Saturday, April 3, 2010

Khen và chê - Mai Vĩnh Thăng

Mai Vĩnh Thăng

Từ khi Luật sư Lê Thị Công Nhân và Linh mục Nguyễn Văn Lý được ra khỏi tù có rất nhiều dư luận khen chê ngược xuôi. Kẻ khen thì ca tụng, tôn vinh Ls Lê Thị Công Nhân lên hàng “Anh thư nước Việt” và Lm Nguyễn Văn Lý là “Người tù lương tâm” một cách thái quá.

Thực ra vị này chưa từng lập một thành tích nào cho đất nước ngoại trừ những lời tuyên bố lăng nhăng lố bịch, làm nhiệm vụ trả bài cho Cộng sản Việt Nam và ba năm khổ nhục kế ăn no ngủ kỹ. Trong khi người dân trong nước hầu như ít ai biết đến Khối 8406 và Lê Thị Công Nhân hoặc Nguyễn Văn Lý là ai ngoại trừ hội viên của nhóm này vì bọn CSVN chỉ nhắm vào người Việt hải ngoại qua các phương tiện internet.

Người chê cũng không ít và với bằng chứng chính xác như hình ảnh, tin tức hợp lý làm cho hai chiếc bong bóng kia vừa chớm bay lên chưa khỏi tầm mắt đã bị nổ tung. Những hình ảnh do Vietnam Exodus cung cấp và tin tức có dẫn chứng cụ thể cũng đã đủ cho thấy cả hai chỉ là những nhà đấu tranh dân chủ cuội.

Đảng CSVN theo đường lối Marxist Leninist, được Hồ Chí Minh thành lập trong thập niên 1930 và là đãng độc quyền cai trị đất nước. Những tổ chức hoặc đảng phái chính trị khác đều là ngoại vi, nói cách khác, nhóm Việt gian 8406 mà Ls Lê Thị Công Nhân và Lm Nguyễn Văn Lý là thành viên, do bọn CSVN đẻ ra lót đường cho chúng bước vào WTO ( World Trade Organization- Tổ chức Thương Mại Thế Giới ).

Thực ra không có bọn Việt gian này CSVN cũng vẫn được vào WTO vì đã hội đủ điều kiện của một hội viên. Theo thứ tự thời gian, Khối 8406 được thành lập ngày 8/4/06 với 118 thành viên lúc đầu. Ngày 7/11/06 CSVN được Hội đồng tối cao WTO chấp thuận, và trở thành hội viên thứ 150 của WTO ngày 11/1/07.

Điều lo ngại lớn nhất của CSVN là họ đã bị liệt kê vào danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo CPC (Countries of Particular Concern) vào năm 2004. Nhưng từ khi bình thường hóa ngoại giao với Mỹ trong thập niên 1990, dẫn đến việc Bộ ngoại giao Hoa Kỳ xóa tên CSVN khỏi danh sách CPC trong tháng 11 năm 2006, là điều kiện sau cùng để vào WTO mà họ đã đạt được.

Nhiều người tự hỏi, khi CSVN đã hội đủ điều kiện vào WTO thì vì lý do gì Ls Lê Thị Công Nhân và Lm Nguyễn Văn Lý lại đứng mũi chịu sào cho 118 tên cuội trong nhóm 8406? Có lẽ mỗi người đều có lý do riêng; có người vì tham vọng chính trị tiền bạc, người khác lại thích làm anh hùng để được khen và cũng có người tình nguyện làm thân lừa chuyên chở những đống phân thối của CSVN ra hải ngoại.

Ls Lê Thị Công Nhân và Lm Nguyễn Văn Lý đang dùng dư luận để đánh bóng phong trào đấu tranh dân chủ cuội trong nước. Hơn ai hết CSVN biết rõ trong bất cứ môi trường nào số người thiếu suy nghĩ cũng chiếm phần đa số và cái bã thối đó chắc chắn sẽ có người chuộng.

Con lừa biết ăn cỏ ngon và cần được chủ chăm sóc, Ls Lê Thị Công Nhân và Lm Nguyễn Văn Lý cũng không ngoại lệ; cũng có quyền lợi vật chất (tự tìm trong tài liệu cũ sẽ thú vị hơn) và được bọn Việt gian hải ngoại phong thánh. Thật ra khen cũng tốt nếu biết giới hạn vì đó là kết quả của thành công. Nhưng bất cứ lời khen nào cũng lấy làm thỏa mãn sẽ đi đến quá độ và tự mãn, và sẽ tự làm bia cho công luận phê bình.

Hầu hết mọi người đều thích được khen. Nhưng khi có người phê bình chỉ trích, phản ứng tự nhiên của chúng ta là tự vệ chống đỡ. Thật ra cái lẽ đúng nhất là ta không mong được khen, nhưng nếu có cũng chấp nhận. Cùng một nguyên tắc, cũng không ai muốn bị chỉ trích, nhưng nếu có cũng là điều tốt vì phê bình có một nhiệm vụ quan trọng; nhận biết phản ứng và thái độ của công luận để từ đó ta nhìn lại chính mình và sửa đổi cho hoàn hảo hơn.

Chút suy nghĩ về “người xấu và việc xấu” thay cho kết luận. “Kẻ khôn nên quan tâm đến cá tính của mình hơn là danh tiếng, vì lẽ, cá tính chính là con người thật của chúng ta, trong khi danh tiếng, đơn thuần chỉ là những gì người khác nghĩ về chúng ta.”

Kẻ khôn và hiểu biết không thể là Việt gian cộng sản, ngược lại nếu đã là Việt gian cộng sản thì không thể nào có sự khôn ngoan. Đáng tiếc cho những con lừa không biết suy nghĩ.

Mai Vĩnh Thăng


Về Đất - Kim Âu



Kim Âu

Nếu bảo họ đấu tranh CUỘI, ở tù CUỘI, thì sao các vị ở hải ngoại, không ai dám về trong nước để “đóng phim” đấu tranh CUỘI và ở tù CUỘI như Khối 8406 và Đảng Thăng Tiến, v.v… ???”.

Thật ra khi ông Võ văn Sáu viết ra câu văn này ông không hề thấy sự vô lý của ông khi viết ra như vậy. Bởi vì một người đã kết luận về trò “đấu tranh cuội” có nghĩa là họ không bao giờ tin vào chuyện đấu tranh chống lại chế độ cộng sản độc tài, toàn trị mà được hưởng đầy đủ những đặc quyền, đặc lợi, ưu đãi như mọi người đã thấy.

Tất nhiên khi không tin, họ sẽ không bao giờ tự đâm đầu vào cạm bẫy. Ngược lại những kẻ nào tin rằng những gì mà các “nhà đấu tranh cuội” đang làm trò là đấu tranh thật, mới là những người nên khăn gói “laptop”, “điện thoại viễn liên”, ít tiền dắt túi lên đường trở về quốc nội gia nhập hàng ngũ “đấu tranh cuội” để được hưởng những đặc quyền, đặc lợi như “ngôn sứ” và “thánh nữ “ của họ đang thượng hưởng.

Người không tin có nghĩa là họ thừa kinh nghiệm để biết rõ “hễ ai có tư tưởng chống cộng thật sự mà lộ ra sẽ bị đàn áp thê thảm, hứng chịu mọi đòn thù nham hiểm nhất”. Ông Võ văn Sáu cũng viết khá rõ: ”Bọn man di Việt gian CS có cả ngàn cách để diệt những nhà tranh đấu: Như bắt bớ, giam cầm, cho du đảng hành hung, cho du đãng ném phân vào nhà, cắt điện thoại, cắt internet, đuổi việc, đuổi cả con cái không cho đi học, làm khó dễ đủ thứ, v..v…” chúng tôi thêm vào vài dẫn chứng “xe đụng” như Đinh Bá Thi, viết “lách” giỏi như vợ chồng kịch tác gia Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh thì “xe cán” nát thây.

Đã biết như thế, tất nhiên chẳng ai ngu dại tự mình đút đầu vào rọ. Vì thế, việc ưu tiên về nước đấu tranh phải dành cho người tin vào những trò “đấu tranh dân chủ cuội”, tin vào sự thay đổi của bạo quyền cộng sản như Chu Tất Tiến, Nguyễn Đạt Thịnh, Lê văn Ấn, Võ văn Sáu, Đinh Thạch Bích, Trần Phong Vũ, Trần đình Phục, Trần văn Thưởng, (Nguyễn văn Tánh, Nguyễn văn Tần. Nguyễn Bác Ái, Nguyễn Ngọc Tiên mấy vị này vừa thể hiện niềm tin qua việc nhân danh các cộng đồng ra tuyên bố, tuyên mẹ để chuẩn bị trao giải Oscar cho thánh nữ và ngôn sứ)..v..v…

Theo như quý vị này đã xác tín thì bảo đảm các vị này về ở vài năm tù cũng chẳng sao vì quý vị vẫn hàng tuần được thăm nuôi, “xã hội nuôi”, được xem TV, báo Nhân Dân, Pháp Luật, Kinh Thánh, Kinh Phật, vẫn có quyền ngồi rung đùi dịch kinh sách, vuốt râu làm vài trăm bài thơ, viết vài nghìn trang “Nhật Ký Trong Tù” chuyển ra hải ngoại để in ấn, xuất bản, tổ chức ra mắt sách “khiếm diện”, từng chi tiết hoạt động trong tù của quý vị vẫn được thông báo cập nhật. Vợ con, thân nhân của quý vị vẫn được mời đến các diễn đàn nhân quyền để biểu dương tinh thần tranh đấu “oanh liệt, kiên cường” của quý vị, gia đình của quý vị vẫn thay mặt quý vị nhận giải này, giải nọ, kể cả “giải rút”. Thậm chí, quý vị có bị táo bón hay bị “phù” vì “thiếu xương thừa mỡ”, bị “stroke” bại liệt nửa người thì đạo diễn vẫn cứ cho tay chân quý vị hoạt động bình thường, băng đảng của quý vị vẫn nhận được thông tin có cớ để quyên góp, vận động yểm trợ cho quý vị vững tâm để làm “tù nhân lương tháng”.

