Ái Quốc An Nam, thế nhưng Ðảng vẫn tỉnh bơ nhận bừa đó là sản phẩm của Nguyễn Ái Quốc.
Riềng bài viết "Lên Án Chủ Nghĩa Thực Dân" được đánh giá là một tài liệu tranh đấu trác tuyệt về nội dung cũng như hình thức. Theo nhận xét, thì lúc đó các nhân vật đấu tranh sống ở Paris, chỉ có Luật Sư Tiến Sĩ Phan văn Trường và Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền mới có đủ khả năng Pháp ngữ cũng như tư tưởng nhận thức để viết được một bài văn tranh đấu nẩy lửa hùng biện như vậy. Còn Nguyễn Tất Thành mặc dù có sống giang hồ khắp nơi từ 1911-1922 nhưng dù sao trình độ học vấn cũng giới hạn, chỉ viết ba lá đơn xin nhập học mà còn phạm nhiều lỗi chánh tả và văn phạm, thì không thể nào là tác giả của kiệt tác trên. Phương chi, phóng đại vốn là nghề của đảng, tâng bốc để bác vang danh với đời lại càng thêm thần thông quảng đại hơn.
Bởi vậy ngày nay, trước những khám phá về việc hoàn toàn bịa đặt một Nguyễn Tất Thành đại thiên tài, từ một anh thanh niên giáo viên quèn tại một trường làng, một bồi Ba trên tàu viễn dương, đùng một cái nhảy phóc lên làm ông quản lý một tờ báo nổi tiếng, phát hành 5000 số một kỳ, lại còn kiêm thêm họa sĩ và nhà văn... cho tới khi ‘bác’ sang Nga và Tàu từ năm 1923, vậy mà vẫn cứ làm quản lý và viết bài cho báo này tại Pháp cho tới khi báo đình bản.
Tất cả đều do Trần Dân Tiên dựng đứng câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc, để thần thánh hóa Hồ Chí Minh, mà cả ba tên đều là Nguyễn Tất Thành. Sự thật ngày nay cho biết, Nguyễn Ái Quốc là tên gọi chung của nhóm người viết trên tờ Người Cùng Khổ (Le Paria), gồm có Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và trong suốt 38 số báo ấn hành, không có một bài nào hay tranh vẽ của Nguyễn Tất Thành nhưng chàng đã láu cá nhận vơ cái tên chung của nhóm là Nguyễn Ái Quốc. Sau đó được cơ quan tuyên truyền của đảng CS hợp thức hoá "sáng lập và linh hồn hay quản lý báo".
Chưa hết, căn cứ theo sử liệu ta biết từ năm 1923-1946, Hồ đã rời Paris đi Mạc Tư Khoa, Tàu trong lúc đó, vào tháng 1/1926 tại Paris đã xuất hiện tờ Việt Nam Hồn bằng chữ quốc ngữ, thỉnh thoảng có các bài bằng Hán và Pháp Ngữ. Từ tháng 9-1929 lại đổi tên là Phục Quốc, do cơ quan ngôn luận của dảng Việt Nam Ðộc Lập tại Pháp ấn hành. Trong một vài số báo, có bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện lịch sử minh bạch như vậy mà đảng vẫn thản nhiên viết là năm 1923, "bác" tại Pháp trong khi thành lập tờ "Người Cùng khổ" đã kiêm nhiệm thêm tờ "Việt Nam Hồn". Những sự thật thì không ai có thể thêm bớt, bóp méo hay xuyên tạc được. Cho nên những lố lăng về huyền thoại Hồ Chí Minh, ngày nay rốt cục đã trở thành những trận cười trong dân gian, dù nó tồn tại hay bị sóng đời vùi dập.
2. ÐÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN ÐẢNG:
Từ các tài liệu hiện còn lưu trữ nhất là của Ðảng VC thì tiền thân của đảng cọng sản Việt Nam là Nhóm Tân Việt Thanh Niên Ðoàn hay Tâm Tâm Xã của Việt Nam Quang Phục Hội do Phan Bội Châu và Cường Ðể thành lập. Sau đó là Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội rồi Việt Nam Kách Mệnh Ðồng Chí Hội, lung tung danh xưng như chính con người Nguyễn Tất Thành, xác chỉ một mà tên thì có hằng trăm không biết đâu mà mò. Thật ra, các tổ chức trên chỉ một tổ chức ngoại vi với các tên tuổi có sẵn của Tâm Tâm Xã, để Hồ lấy đó thu hút và dụ dỗ các thanh niên yêu nước đang lạc lỏng trên con đường chống Pháp. Quyết định mọi sự đều do một tổ chức bí mật của Hồ đứng sau lưng, tức là Ðoàn Cọng Sản gồm những thành phần thân tín tuyển chọn, mà trong tài liệu của Ban Phương Ðông gọi là Việt Nam Kách Mệnh Hội (viết theo chữ của Nguyễn Ái Quốc).
Một bi thảm khác rất quan trọng mà ít người để ý tới, là từ xưa nay hầu hết những người Quốc Gia dấn thân, dù là ai chăng nữa cũng phải tự mưu sinh kiếm sống để hoạt động sinh tồn, cho nên họ dễ bị thất bại hay dang dở nữa chừng, điển hình là Việt Nam Cộng Hòa qua cuộc chiến ngăn chống cọng sản quốc tế từ năm 1955-1975, đã phải bõ dở cuộc chiến thắng gần kề, vì không còn phương tiện tự tồn khi bi Hoa Kỳ phản bội và tháo chạy. Trái lại VC nhất là Hồ Chí Minh, từ lúc bán thân cho đệ tam cọng sản quôc tế Liên Xô, thì không hề lo tới chuyện ăn sống. Liên Xô lúc đó qua chủ trương xuất cảng chủ nghĩa Tam Vô khắp thế giới, nên vơ vét hết tài nguyên của đất nước mình, để vung tiền mua chuộc người theo, nhất là với Trung Hoa ÐANG ÐÓI NGHÈO, LẠC HẬU VÀ BỊ Tây Phương-Nhật Bổn ức chế. Lý Thụy tức Hồ Chí Minh may mắn lọt vào kho vàng, vừa yên ổn múa may trên đất Tàu lại có hậu phương LX to lớn yểm trợ, thì sao không khuyến dụ được những thanh niên yêu nước, lúc đó đang sống bơ vơ thiếu thốn và đầy hiểm nguy trên đất Tàu, Nhật, Thái và khắp Âu Châu. Cuối cùng Nguyễn Ái Quốc vốn là một người làm chánh trị chuyên nghiệp, được đào tạo từ lò Lenin để làm chính trị nhà nghề. Bởi vậy người Quốc Gia chỉ với tấm lòng yêu nước nồng nàn, thì thất bại trước giặc cướp, cũng đâu có gì là lạ.
Ðể đạt mục đích nhuộm đỏ quê hương, đầu tiên là phải có thực lực và Nguyễn Ái Quốc đã trồng người và những cây người mọc rể từ Tâm Tâm Xã có trước như Lê Thiết Hùng, Lê Quang Ðạt, Trương văn Lệnh, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Phú. Tóm lại, tất cả đều là người Việt bằng xương thịt nhưng tim óc do Liên Xô tưới trồng với nhiệm vụ duy nhất ‘quảng bá tư tưởng Mac-Lê’ trên quê hương Việt Nam. Bắt đầu từ ngày 21-6-1925, Hồ qua tổ chức Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội, bắt đầu truyền bá tư tưởng Lenin, qua các báo Thanh Niên, Lính kách mệnh, Công Nông, Tiền Phong. Theo sử liệu, thì cơ sở VC đầu tiên trong nước là Kỳ Bộ Nghệ-Tỉnh vào năm 1926, do Lê Huy Lập làm Bí thư. Kế tiếp mới tới Hải Phòng, Hà Nội và sau rốt là Nam Kỳ.
Tuy nhiên dù được tổ chức chặt chẽ, có đầy đủ tiền bạc, phương tiện nhưng lúc đó không có bao nhiêu người biết Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội hay Nguyễn Ái Quốc là gì. Trái lại khắp nước, mọi người nô nức gia nhập các đảng phái Quốc Gia vừa được thành lập như Việt Nam Quốc Dân Ðảng của nhóm Nguyễn Thái Học ra đời tại Bắc Kỳ năm 1927. Tại Trung Kỳ có Việt Nam Cách Mạng Ðảng hay Tân Việt Ðảng. Trong Nam, mọi người theo Ðảng Lập Hiến và Cao Ðài giáo. VC bấy giờ chẳng những bị dân chúng tẩy chay, mà còn bị Mật Thám Pháp ruồng bố, nên rốt cục các thủ lãnh như Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Văn Hoan phải trốn sang Xiêm La, Tàu hay bị bắt.
Cũng trong năm 1925, Phan Bội Châu bị mật thám Pháp bắt cóc ở Thượng Hải, rồi bí mật giải về Hà Nội hiện nay vẫn còn là một nghi án, mặc dù đa số tài liệu trong và ngoài nước, đều xác quyết do Lý Thụy, tức Hồ Chí Minh cùng Lâm Ðức Thụ, bán đứng cho thực dân, để nhận số tiền thưởng rất lớn lúc đó, lên tới 150.000 phật lăng. Cũng tại Quảng Châu, theo tin tình báo của Pháp, ngày 18-10-1926, bac ‘Hồ’ cưới một nữ hộ sinh người Hoa trong đảng CS Trung Hoa tên Tăng Tuyết Minh, làm vợ. Sau này vào tháng 5-1991, báo Nhân Dân và Tuổi Trẻ của VC mới chịu đăng tin xác nhận là "bác" cũng có vợ như mọi người.
Tại Trung Hoa, đầu năm 1925, Tôn Dật Tiên qua đời đột ngột, khiến nội bộ Trung Hoa Quốc Dân Ðảng phân hoá trầm trọng vì tranh giành quyền lực. Trong lúc đó đảng Cộng Sản Trung Hoa, từ phong trào Ngũ Tứ ngày 4-5-1919, của 3000 sinh viên biểu tình chống Hội Quốc Liên, bắt Tàu cắt nhượng Tô Giới Ðức cho Nhật Bổn. Trong phong trào này, hàng lãnh đạo có nhiều người Mácxít tả phái như Trần Ðộc Tú, Trương Thái Lôi, Lý Ðại Chiêu đã giúp cho đảng bành trướng rất nhanh, tới tháng 7-1921 khắp nước đã có hơn 60.000 đảng viên hoạt động. Rồi ngày 30-5-1925, toàn quốc phát động phong trào Ngũ Táp, đình công bãi thị, khiến Nhật, Anh, Pháp tại các tô giới thẳng tay đàn áp, đe doạ trầm trọng tình trạng an ninh khắp nước. Ðể cứu vãn tình hình, trong tháng 3-1927, Tưởng Giới Thạch từ miền Nam xua quân lên Bắc, mượn danh đánh Nhật, bất thần tiêu diệt toàn bộ cơ sở của đảng cọng sản Trung Quốc tại Bắc Bình, Thượng Hải, treo cổ lãnh tụ Lý Ðại Chiêu.
Khắp nơi, quân Quốc Dân Ðảng xuống tay tiêu diệt trọn vẹn từ cơ sở tới chi nhánh, đảng bộ... khiến cộng đảng chỉ còn đường trốn chạy. Tính đến tháng 12-1927 hơn 40.000 đảng viên cọng sản Trung Hoa đã bị Tưởng Giới Thạch bắt giết, khiến Chu Ðức, Mao Trạch Ðông phải chạy về vùng nông thôn tỉnh Giang Tây cố thủ. Tại Quảng Châu, trụ sở đảng Việt Nam Kách Mệnh của Hồ bị tàn phá. Hồ Tùng Mậu bi bắt, các thanh niên Việt Nam đang theo học tại trường Võ Bị Hoàng Phố bi giam lỏng để thanh lọc. Borodin bị gọi về Liên Xô, còn Hồ thì trốn theo cánh quân Trung Cộng tới Sa Ðầu để về Nga Sô Viết. Tóm lại giai đoạn đi thực tế đễ trở thành một chuyên viên cọng sản, Hồ đã hoàn thành và cũng kể từ đó, chỉ còn có một bổn phận duy nhất "tiếp tục trung thành, hữu dụng cho đế quốc Liên Xô và mưu đồ độc chiếm ngai vàng cho mình".
