Saturday, July 12, 2008

LỄ THỌ TANG ÐỨC ÐỆ TỨ TĂNG THỐNG GHPGVNTN


LỄ THỌ TANG ÐỨC ÐỆ TỨ TĂNG THỐNG GHPGVNTN, ÐẠI LÃO HOÀ THƯỢNG thượng HUYỀN hạ QUANG

TẠI CHÙA PHÁP LUÂN, HOUSTON, TX

Bài viết: Trần Kim Vy
Ảnh chụp: Trần Minh Tâm

Tin buồn Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang viên tịch vào lúc 1 giờ trưa tại Tu viện Nguyên Thiều tỉnh Bình Ðịnh Việt Nam ngày 05 tháng 7 năm 2008 nhằm ngày mùng 03 tháng 6 năm Mậu Tý (ngày giờ Việt Nam). Trụ thế 89 năm. Pháp lạp 69, đã làm cho Phật tử khắp nơi ở hải ngoại không chỉ thương tiếc mà còn ngẫn ngơ hụt hẫng, không biết rồi Giáo Hội PGVNTN đi về đâu khi mà vị lãnh đạo tinh thần hiền lành không còn ở cõi Ta Bà này nữa. Dù rằng ngoài Ðức Tăng Thống ra còn có Ngài Viện Trưởng Viện Hoá Ðạo Ðại lão Hoà Thượng Thích Quảng Ðộ cũng là một trong những vị Bồ Tát hoá thân dâng hiến cuộc đời của mình cho Giáo Hội và Dân tộc. Nhưng lo ngại hay lo sợ vẫn là căn bệnh của chúng sinh!

Ngày 27-5-2008 vì yếu tim khó thở và trong phổi có nước nên Ðức Tăng Thống phải vào trị tại bệnh viện Ða khoa Quy Nhơn. Tuần lễ đầu tiên bệnh tình thuyên giảm khả quan. Nhưng sau đó y sĩ khám phá ra Tăng Thống bị yếu thận và bị suy dinh dưỡng nên phải chuyển Ngài vào phòng cấp cứu để xử dụng máy trợ tim và chuyền thức ăn vào ống mủi. Sau hơn một tháng điều trị tại bệnh viện không mấy thuyên giảm nên Ngài tỏ ý muốn về Tu Viện Nguyên Thiều để được nghe kinh kệ trong một không khí thanh tịnh. Ước nguyện của Ngài cũng giống như ước nguyện của chư tôn đức. Và Ngài đã được đón về Tu viện Nguyên Thiều vào lúc 3 giờ 30 chiều cùng ngày.

Bản tin cho biết tại Tu viện Nguyên Thiều có chư tôn đức thuộc Hội Ðồng Lưỡng Viện có mặt ra đón Ðức Tăng Thống và đưa vào phương trượng của Ngài. Ðại diện Hội Ðồng Lưỡng Viện gồm có: Ðại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Ðộ (VT/VHÐ), Hoà Thượng Thích Thiện Hạnh (Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống), Thượng Toạ Thích Viên Ðịnh (Phó VT kiêm TTK/VHÐ), Hoà Thượng Thích Không Tánh (TVT/TV Từ Thiện Xã Hội), Thượng Toạ Thích Chơn Tâm (TVT/TV Giáo Dục), Thượng Toạ Thích Như Tấn (TVT/TV Hoằng Pháp), Thượng Toạ Thích Minh Nguyệt (Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Tiền Giang), Ðại Ðức Thích Từ Giáo (Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Quảng Trị) . Ngoài ra, còn có Sư Bà Tâm Ấn, 92 tuổi cùng một số chư tăng, ni và Phật tử tỉnh Bình Ðịnh nghe tin đã đến vấn an đảnh lễ Ðức Tăng Thống.

Hội Ðồng Lưỡng Viện quyết định ngày mai (05-7-2008) vào lúc 8 giờ sáng Giáo Hội thiết lễ Khai kinh cầu an cho Ðức Tăng Thống. Không ngờ đến 1 giờ trưa ngày 05-7-2008 thì Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống đã an thần thị tịch.

Thực ra, Ðức Tăng Thống đã 89 tuổi đang bệnh nặng mà chẳng lúc nào yên tỉnh nghỉ ngơi, đầu óc lúc nào cũng tính toán lo âu cho vận mệnh Giáo Hội cũng như Dân Tộc, y sĩ cho biết Ngài bị thiếu dinh dưỡng. Vì tuổi già sức yếu, cơ thể không chống lại với sự tàn phá của bệnh hoạn và thời gian thì Ngài xả bỏ báo thân cũng là chuyện thường. Nhưng vì trong lúc này tất cả mọi người đều trông mong bám víu vào sự lèo lái con thuyền Giáo Hội của hai Ngài lãnh đạo tối cao là đại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ. Nhà cầm quyền CSVN lúc nào cũng muốn xoá sổ GHPGVNTN, họ xem quý Ngài như hai cái gai cần phải nhổ bỏ. Nhưng ngược lại thế giới xem hai Ngài là hai ánh đuốc rực sáng soi đường dẫn lối cho đoàn người tiến về phía trước trong đêm đen tăm tối.