Còn chờ gì nữa? Những kẻ thấy và TIN mà không noi gương “thánh nữ và ngôn sứ”, không đi theo con đường của “thần tượng” chẳng phải quá hèn lắm ru?

Chúng tôi chắc chắn không hèn vì chúng tôi là những người đã từng tiên phong tận hiến, có điều chúng tôi KHÔNG NGU. Chúng tôi đã trải nghiệm xà lim khám tối, cùm kẹp nhục hình thê thảm nhiều năm đến thừa sống, thiếu chết, thân mang di chứng bệnh tật. Chúng tôi không thể về công khai chống đối vì chúng tôi không phải là những diễn viên được “order” để “đóng phim đấu tranh”. Chúng tôi dứt khoát không tin, chúng tôi cũng không mơ ghế nên chúng tôi không khờ khạo về để nộp mình cho dã thú.

Chúng tôi phải ở lại đây để làm chức năng kẻ sĩ vạch trần những trò buôn xương, bán máu dân tộc Việt Nam của bọn tư bản cá mập và cộng sản như trước đây chúng đã làm vào thời kỳ “Chiến Tranh Uỷ Nhiệm hay Chiến Tranh Ý Thức Hệ”.

Chúng tôi phải ở lại đây để cảnh tỉnh những người yêu nước không nên rơi vào cạm bẫy. Chúng tôi phải ở lại đây để ngăn chặn bọn lưu manh chính trị chuyên nghề buôn bán chiêu bài để xiết máu, hô hào quyên tiền bỏ túi làm giàu một cách bất lương. Chúng tôi phải ở lại đây để bôi vôi vào những con đỉa đang hút máu đồng bào tỵ nạn của chúng tôi suốt ba mươi lăm năm qua.

Tất nhiên lũ đỉa phải vôi chúng sẽ dẫy lên đành đạch, chúng sẽ phỉ báng chúng tôi bằng những ngôn từ hạ tiện mà không cần biết tới sự thật, nhưng cuối cùng thì những kẻ gỉa hình sẽ tự bộc lộ “bản lai diện mục” của chính họ. Chúng tôi là những người đã trải nghiệm đấu tranh và tù tội từ lâu nên không cần tự đặt mình vào vai trò của người trong nước. Bởi chính chúng tôi là những người đã bị đánh bật rễ khỏi đất nước để trở thành người lưu vong.

Chúng tôi không kêu gọi hay vạch ra đường lối đấu tranh cho bất kỳ ai. Tinh thần chống áp bức và thời thế sẽ thúc đẩy những người bị áp bức tự đứng lên bằng sức mạnh của chính họ. Biểu tình bạo động hay đấu tranh vũ trang không phải là khùng điên hay ngu ngốc khi thời thế cho phép những người bị áp bức không có tự do, nhân quyền cương quyết đứng lên, vì “Freedom isn’t free”.

Chứng kiến những hiện tượng nghịch lý, chúng tôi phải lên tiếng nhận xét, luận giải, chứng minh đâu là sự thật để ngăn ngừa họa hại xảy ra cho những người yêu nước chân chính ngây thơ. Tất nhiên sự thật không làm cho những kẻ mưu đồ hài lòng.

Trại 5 Lam Sơn, chúng tôi đã qua đó ngắm những tàn phượng rủ từ năm 1979. Căn phòng biệt giam ở chếch cổng trại Ba Sao, nhìn xuống kho chứa rượu Mơ, chúng tôi đã bị cô lập ở đó bên cạnh nữ sĩ Thuỵ An từ khi Hiệp định Paris được ký kết 27-1-1973 cho tới 19-5-1973 bị đày lên cùm tại trại Cổng Trời cho tới sau 30 – 4 - 1975. Con đường khổ nạn đó chúng tôi đã đi trước, đã tường tận.

Hơn ai hết, chúng tôi thừa trải nghiệm để có cái nhìn sáng tỏ nhất về “bản chất kẻ thù của dân tộc là bè lũ Việt Cộng tay sai cho Quốc Tế Cộng Sản không bao giờ khoan nhượng với bất kỳ một người nào “còn một tế bào não nuôi ý thức chống lại chúng”.

Những vị nào cho rằng cộng sản ngày nay đã đổi thay vì những áp lực quốc tế, lời thách thức của ông Võ văn Sáu chính là điều kiện để quý vị lên đường hưởng dụng, xác tín những đổi thay “long trời lở đất” ấy.

Tin Chúa thì giáo dân đi nhà thờ rước lễ. Tin Phật thì Phật tử đến chùa tu tập.

Quý vị tin là cộng sản đã thay đổi cách đối xử từ tiêu diệt đến hòa hoãn, nhượng bộ, nuông chiều với những người đấu tranh chống lại chế độ của chúng thì còn ngần ngại gì không về nước để đấu tranh đòi hỏi tự do, dân chủ và nhân quyền mà phải ở lại Hoa Kỳ kéo dài kiếp lưu vong tỵ nạn làm gì?

Chúng tôi không dư thời gian để “bới bèo ra bọ” như ông bạn Võ văn Sáu nói. Nghe LTCN kể chuyện đọc “kinh thánh” chúng tôi chỉ tội nghiệp khi thấy LTCN ngôn bừa bãi “đến một lúc nào đó xã hội cực kỳ phát triển và đạt đến tự do đỉnh cao thì không cần nhà nước” rồi cười khành khạch như đười ươi.

Chế độ xài luật rừng thì luật sư chỉ được đào tạo theo chuẩn mực “RỪNG”, khoa trương một cách khiên cưỡng, gỉa dối đến khi diễn viên nhập vai thì sự thật phơi ra quá sức phũ phàng.

Mấy ngài chính khứa bát nháo ở hải ngoại thì rất trí tuệ trong những trò lừa bịp, nhưng hay bị cận thị. Quý vị cứ sa sả chửi bới bọn cộng sản chuyên xài “luật rừng”, là bọn ngu dốt thiến heo, mổ lợn nhưng quý vị quên bẵng hễ bọn thiến heo, mổ lợn, chăn trâu, cắt cỏ làm lãnh tụ thì nền giáo dục của chúng chỉ là nền giáo dục của bọn thiến heo, mổ lợn, chăn trâu, cắt cỏ sanh ra “bọ lắm hơn bèo”.

Bài viết này đến đây cũng đã khá dài, chúng tôi không thể không nhắc đến tên những người đã thể hiện NIỀM TIN VỮNG CHẮC như Chu Tất Tiến, Nguyễn Đạt Thịnh, Lê văn Ấn, Võ văn Sáu, Đinh Thạch Bích, Trần Phong Vũ, Trần đình Phục, Trần văn Thưởng, (Nguyễn văn Tánh, Nguyễn văn Tần. Nguyễn Bác Ái, Nguyễn Ngọc Tiên).

Chúng tôi thì hoàn toàn không tin, tuy nhiên nếu những vị đại diện văn phòng của khối 8406 và đảng Thăng Tiến ở hải ngoại dám thể hiện NIỀM TIN VỮNG CHẮC bằng cách ra tuyên bố trở về quốc nội đấu tranh công khai thì mong quý vị cho biết ngày lên đường để chúng tôi được tri ơn đồng thời tiễn đưa quý vị VỀ ĐẤT.

Trân trọng
Kim Âu


Friday, April 2, 2010

Happy Easter - teolangthang



"Anh em hãy yêu thương nhau,
như Thầy đã yêu thương anh em”

(Ga 15,12)

Chúa Thương Con
Linh mục Thành Tâm
Trình bày: Ngọc Lan






Tổ quốc trước nạn bành trướng Đại Hán - TT Thích Viên Định

TT Thích Viên Định

Trách nhiệm của chính quyền là phải bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ cho tổ quốc và bảo đảm an ninh cho người dân. Đó là một trách nhiệm rất nặng nề nên người lãnh đạo chính quyền phải luôn thận trọng, lưu tâm và đặt lên hàng đầu. Một nhận định sai lầm của vua, của người lãnh đạo, nhẹ thì mất chức, mất quyền, nặng thì mất cả giang sơn, dân tộc. Người xưa thường nói, “Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập”. Bệnh do miệng ăn nhiều mà vào, họa cũng do lời nói không cẩn thận nơi miệng mà ra. Đó là lời răn cho người bình thường. Còn, “Quân bất hư ngôn” là lời răn cho vua, cho người lãnh đạo. Làm vua, làm lãnh đạo một nước, không được nói đùa, không được hứa dối để lấy lòng. Người nắm giữ vận mệnh quốc gia cần phải cẩn thận đề phòng từng lời nói, từng việc làm trong sự hứa hẹn, kết giao. Nếu không, rất dễ mắc sai lầm, lâm vào thế kẹt, làm cho đất nước và dân tộc gặp nhiều tai họa không lường.