Nhờ em ruột của Nguyễn Thị Minh Khai là Nguyễn Hữu Dung, mới đây có khoe thành tích của anh rễ mình là Lê Hồng Phong, trên báo đảng Thế Giới Mói, số 328 ngày 22/3/1999, chúng ta mới biết thêm nhiều chuyện cán bộ VC bí mật theo học tại Liên Xô mà trước đây Ðảng dấu nhẹm vì sợ bại lộ chân tướng. Theo tài liệu cho biết, trước khi Hồ Chí Minh qua nhân vật Lý Thụy tới Quảng Châu để phụ tá Toàn Quyền Liên Xô là Boradin, thì tại đây đã có tổ chức Tâm Tâm Xã thuộc VN Quang Phục Hội, do Phan Bội Châu và Cường Ðể thành lâp. Trong nhóm đa số gồm nhiều thanh nước yêu nước trí thức, đa số người hai tỉnh Nghệ An và Hà Tỉnh, trong đó có Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong .Chính Phan Bội Châu đã can thiệp với Tưởng Giới Thạch, lúc đó là Giám Ðốc Chỉ Huy trưởng Trường Sĩ Quan Hoàng Phố, thu nhận các thanh niên VN vào học. Do trên Lê Hồng Phong đã được nhập học tại đây từ tháng 7/1924.
Năm 1925, Hồ và Lâm Ðức Thụ bán Phan Bội Châu cho Pháp, đồng thời tiếm trọn tổ chức Tâm Tâm Xã lúc đó như rắn mất đầu, bằng tiền bạc, khuyến dụ đưa những thanh niên yêu nước chân thành trong trắng, bước vào con đường nhuộm đỏ VN, cũng như giúp xác, máu, đưa Hồ lên đài danh vọng. Do trên, vào tháng 10/1926, Lý Thụy bí mật đưa nhiều thanh niên như Lê Hồng Phong, Trần văn Giàu ... sang học tại trường Phương Ðông Lenin ở Liên Xô. Trước đây không ai biết trường này đã dạy những gì nhưng theo lời Nguyễn Hữu Dung, thì tại đây Lê Hồng Phong được học đủ thứ, qua một thời gian dài từ tháng 10/1926 cho tới năm 1931, mới tốt nghiệp. Theo đó thì Phong đã trải qua các khóa Lý luận quân sự không quân tại Leningrad, lớp phi công tại Borisglevsk, trước khi chính thức vào học các khóa 2 và 3 tại trường Phương Ðông mà Hồ đã học khóa trước.
Ngày 23/11/1925, Pháp mở phiên tòa đại hình tại Hà Nội để xử Phan Bội Châu. Ngay tức khắc, cả nước từ nam tới trung-bắc, hầu như tất cả mọi người, mọi đảng phái từ Phục Việt, Thanh Niên cho tới nhóm Jeune của Phạm Quỳnh đều nhất loạt đứng lên tranh đấu cho nhà ái quốc, khiến cho thực dân phải nhượng bộ, ân xá cho Sào Nam, chỉ bắt ông phải sống tại Huế, qua sự kiểm soát gắt gao của Chánh Sở mật thám Trung Kỳ là Léon Sogny. Từ đó cụ sống ẩn dật bên lề lịch sử cho tới lúc qua đời vào năm 1940, nhưng ngọn lửa đấu tranh và tiếng thơm của người chí sĩ, đã được các thế hệ em, con thay nhau tiếp nối, làm rạng danh ông ngàn đời trong dòng sử Việt. Tại Sài Gòn, Phan Chu Trinh bệnh nặng và mất ngày 26/3/1926. Theo nhận xét của các sử gia, con đường đấu tranh của ông lúc còn sinh tiền, chỉ để chống lại chế độ quân chủ nhưng tôn thờ nước Pháp làm thầy để học hỏi. Tuy vậy, quốc dân VN vẫn kính trọng những người yêu nước, và toàn quốc đã tổ chức Lễ Quốc Táng Phan Chu Trinh ngày 4/4/1926 tại Sài Gòn, trong sự đàn áp của người Pháp nhưng tất cả đều vô vọng, chứng tỏ tinh thần quốc gia yêu nước của người Việt thế hệ mới, đang đối mặt công khai chống lại giặc cướp, sau 60 năm bị đô hộ.
Từ những biến chuyển trên, công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp cũng bước vào một lối rẽ quan trọng với hai khuynh hướng chính trị: Hợp tác và chống Pháp bằng võ lực. Phái hợp tác chủ trương "Pháp-Việt đề huề" hay như Phan Chu Trinh khi còn sống "thờ người Pháp làm bậc thầy để cầu tiến bộ" đứng đầu có Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long... chỉ mong chủ Pháp nhả cho một chút quyền hạn. Cũng thuộc nhóm này, có Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường theo gương Phan Châu Trinh, đòi thêm phần bãi bỏ chế độ quân chủ, đồng thời cải thiện tình trạng xã hội, giáo dục, luật pháp. Nguyễn An Ninh phát hành tờ báo bằng tiếng Pháp tại Việt Nam "La Cloche Fêlée - Chuông Rè" được coi như tờ báo đầu tiên của người Việt, công khai đối lập với Pháp. Khuynh hướng chống Pháp bằng võ lực, bắt đầu từ phong trào Văn Thân, Cần Vương được nối tiếp bởi Phan Bội Châu, Cường Ðể và Nguyễn Hải Thần qua Việt Nam Quang Phục Hội rồi Việt Nam Cách Mệnh Ðảng hay Phục Việt do Lê Huân thành lập tại Côn Ðảo. Từ tháng 7/1925, đảng đổi tên là Hưng Nam, hoạt động tại Nghệ An, quy tụ nhiều thành phần ưu tú gồm công chức, sinh viên thời đó như Ðào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Vịnh. Tiếc thay Ðảng yêu nước đã bị Nguyễn Ái Quốc khuyến dụ và trở thành công cụ cho đảng cọng sản cùng Hồ vào năm 1929, sau khi lãnh tụ Lê Huân chết trong tù ngục tỉnh Nghệ An.
Trong giai đoạn này, nổi bật hơn hết vẫn là Việt Nam Quốc Dân Ðảng, được thành lập ngày 24/12/1927 do hai lãnh tụ Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu tại miền Bắc, theo khuynh hướng Tam Dân Chủ Nghĩa của Tôn Dật Tiên. Cuối năm 1928, đảng bành trướng mạnh khắp nước với hơn 100 chi bộ và 1500 đảng viên. Nhiều cán bộ đảng hoạt động trong quân đội Pháp. Nhưng sau vụ tên Pháp kiều Horne Bazin, giám đốc công ty mộ phu đồn điền cao su bị ám sát tại Hà Nội ngày 17/2/1929, Pháp bắt đầu triệt hạ Việt Nam Quốc Dân Dảng, nhiều cán bộ cao cấp bị bắt, chỉ có Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu trốn thoát nên đầu năm 1930 đã ra lệnh Tổng Khởi Nghĩa. Lúc này Nguyễn Ái Quốc an vị tại Liên Xô tuy Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản hay Việt Nam Kách Mệnh Thanh Hội vẫn hoạt động tại Việt Nam nhưng chỉ là cái bóng mờ trước Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Hưng Nam và Cao Ðài giáo.
Tại Liên Xô, Stalin lên kế quyền Lenin, ban lệnh tiến tới "xã hội chủ nghĩa" mà thí điểm đầu tiên là nước Nga. Nguyễn Ái Quốc được lệnh công tác tại Bá Linh, sau khi đề nghị Trần Phú làm Bí thư nhóm VC đang hoạt động tại Việt Nam, đồng thời xin cho Lê Hồng Phong vào học tại Viện thợ thuyền Ðông Phương. Ðầu năm 1928, Nguyễn Ái Quốc được lệnh trở lại hoạt động tại Ðông Nam Á, địa bàn lần này là Xiêm La.
Theo Hoàng văn Hoan, Hồ có mặt ở đây vào tháng 6/1928 qua các bí danh Mr Tho, Nam Sơn và Thầu Chín. Trong lúc Hồ đang làm quốc tế vận, thì đảng VC trong nước qua Nghị quyết hành động của Ðại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ VI năm 1928, đã tách thành 5 nhóm cùng những hiềm khích bùng nổ lớn. Nói chung từ tháng 9/1929 Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội coi như tan rã. Vì vậy Quốc phải xin lệnh Stalin cho mình giải quyết. Ðầu năm 1930, Quốc tới Hồng Kông để hàn gắn tranh chấp nội bộ, giữa hai đảng Dông Dương Cọng sản đảng và An Nam cọng sản đảng. Cuối cùng Quốc đưa lệnh của Bộ Phương Ðông, khiến hai phe đồng ý hợp nhất thành một, đó là ‘Ðảng Cọng Sản Việt Nam’, do Trần Phú (1904-1931) được Liên Xô chỉ định là Tổng Bí Thư đầu tiên.
Hai cuộc nổi dậy của VN Quốc Dân Ðảng vào dịp Tết Canh Ngọ (1930) và các cuộc biểu tình bạo động của giới lao công và nông dân, từ tháng 6/1930 tới giữa năm 1931, dù thất bại nhưng cũng đã gây chấn động khắp nước và lan tới Pháp, mở màn cho cao trào đấu tranh của người Việt, dù thực dân tại Ðông Dương cố đánh dẹp. Ngày 26-1-1930 tại hội nghị Phú Thọ, đảng trưởng Nguyễn Thái Học, quyết định tổng khởi nghĩa, trong đêm giao thừa tết Canh Ngọ. Ông tuyên bố "không thành công cũng thành nhân", chứ không thể sống mãi đời nô lệ nhục nhã dưới gót giầy nô lệ ngoại bang. Cuộc chiến đã thất bại vì nghĩa binh không đủ thực lực chống với giặc Pháp có đầy đủ phương tiện chiến tranh. Làng Vĩnh Bảo thuộc tỉnh Hải Dương bị bom của Pháp san bằng, hầu hết cán bộ trong đảng bị bắt. Ngày 17-6-1930, Ðảng trưởng Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí lên đoạn đầu đài tại Yên Bái. Ông và các anh hùng đã chết nhưng khí tiết và danh dự luôn là ngọn đuốc soi sáng tâm hồn các thế hệ trong dòng sử Việt. Cũng từ đó, qua ảnh hưởng cuộc khởi nghĩa trên, cộng với hoàn cảnh kinh tế khủng hoảng, đã tạo nên tình trạng rối loạn khắp nước. Lợi dụng cơ hội trên, Trần Phú và cán bộ đảng VC, sách động dân chúng biểu tình chống phá Pháp khắp nơi nhưng rầm rộ nhất là tại Nghệ An, khiến cho hằng trăm người bị Pháp bắn chết.
Cũng trong giai đoạn hỗn loạn này lần đầu tiên tại VN, cán bộ cọng sản quốc tế, đã rập khuôn Trung Cộng biến biểu tình thành du kích chiến, tổ chức các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi gọi là Sô Viết, tại hai huyện Nam Ðàn và Thanh Chương, nên sau này mới có danh từ Sô Viết Nghệ Tĩnh. Hậu quả của cuộc xúi bậy này, làm cho Toàn Quyền Ðông Dương Pasquer cho lệnh bắn giết thẳng tay bằng phi cơ giội bom làng mạc, song song với cuộc tảo thanh của Lính Lê Dương, gây nên cảnh tang tóc chưa từng có cho những lương dân vô tội, trước cảnh dao thớt đoạn trường. Loạn lạc kéo dài tới nửa năm 1931, khi cán cộng đầu sỏ không còn và nạn đói khắp nơi, mới tàn lụn.