Hai Ngài là nguồn an ủi là niềm hy vọng của những người dân khốn khổ bị chà đạp nhân phẩm nhân quyền thiếu mất tự do. Hai Ngài không chỉ là biểu tượng tranh đấu cho tự do dân chủ của hơn 80 triệu người dân thấp cổ bé miệng trong nước Việt Nam không thôi, mà "Biểu Tượng Huyền Quang-Quảng Ðộ" còn vĩ đại hơn, bay xa hơn, vượt khỏi biên giới Việt Nam, lan rộng khắp nơi trên toàn cầu bằng tấm gương can đảm, kiên cường, bất khuất, là tiếng nói dũng cảm, vô úy trước bạo quyền CS và do đó tấm thân hai Ngài lúc nào cũng bị CSVN cầm tù quản chế.

Cho nên tin Ðức Tăng Thống viên tịch vừa được loan ra đã khiến mọi người bàng hoàng, đau đớn, cố cho đó chỉ là một cơn ác mộng, hy vọng rằng sau khi tỉnh giấc Nam Kha, Ngài Tăng Thống kính yêu vẫn còn đó và Ngài vẫn là một điểm tựa vững mạnh nhất của hàng Phật tử khắp nơi, dù tuổi Ngài đã cao sức Ngài đã yếu. Nhưng vấn đề tuổi tác có hề chi, miễn Ngài còn đó là mọi vấn đề dù khó khăn cũng có thể nhờ vào đức độ của Ngài mà gỡ rối từ từ...

Nhưng rồi thì mỗi lúc tin tức xấu này càng rõ ràng, càng chính xác hơn.

Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống viên tịch thật rồi. Ngài đã xả báo thân vào lúc 1 giờ trưa ngày 05-7-2008 nhằm ngày mùng 03 tháng 6 năm Mậu Tý tại Tu Viện Nguyên Thiều, trụ thế 89 năm, pháp lạp 69. Lễ nhập kim quan cử hành lúc 8 giờ sáng ngày 06-7-2008. Lễ cung nghinh Kim Quan nhập Bảo Tháp lúc 7 giờ sáng ngày 11-7-2008 trong khuôn viên Tu Viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Ðịnh, Việt ... Giáo Hội đã lên chương trình tang lễ trên giấy trắng mực đen rồi. Cáo Bạch do Hoà Thượng Thích Quảng Ðộ ấn ký đã gửi ra hải ngoại rồi. Tin Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống đã bỏ chúng ta ra đi về miền miên viễn là sự thật 100% rồi! Nước mắt tuôn xuống từng dòng không ngừng lại được. Thương quá một vị cao tăng đạo hạnh một đời sống vì người quên mình.

Tại thành phố Houston Texas, chùa Pháp Luân là nơi trú xứ của Ðại Lão Hoà Thượng Thích Hộ Giác, Phó Viện Trưởng Viện Hoá Ðạo, Chủ Tịch Văn Phòng II VHÐ&GHPGVNTNHK. Vào lúc 12 giờ trưa Chủ Nhật 06-7-2008, chư tôn đức đã tổ chức Lễ Tưởng Nguyện và Thọ Tang Ðức Cố Ðệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang. Tuy buổi Lễ không có thông báo trên đài phát thanh rầm rộ, các Phật tử thuộc Ban Hướng Dẫn miền Thiện Luật đã gọi điện thoại mời nhau, và người này gọi người kia .... vậy mà cũng đã có trên 350 quan khách Phật tử tới tham dự buổi Lễ trang nghiêm này. Nhìn bức ảnh phóng lớn trong ngày đại Lễ Vinh Danh nhị vị Hoà Thượng do các Phật tử và Hội Ðồng Ðại Diện Cộng Ðồng Tổ Chức chiều 15-8-2008 vừa qua với trên 1,000 người tham dự, ai cũng thấy thương thấy nhớ một vị đại tăng đức độ hy sinh cho Phật pháp và Dân tộc tới hơi thở cuối cùng.

Không khí buổi lễ trầm buồn trong lúc Hoà Thượng Thích Huyền Việt, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên GHPGVNTN tuyên đọc tiểu sử của Ngài. Khi Hoà Thượng Huyền Việt nhắc tới những lời ứng khẩu của Ðức Tăng Thống trong buổi lễ bế mạc Ðại hội Bất thường do Ngài và Ðại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Ðộ tổ chức vào ngày 01-10-2003 tại Tu Viện Nguyên Thiều, khuyên chư tôn đức hãy tích cực hơn trong công tác đâu lưng phục hoạt GH Dân Lập, nghe mà cảm động, nghe mà kính phục tấm lòng từ bi nhưng không kém uy dũng của vị lãnh đạo tối cao Phật Giáo Việt Nam. Ngài nói rằng:

"Bao năm khó khăn quý vị biết rồi. Khó khăn từ cán bộ cao cấp cho đến cán bộ cơ sở. Nhưng mà thời gian đã gỡ rối các sự khó khăn đó cho chúng ta trong thời gian qua. Và trong tương lai, nếu còn gì khó khăn nữa, dù chúng ta không chờ cái đó, nhưng mà nếu cái đó không may xảy đến, thì chúng ta phải dạn dĩ chịu đựng và tiếp tục chịu đựng để chúng ta có mặt với Giáo Hội. Chúng ta làm thế nào cho đạo Phật phát triển hơn nữa, đạo Phật phát triển hơn nữa không giành quyền lợi của ai, không chiếm địa vị của ai, mà chỉ đem đạo Phật - đạo từ bi hỷ xả - giải thoát đau khổ cho chúng sinh nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Mong rằng tất cả những khó khăn trong tương lai, sẽ còn ít nhiều chứ không phải không có, nhưng chuyện đó đối với chúng ta đã dày dạn lắm rồi. Không có gì phải ngại, không có gì phải bỏ cuộc. Mong rằng Ðại hội đem lại cho quý vị một Niềm Tin mới sau mấy mươi năm không họat động và đầy giao lao, đầy tù tội cùng khắp trên đất nước. Thưa quý vị, chúng ta là những người có thể nói rằng, chúng ta có thể bỏ danh, bỏ lợi, bỏ quyền, bỏ thế, thì chúng ta cũng chẳng ngại gì những khó khăn trong tương lai, nếu có. Trông mong quý vị nhất tâm và tích cực hơn nữa để giữ Giáo Hội có mặt với Dân Tộc".

Sau phần nghi lễ khai kinh tụng niệm cầu siêu cho Ðức Tăng Thống là phần ban đạo từ của Ðại Lão Hoà Thượng Thích Hộ Giác. Ngài Hộ Giác với vẻ mặt hiền từ muôn thuở đã cảm ơn sự tham dự của quan khách và Phật tử. Ngài nói hôm nay Ngài không ban đạo từ mà Ngài chỉ muốn chia xẻ tâm sự về một vài kỷ niệm giữa Ngài và Ðức Tăng Thống khi còn tu học bên nhà mấy chục năm về trước và khi cả hai người xa cách, Hoà Thượng Hộ Giác ở Mỹ còn Ðức Tăng Thống thì ở trong nước, nhưng công việc thì làm giống nhau là cùng phục vụ Giáo Hội. Theo lời kể lại của Hoà Thượng Thích Hộ Giác thì Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống là một người rất mực thông minh, hết lòng với Dân Tộc và Giáo Hội. Ðức Tăng Thống và Hoà Thượng Thích Quảng Ðộ bị tù tội rất nhiều năm và đến bây giờ vẫn còn bị nhà cầm quyền CS quản chế chưa hoàn toàn được tự do. Hoà Thượng Hộ Giác nói:

"Người ta ở đời không ai muốn tù tội. HÐại lão Hoà Thượng Thích Hộ Giác, Chủ Tịch VPII VHÐ/GHPGVNTNHN/ Hoa Kỳ chia xẻ một vài kỷ niệm giữa Ngài & Ðức Tăng Thống ai Ngài cũng vậy nhưng mà hai Ngài cứ bị ở tù hoài. Tại sao? Tại vì hai Ngài cất tiếng nói giùm cho chúng ta. Hai Ngài đòi hỏi nhà cầm quyền phải trả lại đất đai nhà cửa cho dân chúng. Hai Ngài dám tranh đấu đòi hỏi quyền lợi cho người dân và cho cả Giáo Hội nữa. Hễ nói ít thì ở tù ít, còn nói nhiều thì ở tù nhiều. Suốt 33 năm qua vừa bị ở tù vừa bị quản chế nhưng Ðức Tăng Thống chưa một lần than van hay trách cứ một lời nào, mà Ngài chỉ khuyên lơn an ủi huynh đệ mỗi khi họ xuống tinh thần."

Hoà Thượng Hộ Giác nói cá nhân Hoà Thượng đã hai lần xin rút lui khỏi hàng giáo phẩm của GH vì lý do sức khoẻ. Những lần như vậy Hoà Thượng Huyền Quang gởi thư yêu cầu Ngài hãy ở lại. Hoà Thượng Hộ Giác nói rằng ngoài Ngài ra còn có nhiều huynh đệ tài giỏi có thể thay Ngài để làm việc trong GH, nhưng rồi sau đó lý do Ngài quyết định gắng sức phục vụ GH là vì nghĩ đến Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống lớn tuổi hơn Ngài, sức khoẻ cũng không mấy tốt, vậy mà Ngài vẫn hết lòng vì Giáo Hội và Dân Tộc mà làm việc, thì lý do gì Hoà Thượng Hộ Giác lại xin nghỉ việc Giáo Hội?

Ðức Tăng Thống là mẫu người hiền lành bình dân, thỉnh thoảng hay nói đùa với Ngài Hộ Giác. Anh em huynh đệ thương mến nhau và nâng đỡ tinh thần của nhau trong công cuộc tranh đấu cho sự phục hoạt của Giáo Hội. Hoài bảo lớn nhất luôn đi theo Ðức Tăng Thống là làm sao cho Giáo Hội luôn luôn có mặt với Dân Tộc. Rất tiếcThượng Tọa Thích Giác Ðẳng là đến khi Ngài viên tịch mà công cuộc tranh đấu cho Giáo Hội vẫn còn dang dở, quê hương đất nước vẫn còn thống khổ điêu linh... Hoà Thượng Hộ Giác tin rằng rồi đây sau khi cao đăng Phật Quốc, thế nào Ðức Tăng Thống cũng nhập Tà Bà để tiếp tục công việc hoằng pháp lo cho Giáo Hội cũng như lo cho đất nước cho đến khi nào ước nguyện của Ngài được thành tựu thì Ngài mới lo tới quả vị tu hành giải thoát.