Hãy xem, toàn bộ khối Cộng sản Đông Âu và Liên Xô đồng loạt tan rã, điều đó chứng minh rằng, chủ thuyết Mác-Lê, vô sản, vô thần, vô gia đình, vô tổ quốc là một chủ thuyết sai lầm và không tưởng. Chủ thuyết Mác-Lênin đã gây tai họa và làm chết cả trăm triệu người trên thế giới. Chủ thuyết này chỉ còn được sử dụng như một công cụ để xâm lăng của các nước Cộng sản đàn anh và các Nhà cầm quyền độc tài toàn trị.

Năm 2006, Hội đồng châu Âu đă ra Nghị Quyết 1481, tuyęn bố rằng, Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội hiện thực do các đảng CS ở Đông âu và Liên Xô chủ trương từ 1945 đến 1991 là phi nhân tính, là thảm hoạ dân tộc và tội ác chống nhân loại.

Với theo chủ thuyết sai lầm nên các nước Liên Xô và Đông Âu tự tan rã. Các nước Cộng sản còn sót lại, tuy vẫn còn hình thức Xã Hội Chủ Nghĩa, nhưng không còn theo đường lối vô sản nữa mà quay lưng lại, gây chiến tranh để tranh giành lãnh thổ và quyền lợi của nhau. Biên giới các nước XHCN “anh em”, nay đã trở thành chiến trường. Năm 1979 ở biên giới Bắc Việt và năm 1988 ở quần đảo Trường sa của Việt Nam … đã xảy ra những cuộc giao tranh đẫm máu giữa Trung cộng và Việt Nam. Gần 100 ngàn binh lính của cả hai bên đã bị giết hại trong những trận chiến ác liệt này.

Đối xử với nhau tàn tệ, hận thù như vậy, nhưng Nhà cầm quyền Việt Nam, dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản, vẫn tiếp tục cam kết, hứa hẹn, dựa vào đàn anh Trung Cộng, tôn thờ chủ thuyết Mác-Lênin “vô tổ quốc” để bảo vệ Đảng mà cũng là bảo vệ quyền lợi phe nhóm riêng tư. Vì vậy, khi Trung cộng lấn chiếm biên giới, biển đảo của nước ta, Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã không dám lên tiếng phản đối một cách mạnh mẽ. Năm 1974, khi Trung cộng đánh chiếm Hoàng sa, Cộng sản Bắc Việt đã cho rằng, “Việt Nam hay Trung quốc, đều là Xã Hội Chủ Nghĩa anh em, nên ai kiểm soát Hoàng sa cũng được” như hai câu thơ của Tố Hữu: “Bên đây biên giới là nhà, bên kia biên giới cũng là anh em”

Năm 1979, Trung cộng lại đánh chiếm biên giới Bắc Việt, rồi năm 1988, tiếp tục đánh chiếm quần đảo Trường sa tận phía Nam tổ quốc, vậy mà Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, hình như đã quên, hàng năm không thấy nhắc nhở hay tổ chức kỷ niệm, tuyên dương những chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong những trận chiến vệ quốc vĩ đại này.

Đã cãi nhau, đánh nhau, cướp đất, cướp biển của nhau như vậy thì cũng là “đồng chí”, chẳng lẽ là “anh em”. Vì vậy, theo nhận định của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thì, mối lięn hệ 16 chữ Vàng: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 Tốt: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” giữa 2 đảng Cộng sản Việt-Trung chỉ là những gông cùm, xiềng xích đối với toàn thể dân tộc Việt Nam”. (trích Thông Bạch Tổng kết Phật sự năm 2009 của Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN)

Thế nhưng Nhà cầm quyền Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, theo chủ thuyết Mác-Lê, “vô tổ quốc”, đã hứa hẹn, cam kết, những điều bí mật với đàn anh Cộng sản Trung quốc, nên nay lâm vào thế kẹt, không thể còn làm găng được nữa. Vì vậy, Nhà cầm quyền Cộng sản chỉ còn cách nói qua loa, làm lấy lệ, để giảm áp lực việc chống xâm lăng, bảo vệ tổ quốc của nhân dân Việt Nam mà thôi.

Gần đây đã xảy ra những chuyện khó tin, nhưng lại có thật. Công an Việt Nam đã làm chuyện trái ngược, đã ra mặt ngăn cấm, đe doạ sinh viên, học sinh và nhân dân Việt Nam đi biểu tình chống Trung Cộng xâm lăng. Nhiều người còn bị bỏ tù vì cái tội biểu tình chống ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc. Hơn 4 ngàn năm mới có chuyện ngược đời khó tin này.

Thực trạng đất nước Việt Nam đang bị xâm lăng đã rất rõ ràng: “Trung quốc đã xâm lăng Việt Nam toàn diện và khắp nơi, từ lãnh thổ phía Bắc, sang Tây nguyên, xuống các hải đảo Hoàng sa, Trường sa ở biển Đông; từ tư tưởng, văn hoá, chính trị, đến kinh tế. Hoạ mất nước đang đến từng ngày, từng giờ” (Trích lời Thông Bạch của GHPGVNTN kêu gọi ủng hộ việc “không dùng hàng Trung Quốc” của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ) Cứ xem biên giới Việt Nam thì rõ. Dân Tàu tự do ra vào, coi Việt Nam như một tỉnh của Tàu. Các nhà kinh doanh Trung cộng, nay trúng thầu nơi này, mai trúng thầu nơi khác. Các khu công nghiệp, Hãng xưởng của Trung Cộng tiếp tục mọc lên như nấm trên khắp toàn quốc. Nguy nhất là Trung cộng âm mưu khai thác Bau-xit ở Tây nguyên, nơi địa thế huyết mạch, là xương sống của Việt Nam và nóc nhà của Đông Dương. Mới đây lại nghe tin đã có hơn mười (10) tỉnh cho Tàu thuê đất đầu nguồn lâu đến 50 năm!. Sau 50 năm nữa, các công nhân Tàu đã có cháu nội cháu ngoại đầy nhà, không biết làm cách nào để giải quyết vấn đề nan giải, tế nhị, dây mơ rễ má này được ? Vậy là sẽ có thêm những khu vực, lãnh thổ dành riêng cho người Tàu, giống như khu Chợ Lớn !

Đảo Hoàng sa đã mất hoàn toàn, Trường sa cũng mất gần hết. Tàu “lạ” của Trung Cộng ra vào hải phận Việt Nam như cơm bữa, lại còn ngang nhiên ra lệnh cấm đánh cá, bắt ép, cướp bóc tài sản, ghe thuyền, bắt giam cả ngư dân Việt Nam để đi tiền chuộc, ngay cả khi ngư dân vào đảo Hoàng sa của Việt Nam để tránh bão. Những hành động đàn áp, đoạ đày người dân như thời 1000 năm Bắc thuộc đang xảy ra trên tổ quốc Việt Nam. Những lúc như vậy, lại không có bất cứ bóng dáng nào của Hải quân Việt Nam, để bảo vệ ngư dân mình, hoặc ngăn chặn tàu thuyền Trung Cộng. Nhà cầm quyền Việt Nam lại còn bảo ngư dân phải tự trang bị vũ khí để tự vệ ? Quân đội không bảo vệ tổ quốc, không bảo vệ người dân, thì nuôi quân đội để làm gì ?

Nguy hơn nữa, kẻ xâm lăng lại ở ngay sát cạnh mình và theo chủ nghĩa “vô tổ quốc” của Mác Lênin. Trong khi trong nước cũng có một đảng “Vô Tổ quốc” Mác-Lênin, đã và đang bắt tay, liên kết “đảng với đảng, đồng chí với đồng chí” với kẻ xâm lăng. Họa mất nước đã rất rõ ràng.

Tổ quốc Việt Nam ta, với hơn 4 ngàn năm lập quốc, chưa bao giờ mất một tấc đất, tại sao bây giờ, chỉ có vài chục năm, lại mất đất, mất đảo, mất biển nhanh đến như vậy ?

Trung Cộng đã không đưa ra được lý do nào để chứng minh các hải đảo Hoàng Sa, Trường sa là của Trung quốc. Cũng không có trận chiến nào, quân Việt Nam đã xâm chiếm các hải đảo của Trung hoa. Nhưng Trung Cộng lại chỉ vin vào cái Công Hàm bán nước của Thủ tướng Bắc Việt, Phạm Văn Đồng, ký năm 1958, để chứng minh chủ quyền của họ trên các hải đảo của Việt Nam mà thôi. Nên có lần phát ngôn viên Việt Nam nói rằng, Hoàng sa, Trường sa là của Việt Nam, thì phát ngôn viên Trung Cộng, ông Tần Cương, đă trả lời rằng: “Chúng tôi nhận thấy các tuyên bố khác nhau của Việt Nam trong các thời điểm lịch sử khác nhau”. Không thấy phát ngôn nhân Việt Nam bác bỏ câu nói ấy như thế nào?.