Ngày 10/10/1931 Tại Cửu Long-Hương Cảng, Trần Phú mở hội nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 1, ngoài việc gián tiếp chỉ trích sự bất tài của Nguyễn Ái Quốc, còn đổi tên VN cọng sản đảng thành Ðông Dương cọng sản đảng. Do trên Quốc không tới tham dự dù cũng còn chỉ huy Chi Nhánh Bộ Phương Ðông của Sô Viết tại Hồng Kông. Từ đây, âm mưu tài trợ của Stalin cho các đảng cọng sản địa phương làm loạn bị bại lộ, đã khiến thực dân Tây Phương liên kết với nhau để chống đỡ. Cũng từ đó, Cục Phương Nam do Hồ chỉ huy cùng thủ hạ đang hoạt động tại VN, bị mật thám các nước lùng bắt dữ dội. Tháng 4/1931 Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn thị Vịnh bị Anh bắt tại Hồng Kông. Trong nước Trần Phú chết trong tù. Ðây cũng chỉ là cuộc tắm máu khởi đầu (1930-1931) của Quốc Tế Cọng Sản, vì phía sau còn có một hậu phương vĩ đại, chịu chung tiền bạc, vũ khí và bạo lực, để đạt dược thắng lợi cuối cùng, là nhuộm đỏ cả thế giới, trong đó có Ðông Dương.
3. NGHI ÁN NGUYỂN ÁI QUỐC CHẾT TRONG NHÀ TÙ HỒNG KÔNG 1932:
Cũng trong chuyện dài về Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh, huyền thoại đáng kể nhất là vụ Nguyễn Ái Quốc chết trong nhà tù Hồng Kông vào cuối năm 1932, vì nghiện thuốc phiện và bị bệnh lao. Vụ này trước sau, từ Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp cho tới cơ quan tuyên truyền của VC, đều nói là do Pháp phao tin để làm hạ uy tín Hồ. Riêng vợ luật sư Frank Loseby, người được Cộng Sản Quốc Tế mướn để biện hộ cho Hồ, sau năm 1969 khi "bác" chết, đã nói tin đó là có thật, và do chính chồng bà ta tung ra, để đánh lạc hướng mật thám Pháp.
Theo nhận định của các sử gia, việc Nguyễn Ái Quốc "giả chết" đều theo ý Liên Xô, nhằm phục vụ nhu cầu chính trị. Với Nga, Nguyễn Ái Quốc chết mới có cơ hội đưa các cán bộ khác lên thay thế và gầy dựng lại đảng VC đã bị tan tác. Với Tây Phương, khai tử con người cộng sản quốc tế chuyên nghiệp, để một bí danh mới của Nguyễn Tất Thành đóng vai điệp viên tam trùng, đang cần thiết tại mặt trận Viễn Ðông sắp tới. Tất cả đều nằm trong vòng bí mật và có lẽ chẳng bao giờ tình báo Nga, chịu mở hồ sơ vụ trên, dù Hồ đã chết thật từ lâu rồi.
Tháng 11-2008 vừa qua, một quyển sách viết bằng Hoa văn qua tựa đề "Hồ Chí Minh sanh bình khảo" mà tác giả là Giáo Sư Sử Học tên Hồ Tuấn Hùng, sinh năm 1949 hiện là một công chức cao cấp trong Bộ Giáo Dục của Trung Hoa Dân Quốc. Sách được nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa tại Ðài Loan phát hành ngày 1-11-2008. Tiếp theo là bài viết của tác giả Chân Mây trên Hải Ngoại Phiếm Ðàm ngày 25-11-2008 với tựa "Hồ Chí Minh là người Khách Gia (Hakka)". Cùng ngày một tác giả khác tên Tạ Phong Tần đã đưa bài viết "Hồ Chí Minh là người Tàu" của GS Hùng lên blog.360.Yahoo.com.
Tóm lại tài liệu mới vừa được phổ biến từ các tác giả trên về các chi tiết cũng gần giống như các tài liệu cũ đã được phổ biến từ lâu, chỉ khác ở chổ là GS Hùng đi vào chi tiết và nói là mình có chứng cớ xác nhận việc trên là đúng sự thật, mặc dù ai cũng chỉ đọc được bản tin trên diễn đàn mà thôi.
Chúng ta biết, năm 1931 trong ngục, Nguyễn Ái Quốc giả vờ đóng kịch với người Anh qua màn hợp tác diệt Cộng, để thoát thân. Nhưng cũng từ đó, Hồ bị xuống giá, chỉ trích là bọn thời cơ. Tập sách Ðường Kách Mệnh, dùng làm kim chỉ nam cho cán bộ Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội, của Hồ được coi là thứ dỏm, sặc mùi quốc gia, tiểu tư sản. Tháng 12/1934, Hồ bị ngay chính cơ quan ngoại vi của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, chỉ trích nặng nề trên tờ báo đảng là Bôn-sơ-vic.. Trong giai đoạn này, Ban Phương Nam do Lê Hồng Phong lãnh đạo, thế Nguyễn Ái Quốc đã bị khai tử. Lúc này Hà Huy Tập làm Tổng Bí Thư Ðông Dương Cộng Sản Đảng, còn Hồ Nam Trần Văn Giàu được lệnh về Nam tổ chức lại đảng.
Tóm lại từ năm 1934, Ban lãnh đạo ngoại vi của VC, dời về Ma Cau và tập hợp lại gần như đầy đủ các thành phần có trước trong Tâm Tâm Xã, kể cả Cô Duy, tức Nguyễn thị Minh Khai. Tháng 7-1936, Nga ra lệnh cho Lê Hồng Phong, đua Ban Phương Nam, tức là cơ quan lãnh đạo tối cao của Việt Cộng về Nam Kỳ hoạt động. Trong năm 1936, đảng Bình Dân Pháp đã ra lệnh phóng thích hàng ngàn tù nhân chính trị VN, trong đó phần lớn là cán bộ cộng sản như Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Văn Cừ, Hạ Bá Cang, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh.
Nhờ vậy đảng cộng sản Ðông Dương đã phục hồi nhanh chóng và liên kết với các thành phần tả phái không cộng sản, thành lập Mặt Trận Dân Chủ Ðông Dương, trong đó có Ðặng Xuân Khu (Trường Chinh), Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Ðồng, Trần Huy Liệu. Nhưng chưa được bao lâu thì Stalin ra lệnh cho nhóm Stalinist tức Ðông Dương cộng sản đảng, đệ tam quốc tế, phải cắt đứt liên hệ với phe Ðệ tứ cộng sản hay là nhóm Trốt-kít của Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu.. ở Sài Gòn. Tại miền Trung, các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi Bình Ðịnh đã bắt đầu có Tỉnh Ủy lâm thời. Riêng kinh đô Huế, từ năm 1937, Việt Cộng hoạt động bán công khai qua tờ báo L’ épi du Riz (Nhành lúa), do Việt Cộng cao cấp HẢI TRIỀU Nguyễn Khoa Văn, chủ biên. Lợi dụng những cuộc đấu tranh hợp pháp, từ năm 1939 cán bộ Quốc Tế Cộng Sản tại Ðông Dương, ra sức tổ chức và phát triển các nghiệp đoàn lao động bất hợp lệ, nông hội cùng nhiều hội đoàn bô lão, thanh niên, phụ nữ, đánh giày, bán báo, bình dân giáo dục... lúc đó, khắp nước đã có trên 1000 cán bộ chính thức. Trong giai đoạn này, cộng sản đệ tam phát triển mạnh nhất là tại Việt Bắc với nhiều cơ sở, còn có cả một tiểu đội du kích do Lê Quảng Ba và Hoàng Sâm chỉ huy tại Cao Bằng.
Thế chiến thứ 2 bùng nổ, tại Ðông Dương vào đầu năm 1940, Pháp lại thẳng tay càn quét và gần như toàn thể đảng viên Việt Cộng, trong đó có hầu hết các cán bộ từ Bộ Phương Ðông về. Ðúng lúc đó thì Nguyễn Tất Thành qua bí danh Thiếu Tá Hồ Quang, xuất hiện tại Quảng Tây và Côn Minh, trong sứ mạng điều khiển Ban Hải Ngoại của đảng. Lần tái xuất này, "bác" lại gặp hên, vì hầu hết các "đảng chúa" trong nước đều nằm rọ. Hồ chợp cơ hội tuyển cán bộ mới, để làm hậu thuẫn cho mình sau này, qua mộng bước lên ngai vàng An Nam vào tháng 9-1945. Trong giai đoạn này, Hồ ngoài cái tên Trần Vượng, còn là Thiếu Tá Hồ Quang của Ðệ Bát Lộ Quân của Cộng Sản Trung Hoa Mao Trạch Đông, do Diệp Kiếm Anh chỉ huy, đồng thời cũng chỉ đạo Ban Hải Ngoại của Phùng Chí Kiên.
Ðây cũng chỉ là một phần nhỏ, tóm lược về cuộc đời của Nguyễn Tất Thành, qua huyền thoại "xuất dương" tìm đường cứu nước, một con người trăm tên, trăm mặt, thay đổi hình dạng và thủ đoạn chính trị, đâu có khác gì loài tắc kè xanh xanh đỏ đỏ... Bởi vậy sau khi đã được sống thật với người cộng sản dưới chế độ Việt Cộng, thì bất cứ người nào khi nghe qua các câu chuyện có liên quan tới bắc bộ phủ nhất là chuyện về" bác", làm cho ai cũng phì cười vì cứ nghe hoài mà đâu có đoạn cuối.
Xóm Cồn Hạ uy Di
Tháng 12-2008
Mường Giang
Sau khi gia nhập đảng cọng sản Pháp, tháng 5-1923 Hồ Chí Minh (tên mới của Nguyễn Tất Thành) sang Nga và bắt đầu một cuộc đổi đời về vật chất, cũng như được quan thầy Nga, huấn luyện dạy dỗ, trở thành một điệp viên cộng sản quốc tế. Rồi Hồ được lưu lại công tác tại Bộ Phương Ðông, phụ trách vấn đề các nước thuộc địa. Theo Hồng Hà, lúc đó Hồ được ở trong khách sạn Luych, lương tháng bảy Tchervonetz, tương đương với bảy chục đồng Rúp vàng hoặc 50 gam vàng.
Trong lúc đó tại Nga nạn đói đang diễn ra thê thảm, khắp cả nước giặc giã loạn lạc triền miên. Thế nhưng đảng cọng sản Nga lại cưng chiều Hồ, với thực phẩm ê hề, tiền nong đầy đủ, và chỗ ở thì đông vui nhất. Hèn chi Hồ đã sớm trở thành tên phản quốc số một của thời đại, suốt đời chỉ biết trung kiên và phục vụ cho chủ mà thôi. Chính nơi thiên đàng này, Hồ cho biết là mình đã được giác ngộ, hạnh phúc nên đã coi đây mới chính là quê hương và tổ quốc đích thực của mình. Cũng tại đây trong ngày quốc tế Lao Ðộng 1-5-1924, Hồ theo lệnh thượng cấp, đến nói chuyện trước đám đông trong cuộc biểu tình, dưới một biểu ngữ màu đỏ, để tang cho LêNin. Cũng theo Hồng Hà, Hồ đã hứa là sẽ đem Lá Cờ Búa Liềm của Liên Xô, cũng như chủ nghĩa xã hội của Ðệ Tam Cộng Sản Quốc Tế, về cấm tại tổ quốc VN và Y đã thực hiện đúng lời cam kết trước vong linh của Lê-Nin.
Từ bản chất mặc cảm đói nghèo, Hồ xuất dương qua động cơ thúc đẩy là kiếm sống và vươn lên trong xã hội, nên chúng ta sẽ không lấy làm lạ về chuyện Hồ nộp đơn xin vào học miễn thi tại trường thuộc địa Pháp hay xin Khâm Sứ Trung Kỳ cho cha là Nguyễn Sinh Sắc một chức quan nhỏ, để kiếm cơm nuôi miệng. Sống ở Nga trong suốt thời kỳ biến động, trời long đất lở, có lúc tưởng chừng chế độ Bonsovich sẽ bị tan tành. Nhưng chính hoàn cảnh đó, lại trở thành thân quen, đáp ứng đầy đủ ý thức nô lệ của một con người ôm đấy khát vọng, đã dạy cho Hồ những mô thức xã hội tương lai, rập khuôn theo Liên Xô qua 2 vấn đề: "thiếu nhi và nghệ thuật khủng bố của KGB".