Vị Sư phát biểu kế tiếp là Thượng Tọa Thích Giác Ðẳng, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Truyền Thông GHPGVNTN. Sư Giác Ðẳng rút ra ba bài học thâm thuý và ích lợi từ Ngài Ðệ Tứ Tăng Thống như sau:

- Thứ nhất là Phật giáo phải độc lập với thế quyền.

- Thứ hai muốn Phật giáo tồn tại và phát triển thì phải có tổ chức, hệ thống hành chánh phải chặt chẽ.

- Thứ ba sự thăng trầm của Phật giáo phải gắn liền với sự thăng trầm của đất nước dân tộc. Phật giáo phải phục vụ chúng sinh và đất nước.

Theo Sư Giác Ðẳng thì với 3 quan điểm trên cho thấy Giáo Hội chúng ta may mắn có một Cao Tăng thạc đức như Ngài. Bây giờ Ngài đã viên tịch rồi chúng ta phải cố noi theo gương của Ngài mà phục vụ cho Giáo Hội và chúng sinh. Khi nào Quê Hương Dân Tộc thực sự được thái bình dân chúng được sống đời tự do dân chủ thì lúc đó ước nguyện của Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống mới trọn vẹn và công việc hành đạo hoằng dương Phật pháp mới đúng nghĩa.

Hai Phật tử được mời lên phát biểu là ông Trương Văn Túc, Phó Ban Hướng Dẫn miền Thiện Luật và Nguyên Minh Trương Như Phùng. Cả hai đều bày tỏ lòng thương tiếc cũng như kính phục Ðức Tăng Thống đã suốt đời tận tuỵ cho đạo pháp và tranh đấu cho tự do nhân quyền trong nước.

Một buổi Lễ Thọ Tang giản dị được tổ chức ngay sau đó. Ngoài chư tôn đức thọ tang, các Phật tử ai muốn thọ tang thì tùy hỷ. Hầu như 95% Phật tử có mặt đã xin được thọ tang Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống. Mỗi người trên ngực áo đều có gắn một miếng vải vàng cũng giống như chư tôn đức.

Trong dịp này Văn Phòng II Viện Hoá Ðạo và GHPGVNTN Hải Ngoại tại Hoa Kỳ loan báo sẽ long trọng tổ chức Lễ Tưởng Nguyện và Thọ Tang Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống lúc 2 giờ chiều Chủ Nhật ngày 13 tháng 7 năm 2008 nhằm ngày 11 tháng 6 năm Mậu Tý tại chùa Diệu Pháp, trụ sở trung ương của Giáo Hội số 311 E. Mission Rd, San Gabriel, CA 91776. Ðiện thoại: 626-614-0566. Và Lễ Chung Thất sẽ được tổ chức tại chùa Pháp

Luân Houston, TX . Riêng từ bây giờ mỗi tối tại chùa Pháp Luân đều thiết lễ cầu siêu Cho Ðại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang, các Phật tử tuỳ nghi về Chùa tham dự.

Buổi lễ Tưởng Nguyện Công Ðức và Thọ Tang Ðức Cố Ðệ Tứ Tăng Thống, Ðại Lão Hoà Thượng thượng Huyền hạ Quang hoàn mãn vào lúc 3 giờ rưỡi chiều, mọi người cùng ở lại dùng cơm chay. Nhìn chung thấy ai cũng có miếng khăn tang vàng nhỏ cài trên áo thật cảm động. Thì ra chúng ta đều là huynh đệ một nhà, là con cái của Ðức Tăng Thống từ bao nhiêu đời kiếp, mà dịp này mới phát hiện bởi vì cùng về thọ tang chung vị Cha Già Phật Giáo!



GIÁO HỘI QUỐC DOANH VỚI SỰ YỂM TRỢ CỦA CÔNG AN NHÀ NƯỚC TIẾP TỤC LÀM VIỆC TRÁI ÐẠO LÝ

Thông cáo báo chí ngày 07-7, Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế tại Paris, Pháp Quốc tố cáo Ðài truyền hình VTV1 của nhà nước Cộng Sản, phát hình ngày hôm qua 06-7 đã công bố những lời dối gạt trắng trợn với hằng triệu người dân Việt khi loan tin:

"Trước những việc làm trái đạo lý của nhóm Quảng Ðộ, các môn đồ, đệ tử, những người tu hành chân chính ở Tu Viện Nguyên Thiều đã phản ứng kịch liệt, kiên quyết không cho nhóm Quảng Ðộ đứng ra tổ chức tang lễ. Theo đúng như nguyện vọng của Hoà Thượng Thích Huyền Quang và những đệ tử của ông, sau khi ông viên tịch vào ngày 05-70-2008. Ngày 06-7, Ban Trị Sự Giáo Hội Việt Nam (tức Giáo Hội Nhà Nước) tỉnh Bình Ðịnh, môn đồ cùng gia quyến đã tổ chức lễ nhập quan cho Hoà Thượng Thích Huyền Quang. "Chứng minh và tham dự lễ nhập quan có các vị cao tăng và các chức sắc trong Ban trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt tỉnh Bình Ðịnh, môn đồ, pháp quyến của Hoà Thượng Thích Huyền Quang. Buổi lễ nhập quan đã diễn ra trang nghiêm, đúng lễ nghi của Phật Giáo"