Công hàm bán nước của tập đoàn việt gian cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng
Nhưng Công Hàm của Phạm Văn Đồng ký, năm 1958, thì không có giá trị trên mặt pháp lý, về phần đất phía Nam vĩ tuyến 17, thuộc quyền sở hữu của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà nên Nhà cầm quyền Miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không đại diện cho toàn dân Việt Nam. Nhưng hiện nay Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam lại bị kẹt bởi, Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam theo tín điều của chủ thuyết Mác, “vô tổ quốc”, nên không dám mạnh dạn đặt vấn đề “biên giới, tổ quốc” với Trung Cộng trên bàn tranh luận. Và cái Công Hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958, đã bán hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung cộng rồi, nên Nhà cầm quyền Việt Nam thất lý, không dám dùng sức mạnh hải quân để bảo vệ các hải đảo và ngư dân Việt Nam. Trong khi đó, thế lực bành trướng Đại Hán thì hàng ngàn năm nay, vẫn giữ mộng xâm lăng tổ quốc Việt Nam ta. Người Dân quyết chống ngoại xâm, nhưng Nhà cầm quyền cộng sản lại e dè. gây ra tình trạng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Cứ dùng dằng như vậy, tổ quốc sẽ lâm nguy !

Muốn giải quyết vấn đề cấp bách của đất nước hiện nay, chỉ còn một cách, Đảng Cộng sản Việt Nam hãy thức tỉnh, sám hối, quay đầu, trao quyền tự quyết cho nhân dân để thoát khỏi thế kẹt, tiến đến đoàn kết toàn dân, bảo vệ tổ quốc. Không thể giao phó vận mạng tổ quốc và 86 triệu sinh mạng người dân Việt Nam cho đảng Cộng sản được. Phải thay đổi chế độ độc tài, độc đảng sang thể chế đa nguyên, đa đảng. Khi đã có tự do, dân chủ, nhân quyền thì toàn dân Việt Nam sẽ đoàn kết cùng nhau đứng ra giải quyết vấn đề sống còn của tổ quốc hiện nay.

Thích Viên Định




35 năm sau Hành trình tìm TỰ DO



Đất nước có một thời như thế.

Một thời, hàng triệu người Việt Nam đã phải bỏ lại sau lưng những gì mình trân quý nhất để ra đi. Đi về đâu? Đi về phía biển. Tìm gì? Tìm tự do. Một thời, những bài ca không còn được phép hát lên thay cho lời tỏ tình của những kẻ mới yêu nhau. Một thời, những bài thơ không còn được khắc lên hàng phượng đỏ trong sân trường làm chứng tích cho mối tình học trò đầy kỷ niệm. Một thời những căn nhà thân yêu đã bị thay đổi chủ và những trường học, những con đường thân quen đã bị đổi thay tên.

Trong những cuộc hải hành tìm tự do đầy nước mắt của những năm sau 1975, bao nhiêu người đã ở lại trong lòng biển, đã chết trong các trại tỵ nạn, đã chết trong bàn tay hải tặc? Một trăm ngàn, hai trăm ngàn hay năm trăm ngàn như Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc công bố?

Không. Những con số đó chỉ là những phỏng đoán để điền vào khoảng trống cần thiết của một bản thống kê.

Làm sao ai biết được số phận của những em bé chết ngộp khi còn trong bụng mẹ?

Làm sao ai đếm được những xác người bất hạnh đang cố thoi thóp những hơi thở cuối cùng trong bụng kình ngư?

Không, sẽ không bao giờ ai biết. Con số thật đã vĩnh viễn nằm im trong lòng biển cả như nỗi đau câm nín của đồng bào và dân tộc Việt Nam.

Ba mươi lăm năm sau, trên quê hương Việt Nam, có những bà mẹ già nua trong chuỗi ngày tàn vẫn còn nuôi chút hy vọng rằng người phát thư buổi sáng sẽ trao cho mẹ lá thư đầu của đứa con ra đi.

Ba mươi lăm năm sau, có những người vợ nằm nghe tiếng lá rơi mà ngỡ như tiếng chân chồng mình trở về bên căn nhà cũ.

Nhưng từ vực sâu nước mắt đó, từ hố thẳm gian nan đó, những người may mắn sống sót đã tiếp tục hành trình. Khát vọng tự do cao hơn ngọn thủy triều cuồng nộ, ý chí vươn lên mạnh hơn giông bão Thái Bình Dương. Họ đã tranh đấu và thành công trong nhiều lãnh vực. Ba mươi lăm năm, những thuyền nhân tí hon trên những chiếc ghe bằng gỗ mong manh ngày xưa bây giờ đã trưởng thành. Các em đã thành những kỹ sư, bác sĩ tài ba, những khoa học gia lỗi lạc trong nhiều ngành. Em bé ngồi chờ mẹ, người sẽ không bao giờ trở về bên bờ biển Palawan, chắc ngày nay đã lớn. Em bé được chấp thuận định cư trong đợt thanh lọc cuối cùng ở trại tỵ nạn Panat Nikhom, sau khi chị mình tự tử để phản đối cưỡng bách hồi hương, giờ đã nên người.

Ba mươi lăm năm. Thời gian trôi trên giòng sông đời bất tận. Những mái tóc xanh nay đã bạc, những khổ đau chồng chất đã vơi đi, những thương nhớ đợi chờ cũng đã nguôi ngoai. Nhưng ký ức thì không. Những giọt nước mắt của mẹ giữa biển khơi ngày nào đã hóa thành ngọc bích. Những lời dặn dò của cha trong giờ hấp hối là những lời vàng.

Hành trình tìm tự do của hàng triệu người Việt Nam với tất cả đau thương và chịu đựng là báu vật tinh thần của các thế hệ Việt Nam hôm nay, và là di sản văn hóa Việt Nam cho mãi mãi về sau.

(Trích trong thư kêu gọi tham gia chương trình Hành Trình Tìm Tự Do của Hội Quảng Đà Dallas,Texas, Hoa Kỳ)

—————————————————————————————–




Chuyện Buồn Tháng Tư - Ngô Minh Hằng



Giọng ngâm: Hoàng Oanh

NHỮNG NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA


    NHỮNG NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA

    Năm xưa chồng tôi là người lính,
    Nơi vùng lửa đạn,
    Mồ hôi anh đã đổ,
    Từ Hố Bò Bình Dương, Bình Long,
    Đến Thừa Thiên, Quảng Trị.
    Rồi một ngày anh gục ngã,
    Tại chiến trường Tây Ninh.

    Tôi góa phụ xuân xanh,

    Con thơ chưa tròn tuổi,
    Tiễn đưa anh lần cuối,
    Về nghĩa trang quân đội Biên Hòa

    Đã bao nhiêu năm qua, ....

    Bây giờ,
    Tôi ở nơi xa,
    Đã có cuộc đời khác.
    Nhưng đôi lúc nghĩ đến anh tôi vẫn khóc,
    Thương tiếc xa xăm.

    Tôi về tìm mộ bia anh giữa chập chùng cỏ dại cây hoang,

    Để thắp một nén nhang,
    Nhớ người lính của một thời chinh chiến,
    Nhớ người chồng của một thuở gối chăn.

    Năm xưa chồng tôi là người lính,

    Một lần hành quân,
    Anh đã bị thương,
    Máu anh loang ướt vạt cỏ ven đường.
    Ôi, mảnh đất không tên,
    Đã giữ chút máu xương người lính trẻ.

    Đã bao nhiêu năm qua,

    Bây giờ,
    Anh thương binh tàn tạ.
    Sống trên quê hương đôi khi vẫn thấy mình xa lạ,
    Bạn bè anh,
    Kẻ mất người còn,
    Kẻ quên người nhớ,
    Kẻ vô tình giữa dòng đời vất vả.

    Năm xưa chồng tôi là người lính,

    Nồng nhiệt tuổi đôi mươi,
    Lần đầu tiên ra chiến trường,
    Anh mất tích không tìm thấy xác.
    Mẹ anh khóc cạn khô dòng nước mắt,
    Lòng tôi nát tan.

    Đã bao nhiêu năm,

    Vẫn không có tin anh,
    Anh ơi, dù quê hương mình đã hết chiến tranh,
    Tàn cơn khói lửa,
    Nhưng không phải là một quê hương như anh ước mơ.
    Anh đã biết chưa?
    Hỡi người tử sĩ không tên không một nấm mồ.!!!

    Năm xưa chồng tôi là người lính,

    Sống sót trở về sau cuộc đao binh,
    Sau những tháng năm tù tội,
    Bây giờ anh không còn trẻ nữa.
    Lìa xa quê hương,
    Sống ở xứ người.
    Những năm thánh chinh chiến đã đi qua,
    Nhưng vết thương đời còn ở lại,
    Trong lòng anh,
    Trong lòng những người lính năm xưa.

    Nguyễn Thị Thanh Dương



GIỜ LÊN ĐƯỜNG ĐÃ ĐIỂM



Thơ: Ngô Minh Hằng
Nhạc: Nguyễn Văn Thành




GIỜ LÊN ĐƯỜNG ĐÃ ĐIỂM

Bạn có thấy từ bốn phương, tuổi trẻ
Máu Lạc Hồng cuồn cuộn chảy về tim
Những đại cáo, đuốc thiêng đầy khí thế
Đã vang rền, sáng chói giữa trời đêm ?