Thật vậy ở Liên Xô thiếu nhi ngay từ thuở nhỏ, đã được đảng giáo dục và huấn luyên biết căm thù, yêu ghét theo mệnh lệnh. Ðây là chuyện mà Hồ thích nhất và đả đem nó về trồng người tại VN, về sau cũng chính những gieo trồng đó đã trở thành "thủ phạm trong mọi tội ác" mà đầu tiên là vụ án "cải cách ruộng đất" long trời lở đất tại đất Bắc, khi Hồ làm chúa nơi này. Kế tiếp là việc đem cấy ý niêm hận thù và đấu tranh giai cấp, được coi như kim chỉ nam trong đạo lý cách mạng. Chính hai chủ trương độc hại này được đảng VC gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh" suốt bảy mươi lăm năm qua, đã phá vỡ truyền thống tu thân, trị quốc và đạo đức ngàn đời của quốc dân Hồng Lạc, làm băng hoại xã hội, gia đình và nhân cách của con người VN.
Cũng kể từ đó, người Việt sống dưới chế độ cọng sản miền Bắc và cả nước từ sau tháng 4-1975, theo đề cương văn hóa được đảng giáo dục, cách yêu, cách ghét, cách sống và làm việc đã không còn là một con người, mà là những công cụ phản ảnh chính sách của đảng. Tóm lại, chính Hồ đã làm cho văn hoá và lịch sử VN vong thân, từ khi Y chính thức trở thành một tên nô lệ chủ nghĩa ngoại bang. Cũng vì vậy mà nay dù to mồm lắm miệng nói đổi mới, với cảnh phồn hoa giả tạo khắp phố phường, nhưng trong tận cùng, người dân nhất là ngư, nông, tầng lớp lao động ở mọi miền đất nước, đời sống tinh thần và vật chất, có hơn gì thời Pháp thuộc ? người vẩn nguyên là thân phận của trâu, ngựa, có khác chăng khi trước kẻ cưỡi, người chăn là thực dân da trắng, ngày nay chủ được thay thế là những tên tư bản đỏ mà sự bốc lột bạo tàn còn gấp trăm nghìn lần kẻ thù xưa củ. Ðó cũng là nhờ tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đạo.
Năm 1931 Trần Phú từ Liên Xô về, theo lệnh chủ dẹp bỏ tất cả những văn kiện được Hồ nhân danh quốc tế cọng sản, thông qua trong hội nghị thống nhất. Ðồng thời Phú thay LX, viết lại ‘ Luận Cương Chính trị’ khai lối vẽ đường cho VC theo đó mà thi hành. Cũng từ đó Hồ bị quan thầy LX cho ra rìa, chỉ hoạt động quanh quẩn tại các nước Ðông Nam Á. Rồi phong trào Xô Viết Nghệ Tỉnh bùng nổ và đẫm máu trong sự thất bại ề chề, cũng là thời gian Hồ bị gọi về giam lỏng tại LX, cho tới cuối thấp niên 30 mới thấy lộ diện và chính thức trở về VN vào mùa thu 1945 khi VC cướp được chính quyền đang bị bỏ trống hay rơi rớt bên vệ đường, vì quân phiệt Nhật đã đầu hàng Mỹ cùng Ðồng Minh, nên không thèm can thiệp.
Những nét khái quát kể trên, về một phần đời hoạt động của Hồ trong quốc tế cọng sản, qua những thay đổi theo thời gian của VC, nhưng cũng đủ cho ta thấy được rất rõ ràng, cái gọi là khuynh hướng dân tộc trong lòng đảng cọng sản VN thật sự chỉ là một ảo vọng, vì dưới lăng kính lịch sử không hề có thể xảy ra. Tất cả giờ đây đã gần như hiện nguyên hình, xác nhận Hồ cùng đảng cọng sản VN chỉ là quan hệ chủ tớ, trong một giai đoạn mà Nga-Tàu bành trướng chủ nghĩa khắp Ðông Nam Á và cũng từ đó, qua cái gọi là tư tưởng HCM đã nói lên sự nghiệp vĩ đại làm tay sai cho ngoại bang của Hồ và đảng VC trong suốt 75 năm qua tới giờ vẫn không thay đổi mà ai cũng biết.
Ngày nay, qua cuộc phong trần, trước đống núi tài liệu và bằng cớ xác thực những hành động quan liêu, phong kiến, bán nước và hủ bại của những người cọng sản, nhất là trong cung cách suy tôn Hồ Chí Minh, kể cả đám táng cái xác thối nằm ở Ba Ðình và những tuyên truyền lố lăng coi thường dư luận trong và ngoài nước, đặc biệt là việc phung phí công khố quốc gia, để bảo quản suốt mấy chục năm qua cái xác ướp của Hồ, rồi còn lập chùa, đúc tượng đồng mạ vàng thật, để Hồ chểm chệ ngồi ngang hàng với Phật-Thánh và Quốc Tổ Hùng Vương, hiện nay diễn ra khắp nước mà lố lăng nhất là đám sư sải phường chèo đang bày trò khỉ đột, tại một ngôi chùa quốc doanh trong tỉnh Bình Dương nằm sát Sài Gòn.
Bây giờ, trước cánh cửa tri thức, điện toán và trên hết là sự giải mật phần lớn các tài liệu có liên hệ tới những lãnh tụ chính trị, trong đó có đảng cọng sản VN từ năm 1930 tới giờ. Bởi vậy khi đọc qua những tài liệu có dính líu tới lịch sử, đã cho nhiều cảm xúc bất ngờ. Hơn ai hết, người Bình Thuận-Phan Thiết không biết đã làm nên tội ác gì đến đổi trời xui đất khiến, tạo nên nghịch cảnh éo le, trong màn kịch đồng song chung khoá, giữa cử nhân Trương Gia Mô với Phó Bảng Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Nguyễn Sinh Sắc. Rồi thì trong một chuyến đưa bạn Trần Quý Cáp tới nhiệm sở Ninh Hòa, nhân tiện thẳng đường vào Phan Thiết. Cũng từ đó đã gây cho hậu thế trăm năm sau, cái họa ‘anh thanh niên Nguyễn Tất Thành ‘ dạy học tại trường Dục Thanh và xuất dương tìm đường cứu nước.
Người Phan Thiết vô cớ lãng xẹt khi phải làm nhân chứng bất đắc dĩ của một thời đại nhiễu nhương ba xạo. Buổi trước ông cha ta vì bản chất an phận thủ thường và trên hết là do nghịch cảnh một tròng bốn cổ, nên phải giả vờ lấy vải thưa che mắt thánh, để miệng hoan hô đã đảo loạn ngầu cho an thân. Trò hề trống đánh xuôi kèn thổi ngược hòa đồng trong tiếng trống chầu của bọn hề chèo ngông nghênh viết lách, nhiều chuyện trên trời dưới biển, vu vơ sáo rỗng, chỉ có tác động tuyên truyền ra oai, làm cho người nay càng bi phẫn khinh miệt. Lịch sử, nhất là lịch sử VN đã dạy cho hậu thế nhiều đạo lý làm người, nhất là trong thời đại mạt pháp, mạt vận của dân tộc đang ngoi ngóp trong vũng bùn xã nghĩa VC.
Ai cũng biết đảng CSVN hiện đang chới với trong sự lựa chọn làm đày tớ cho Trung Cộng hay Hoa Kỳ. Tình hình bang giao giữa ba nước rất phức tạp nhất là lúc Mỹ đang thay ngựa và khủng hoảng nội bộ về kinh tế, tài chánh lẫn ý thức hệ chính trị. Tàu đỏ đã lợi dụng thời cơ "ngàn năm có một này" tìm đủ mọi cách lôi kéo bác bộ phủ về phe mình, để thủ đắc quyền lợi "dầu khí và ngư nghiệp" trên biển Ðông trong hải phận VN tại hai quần đảo Hoàng Sa-Truờng Sa, hiện đang tranh chấp giữa nhiều nước mà động lực gây cấn nhất vẫn là VN có Mỹ hứa hẹn giúp đở.
Về cái được gọi là tài liệu của GS Hồ Tuấn Hùng ở Ðài Loan nói Hồ Chí Minh đã chết trong nhà tù Hồng Kông vào năm 1932 và chứng minh có một người Tàu gốc Hạ Phương tên Hồ Tập Chương thay thế Hồ tới khi y chết vào ngày 2-9-1969 tại Hà Nội. Thật ra câu chuyện cũng chẳng có gì mới mẽ vì đã được nhiều sử sách trong và ngoài nước đề cập tới nhiều lần qua các diễn đàn Nhưng điều quan trọng chắc chúng ta quên để ý là tại sao tin nóng này, nay lại phải lựa đúng lúc VC đang chết sửng trong việc đu giây giữa Tàu Ðỏ và Mỹ, mới công bố và công bố một cái tin cũ rích như trên, thật sự với mục đích gì ?
Thật ra thì Hồ Chí Minh và bè lũ VC từ nhỏ tới lớn, có là người gì (Việt, Tàu, Nga, Cu Ba, Bắc Hàn..) hay súc vật đầu thai, thì cũng chỉ thế thôi : bán nước, hại dân, trộm cướp và đầu hàng kẻ thù làm nhục tiên tổ.. nên đâu có gì quan trọng mà phải gọi là ‘ nghi vấn thế kỷ ? ‘
1. BÍ SỬ DƯỚi TRIỀU HỒ:
Tới bây giờ, dù sự thật lịch sử VN đã gần như phơi bày toàn vẹn trước ánh sáng của nhân loại nhưng trong nước, hầu hết người dân kể cả người miền Bắc, vẫn không biết đích thực ‘ Hồ Chí Minh ‘ là ai ? vì từ lúc ra đời với cái tên Nguyễn Sinh Cung (Cuông), tới năm 1942 Hồ đã thay tên đổi họ tới 26 lần (Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Linov, PC Lin, Hồ Quang, Vương Quốc Tuấn, Sáu Sán, Hồ Chí Minh..). Năm 1944 Hồ từ Côn Minh về nước, lúc đó chỉ mới 53 tuổi nhưng bắt buộc mọi người gọi mình là "Cụ". Vì Trần Huy Liệu lúc đó đang giữ chức trưởng ban tuyên truyền của đảng, thường nghe các cán bộ gốc Thanh, Nghệ, Tỉnh mỗi khi gọi Hồ là "Cụ" lại phát âm như không có dấu nặng, nên âm thanh rất chướng tai và bất nhã. Do vậy Liệu cấm mọi người gọi Hồ là "Cụ’"mà đổi thành "Bác" từ đó.
Về chuyện tếu có liên hệ tới việc dân ta đã gọi ‘ bác Hồ ‘ là Người, cũng lại được chính Hồ sáng tạo như đã tự mình viết sách ca tụng mình. Ðể nhận chữ "người Hồ bịa chuyện từ định nghĩa “ Nhân là thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào”, nên chữ nhân này là Ðức Nhân, chứ không phải là chữ Nhân thông thường, dùng để chỉ con người. Hỡi ơi sự đời tráo trở đến thế là hết ý, vì ai cũng biết "Nhân giả nhân dã" của triết lý Ðông Phương tự ngàn đời, nói về "Ðức Người".Chính Khổng Phu Tử cũng đã nhận rằng "Nhân viễn hồ tai, ngã dục nhân tư nhân chí hĩ", ý ngài nói lòng Nhân đâu ở xa, nếu ta muốn thực hiện, thì sẽ có ngay trước mặt. Ngoài ra ai cũng biết "Ðức Nhân" là sự kết tụ tinh túy của mọi đức tính khác của con người như Trung, Tín, Trí, Dũng, Nghĩa, Lễ, Cương Nghị, Hiền Lành ...