Thật tán tận lương tâm. Ở xa trên toàn quốc, hay ở nước noài xem chương trình này, làm sao biết được một sự thật xảy ra trên nước Việt mình? Vì vậy ông Võ Văn Ái đã thẳng thắn tố cáo với cơ quan truyền thông về vấn nạn này như sau:

"Ðài Truyền Hình VTV1 còn làm một cuộc phỏng vấn Hoà Thượng Thích Ðổng Quán trú trì chùa Thiên Hoà ở An Nhơn, thành viên của Giáo Hội Nhà nước. Người mà trong Thông cáo báo chí hôm 06-7, chúng tôi đã loan báo việc ông đến Tu Viện NguyênThiều dự tính xé tờ Cáo Bạch và Chương Trình Tang Lễ, nhưng đã bị chư Tăng ở Tu Viện mời đi chỗ khác. Trên đài truyền hình Hoà Thượng Thích Ðổng Quán "xác định" rằng Hoà Thượng Thích Huyền Quang từng nói với ông rằng "Không ai được làm gì khác ngoài giáo dục tại Tu Viện Nguyên Thiều", chứng tỏ vị Hoà Thượng này chỉ biết bô bô theo lệnh nhà nước kết án GHPGVNTN tổ chức tang lễ vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội mình.

Từ hôm qua đến nay các đường dây điện thoại chùa đã bị cắt. Hôm nay một xe công an đậu trong sân chùa với bộ phận phá sóng nhằm phong toả các đường dây kể cả điện thọai di động. Khoảng 50 công an vào sân tu viện mang nhiều máy quay phim ghi hình. Phía trước cổng chùa thì 20 công an túc trực theo dõi người ra kẻ vào. Và ở cổng sau Tu viện công an dựng lều canh gác.

Một số báo chí, hãng thông tấn quốc tế có nhiệm sở ở Hà Nội than phiền không vào được Trang Nhà Quê Mệ / Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế để tìm tài liệu viết về tang lễ và tiểu sử Ðức Tăng Thống.

Tình hình căng thẳng đang bao trùm quanh Tu Viện Nguyên Thiều, chưa biết chuyện gì xảy ra trong những ngày tới. Chư Tăng vẫn thay nhau luân phien tụng niầm 24 giờ trên 24 giờ cho đến ngày 11-7 cử hành lệ nhập Bảo tháp.

TIN RIÊNG CỦA BÁO ÐẸP

Một bản tin đọc trên báo điện tử Dantoc.net về Tang lễ của Ðệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang như sau: "Hàng chục ngàn Phật tử đã kéo về Tu Viện Nguyên Thiều Bình Ðịnh, hôm Chủ Nhật 06-7-2008 để tham dự các nghi thức tang lễ của Cố Ðại Lão Hoà Thượng Ðệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN Thích Huyền Quang. Không chỉ các bậc tăng ni cư sĩ địa phương tới tham dự, mà quý chư tôn đức và Phật tử từ nhiều tỉnh, kể cả SàiGòn và miền Tây đã về dự tang lễ, nhưng đa số là từ các tỉnh miền Trung. Nguồn tin này do Vietbao.com cho biết như vậy."

Bản tin kế tiếp lại có đoạn:

"Ban Hướng Dẫn Trung Ương của Gia Ðình Phật tử, hiện do huynh trưởng Nguyên Tín Nguyễn Châu làm Trưởng Ban, đang điều động mời các huynh trưởng khắp các tỉnh, đặc biệt là ở Bình Ðịnh, Phú Yên, Thừa Thiên, Huế và Ðà Nẵng về Tu Viện Nguyên Thiều dự tang lễ. Linh cữu của Hoà Thượng Huyền Quang hiện được các huynh trưởng cấp Tín của Gia đình Phật tử thay nhau canh gác, mỗi lần 2 huynh trưởng, thay nhau mỗi 2 giờ đồng hồ suốt ngày đêm.

Phật tử dự tang lễ được biết đang tới con số hàng chục ngàn đã về quanh Tu Viện Nguyên Thiều, và các nguồn cung cấp đã quá tãi. Các đơn vị Gia Ðình Phật tử đang ra sức dựng lều, chỉ đường, trong khi các chị thay nhau đứng bếp nấu cơm cho trại...

Tu Viện Nguyên Thiều đang cạn thực phẩm. Thiếu nhiều nhất là rau. Các chợ không đủ cung cấp, nen các huynh trưởng phải đặt mua từ Nha Trang. Ðiều quan ngại là sẽ không đủ tiền đi chợ nấu bếp cho số Phật tử về quá đông. Ban Hướng Dẫn Gia Ðình Phật Tử tại Hoa Kỳ, do ông Bạch Hoa Mai làm Trưởng Ban, đã khẩn cấp gửi về 2,000 đô la để giúp tang lễ, trong khi kêu gọi 6 miền tại Hoa Kỳ trực thuộc Ban Hướng Dẫn Trung Ương tích cực yểm trợ."

Thực sự nguồn tin trên đây đúng hay sai?

Theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì nguồn tin trên không thật sự đúng như vậy. Ngày 08-7-2008 tại Tu Viện Nguyên Thiều đã xảy ra một chuyện như sau:

"Vào lúc 11 giờ 15 phút trưa, Ban Hướng Dẫn Gia Ðình Phật Giáo Việt Nam của ông huynh trưởng Nguyên-Tín Nguyễn Châu đã không nể nang kính trọng chư tôn đức có mặt trong tang Lễ Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống. Họ không cần biết chủ trương của quý Ngài trong Hội Ðồng Lưỡng Viện và môn đồ pháp quyến đã nhất trí thông qua là Tang Lễ của Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống sẽ diễn ra từ đầu đến cuối theo TINH THẦN IM LẶNG, THANH TỊNH, TRANG NGHIÊM (VÔ TƯỚNG). Nhóm của Nguyên Tín Nguyễn Châu đã tuỳ tiện bất kính với Lễ Nghi khi họ đến phúng điếu. Phái đoàn GÐPT Nguyễn Châu dẫn đầu đã tự động điều hành lễ, dưới sự xướng ngôn của Huynh trưởng Lê Văn Sang không cần theo quy định của Ban Tang Lễ do Hội Ðồng Lưỡng Viện bầu ra. Họ ngang nhiên làm những việc như sau:

- Một đoàn viên đứng trước Kim Quan hô to giới thiệu từng đơn vị đi viếng Tràng Hoa. (

Chư tôn đức cho biết mấy ngày qua trong buổi lễ không ai làm như vậy).

- Chuyện ồn ào thứ hai đi ngược với quy luật "Im lặng, Thanh Tịnh, Trang Nghiêm" đã được đồng thuận trong buổi Tang lễ... là tất cả mọi người trong phái đoàn GÐPT do Nguyên Tín Nguyễn Châu dẫn đầu đồng ca nhạc phẩm "Bài Sen Trắng".

- Tiếp tục chương trình người xướng lễ chuyển lệnh cho mọi người mặc niệm 1 phút.

- Một huynh trưởng trong GÐPT Nguyễn Châu, tên là Phan Ðình Thăng đọc "Ðiếu văn" mà không thông qua quý Ngài trong Hội Ðồng Lưỡng Viện.

Do bài điếu văn không nói lên ý nghĩa của việc Phúng Ðiếu, mà lại dùng những lời lẽ thiếu tinh thần đạo vị. Ông Phan Ðình Thăng càng đọc mọi người xung quanh càng không hiểu ý nghĩa bài điếu văn muốn nói gì. Từ "đầu tuồng" tới bây giờ chư tôn đức hiện diện vẫn giữ sự Im lặng, nhưng càng lúc thấy mọi người càng không hiểu gì cả, nên Thượng Toạ Thích Chơn Tâm (Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục GHPGVNTN) đứng bên cạnh Kim Quan Ðức Tăng Thống ngỏ ý kiến xin đừng đọc điếu văn nữa, tức thời Huynh trưởng tên Nguyễn Công Minh pháp danh Như Thật đang quỳ, vội vàng đứng dậy lao thẳng vào Thượng Tọa Chơn Tâm đang đứng và thốt lên những lời hăm dọa và còn dùng tay xỉ vả Thượng Tọa, gây xôn xao chư Tăng cùng Phật tử đứng xung quanh. Ngay lúc đó, có người lớn tiếng phát biểu: "Phật tử gì mà hành hung Chư Tăng như vậy?" - Nhờ thế mà điếu văn mới bỏ dở.

Trên đây là sự kiện có thật. Một sự kiện đau lòng. Một sự kiện quá xấu hỗ của những người huynh trưởng đã được GHPGVN (Quốc Doanh) huấn luyện.

Trở lại sự ra đi của Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống đang để lại một lỗ hổng lớn trong lòng chư tôn hàng giáo phẩm lưỡng viện, chư môn đồ pháp quyến và toàn thể các Phật tử chân chánh trong cũng như ngoài nước, tất cả mọi người đều một lòng khâm tuân chương trình Tang Lễ Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống do chư tôn đức thuộc lưỡng viện soạn ra. Ðó là ý nguyện của các Ngài làm tốt cho Ðức Tăng Thống. Tại sao Ban Hướng Dẫn GÐPTVN (Quốc Doanh) của Nguyên Tín Nguyễn Châu lại có thể phạm thượng thất lễ trước Kim Quan của Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống và dám xúc phạm đến Thượng Toạ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục GHPGVNTN như vậy?

Nếu tin "ban Hướng Dẫn Trung ương của GÐPT, hiện do Huynh Trưởng Nguyên Tin Nguyễn Châu làm Trưởng Ban, đang điều động mời các huynh trưởng khắp các tình, đặc biệt là Bình Ðịnh, Phú Yên, Thừa Thiên Huế và Ðà Nẵng về Tu Viện Nguyên Thiều dự tang lễ..." và nếu tất cả mọi người đều răm rắp tuân lệnh của Nguyên Tín Nguyễn Châu, thì than ôi, chuyện gì sẽ xảy ra trong tang lễ của Ngài Ðệ Tứ Tăng Thống trong vài ngày tới?.