Bạn có thấy những Lê Lai, Quốc Toản
Những Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Trưng Vương
Tim xa xót, lòng đau cơn quốc biến
Hiến dâng đời cho đại nghĩa, quê hương ?

Các bạn hỡi, giờ lên đường đã điểm
Hãy cùng đi, ta dựng lại sơn hà
Đây hùng sử, đang chờ ta viết tiếp
Đứng lên nào, ta cứu nước dân ta !

Bạn có thấy rừng cờ vàng gió lộng
Và tiếng ca bất khuất thuở Diên Hồng ?
Thì bạn hỡi, đứng lên mà tiến tới
Dù con đường cứu quốc có gai chông!

Đây là lúc chúng ta cần hành động
Đem nhân quyền về lại nước, dân ta
Dân Việt Nam bao năm rồi đã sống
Giữa gông cùm và máu lệ chan hòa....

Dân đợi đấy. Quê hương chờ đợi đấy
Các bạn ơi, mau dấn bước lên nào!
Kìa Đống Đa, mùa Xuân ta đã thấy
Tự muôn lòng, cánh én đã xôn xao...

Đây, Lam Sơn, đây hồn thiêng Yên Thế
Đây Hoa Lư. đây chiến thắng Bạch Đằng
Đang chờ đợi những bàn tay tuổi trẻ
Thương giống nòi mà cống hiến tài năng

Bạn có thấy rừng cờ vàng gió lộng
Và tiếng ca bất khuất thuở Diên Hồng ?
Thì bạn hỡi, đứng lên mà tiến tới
Dù con đường cứu quốc có gai chông!

Ngô Minh Hằng


GIỜ LÊN ĐƯỜNG ĐÃ ĐIỂM
(Thân gởi tuổi trẻ Việt Nam trên toàn cầu)

Các bạn hỡi, giờ lên đường đã điểm
Hãy cùng đi, ta dựng lại sơn hà
Đây hùng sử, đang chờ ta viết tiếp
Đứng lên nào, ta cứu nước dân ta !

Bạn có thấy từ bốn phương, tuổi trẻ
Máu Lạc Hồng cuồn cuộn chảy về tim
Những đại cáo, đuốc thiêng đầy khí thế
Đã vang rền, sáng chói giữa trời đêm ?

Bạn có thấy những Lê Lai, Quốc Toản
Những Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Trưng Vương
Tim xa xót, lòng đau cơn quốc nạn
Hiến dâng đời cho đại nghĩa, quê hương ?

Bạn có thấy rừng cờ vàng phất phới
Và tiếng ca bất khuất thuở Diên Hồng ?
Thì hỡi bạn, đứng lên mà tiến tới
Dù con đường cứu quốc có gai chông!

Đây là lúc chúng ta cần hành động
Đem nhân quyền về lại nước, dân ta
Dân Việt Nam bao năm rồi đã sống
Giữa cùm gông và máu lệ chan hòa....

Dân đợi đấy. Quê hương chờ đợi đấy
Các bạn ơi, mau dấn bước lên nào!
Kìa Đống Đa, mùa Xuân ta đã thấy
Tự muôn lòng, cánh én đã xôn xao...

Đây, Lam Sơn, đây hồn thiêng Yên Thế
Đây Hoa Lư. đây chiến thắng Bạch Đằng
Đang chờ đợi những bàn tay tuổi trẻ
Thương giống nòi mà cống hiến tài năng

Ngô Minh Hằng

Thư yêu cầu của Cộng Đồng Tỵ Nan Hamburg


HỘI NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN CỘNG SẢN TẠI HAMBURG
Verein der vietnamesischen Flüchtlinge in Hamburg e. V
Postfach 52 06 24, 22596 Hamburg
Register - Nr.: 9735 Amtsgericht Hamburg
HASPA, Konto-Nr.:1088/210 933, BLZ: 200 505 50


Hamburg ngày 29.03.2010
Thư yêu cầu

Kính gửi ban tổ chức Vietnam-By-Night,

Cùng cộng đồng người Việt tỵ nạn cs tại Hamburg, chúng tôi có những ý kiến và yêu cầu sau đây gửi đến quý vị:

Theo quan điểm của chúng tôi, những chương trình nhạc hội “Vietnam By Night” do quý vị tổ chức chắc chắn sẽ mang lại những ảnh hưởng nhất định trên bình diện văn hóa, văn nghệ đối với quần chúng Hamburg, và đặc biệt về chính trị đối với cộng đồng người Việt tỵ nạn tại đây, một cộng đồng đã hình thành hơn 30 năm qua với một xuất xứ từ một biến cố chính trị.

Qua quảng cáo về buổi nhạc hội ngày 13.04.2010 tại Hamburg, chúng tôi được biết là sẽ có sự hiện diện của ca sĩ “cán bộ” Đàm Vĩnh Hưng – chúng tôi nhấn mạnh là “ca sĩ cán bộ” – vì theo tin tức trong nước, người này hiện đang giữ chức vụ Ủy Viên Đại Biểu nhiệm kỳ 2009-2014 của Hội Liên Hiệp Thanh Niên TP/HCM, một bộ phận của Thành Đoàn TP/HCM và là cánh tay nối dài của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh.

Hiện nay cộng đồng người Việt tự do ở nhiều nơi đang phản đối sự hiện diện của ca sĩ ĐVH, như một, "đại sứ văn hóa lưu động" trong nghị quyết 36 của đảng CSVN nhằm lũng đoạn cộng đồng người Việt tại hải ngoại.

Đặc biệt vào tháng 4, thời điểm nhắc nhớ lại biến cố đau thương và nguyên nhân của cuộc hành trình tỵ nạn, thì sự hiện diện của nhân vật này được cảm nhận như là một sự khiêu khích về chính trị.

Chúng tôi tôn trọng các dịch vụ của quý doanh nghiệp, nhưng trước những ưu tư đối với cộng đồng, đặc biệt đối với thế hệ con em người Việt tị nạn, chúng tôi thấy phải có bổn phận lên tiếng:

Chúng tôi thay mặt cộng đồng người Việt tỵ nạn cs tại Hamburg đồng lên tiếng phản đối sự hiện diên của ca-sĩ cán bộ Đàm Vĩnh Hưng và yêu cầu ban tổ chức Vietnam-By-Night truy hồi việc mời nhân vật này trình diễn tại Hamburg.

Chúng tôi tin tưởng rằng quý vị sẽ chọn lựa một quyết định phù hợp, ngõ hầu tránh những xung đột giữa chương trình Vietnam By Night và khuynh hướng chính trị của cộng đồng người Việt tỵ nạn tại đây.

Rất mong đợi sự đáp ứng của quý vị.

Trân trọng kính chào.

Thay mặt cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Hamburg.

Hội NVTNCS tại Hamburg
H.T. Bùi Hoằng Thủy




Buồn hay vui, hận hay mừng ?




Tôi nhận được một bản tin của Cộng Đồng Sydney chuyển cho tôi từ một thân hữu. Trong bản tin 3 phần 4 là quảng cáo về việc tổ chức Mừng 35 năm định cư của Người Việt trên đất Úc và thông báo về Ngày Quốc Hận 30/4 chỉ có 1 phần 4 mà lại còn nằm ở một góc dưới của bản tin nữa. Điều nầy nói lên tầm quan trọng của một bản Thông Báo cho Ngày Quốc Hận.

Chúng ta thường nói "Tháng Tư đen", cho nên nếu tổ chức Biểu Tình sớm hơn 30/4 vài ngày thì vẫn hay hơn sau ngày 30/4. Cho nên chúng ta nên luôn luôn chọn một ngày thích hợp và ý nghĩa nhất cho ngày 30/4, một ngày buồn cho quê hương, một ngày tan thương cho dân tộc và nhất là những ngày chúng ta còn đang sống tha phương. Năm nay, 30/4 nhằm vào ngày thứ Sáu, nếu khó khăn cho đồng bào tham dự biểu tình thì ngày thứ Bảy sẽ là ngày thích hợp nhất và cũng tiện cho những đồng bào ở xa muốn về Canberra để tưởng nhớ đến ngày tan thương hàng năm nầy. Nếu chúng ta tổ chức Biểu tình vào ngày Chủ Nhật sẽ không tránh khỏi ít nhiều thắc mắc trong cộng đồng.

Tôi được biết thêm là Hội Đồng Thành Phố Bankstown có cho Cộng Đồng Sydney $5000 để tổ chức Mừng 35 năm Người Việt định cư ở Úc. Đúng như theo bản tin của CĐ thì Sydney sẽ tổ chức Đêm Thắp Nến, buổi văn nghệ ngoài trời, những trò chơi thể thao, buổi ăn mừng, ...

Những điều nêu ở trên khiến tôi bâng khuân và tự hỏi: Phải chăng chúng ta đang chuyển từ buồn đến vui hay chuyển từ hận đến mừng?

Theo tôi 30/4 vẫn mãi mãi là ngày Đau Thương (Mouring day) cho những ai tự nhận mình là người Việt Tự Do chân chính và sẽ không bao giờ là ngày Ăn Mừng (Celebration day) với bất cứ lý do nào!