Hồ Chí Minh suốt một kiếp người, từ khi xuất dương năm 1911 tới lúc nhắm mắt năm 1969, là một kẽ xảo ngôn, phô sắc, gian ác, hiểm độc, bán nước, phản dân tộc, xét về tư cách và hành động, đích thật là một tiểu nhân. Như vậy đương sự lấy gì, để tự mình cuồng điệu về Ðức Nhân, Lòng Khoan Hồng Ðại Ðộ cùng với sự Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Công Bằng... để bắt buộc mọi người gọi Mình là Cụ, Bác và Người (viết Hoa).
Sau ngày 30-4-1975, bộ mặt thật của Hồ và Ðảng CSVN lần lượt rơi rớt vì đã hết cơ hội để "Bác" tạo thêm sự nghiệp cứu nước, khi đòi độc lập và thống nhất cho quốc gia dân tộc. Tất cả đã trở thành phường chèo trước mắt của đồng bào miền Nam, khiến cho không ai, kể cả đám văn nô quốc doanh, còn dám bẽ cong ngòi bút, để tuyên truyền dụ dổ những người nhẹ dạ nhắm mắt chạy theo Hồ và đảng Cộng Sản như thuở hồng hoang buổi trước:
"đồng bào hãy vùng lên
quyết tâm theo bác Hồ
nông dân sẽ có đất
người nghèo sẽ có ăn
gạo lúa sẽ đầy sân..."
Bởi vì các thế hệ VN, kể cả lớp người sinh sau cuộc chiến, đâu có ai quên được những cuộc thanh trừng đẳm máu của Hồ và phe cánh, đối với những người được gọi là đồng chí đồng đảng, để tranh giành quyền lực, trong thâm cung bí sử triều Hồ. Ai quên được sự sát hại người Quốc Gia của Hồ, trong Mặt Trận Việt Minh và những lần hòa hợp, hòa giải Quốc-Cộng, suốt chín năm kháng Pháp. Ai quên được Hồ ra lệnh tàn sát hằng triệu đồng bào vô tội ở miền Bắc, qua chiến dịch cải cách ruộng đất vào thập niên 50, mà trong số này có rất nhiều người đã từng xã thân chống Pháp , để dành độc lập cho dất nước và nửa mãnh sơn hà cho Hồ.
Ai quên được xương máu VN của cả hai miền Nam Bắc, khi Hồ bày trò ‘ Ðánh Mỹ-Ngụy cứu nước ‘.Thảm tuyệt nhất trong lịch sử Việt, cũng vẫn là những vụ tàn sát đồng bào vào Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, trên các đại lộ kinh hoàng Quảng Trị-Huế, Bình Ðịnh, Kon Tum-Pleiku và Bình Long-An Lộc năm 1972 và khắp VNCH vào những ngày tháng 4-1975. Ai quên được các cuộc tàn sát trả thù Quân Công Cán Cảnh VNCH của CS Hà Nội sau ngày 30-4-1975, các cuộc cướp giựt tài sản đồng bào Miền Nam VN qua những lần đổi tiền, đánh tư sản, xuất cảng người vươt biển, lao động, làm điếm ... để Hồ và Ðảng hoàn thành sự nghiệp cách mạng vô sản quốc tế, đưa đất nước lên Xã Hội Chủ Nghĩa mạt rệp.
Nhưng Hồ Chí Minh là ai và tới bây giờ đố ai biết được, ngoại trừ chính bản thân của đương sự. Vì chỉ riêng năm sinh của ‘ bác’ theo các tài liệu hiện hành đã có tới (5) thời điểm khác nhau như 1890, 1891, 1892, 1894 và 1895. Trong thông hành vào Liên Bang Sô Viết lần đầu, Hồ mang tên Nguyễn tất Thành bí danh Chen Vang sinh năm 1895. Năm 1920, Hồ qua thông hành mang tên Nguyễn Ái Quốc sinh năm 1894. Sau khi cướp được chính quyền vào tháng 9-1945, Hồ Chí Minh công bố vào năm 1946, sinh ngày 19-5-1890. Về ngày sinh của Hồ là 19-5 cũng là huyển hoặc, được ngụy tạo vì nhu cầu chính trị mà thôi. Theo nhiều nguồn tài liệu được phổ biến, thì sở dĩ Hồ bịa ngày sinh của mình là 19-5, để hôm đó bắt nhân dân Hà Nội mở hội hoa đăng, nói là ăn mừng sinh nhật Hồ, mặt thật là để đón tiếp Cao Ủy Pháp là Ðô Ðốc D’ Argenlieu khi hắn tới nơi này. Cũng nhờ có cuộc đón tiếp long trọng trên, mà Hồ và thực dân Pháp đã đạt được sự dồng thuận, cho phép quân Pháp từ Sài Gòn đổ bộ lên đất Bắc, tiếp tục gây chến tranh. Có như vậy Hồ mới nhân danh là lãnh tụ Mặt Trận Liên Hiệp Việt Minh, kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến chống Pháp từ cuối năm 1946. Còn Pháp thi vin vào cớ Việt Minh gây chiến, nên phải đánh nhau, chứ không phải vì muốn cướp nước VN như dư luận thế giới đã lên án.
Ngoài ra để danh chánh ngôn thuận như Phạm Văn Ðồng thường nói "Bác là ánh sáng dân tộc". Bắc Bộ Phủ đã sửa soạn cho Hồ rất chu đáo trước khi ra diễn tuồng, Ðảng ra lệnh cho Cao Xuân Huy, Ðào Duy Anh, Trần Văn Giáp... ngay từ năm 1956, phải ngụy tạo cho "bác" một lá số tử vi, thật le lói vì có chân mạng đế vương, cốt cách thần thánh. Có vậy Hồ mới tuyên truyền dụ dỗ được dân chúng Miền Nam theo Ðảng đánh Mỹ-Ngụy cứu nước.
Về tướng diện của Hồ Chí Minh, qua các bức ảnh cũ trên báo chí sách vở lưu hành trong và ngoài nước, trước năm 1955 là niên lịch Hồ sang Nga sửa sắc đẹp. Theo tướng mệnh học, thì mặt Hồ thuộc loại tứ phủ trơ xương, râu lơ thơ như râu tôm kho có thể đếm được. Trong các giác quan, đôi tai không thay đổi từ lúc sinh ra cho tới chết và là biểu hiện đặc tính của con người. Tai Hồ to thuộc loại luân quách phản, đó là tướng của người bất nhân độc ác. Do hình tướng như vậy, nên trước năm 1955, mọi người xếp Hồ vào loại ‘ Mặt Dơi Tai Chuột ‘.Và dù sau đó qua Nga sửa mặt, cấy râu cấy tóc để có dung nhan của cha già dân tộc Nhưng tai Hồ cho tới khi chết vẫn là tai chuột, vì khoa học thẩm mỹ thời đó bất lực.
Lịch sử là sinh mệnh của dân tộc, nhờ nó mà người miền Bắc mới biết được sự tàn khốc của chế độ Cộng Sản, khi Ho và Ðảng chiếm được nữa nước VN từ bên kia cầu Hiền Lương chạy lên tới biên giới Hoa-Việt qua Hiệp Ðinh Ngưng Bắn Genève năm 1954. Rồi ngày 30-4-1975 quân Bắc Việt vào Sài Gòn và từ ấy đến nay (2008) nhờ lịch sử, người Miền Nam mới biết rõ bộ mặt thật của Hồ và Ðảng là gì ?. Cho nên dù người Việt trong nước hôm nay vì bị bóp họng bịt miệng khóa tay nên đã không thể ghi được những câu chuyện thật của cận sử nhưng họ đã dồn hết gia thù quốc hận suốt bao chục năm qua, thành những vết hằn lịch sử vong quốc trên từng khuôn mặt, khóe môi, vừng trán, ánh mắt kể cả nụ cười của người dân đang sống dưới cùm gông nô lệ. Ðó mới chính là sự bảo lưu quá khứ để biến thành cái "Thần" của Việt Sử, một sự trái ngược hoàn toàn với những câu chuyện "Sử Ngụy Tạo" của bồi bút Ðảng dành tâng bốc và phong thánh cho lãnh tụ Hồ Chí Minh.
+ CHUYỆN DÀI CỦA HOÀNG ÐẾ HỒ CHÍ MINH QUA SÁCH BÁO ÐẢNG:
Cõi thế vốn vô thường nên con người từ xưa tới nay không ai có thể thoát được qui luật tử sinh, một điều tất yếu cho dù ai cũng đều khao khát đến sự vĩnh cửu trường tồn, để kéo dài thêm sinh mệnh như trời đất. Ðể đạt được khát vọng trường sinh bất tử, vua chúa Tàu ngày xưa đã không ngớt đi tìm linh đan thần dược, giúp họ trở thành thiên thu bât hoại. Tư Mã Thiên trong Sử Ký, có ghi lại cái chết đột ngột của Tần Thỉ Hoàng khi đi tuần thú tại Sa Khâu. Lúc đó thừa tướng Lý Tư sợ có biến loạn, nên không phát tang và bày kế cho người gánh cá thối đi kềm theo xe chở xác nhà vua, để che mắt văn võ bá quan theo hộ tống. Bức tranh vân cẩu trên đầy mai mĩa và bi thảm, nói về lòng tham vô giá của con người.
1955-1969 Hồ Chí Minh làm hoàng đế nửa nước VN nên đảng mặc sức tuyên truyền, chẳng những bằng hò vè thơ truyện, mà còn đề ra sách lược đánh bóng và đưa lãnh tụ lên tận mây xanh, trong đó có những bịa đặt lịch sử địa chất liên quan tới dân tộc Việt ngay từ thời Tổ Hùng dựng nước Văn Lang. Ðây là mục đích chính của đảng CSVN, vì các vua Hùng khi được chứng minh là có thật trong lịch sử Việt, sẽ tạo cơ hội cho Hồ có dịp nói "Các vua Hùng đã có công dựng nước, ‘bác’ cháu ta phải cùng nhau giữ nước".Có như vậy, Hồ mới theo chân Lê Nin, Stalin cũng ướp xác, xây lăng như các bậc đế vương thời trước, bắt quần chúng rồng rắn xếp hàng chờ vào thi hành bổn phận "chiêm ngưỡng một xác ướp".
- NGUYỄN TẤT THÀNH: CON NGƯỜI TRĂM MẶT
Nhiều năm sau ngày "bác" lên ngai Chủ Tịch nhà nước, người ta mới biết được cái tên Hồ Chí Minh, chỉ là một trong hằng trăm tên của Nguyễn Sinh Cung hay anh thanh niên thầy giáo Nguyễn Tất Thành, đã có một thời gian dạy học tại trường Dục Thanh, Phan Thiết, trước khi rời Bến Nhà Rồng ở Sài Gòn, qua Pháp tìm đường cứu nước. Theo các sử gia cũng như các nhà biên khảo nghiên cứu trong và ngoài nước, thì cho tới nay vẫn chưa ai biết hết tất cả các bí danh của Nguyễn Tất Thành. Trước đó, căn cứ vào tài liệu của Liên Xô, thì "bác" có chừng 19 tên. Năm 1982, nhà biên khảo Huỳnh kim Khánh nói "người" có 32 bí danh. Một tác giả Việt Nam khác kiểm kê được 76 tên của Hồ. Nói chung, không riêng gì tên họ, mà cả ngày sinh và tên cúng cơm cũng vô cùng bí mật, không biết đâu mà mò. Quả thật đây là một con người có nhiều tên nhất trên trái đất, từ cổ tới kim, đông sang tây. Do không biết chính xác tên khai sinh khi lọt lòng mẹ là Côn, Cuông hay Cung, vì vậy ta thấy sách vở đã chọn cái tên Nguyễn Tất Thành như là một điểm tựa, nhất là sau năm 1983, ba cái đơn của "bác" bị phát giác.