Chúng tôi kêu gọi quý Phật tử ở hải ngọai hãy đồng tâm hiệp ý cầu nguyện mọi sự an tịch lặng lẽ trang nghiêm tại Tu Viện Nguyên Thiều từ bây giờ cho đến lúc cung tiễn Ðức Tăng Thống nhập vào cảnh giới mà Ngài đã chọn để hoàn thành đại hạnh độ sanh của Ngài.

Tin giờ chót: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ sẽ công bố vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội cũng như Danh Sách Hội Ðồng Lưỡng Viện vào ngày Chủ Nhật 13-7-2008 tại chùa Diệu Pháp thuộc thành phố San Gabriel tiểu bang California sau nghi lễ Thọ Tang do Văn Phòng II Viện Hoá Ðạo tổ chức.

Ðược biết hiện nay các họat động của Giáo Hội tập trung vào việc tổ chức Tang lễ cho vị Ðệ Tứ Tăng Thống vừa viên tịch là Ðại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang tại Tu Viện Nguyên Thiều tỉnh Bình Ðịnh, cũng như các buổi Lễ Cầu Siêu cho Ngài tại khắp nơi trong và ngoài nước Việt Nam.

Cho tới nay chưa thấy những hành động cản trở quyết liệt nào từ phía nhà cầm quyền Hà Nội mà ít ngày trước đã từng bắn tiếng muốn giành lấy việc tổ chức tang lễ như một cách đánh phá Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Bài viết: Trần Kim Vy
Ảnh chụp: Trần Minh Tâm

Những Ông "Phật Tử Việt Kiều" về "Nhố Nhăng" Bên Linh Cửu Đức Tăng Thống


GIÁO HỘI QUỐC DOANH VỚI SỰ YỂM TRỢ CỦA CÔNG AN NHÀ NƯỚC TIẾP TỤC LÀM VIỆC TRÁI ÐẠO LÝ

Thông cáo báo chí ngày 07-7, Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế tại Paris, Pháp Quốc tố cáo Ðài truyền hình VTV1 của nhà nước Cộng Sản, phát hình ngày hôm qua 06-7 đã công bố những lời dối gạt trắng trợn với hằng triệu người dân Việt khi loan tin:

"Trước những việc làm trái đạo lý của nhóm Quảng Ðộ, các môn đồ, đệ tử, những người tu hành chân chính ở Tu Viện Nguyên Thiều đã phản ứng kịch liệt, kiên quyết không cho nhóm Quảng Ðộ đứng ra tổ chức tang lễ. Theo đúng như nguyện vọng của Hoà Thượng Thích Huyền Quang và những đệ tử của ông, sau khi ông viên tịch vào ngày 05-70-2008. Ngày 06-7, Ban Trị Sự Giáo Hội Việt Nam (tức Giáo Hội Nhà Nước) tỉnh Bình Ðịnh, môn đồ cùng gia quyến đã tổ chức lễ nhập quan cho Hoà Thượng Thích Huyền Quang. "Chứng minh và tham dự lễ nhập quan có các vị cao tăng và các chức sắc trong Ban trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt tỉnh Bình Ðịnh, môn đồ, pháp quyến của Hoà Thượng Thích Huyền Quang. Buổi lễ nhập quan đã diễn ra trang nghiêm, đúng lễ nghi của Phật Giáo"

Thật tán tận lương tâm. Ở xa trên toàn quốc, hay ở nước noài xem chương trình này, làm sao biết được một sự thật xảy ra trên nước Viẹt mình? Vì vậy ông Võ Văn Ái đã thẳng thắn tố cáo với cơ quan truyền thông về vấn nạn này như sau:

"Ðài Truyền Hình VTV1 còn làm một cuộc phỏng vấn Hoà Thượng Thích Ðổng Quán trú trì chùa Thiên Hoà ở An Nhơn, thành viên của Giáo Hội Nhà nước. Người mà trong Thông cáo báo chí hôm 06-7, chúng tôi đã loan báo việc ông đến Tu Viện NguyênThiều dự tính xé tờ Cáo Bạch và Chương Trình Tang Lễ, nhưng đã bị chư Tăng ở Tu Viện mời đi chỗ khác. Trên đài truyền hình Hoà Thượng Thích Ðổng Quán "xác định" rằng Hoà Thượng Thích Huyền Quang từng nói với ông rằng "Không ai được làm gì khác ngoài giáo dục tại Tu Viện Nguyên Thiều", chứng tỏ vị Hoà Thượng này chỉ biết bô bô theo lệnh nhà nước kết án GHPGVNTN tổ chức tang lễ vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội mình.

Từ hôm qua đến nay các đường dây điện thoại chùa đã bị cắt. Hôm nay một xe công an đậu trong sân chùa với bộ phận phá sóng nhằm phong toả các đường dây kể cả điện thọai di động. Khoảng 50 công an vào sân tu viện mang nhiều máy quay phim ghi hình. Phía trước cổng chùa thì 20 công an túc trực theo dõi người ra kẻ vào. Và ở cổng sau Tu viện công an dựng lều canh gác.

Một số báo chí, hãng thông tấn quốc tế có nhiệm sở ở Hà Nội than phiền không vào được Trang Nhà Quê Mệ / Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế để tìm tài liệu viết về tang lễ và tiểu sử Ðức Tăng Thống.