Úc Châu, tháng 4 năm 2010
Người Tỵ Nạn 1982
=========
    Recognising the fall of Saigon Bankstown Council
by StreetCorner Staff
03/03/2010


Bankstown City Council has donated $5,000 towards a series of activities being staged by the Vietnamese community which commemorates 35 years since the fall of Saigon.

Project 35, which will begin on the official anniversary date of Friday 30 April and run for three months, will feature a public concert, vigil night, sporting tournament, art exhibition and celebration dinner.

The anniversary marks 35 years since the major wave of immigration to Australia following the Vietnam War. Celebrations, run by the Vietnamese Community of Australia, NSW Chapter (VCA), will pay tribute to the people and governments that enabled refugees to rebuild their lives in Australia.

‘’With more than 10,000 Vietnamese-Australians residing today in Bankstown, the anniversary of the fall of Saigon is of extreme importance to our entire community,’’ said Mayor of Bankstown, Clr Tania Mihailuk.

‘’The anniversary will give us the opportunity to celebrate the various contributions the Vietnamese community have made in enriching our area."

The capture of the South Vietnamese capital, Saigon in 1975 marked the end of the Vietnam War. The fall of the city was preceded by the flight of tens of thousands of South Vietnamese civilians seeking refugee status in countries around the world. Many Vietnamese settled in Australia under refugee and humanitarian programs.

Project 35 will run in partnership with various government agencies, member associations and private businesses. The Vietnamese Community in Australia is the umbrella organisation providing leadership on issues affecting Vietnamese-Australians and their families. The NSW branch has actively provided important community-based services in Bankstown for many years.

Source: http://www.streetcorner.com.au/news/showPost.cfm?bid=13619&mycomm=WC



Hãy Kể Tôi Nghe

    Hãy Kể Tôi Nghe
    Thơ:Vntvnd
    Nhạc: Nguyễn Văn Thành



    Hãy kể tôi nghe chuyện thuở xưa
    Chuyện người lấy máu giữ gìn cờ
    Nền vàng, sọc đỏ nhiều năm trước
    Vĩnh cửu vinh danh nhạc lẫn thơ

    Hãy kể tôi nghe những chiến công
    Địa danh hiển hách của non sông
    Từng ghi, chứng kiến bao thành tích
    Chống bước xâm lăng lũ rợ Hồng

    Hãy kể họ tên của mỗi người
    Xả thân bảo vệ nước Nam tôi
    Mà khi nhắc đến còn run sợ
    Bạo chúa vô tâm khuấy góc trời

    Hãy kể tôi nghe, kể hết ra
    Bờ ao, mé núi, chái hiên nhà
    Nơi nao lưu vết thiên hùng sử
    Triệu đấng anh tài vị quốc gia

    Để được tri ân, tưởng tiếc về
    Và khơi dậy đỏ lửa hồn quê
    Đang âm ỉ cháy trong tim huyết
    Vạn kẻ Kinh Kha nặng ước thề

    Cùng nhắc cho con cháu hậu sinh
    Năm châu hiện sống giữa yên bình
    Đừng quên xương máu tiền nhân đã
    Bất khuất bao đời dốc chiến chinh.

    Vntvnd
    (25/02/2008)




KHÓC NGƯỜI ĐÁY BIỂN - Ngô Minh Hằng


    KHÓC NGƯỜI ĐÁY BIỂN
    (Viết để khóc cho mình và cho những thuyền nhân kém may mắn trên đường vượt biển tìm Tự Do sau 1975)

    Tháng Tư ra biển khóc người
    Oan hồn hỡi, đáy trùng khơi, xin về
    Biển chiều vàng ánh tà huy
    Dài tay sóng níu bước đi vô hồn
    Đứng trên bờ đá cô đơn
    Khóc người bằng tiếng thơ buồn xót xa
    Ai hay đáy biển là nhà
    Máu pha lệ hận chan hòa đại dương
    Thịt da nát dưới bạo cuồng
    Ngàn trang huyết sử bên đường tử sinh!
    Mắt buồn nhìn sóng biển xanh
    Thấy sương khói vẫn vô tình khói sương
    Mà lòng đòi đoạn đau thương
    Xót người đáy biển đoạn trường chưa nguôi !

    Tháng Tư ra biển khóc người
    Hiển linh,chứng giám đôi lời thơ đau
    Tôi viễn xứ, người biển sâu
    Chung hồn lưu lạc, chung sầu quê hương
    Người trên sóng nước trùng dương
    Tôi khung cửa hẹp, gió sương bốn mùa
    Bóc tờ lịch Lại Tháng Tư!
    Đau tình sông núi làm thơ khóc người
    Người vùi xương trắng biển khơi
    Còn tôi sống kiếp dân Hời vì ai ?

    Ngô Minh Hằng



Thursday, April 1, 2010

Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway ngày 30-4-1975 và Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng



Quang cảnh lúc chiếc L19 do Thiếu Tá Lý Bửng lái đáp an toàn trên HKMH Midway
Ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp.

Thanh Phong/Viễn Đông
    Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway ngày 30-4-1975 và Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng


LITTLE SAIGON
- Năm nay kỷ niệm 35 năm, ngày hàng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do, một buổi lễ được đặc biệt tổ chức trên Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway, nay là Bảo Tàng Viện USS Midway, đang neo đậu vĩnh viễn tại hải cảng San Diego, miền Nam California. Vào những ngày cuối tháng 4-1975, Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway đã đón nhận hàng ngàn người Việt di tản, trong đó có một số tướng lãnh cao cấp của chính quyền VNCH. Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng, một trong số những người có mặt trên USS Midway đã làm cho cả thế giới thán phục, vì ông là người đầu tiên lái loại phi cơ L19 đáp xuống hàng không mẫu hạm an toàn. Để tìm hiểu chi tiết sự kiện độc đáo của người phi công Không Lực VNCH, chúng tôi đã được ông dành cho cuộc phỏng vấn đặc biệt, và sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn của chúng tôi với Thiếu Tá Lý Bửng qua đường dây điện thoại viễn liên.



Viễn Đông: Xin chào Thiếu Tá Lý Bửng, Thiếu Tá mạnh khỏe không?

Thiếu Tá Lý Bửng: Ồ, chào anh, tá với tướng gì nữa, gọi anh em đi cho nó thân mật.

Viễn Đông: Vậy thì cám ơn Thiếu Tá, nhưng trước khi xưng hô anh em, xin Thiếu Tá cho biết năm nay bao nhiêu cái xuân xanh rồi mà chưa nghỉ hưu vẫn phải đi cày?

Th/Tá Lý Bửng: Xấp xỉ bảy bó rồi, nhưng còn cày được ta cứ cày (cười).

Viễn Đông: Vậy thì gọi Thiếu Tá là anh phải rồi, vì đàn em thua anh vài tuổi thôi.
(Đến đây xin phép độc giả, chúng tôi đổi cách xưng hô theo lời yêu cầu của Thiếu Tá Lý Bửng).

Th/Tá Lý Bửng: Rồi, OK, tôi làm anh, chú là em. Bây giờ chú muốn hỏi điều gì đây?

Viễn Đông: Thì hỏi anh chuyện lái máy bay đáp xuống hàng không mẫu hạm USS Midway đó mà!

Th/Tá Lý Bửng: Mà hỏi để làm gì?

Viễn Đông: Để đăng báo cho bà con đọc!

Th/Tá Lý Bửng: Thôi mà, có gì mà phải đăng báo! Mà đăng báo có sao không?

Viễn Đông: Sao là sao ạ? Có phải anh khiêm tốn hay là ngại chuyện gì khác?

Th/Tá Lý Bửng: Có liên quan đến chính trị không đó?

Viễn Đông: Thưa không đâu, chả có chính trị chính em gì cả. Đây là câu chuyện lý thú và rất đặc biệt của một phi công Việt Nam Cộng Hòa tài ba thôi.

Th/Tá Lý Bửng: Cho tôi một phút suy nghĩ.... Alô, rồi OK tới luôn đi.

Viễn Đông: Thế là ông anh sẵn sàng trả lời rồi phải không?

Th/Tá Lý Bửng: Sẵn sàng.

Viễn Đông: Trước hết xin cho biết, ông anh gia nhập Không Quân VNCH năm nào? Vào thời điểm cuối tháng 4-1975, anh mang cấp bậc gì, đơn vị nào và đồn trú tại đâu?

Th/Tá Lý Bửng: Cấp bậc cuối của tôi là Thiếu Tá, còn hỏi đơn vị để làm gì vậy chú?

Viễn Đông: Thưa ông anh, trước hết để đơn vị của ông anh hãnh diện là có một bạn đồng ngũ nổi tiếng thế giới, đem vinh dự cho đơn vị; thứ hai là để kiểm chứng xem ông anh có ở trong Không Quân thiệt hay là ông anh cướp máy bay đi thì sao?

Th/Tá Lý Bửng: Chịu thua. Rồi, OK, tôi vô Không Quân năm 1963, đơn vị tôi là Phi Đoàn 114 Quan Sát, đóng tại Nha Trang, rồi gì nữa đây?

Viễn Đông: Anh lái loại máy bay nào khi bay ra hàng không mẫu hạm?

Th/Tá Lý Bửng: Tôi lái L19, loại máy bay quan sát.

Viễn Đông: Nếu em nhớ không lầm, loại máy bay này người ta thường gọi là máy bay bà già hay là máy bay thám thính, đúng không anh?