Trong số 100 tên, có lẽ cái tên "Nguyễn Ái Quốc" xuất hiện lần đầu tiên tại Paris là sôi động và đã gây ra không biết bao nhiêu tranh cãi, từ ấy cho đến bây giờ, vẫn chưa chấm dứt. Ai cũng biết, nói láo và bịa chuyện là bệnh nan y của người cộng sản, nhất là trong rừng sử sách của đảng, nhằm thần thánh hóa lãnh tụ "Hồ Chí Minh". Gạt bỏ những huyền thoại của đảng viết về Bồi Ba, theo các nhà viết sử cho biết tới nay, họ vẫn còn rất mù mờ về giai đoạn của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1919, ngoài ba chi tiết công khai: đó là Thành làm công trên tàu Latouche-Tréville của hãng Ðầu Ngựa, sống tại nước Anh thời đệ nhất thế chiến (1914-1918) và có mặt tại Pháp qua cái tên Nguyễn Ái Quốc trên . Người đã vậy, tên cũng vậy, do đó các nhà viết sử cận đại, cũng đành vậy, nghĩa là cứ cho rằng ngày 19-5 là ngày sinh của Nguyễn Tất Thành. Có như vậy, hằng năm thiên hạ mới có dịp "đào mồ cuốc mã tên đại phản quốc" để rửa hận cho quốc dân VN
- VỤ ÁN NGUYỄN ÁI QUỐC:
Về vụ án lịch sử Nguyễn Tất Thành biếm xưng tên gọi của nhóm Nguyễn Ái Quốc, khi Hồ sống tại Pháp từ 1911-1923, cũng đã được tranh cãi sôi nổi giữa cơ quan tuyên truyền của đảng và nguồn dư luận trong cũng như ngoài nưóc. Ðọc "Chủ tịch Hồ Chí Minh-tiểu sử và sự nghiệp" do đảng ấn hành, tuyên bố là tất cả những bài viết và tranh vẽ trên báo Le Paria số 1, đều của Nguyễn Ái Quốc sáng tạo. Ta biết tờ Le Paria hay "Người Cùng Khổ" do Hội Liên Hiệp Thuộc Ðịa chủ trương, từ số 1 đến số 12 đều do J.B Meyrat làm quản lý. Các số khác từ số 13 về sau do G.Sarotte và Léopol Mesnard chịu trách nhiệm, đặc biệt số 1 ra ngày 1-4-1922 không có một bài nào của Nguyễn Ái Quốc. Vậy mà Ban Nghiên Cứu Lịch Sử của Trung Ương Ðảng VC, dám tuyên bố "bác", tức là đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm quản lý tờ báo này. Ngoài ra cũng trên tờ Le Paria, có nhiều bài viết hay tranh vẽ ký tên Nguyễn Le Patriote, là biệt danh của Nguyễn Thế Truyền và các sinh viên trong Hội Ái Quốc An Nam, thế nhưng Ðảng vẫn tỉnh bơ nhận bừa đó là sản phẩm của Nguyễn Ái Quốc.
Riềng bài viết "Lên Án Chủ Nghĩa Thực Dân" được đánh giá là một tài liệu tranh đấu trác tuyệt về nội dung cũng như hình thức. Theo nhận xét, thì lúc đó các nhân vật đấu tranh sống ở Paris, chỉ có Luật Sư Tiến Sĩ Phan văn Trường và Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền mới có đủ khả năng Pháp ngữ cũng như tư tưởng nhận thức để viết được một bài văn tranh đấu nẩy lửa hùng biện như vậy. Còn Nguyễn Tất Thành mặc dù có sống giang hồ khắp nơi từ 1911-1922 nhưng dù sao trình độ học vấn cũng giới hạn, chỉ viết ba lá đơn xin nhập học mà còn phạm nhiều lỗi chánh tả và văn phạm, thì không thể nào là tác giả của kiệt tác trên. Phương chi, phóng đại vốn là nghề của đảng, tâng bốc để bác vang danh với đời lại càng thêm thần thông quảng đại hơn.
Bởi vậy ngày nay, trước những khám phá về việc hoàn toàn bịa đặt một Nguyễn Tất Thành đại thiên tài, từ một anh thanh niên giáo viên quèn tại một trường làng, một bồi Ba trên tàu viễn dương, đùng một cái nhảy phóc lên làm ông quản lý một tờ báo nổi tiếng, phát hành 5000 số một kỳ, lại còn kiêm thêm họa sĩ và nhà văn... cho tới khi ‘bác’ sang Nga và Tàu từ năm 1923, vậy mà vẫn cứ làm quản lý và viết bài cho báo này tại Pháp cho tới khi báo đình bản.
Tất cả đều do Trần Dân Tiên dựng đứng câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc, để thần thánh hóa Hồ Chí Minh, mà cả ba tên đều là Nguyễn Tất Thành. Sự thật ngày nay cho biết, Nguyễn Ái Quốc là tên gọi chung của nhóm người viết trên tờ Người Cùng Khổ (Le Paria), gồm có Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và trong suốt 38 số báo ấn hành, không có một bài nào hay tranh vẽ của Nguyễn Tất Thành nhưng chàng đã láu cá nhận vơ cái tên chung của nhóm là Nguyễn Ái Quốc. Sau đó được cơ quan tuyên truyền của đảng CS hợp thức hoá "sáng lập và linh hồn hay quản lý báo".
Chưa hết, căn cứ theo sử liệu ta biết từ năm 1923-1946, Hồ đã rời Paris đi Mạc Tư Khoa, Tàu trong lúc đó, vào tháng 1/1926 tại Paris đã xuất hiện tờ Việt Nam Hồn bằng chữ quốc ngữ, thỉnh thoảng có các bài bằng Hán và Pháp Ngữ. Từ tháng 9-1929 lại đổi tên là Phục Quốc, do cơ quan ngôn luận của dảng Việt Nam Ðộc Lập tại Pháp ấn hành. Trong một vài số báo, có bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện lịch sử minh bạch như vậy mà đảng vẫn thản nhiên viết là năm 1923, "bác" tại Pháp trong khi thành lập tờ "Người Cùng khổ" đã kiêm nhiệm thêm tờ "Việt Nam Hồn". Những sự thật thì không ai có thể thêm bớt, bóp méo hay xuyên tạc được. Cho nên những lố lăng về huyền thoại Hồ Chí Minh, ngày nay rốt cục đã trở thành những trận cười trong dân gian, dù nó tồn tại hay bị sóng đời vùi dập.
2. ÐÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN ÐẢNG:
Từ các tài liệu hiện còn lưu trữ nhất là của Ðảng VC thì tiền thân của đảng cọng sản Việt Nam là Nhóm Tân Việt Thanh Niên Ðoàn hay Tâm Tâm Xã của Việt Nam Quang Phục Hội do Phan Bội Châu và Cường Ðể thành lập. Sau đó là Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội rồi Việt Nam Kách Mệnh Ðồng Chí Hội, lung tung danh xưng như chính con người Nguyễn Tất Thành, xác chỉ một mà tên thì có hằng trăm không biết đâu mà mò. Thật ra, các tổ chức trên chỉ một tổ chức ngoại vi với các tên tuổi có sẵn của Tâm Tâm Xã, để Hồ lấy đó thu hút và dụ dỗ các thanh niên yêu nước đang lạc lỏng trên con đường chống Pháp. Quyết định mọi sự đều do một tổ chức bí mật của Hồ đứng sau lưng, tức là Ðoàn Cọng Sản gồm những thành phần thân tín tuyển chọn, mà trong tài liệu của Ban Phương Ðông gọi là Việt Nam Kách Mệnh Hội (viết theo chữ của Nguyễn Ái Quốc).
Một bi thảm khác rất quan trọng mà ít người để ý tới, là từ xưa nay hầu hết những người Quốc Gia dấn thân, dù là ai chăng nữa cũng phải tự mưu sinh kiếm sống để hoạt động sinh tồn, cho nên họ dễ bị thất bại hay dang dở nữa chừng, điển hình là Việt Nam Cộng Hòa qua cuộc chiến ngăn chống cọng sản quốc tế từ năm 1955-1975, đã phải bõ dở cuộc chiến thắng gần kề, vì không còn phương tiện tự tồn khi bi Hoa Kỳ phản bội và tháo chạy. Trái lại VC nhất là Hồ Chí Minh, từ lúc bán thân cho đệ tam cọng sản quôc tế Liên Xô, thì không hề lo tới chuyện ăn sống. Liên Xô lúc đó qua chủ trương xuất cảng chủ nghĩa Tam Vô khắp thế giới, nên vơ vét hết tài nguyên của đất nước mình, để vung tiền mua chuộc người theo, nhất là với Trung Hoa ÐANG ÐÓI NGHÈO, LẠC HẬU VÀ BỊ Tây Phương-Nhật Bổn ức chế. Lý Thụy tức Hồ Chí Minh may mắn lọt vào kho vàng, vừa yên ổn múa may trên đất Tàu lại có hậu phương LX to lớn yểm trợ, thì sao không khuyến dụ được những thanh niên yêu nước, lúc đó đang sống bơ vơ thiếu thốn và đầy hiểm nguy trên đất Tàu, Nhật, Thái và khắp Âu Châu. Cuối cùng Nguyễn Ái Quốc vốn là một người làm chánh trị chuyên nghiệp, được đào tạo từ lò Lenin để làm chính trị nhà nghề. Bởi vậy người Quốc Gia chỉ với tấm lòng yêu nước nồng nàn, thì thất bại trước giặc cướp, cũng đâu có gì là lạ.
Ðể đạt mục đích nhuộm đỏ quê hương, đầu tiên là phải có thực lực và Nguyễn Ái Quốc đã trồng người và những cây người mọc rể từ Tâm Tâm Xã có trước như Lê Thiết Hùng, Lê Quang Ðạt, Trương văn Lệnh, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Phú. Tóm lại, tất cả đều là người Việt bằng xương thịt nhưng tim óc do Liên Xô tưới trồng với nhiệm vụ duy nhất ‘quảng bá tư tưởng Mac-Lê’ trên quê hương Việt Nam. Bắt đầu từ ngày 21-6-1925, Hồ qua tổ chức Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội, bắt đầu truyền bá tư tưởng Lenin, qua các báo Thanh Niên, Lính kách mệnh, Công Nông, Tiền Phong. Theo sử liệu, thì cơ sở VC đầu tiên trong nước là Kỳ Bộ Nghệ-Tỉnh vào năm 1926, do Lê Huy Lập làm Bí thư. Kế tiếp mới tới Hải Phòng, Hà Nội và sau rốt là Nam Kỳ.
Tuy nhiên dù được tổ chức chặt chẽ, có đầy đủ tiền bạc, phương tiện nhưng lúc đó không có bao nhiêu người biết Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội hay Nguyễn Ái Quốc là gì. Trái lại khắp nước, mọi người nô nức gia nhập các đảng phái Quốc Gia vừa được thành lập như Việt Nam Quốc Dân Ðảng của nhóm Nguyễn Thái Học ra đời tại Bắc Kỳ năm 1927. Tại Trung Kỳ có Việt Nam Cách Mạng Ðảng hay Tân Việt Ðảng. Trong Nam, mọi người theo Ðảng Lập Hiến và Cao Ðài giáo. VC bấy giờ chẳng những bị dân chúng tẩy chay, mà còn bị Mật Thám Pháp ruồng bố, nên rốt cục các thủ lãnh như Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Văn Hoan phải trốn sang Xiêm La, Tàu hay bị bắt.
Cũng trong năm 1925, Phan Bội Châu bị mật thám Pháp bắt cóc ở Thượng Hải, rồi bí mật giải về Hà Nội hiện nay vẫn còn là một nghi án, mặc dù đa số tài liệu trong và ngoài nước, đều xác quyết do Lý Thụy, tức Hồ Chí Minh cùng Lâm Ðức Thụ, bán đứng cho thực dân, để nhận số tiền thưởng rất lớn lúc đó, lên tới 150.000 phật lăng. Cũng tại Quảng Châu, theo tin tình báo của Pháp, ngày 18-10-1926, bac ‘Hồ’ cưới một nữ hộ sinh người Hoa trong đảng CS Trung Hoa tên Tăng Tuyết Minh, làm vợ. Sau này vào tháng 5-1991, báo Nhân Dân và Tuổi Trẻ của VC mới chịu đăng tin xác nhận là "bác" cũng có vợ như mọi người.