Th/Tá Lý Bửng: Đúng rồi đó, nhưng mà gọi là máy bay quan sát cho nó nhẹ nhàng, chứ thám thính nghe ghê quá!

Viễn Đông: Anh bay từ đâu ra hàng không mẫu hạm, và ngày nào?

Th/Tá Lý Bửng: Tôi bay từ Côn Sơn. Đầu tiên tôi bay từ Tân Sơn Nhất ra Côn Sơn ngày 29-4, rồi từ Côn Sơn bay ra HKMH ngày 30-4-1975.

Viễn Đông: Anh có biết trước vị trí của chiếc HKMH đang ở đâu hay phải bay đi tìm?

Th/Tá Lý Bửng: Tôi biết có HKMH đón người di tản, nhưng không rõ đang ở đâu, nên phải bay đi tìm.

Viễn Đông: Anh bay bao lâu thì thấy HKMH?

Th/Tá Lý Bửng: Khoảng nửa tiếng hay 45 phút thì gặp chiếc USS Midway.

Viễn Đông: Nếu không gặp HKMH, máy bay của anh có đủ nhiên liệu bay qua Thái Lan không?

Th/Tá Lý Bửng: Nếu ở sát biên giới Thái Lan thì được, còn ở Sài Gòn, Biên Hòa, Nha Trang hay Côn Sơn thì không đủ nhiên liệu bay qua Bangkok.

Viễn Đông: Lúc đó chắc còn nhiều loại máy bay khác, sao anh lại chọn L19?

Th/Tá Lý Bửng: Lúc đó chỉ còn duy nhất chiếc L19.

Viễn Đông: Ngoài L19, anh còn lái được loại máy bay nào khác?

Th/Tá Lý Bửng: Tôi cũng lái được loại AD5, AD6 và Cessna, nhưng không lái thường xuyên như L19.

Viễn Đông: Vậy khi gặp HKMH, anh làm gì?

Th/Tá Lý Bửng: Thì tôi xin nó cho mình đáp xuống, nhưng khổ nỗi trên máy bay của tôi không có vô tuyến để liên lạc với dưới HKMH, nên tôi cứ bay vòng vòng xung quanh nó và dùng các phương pháp mình đã học để áp dụng cho nó hiểu là mình xin đáp, nhưng chẳng thấy dấu hiệu trả lời!

Một trang bản đồ được Phi Công Lý Bửng xé ra ghi note liệng xuống HKMH. Mảnh giấy này được lưu giữ trên USS Midway - ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp.
Viễn Đông: Xin anh đơn cử một trong những phương pháp xin đáp?

Th/Tá Lý Bửng: Tôi chớp đèn đáp liên tục.

Viễn Đông: Rồi sao nữa anh?

Th/Tá Lý Bửng: Tôi nghĩ ra cách, viết cái “note” cho họ hiểu là tôi xin đáp. Đầu tiên tôi cột vào con dao và bay sát HKMH, tôi mở cửa liệng dao xuống. Nó đụng sàn tàu, tưng lên rơi xuống biển. Sau đó tôi làm cái thứ hai, thứ ba, cột vào dây súng thảy xuống, cũng rơi luôn xuống biển. Lần thứ tư, tôi cột vào khẩu P. 38, bay thật thấp và liệng xuống. Lạy Trời, lần này không xuống biển. Tôi nhìn thấy một anh chàng chạy lại lượm lên coi và chạy biến đi, không biết đi đâu. Sau khi xuống tàu, được biết, khi họ lượm và đọc cái note của tôi, họ chạy ngay lên báo cho Hạm Trưởng.

Viễn Đông: Trước khi trên HKMH họ lượm được cái note của anh, liệu họ có sợ máy bay khủng bố không, vì anh cứ bay vòng vòng quanh họ và lại bay rất thấp?

Th/Tá Lý Bửng: Không đâu, họ có ống dòm tối tân, họ nhìn thấy hết chứ.

Viễn Đông: Sau khi lượm được note của anh, họ có ra dấu OK cho anh đáp không?

Th/Tá Lý Bửng: Tôi bay mấy vòng nữa quan sát, thì thấy họ đang dọn dẹp mấy chiếc trực thăng đậu trên phi đạo cho gọn lại, lúc đó tôi biết họ OK cho mình xuống.

Viễn Đông: Trong suốt thời gian là phi công, đã có lần nào anh hạ cánh trên hàng không mẫu hạm chưa?

Th/Tá Lý Bửng: Chưa.

Viễn Đông: Nhưng đã có lần nào anh phải hạ cánh xuống một phi đạo ngắn như trên HKMH?

Th/Tá Lý Bửng: Có chứ, nhưng trên đất liền, đỡ nguy hiểm hơn.

Viễn Đông: Chắc anh biết, phi đạo trên HKMH không có những dụng cụ chuẩn bị cho loại L19 đáp chứ?

Th/Tá Lý Bửng: Biết chứ. Họ chỉ trang bị lưới và móc để giữ các loại máy bay phản lực khi đáp xuống, không dự trù cho trườøng hợp của tôi.

Viễn Đông: Khi biết trước như vậy mà anh còn cố đáp xuống, anh có nghĩ là quá liều lĩnh không?

Th/Tá Lý Bửng: Dĩ nhiên là liều mạng rồi, vì không đáp xuống HKMH thì phải đáp xuống biển thôi.

Viễn Đông: Vậy trước khi quyết định hạ cánh, tâm trạng anh ra sao?

Th/Tá Lý Bửng: Nếu bây giờ tôi còn nhớ được tâm trạng lúc đó ra sao thì tôi thành Superman rồi chú ạ.

Viễn Đông: Ồ, em quên, ông anh cho biết trên máy bay L19, ông anh chở những ai?

Th/Tá Lý Bửng: Máy bay L19 chỉ có một chỗ cho hoa tiêu, một chỗ cho ông quan sát, nhưng tôi chơi luôn 7 mạng, tôi, vợ và 5 đứa con. Chính điều này làm người Mỹ rất sợ, vì chở quá trọng tải!

Viễn Đông: Khi bay, anh có cho chị và mấy cháu biết là sắp đáp xuống HKMH không?

Th/Tá Lý Bửng: Không. Cho bả biết, bả và mấy đứa nhỏ sợ thì hỏng chuyện.

Viễn Đông: Trước khi hạ cánh, anh có tin tưởng sẽ đáp xuống an toàn không?

Th/Tá Lý Bửng: Tin chứ, không tin sao dám đáp?

Viễn Đông: Lúc máy bay của anh dừng trên HKMH, mũi tàu còn khoảng cách bao xa thì lọt xuống biển?

Th/Tá Lý Bửng: Lúc đó mừng quá rồi ai mà nhớ, nhưng tôi nghĩ cũng còn một khoảng cách ngắn nữa.

Viễn Đông: Làm sao một phi đạo ngắn như vậy, anh đáp xuống được?

Th/Tá Lý Bửng: Khi máy bay vừa chạm sàn tàu, tôi tắt máy ngay, đó là nguyên tắc đáp ngắn.

Viễn Đông: Khi máy bay của anh hạ cánh an toàn, chuyện gì xảy ra?

Th/Tá Lý Bửng: Ôi, họ túm lại bồng tôi rồi bồng vợ, con tôi ra. Họ ríu rít hỏi han và tỏ ý rất khâm phục, họ dẫn chúng tôi lại gặp Hạm Trưởng, sau đó một Hạm Trưởng ở chiếc khác hay tin cũng bay đến gặp tôi chúc mừng. Người Mỹ họ rất cảm phục mình, thứ nhất là máy bay chở quá mức, thứ hai là dám đáp xuống HKMH bằng L19 và thứ ba là không có vô tuyến liên lạc.

Các phóng viên ngoại quốc phỏng vấn Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng - ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp
Viễn Đông: Sau đó họ đưa anh và gia đình đi đâu?

Th/Tá Lý Bửng: Họ tiếp đãi rất nồng hậu, sau đó chuyển qua một chiếc tàu thương mại chở qua Subic Bay (Phi Luật Tân). Ở đó 1, 2 đêm, rồi họ chở về Guam và rồi từ Guam qua đây.

Viễn Đông: Sau đó, chiếc máy bay L19 do anh lái họ để ở đâu?

Th/Tá Lý Bửng: Chiếc L19 tôi lái là chiếc máy bay duy nhất được đem toàn vẹn qua Hoa Kỳ và trưng bày trong Bảo Tàng Viện Hải Quân của tiểu bang Florida.

Viễn Đông: Từ đó đến nay, đã có lần nào anh tới nhìn lại chiếc L19 đó, và nếu có thì cảm nghĩ của anh như thế nào?

Th/Tá Lý Bửng: Tôi có đến xem và thấy vẫn nguyên vẹn, còn cảm nghĩ thì mình cám ơn nó đã giúp đưa mình đến HKMH an toàn.

Viễn Đông: Vào ngày 30-4 sắp tới, nghe nói Ban Tổ chức có mời anh qua dự?

Th/Tá Lý Bửng: Đúng, họ có mời tôi.

Viễn Đông: Giả sử họ trao cho anh một chiếc L19 và yêu cầu anh bay biểu diễn rồi đáp xuống USS Midway một lần nữa cho bà con coi chơi, anh có dám không?