Tại Trung Hoa, đầu năm 1925, Tôn Dật Tiên qua đời đột ngột, khiến nội bộ Trung Hoa Quốc Dân Ðảng phân hoá trầm trọng vì tranh giành quyền lực. Trong lúc đó đảng Cộng Sản Trung Hoa, từ phong trào Ngũ Tứ ngày 4-5-1919, của 3000 sinh viên biểu tình chống Hội Quốc Liên, bắt Tàu cắt nhượng Tô Giới Ðức cho Nhật Bổn. Trong phong trào này, hàng lãnh đạo có nhiều người Mácxít tả phái như Trần Ðộc Tú, Trương Thái Lôi, Lý Ðại Chiêu đã giúp cho đảng bành trướng rất nhanh, tới tháng 7-1921 khắp nước đã có hơn 60.000 đảng viên hoạt động. Rồi ngày 30-5-1925, toàn quốc phát động phong trào Ngũ Táp, đình công bãi thị, khiến Nhật, Anh, Pháp tại các tô giới thẳng tay đàn áp, đe doạ trầm trọng tình trạng an ninh khắp nước. Ðể cứu vãn tình hình, trong tháng 3-1927, Tưởng Giới Thạch từ miền Nam xua quân lên Bắc, mượn danh đánh Nhật, bất thần tiêu diệt toàn bộ cơ sở của đảng cọng sản Trung Quốc tại Bắc Bình, Thượng Hải, treo cổ lãnh tụ Lý Ðại Chiêu.
Khắp nơi, quân Quốc Dân Ðảng xuống tay tiêu diệt trọn vẹn từ cơ sở tới chi nhánh, đảng bộ... khiến cộng đảng chỉ còn đường trốn chạy. Tính đến tháng 12-1927 hơn 40.000 đảng viên cọng sản Trung Hoa đã bị Tưởng Giới Thạch bắt giết, khiến Chu Ðức, Mao Trạch Ðông phải chạy về vùng nông thôn tỉnh Giang Tây cố thủ. Tại Quảng Châu, trụ sở đảng Việt Nam Kách Mệnh của Hồ bị tàn phá. Hồ Tùng Mậu bi bắt, các thanh niên Việt Nam đang theo học tại trường Võ Bị Hoàng Phố bi giam lỏng để thanh lọc. Borodin bị gọi về Liên Xô, còn Hồ thì trốn theo cánh quân Trung Cộng tới Sa Ðầu để về Nga Sô Viết. Tóm lại giai đoạn đi thực tế đễ trở thành một chuyên viên cọng sản, Hồ đã hoàn thành và cũng kể từ đó, chỉ còn có một bổn phận duy nhất "tiếp tục trung thành, hữu dụng cho đế quốc Liên Xô và mưu đồ độc chiếm ngai vàng cho mình".
Nhờ em ruột của Nguyễn Thị Minh Khai là Nguyễn Hữu Dung, mới đây có khoe thành tích của anh rễ mình là Lê Hồng Phong, trên báo đảng Thế Giới Mói, số 328 ngày 22/3/1999, chúng ta mới biết thêm nhiều chuyện cán bộ VC bí mật theo học tại Liên Xô mà trước đây Ðảng dấu nhẹm vì sợ bại lộ chân tướng. Theo tài liệu cho biết, trước khi Hồ Chí Minh qua nhân vật Lý Thụy tới Quảng Châu để phụ tá Toàn Quyền Liên Xô là Boradin, thì tại đây đã có tổ chức Tâm Tâm Xã thuộc VN Quang Phục Hội, do Phan Bội Châu và Cường Ðể thành lâp. Trong nhóm đa số gồm nhiều thanh nước yêu nước trí thức, đa số người hai tỉnh Nghệ An và Hà Tỉnh, trong đó có Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong .Chính Phan Bội Châu đã can thiệp với Tưởng Giới Thạch, lúc đó là Giám Ðốc Chỉ Huy trưởng Trường Sĩ Quan Hoàng Phố, thu nhận các thanh niên VN vào học. Do trên Lê Hồng Phong đã được nhập học tại đây từ tháng 7/1924.
Năm 1925, Hồ và Lâm Ðức Thụ bán Phan Bội Châu cho Pháp, đồng thời tiếm trọn tổ chức Tâm Tâm Xã lúc đó như rắn mất đầu, bằng tiền bạc, khuyến dụ đưa những thanh niên yêu nước chân thành trong trắng, bước vào con đường nhuộm đỏ VN, cũng như giúp xác, máu, đưa Hồ lên đài danh vọng. Do trên, vào tháng 10/1926, Lý Thụy bí mật đưa nhiều thanh niên như Lê Hồng Phong, Trần văn Giàu ... sang học tại trường Phương Ðông Lenin ở Liên Xô. Trước đây không ai biết trường này đã dạy những gì nhưng theo lời Nguyễn Hữu Dung, thì tại đây Lê Hồng Phong được học đủ thứ, qua một thời gian dài từ tháng 10/1926 cho tới năm 1931, mới tốt nghiệp. Theo đó thì Phong đã trải qua các khóa Lý luận quân sự không quân tại Leningrad, lớp phi công tại Borisglevsk, trước khi chính thức vào học các khóa 2 và 3 tại trường Phương Ðông mà Hồ đã học khóa trước.
Ngày 23/11/1925, Pháp mở phiên tòa đại hình tại Hà Nội để xử Phan Bội Châu. Ngay tức khắc, cả nước từ nam tới trung-bắc, hầu như tất cả mọi người, mọi đảng phái từ Phục Việt, Thanh Niên cho tới nhóm Jeune của Phạm Quỳnh đều nhất loạt đứng lên tranh đấu cho nhà ái quốc, khiến cho thực dân phải nhượng bộ, ân xá cho Sào Nam, chỉ bắt ông phải sống tại Huế, qua sự kiểm soát gắt gao của Chánh Sở mật thám Trung Kỳ là Léon Sogny. Từ đó cụ sống ẩn dật bên lề lịch sử cho tới lúc qua đời vào năm 1940, nhưng ngọn lửa đấu tranh và tiếng thơm của người chí sĩ, đã được các thế hệ em, con thay nhau tiếp nối, làm rạng danh ông ngàn đời trong dòng sử Việt. Tại Sài Gòn, Phan Chu Trinh bệnh nặng và mất ngày 26/3/1926. Theo nhận xét của các sử gia, con đường đấu tranh của ông lúc còn sinh tiền, chỉ để chống lại chế độ quân chủ nhưng tôn thờ nước Pháp làm thầy để học hỏi. Tuy vậy, quốc dân VN vẫn kính trọng những người yêu nước, và toàn quốc đã tổ chức Lễ Quốc Táng Phan Chu Trinh ngày 4/4/1926 tại Sài Gòn, trong sự đàn áp của người Pháp nhưng tất cả đều vô vọng, chứng tỏ tinh thần quốc gia yêu nước của người Việt thế hệ mới, đang đối mặt công khai chống lại giặc cướp, sau 60 năm bị đô hộ.
Từ những biến chuyển trên, công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp cũng bước vào một lối rẽ quan trọng với hai khuynh hướng chính trị: Hợp tác và chống Pháp bằng võ lực. Phái hợp tác chủ trương "Pháp-Việt đề huề" hay như Phan Chu Trinh khi còn sống "thờ người Pháp làm bậc thầy để cầu tiến bộ" đứng đầu có Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long... chỉ mong chủ Pháp nhả cho một chút quyền hạn. Cũng thuộc nhóm này, có Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường theo gương Phan Châu Trinh, đòi thêm phần bãi bỏ chế độ quân chủ, đồng thời cải thiện tình trạng xã hội, giáo dục, luật pháp. Nguyễn An Ninh phát hành tờ báo bằng tiếng Pháp tại Việt Nam "La Cloche Fêlée - Chuông Rè" được coi như tờ báo đầu tiên của người Việt, công khai đối lập với Pháp. Khuynh hướng chống Pháp bằng võ lực, bắt đầu từ phong trào Văn Thân, Cần Vương được nối tiếp bởi Phan Bội Châu, Cường Ðể và Nguyễn Hải Thần qua Việt Nam Quang Phục Hội rồi Việt Nam Cách Mệnh Ðảng hay Phục Việt do Lê Huân thành lập tại Côn Ðảo. Từ tháng 7/1925, đảng đổi tên là Hưng Nam, hoạt động tại Nghệ An, quy tụ nhiều thành phần ưu tú gồm công chức, sinh viên thời đó như Ðào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Vịnh. Tiếc thay Ðảng yêu nước đã bị Nguyễn Ái Quốc khuyến dụ và trở thành công cụ cho đảng cọng sản cùng Hồ vào năm 1929, sau khi lãnh tụ Lê Huân chết trong tù ngục tỉnh Nghệ An.
Trong giai đoạn này, nổi bật hơn hết vẫn là Việt Nam Quốc Dân Ðảng, được thành lập ngày 24/12/1927 do hai lãnh tụ Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu tại miền Bắc, theo khuynh hướng Tam Dân Chủ Nghĩa của Tôn Dật Tiên. Cuối năm 1928, đảng bành trướng mạnh khắp nước với hơn 100 chi bộ và 1500 đảng viên. Nhiều cán bộ đảng hoạt động trong quân đội Pháp. Nhưng sau vụ tên Pháp kiều Horne Bazin, giám đốc công ty mộ phu đồn điền cao su bị ám sát tại Hà Nội ngày 17/2/1929, Pháp bắt đầu triệt hạ Việt Nam Quốc Dân Dảng, nhiều cán bộ cao cấp bị bắt, chỉ có Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu trốn thoát nên đầu năm 1930 đã ra lệnh Tổng Khởi Nghĩa. Lúc này Nguyễn Ái Quốc an vị tại Liên Xô tuy Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản hay Việt Nam Kách Mệnh Thanh Hội vẫn hoạt động tại Việt Nam nhưng chỉ là cái bóng mờ trước Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Hưng Nam và Cao Ðài giáo.
Tại Liên Xô, Stalin lên kế quyền Lenin, ban lệnh tiến tới "xã hội chủ nghĩa" mà thí điểm đầu tiên là nước Nga. Nguyễn Ái Quốc được lệnh công tác tại Bá Linh, sau khi đề nghị Trần Phú làm Bí thư nhóm VC đang hoạt động tại Việt Nam, đồng thời xin cho Lê Hồng Phong vào học tại Viện thợ thuyền Ðông Phương. Ðầu năm 1928, Nguyễn Ái Quốc được lệnh trở lại hoạt động tại Ðông Nam Á, địa bàn lần này là Xiêm La.
Theo Hoàng văn Hoan, Hồ có mặt ở đây vào tháng 6/1928 qua các bí danh Mr Tho, Nam Sơn và Thầu Chín. Trong lúc Hồ đang làm quốc tế vận, thì đảng VC trong nước qua Nghị quyết hành động của Ðại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ VI năm 1928, đã tách thành 5 nhóm cùng những hiềm khích bùng nổ lớn. Nói chung từ tháng 9/1929 Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội coi như tan rã. Vì vậy Quốc phải xin lệnh Stalin cho mình giải quyết. Ðầu năm 1930, Quốc tới Hồng Kông để hàn gắn tranh chấp nội bộ, giữa hai đảng Dông Dương Cọng sản đảng và An Nam cọng sản đảng. Cuối cùng Quốc đưa lệnh của Bộ Phương Ðông, khiến hai phe đồng ý hợp nhất thành một, đó là ‘Ðảng Cọng Sản Việt Nam’, do Trần Phú (1904-1931) được Liên Xô chỉ định là Tổng Bí Thư đầu tiên.