Th/Tá Lý Bửng: Dám chớ sao không? Làm thì làm chớ. Lâu quá rồi, với lại mình già rồi nhưng chắc cũng không đến nỗi tệ, vì quen như mình cầm đũa ăn cơm vậy mà!

Viễn Đông: Phục ông anh lắm. Vậy năm người con của anh, có ai nối nghiệp bố không anh?

Th/Tá Lý Bửng: Không, tụi nó nói: “Bố gan quá! Tụi con không dám!”.

Viễn Đông: Thế còn chị nhà, từ sau khi anh hạ cánh an toàn trên HKMH đến nay, có khi nào chị nhắc lại chuyện cũ và tưởng thưởng cho anh không?

Th/Tá Lý Bửng: Bả nói, sao mà đưa bả qua đây làm chi? Còn thưởng thì thưởng lâu rồi! Riêng mấy bà bạn bả hỏi thì bả nói: Ổng làm cái gì thì ổng làm, chứ tôi có biết gì đâu!

Viễn Đông: Còn người Mỹ thì sao? Họ có gặp anh phỏng vấn không?

Th/Tá Lý Bửng: Mỹ thì họ làm hoài đó chứ. Lần nào họ viết bài họ cũng nói họ rất khâm phục phi công VNCH, gan dạ cùng mình.

Viễn Đông: Tại sao lần này họ tổ chức 30-4 trên USS Midway?

BungLee-USS-Midway-Bird-Dog. Chiếc “Bird Dog” L19 vừa được treo lên triển lãm tại Bảo Tàng Viện USS Midway, chuẩn bị mở cửa vào ngày 30-4-2010 sắp tới – Ảnh: Bảo Tàng Viện USS Midway cung cấp.


Chiếc “Bird Dog” L19 vừa được treo lên triển lãm tại Bảo Tàng Viện USS Midway, chuẩn bị mở cửa vào ngày 30-4-2010 sắp tới – ảnh: Bảo Tàng Viện USS Midway cung cấp.

Th/Tá Lý Bửng: Chiếc USS Midway này đã quá cũ nên chính phủ Mỹ đưa qua San Diego, biến nó thành cái Bảo Tàng Viện như một chứng tích của cuộc chiến. Trong đó một phần cũng do cái chuyện đáp L19 của tôi làm cho nhiều người tò mò đến xem, nên họ đã làm một cái L19 khác giống như chiếc tôi lái và để trên HKMH cho du khách xem, nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày mất miền Nam.

Viễn Đông: Thôi, làm phiền anh vậy đủ rồi, cám ơn anh và mong gặp anh ngày 30-4 trên USS Midway.

Th/Tá Lý Bửng: Cám ơn chú.

Source: http://www.viendongdaily.com/Contents.aspx?contentid=+7724&item=94


Buổi họp mặt Đêm Trùng Dương do Hội Hải Quân Hàng Hải

Tin tổng hợp từ Hoa Thịnh Đốn

Buổi họp mặt Đêm Trùng Dương do Hội HQHH vùng Đông Bắc HK tổ chức tại nhà hàng Thần Tài đêm thứ Bảy 27/3/2010 có khoảng 400 người tham dự. Trong đó có hai ông Tướng Hải Quân là Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh (Phó Thủ Tướng chính phủ của Nguyễn Hữu Chánh), Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng (nghe nói thuộc Việt Tân) và vài vị cao cấp bên Hàng Hải Thương Thuyền cùng các đại diện Hội Đoàn cựu QN /QLVNCH thuộc các quân binh chung tham dự. Phía Cộng Đồng VA/MD/DC có Chủ tịch là Đỗ Hồng Anh (người đứng ra bao che cho đài VN Hải Ngoại trong vụ giao tiếp với cán bộ Tuyên Vận Toà Đại sứ VC).

Trưởng ban tổ chức buổi dạ tiệc là ông Nguyễn Văn Thành, chồng của nữ phóng viên Tuyết Mai (người bị tố cáo mặc áo cờ đỏ sao vàng tham dự Á Vận Hội Thái Lan cách đây mấy năm).

Trong phần trình diễn Văn Nghệ có màn ảo thuật như sau:

Một nữ ảo thuật viên Nguyễn thị Ngọc Dung, (tự là Quỳnh Dung, tự xưng là Nữ Quân Nhân phục vụ tại Cục Quân Vận và là khách do bà Tuyết Mai mời tới từ North Carolina.)

Nữ ảo thuật viên mời ông Trần Văn Tuấn Chủ Tịch Hội HQHH/HTĐ lên phu trình diễn. Từ một nhúm giẻ bùi nhùi, bà Dung làm phù phép biến hóa và mời ông Tuấn kéo từ trong đống giẻ này ra lá cờ vàng 3 sọc. Ông Tuấn đưa cao cho mọi người thấy kèm theo nhiều tiếng vỗ tay nhưng không một ai để ý đến cái thâm là lá cờ vàng 3 sọc đỏ được lấy ra từ nhúm giẻ bùi nhùi. Xong ảo thuật viên bảo ông Tuấn cắt xé lá cờ vàng ra làm 4 và châm lửa đốt cháy lá cờ để biến ra 2 con chim bồ câu. Đến đây thì thâm ý của màn ảo thuật đã lộ dần, có nhiều tiếng xì xào nhưng đặc biệt không ai có một phản ứng nào, duy nhất có một vị là ông Đề Đốc Tánh định phản đối thì ông Tuấn (Chủ Tịch/HQHH) kéo ông ta ngồi xuống nói nhỏ gì đó. Còn vị Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng thì vẫn tiếp tục thụ hưởng các món ăn, không tỏ một lời hay thái độ phản đối, Chủ Tịch Cộng Đồng Đỗ Hồng Anh thì ... không nghe không thấy không nói.

Người ta đã lien kết các sự kiện mới đây tại vùng Hoa Thịnh Đốn, trong đó Tuyết Mai (vợ của Hải Quân Nguyễn Văn Thành, Trưởng ban Tổ chức) đã làm cái loa cho Chủ Tịch CĐ DDỗ Hồng Anh, người bênh vực cho các hành vi phản bội của nhóm đài VNHN.

Màn ảo thuật nói lên gì? Ngay cả người ngây thơ nhất cũng phải hiểu hậu ý của bọn phản động này là “phải xoá bỏ chính nghĩa của VNCH (mà biểu tượng là lá cờ vàng ba sọc đỏ), thì mới mong có hoà bình (Biểu tượng là con chim bồ câu)

Có phải chăng đây là một bước mới trong việc thực thi Nghị Quyết 36 của bọn Việt Cộng?

Những quân nhân từng phục vụ, chiến đấu dưới lá cờ, sao lại vô tâm ngồi tiếp tục ăn uống cười đuà trước việc sỉ nhục này? Hay quý vị đồng ý với nó?

Những quân nhân từng đổ máu, từng tù đày vì lá cờ vàng; Những thuyền nhân từng liều mạng sống để ấp ủ chính nghĩa tự do, xin hãy bày tỏ thái độ đứng đắn của mình trước hành vi phản phúc của nhóm người này.

Đỗ Văn Phúc
______________

Thông Báo

V/v: Xé và đốt cờ VNCH trong buổi tiệc của Hội Hải Quân
Trước những nguồn tin liên quan đến vụ lá cờ giấy VNCH bị xé

Trước những nguồn tin liên quan đến vụ lá cờ giấy VNCH bị xé và đốt trong màn ảo thuật của buổi tiệc Đêm Trùng Dương do Hội Hải Quân Hàng Hải & Thương Thuyền tổ chức vào tối thứ bảy 27/3/2010, Cộng Đồng Việt Nam Vùng Washington, DC, MD & VA trân trọng thông báo:
    1. Ngay sau khi màn ảo thuật vừa chấm dứt, những thực khách ngồi trong bàn dành cho Cộng Đồng, trong đó Chủ Tịch CĐ, đã lên tiếng phản đối ngay với hai người trong Ban Tổ Chức về sự việc sai trái đó.
    2. Sau đó, đích thân ông Hội Trưởng Trần Văn Tuấn đã bước lên sân khấu để nhận lỗi trước đồng hương.
    3. Kế đến, trước phản ứng tiếp theo của một số thực khách khác, ảo thuật gia Quỳnh Dung đã lên sân khấu xin lỗi về màn ảo thuật có phần xé và đốt lá cờ giấy của VNCH.
Thông cáo này được công bố để tránh những sự hiểu lầm và xuyên tạc về thái độ của Cộng Đồng ngay trong buổi tiệc nói trên.

Làm tại Falls Church, ngày 1 tháng 4 năm 2010
TM Cộng Đồng,
Chủ Tịch
Đỗ Hồng Anh

Đại Tá Lương Sơn Việt

Luong's Address to Vietnamese Conference


Đại Tá Lương Sơn Việt
    3rd Brigade Combat Team, 101st Airborne Division (AA) Public Affairs
Video by Sgt. Victor Gardner
Date Taken: 03.22.2010
Posted: 03.22.2010 09:59
Video Location: AF


This is an adress by Col Luong to a Vietnamese Conference near Wash. D.C.
Produced by Sgt. Victor Gardner.



Source: http://www.dvidshub.net/?script=video/video_show.php&id=81520