Hai cuộc nổi dậy của VN Quốc Dân Ðảng vào dịp Tết Canh Ngọ (1930) và các cuộc biểu tình bạo động của giới lao công và nông dân, từ tháng 6/1930 tới giữa năm 1931, dù thất bại nhưng cũng đã gây chấn động khắp nước và lan tới Pháp, mở màn cho cao trào đấu tranh của người Việt, dù thực dân tại Ðông Dương cố đánh dẹp. Ngày 26-1-1930 tại hội nghị Phú Thọ, đảng trưởng Nguyễn Thái Học, quyết định tổng khởi nghĩa, trong đêm giao thừa tết Canh Ngọ. Ông tuyên bố "không thành công cũng thành nhân", chứ không thể sống mãi đời nô lệ nhục nhã dưới gót giầy nô lệ ngoại bang. Cuộc chiến đã thất bại vì nghĩa binh không đủ thực lực chống với giặc Pháp có đầy đủ phương tiện chiến tranh. Làng Vĩnh Bảo thuộc tỉnh Hải Dương bị bom của Pháp san bằng, hầu hết cán bộ trong đảng bị bắt. Ngày 17-6-1930, Ðảng trưởng Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí lên đoạn đầu đài tại Yên Bái. Ông và các anh hùng đã chết nhưng khí tiết và danh dự luôn là ngọn đuốc soi sáng tâm hồn các thế hệ trong dòng sử Việt. Cũng từ đó, qua ảnh hưởng cuộc khởi nghĩa trên, cộng với hoàn cảnh kinh tế khủng hoảng, đã tạo nên tình trạng rối loạn khắp nước. Lợi dụng cơ hội trên, Trần Phú và cán bộ đảng VC, sách động dân chúng biểu tình chống phá Pháp khắp nơi nhưng rầm rộ nhất là tại Nghệ An, khiến cho hằng trăm người bị Pháp bắn chết.
Cũng trong giai đoạn hỗn loạn này lần đầu tiên tại VN, cán bộ cọng sản quốc tế, đã rập khuôn Trung Cộng biến biểu tình thành du kích chiến, tổ chức các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi gọi là Sô Viết, tại hai huyện Nam Ðàn và Thanh Chương, nên sau này mới có danh từ Sô Viết Nghệ Tĩnh. Hậu quả của cuộc xúi bậy này, làm cho Toàn Quyền Ðông Dương Pasquer cho lệnh bắn giết thẳng tay bằng phi cơ giội bom làng mạc, song song với cuộc tảo thanh của Lính Lê Dương, gây nên cảnh tang tóc chưa từng có cho những lương dân vô tội, trước cảnh dao thớt đoạn trường. Loạn lạc kéo dài tới nửa năm 1931, khi cán cộng đầu sỏ không còn và nạn đói khắp nơi, mới tàn lụn.
Ngày 10/10/1931 Tại Cửu Long-Hương Cảng, Trần Phú mở hội nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 1, ngoài việc gián tiếp chỉ trích sự bất tài của Nguyễn Ái Quốc, còn đổi tên VN cọng sản đảng thành Ðông Dương cọng sản đảng. Do trên Quốc không tới tham dự dù cũng còn chỉ huy Chi Nhánh Bộ Phương Ðông của Sô Viết tại Hồng Kông. Từ đây, âm mưu tài trợ của Stalin cho các đảng cọng sản địa phương làm loạn bị bại lộ, đã khiến thực dân Tây Phương liên kết với nhau để chống đỡ. Cũng từ đó, Cục Phương Nam do Hồ chỉ huy cùng thủ hạ đang hoạt động tại VN, bị mật thám các nước lùng bắt dữ dội. Tháng 4/1931 Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn thị Vịnh bị Anh bắt tại Hồng Kông. Trong nước Trần Phú chết trong tù. Ðây cũng chỉ là cuộc tắm máu khởi đầu (1930-1931) của Quốc Tế Cọng Sản, vì phía sau còn có một hậu phương vĩ đại, chịu chung tiền bạc, vũ khí và bạo lực, để đạt dược thắng lợi cuối cùng, là nhuộm đỏ cả thế giới, trong đó có Ðông Dương.
3. NGHI ÁN NGUYỂN ÁI QUỐC CHẾT TRONG NHÀ TÙ HỒNG KÔNG 1932:
Cũng trong chuyện dài về Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh, huyền thoại đáng kể nhất là vụ Nguyễn Ái Quốc chết trong nhà tù Hồng Kông vào cuối năm 1932, vì nghiện thuốc phiện và bị bệnh lao. Vụ này trước sau, từ Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp cho tới cơ quan tuyên truyền của VC, đều nói là do Pháp phao tin để làm hạ uy tín Hồ. Riêng vợ luật sư Frank Loseby, người được Cộng Sản Quốc Tế mướn để biện hộ cho Hồ, sau năm 1969 khi "bác" chết, đã nói tin đó là có thật, và do chính chồng bà ta tung ra, để đánh lạc hướng mật thám Pháp.
Theo nhận định của các sử gia, việc Nguyễn Ái Quốc "giả chết" đều theo ý Liên Xô, nhằm phục vụ nhu cầu chính trị. Với Nga, Nguyễn Ái Quốc chết mới có cơ hội đưa các cán bộ khác lên thay thế và gầy dựng lại đảng VC đã bị tan tác. Với Tây Phương, khai tử con người cộng sản quốc tế chuyên nghiệp, để một bí danh mới của Nguyễn Tất Thành đóng vai điệp viên tam trùng, đang cần thiết tại mặt trận Viễn Ðông sắp tới. Tất cả đều nằm trong vòng bí mật và có lẽ chẳng bao giờ tình báo Nga, chịu mở hồ sơ vụ trên, dù Hồ đã chết thật từ lâu rồi.
Tháng 11-2008 vừa qua, một quyển sách viết bằng Hoa văn qua tựa đề "Hồ Chí Minh sanh bình khảo" mà tác giả là Giáo Sư Sử Học tên Hồ Tuấn Hùng, sinh năm 1949 hiện là một công chức cao cấp trong Bộ Giáo Dục của Trung Hoa Dân Quốc. Sách được nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa tại Ðài Loan phát hành ngày 1-11-2008. Tiếp theo là bài viết của tác giả Chân Mây trên Hải Ngoại Phiếm Ðàm ngày 25-11-2008 với tựa "Hồ Chí Minh là người Khách Gia (Hakka)". Cùng ngày một tác giả khác tên Tạ Phong Tần đã đưa bài viết "Hồ Chí Minh là người Tàu" của GS Hùng lên blog.360.Yahoo.com.
Tóm lại tài liệu mới vừa được phổ biến từ các tác giả trên về các chi tiết cũng gần giống như các tài liệu cũ đã được phổ biến từ lâu, chỉ khác ở chổ là GS Hùng đi vào chi tiết và nói là mình có chứng cớ xác nhận việc trên là đúng sự thật, mặc dù ai cũng chỉ đọc được bản tin trên diễn đàn mà thôi.
Chúng ta biết, năm 1931 trong ngục, Nguyễn Ái Quốc giả vờ đóng kịch với người Anh qua màn hợp tác diệt Cộng, để thoát thân. Nhưng cũng từ đó, Hồ bị xuống giá, chỉ trích là bọn thời cơ. Tập sách Ðường Kách Mệnh, dùng làm kim chỉ nam cho cán bộ Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội, của Hồ được coi là thứ dỏm, sặc mùi quốc gia, tiểu tư sản. Tháng 12/1934, Hồ bị ngay chính cơ quan ngoại vi của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, chỉ trích nặng nề trên tờ báo đảng là Bôn-sơ-vic.. Trong giai đoạn này, Ban Phương Nam do Lê Hồng Phong lãnh đạo, thế Nguyễn Ái Quốc đã bị khai tử. Lúc này Hà Huy Tập làm Tổng Bí Thư Ðông Dương Cộng Sản Đảng, còn Hồ Nam Trần Văn Giàu được lệnh về Nam tổ chức lại đảng.
Tóm lại từ năm 1934, Ban lãnh đạo ngoại vi của VC, dời về Ma Cau và tập hợp lại gần như đầy đủ các thành phần có trước trong Tâm Tâm Xã, kể cả Cô Duy, tức Nguyễn thị Minh Khai. Tháng 7-1936, Nga ra lệnh cho Lê Hồng Phong, đua Ban Phương Nam, tức là cơ quan lãnh đạo tối cao của Việt Cộng về Nam Kỳ hoạt động. Trong năm 1936, đảng Bình Dân Pháp đã ra lệnh phóng thích hàng ngàn tù nhân chính trị VN, trong đó phần lớn là cán bộ cộng sản như Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Văn Cừ, Hạ Bá Cang, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh.
Nhờ vậy đảng cộng sản Ðông Dương đã phục hồi nhanh chóng và liên kết với các thành phần tả phái không cộng sản, thành lập Mặt Trận Dân Chủ Ðông Dương, trong đó có Ðặng Xuân Khu (Trường Chinh), Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Ðồng, Trần Huy Liệu. Nhưng chưa được bao lâu thì Stalin ra lệnh cho nhóm Stalinist tức Ðông Dương cộng sản đảng, đệ tam quốc tế, phải cắt đứt liên hệ với phe Ðệ tứ cộng sản hay là nhóm Trốt-kít của Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu.. ở Sài Gòn. Tại miền Trung, các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi Bình Ðịnh đã bắt đầu có Tỉnh Ủy lâm thời. Riêng kinh đô Huế, từ năm 1937, Việt Cộng hoạt động bán công khai qua tờ báo L’ épi du Riz (Nhành lúa), do Việt Cộng cao cấp HẢI TRIỀU Nguyễn Khoa Văn, chủ biên. Lợi dụng những cuộc đấu tranh hợp pháp, từ năm 1939 cán bộ Quốc Tế Cộng Sản tại Ðông Dương, ra sức tổ chức và phát triển các nghiệp đoàn lao động bất hợp lệ, nông hội cùng nhiều hội đoàn bô lão, thanh niên, phụ nữ, đánh giày, bán báo, bình dân giáo dục... lúc đó, khắp nước đã có trên 1000 cán bộ chính thức. Trong giai đoạn này, cộng sản đệ tam phát triển mạnh nhất là tại Việt Bắc với nhiều cơ sở, còn có cả một tiểu đội du kích do Lê Quảng Ba và Hoàng Sâm chỉ huy tại Cao Bằng.
Thế chiến thứ 2 bùng nổ, tại Ðông Dương vào đầu năm 1940, Pháp lại thẳng tay càn quét và gần như toàn thể đảng viên Việt Cộng, trong đó có hầu hết các cán bộ từ Bộ Phương Ðông về. Ðúng lúc đó thì Nguyễn Tất Thành qua bí danh Thiếu Tá Hồ Quang, xuất hiện tại Quảng Tây và Côn Minh, trong sứ mạng điều khiển Ban Hải Ngoại của đảng. Lần tái xuất này, "bác" lại gặp hên, vì hầu hết các "đảng chúa" trong nước đều nằm rọ. Hồ chợp cơ hội tuyển cán bộ mới, để làm hậu thuẫn cho mình sau này, qua mộng bước lên ngai vàng An Nam vào tháng 9-1945. Trong giai đoạn này, Hồ ngoài cái tên Trần Vượng, còn là Thiếu Tá Hồ Quang của Ðệ Bát Lộ Quân của Cộng Sản Trung Hoa Mao Trạch Đông, do Diệp Kiếm Anh chỉ huy, đồng thời cũng chỉ đạo Ban Hải Ngoại của Phùng Chí Kiên.
Ðây cũng chỉ là một phần nhỏ, tóm lược về cuộc đời của Nguyễn Tất Thành, qua huyền thoại "xuất dương" tìm đường cứu nước, một con người trăm tên, trăm mặt, thay đổi hình dạng và thủ đoạn chính trị, đâu có khác gì loài tắc kè xanh xanh đỏ đỏ... Bởi vậy sau khi đã được sống thật với người cộng sản dưới chế độ Việt Cộng, thì bất cứ người nào khi nghe qua các câu chuyện có liên quan tới bắc bộ phủ nhất là chuyện về" bác", làm cho ai cũng phì cười vì cứ nghe hoài mà đâu có đoạn cuối.
Xóm Cồn Hạ uy Di
Tháng 12-2008
Mường Giang
No comments:
Post a Comment