Tình hình căng thẳng đang bao trùm quanh Tu Viện Nguyên Thiều, chưa biết chuyện gì xảy ra trong những ngày tới. Chư Tăng vẫn thay nhau luân phien tụng niầm 24 giờ trên 24 giờ cho đến ngày 11-7 cử hành lệ nhập Bảo tháp.

TIN RIÊNG CỦA BÁO ÐẸP

Một bản tin đọc trên báo điện tử Dantoc.net về Tang lễ của Ðệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang như sau: "Hàng chục ngàn Phật tử đã kéo về Tu Viện Nguyên Thiều Bình Ðịnh, hôm Chủ Nhật 06-7-2008 để tham dự các nghi thức tang lễ của Cố Ðại Lão Hoà Thượng Ðệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN Thích Huyền Quang. Không chỉ các bậc tăng ni cư sĩ địa phương tới tham dự, mà quý chư tôn đức và Phật tử từ nhiều tỉnh, kể cả SàiGòn và miền Tây đã về dự tang lễ, nhưng đa số là từ các tỉnh miền Trung. Nguồn tin này do Vietbao.com cho biết như vậy."

Bản tin kế tiếp lại có đoạn:

"Ban Hướng Dẫn Trung Ương của Gia Ðình Phật tử, hiện do huynh trưởng Nguyên Tín Nguyễn Châu làm Trưởng Ban, đang điều động mời các huynh trưởng khắp các tỉnh, đặc biệt là ở Bình Ðịnh, Phú Yên, Thừa Thiên, Huế và Ðà Nẵng về Tu Viện Nguyên Thiều dự tang lễ. Linh cửu của Hoà Thượng Huyền Quang hiện được các huynh trưởng cấp Tín của Gia đình Phật tử thay nhau canh gác, mỗi lần 2 huynh trưởng, thay nhau mỗi 2 giờ đồng hồ suốt ngày đêm.

Phật tử dự tang lễ được biết đang tới con số hàng chục ngàn đã về quanh Tu Viện Nguyên Thiều, và các nguồn cung cấp đã quá tải. Các đơn vị Gia Ðình Phật tử đang ra sức dựng lều, chỉ đường, trong khi các chị thay nhau đứng bếp nấu cơm cho trại ...

Tu Viện Nguyên Thiều đang cạn thực phẩm. Thiếu nhiều nhất là rau. Các chợ không đủ cung cấp, nen các huynh trưởng phải đặt mua từ Nha Trang. Ðiều quan ngại là sẽ không đủ tiền đi chợ nấu bếp cho số Phật tử về quá đông. Ban Hướng Dẫn Gia Ðình Phật Tử tại Hoa Kỳ, do ông Bạch Hoa Mai làm Trưởng Ban, đã khẩn cấp gửi về 2,000 đô la để giúp tang lễ, trong khi kêu gọi 6 miền tại Hoa Kỳ trực thuộc Ban Hướng Dẫn Trung Ương tích cực yểm trợ."

Thực sự nguồn tin trên đây đúng hay sai?

Theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì nguồn tin trên không thật sự đúng như vậy. Ngày 08-7-2008 tại Tu Viện Nguyên Thiều đã xảy ra một chuyện như sau:

"Vào lúc 11 giờ 15 phút trưa, Ban Hướng Dẫn Gia Ðình Phật Giáo Việt Nam của ông huynh trưởng Nguyên-Tín Nguyễn Châu đã không nể nang kính trọng chư tôn đức có mặt trong tang Lễ Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống. Họ không cần biết chủ trương của quý Ngài trong Hội Ðồng Lưỡng Viện và môn đồ pháp quyến đã nhất trí thông qua là Tang Lễ của Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống sẽ diễn ra từ đầu đến cuối theo TINH THẦN IM LẶNG, THANH TỊNH, TRANG NGHIÊM (VÔ TƯỚNG). Nhóm của Nguyên Tín Nguyễn Châu đã tuỳ tiện bất kính với Lễ Nghi khi họ đến phúng điếu. Phái đoàn GÐPT Nguyễn Châu dẫn đầu đã tự động điều hành lễ, dưới sự xướng ngôn của Huynh trưởng Lê Văn Sang không cần theo quy định của Ban Tang Lễ do Hội Ðồng Lưỡng Viện bầu ra. Họ ngang nhiên làm những việc như sau:

- Một đoàn viên đứng trước Kim Quan hô to giới thiệu từng đơn vị đi viếng Tràng Hoa. ( Chư tôn đức cho biết mấy ngày qua trong buổi lễ không ai làm như vậy).

- Chuyện ồn ào thứ hai đi ngược với quy luật "Im lặng, Thanh Tịnh, Trang Nghiêm" đã được đồng thuận trong buổi Tang lễ ... là tất cả mọi người trong phái đoàn GÐPT do Nguyên Tín Nguyễn Châu dẫn đầu đồng ca nhạc phẩm "Bài Sen Trắng".

- Tiếp tục chương trình người xướng lễ chuyển lệnh cho mọi người mặc niệm 1 phút.

- Một huynh trưởng trong GÐPT Nguyễn Châu, tên là Phan Ðình Thăng đọc "Ðiếu văn" mà không thông qua quý Ngài trong Hội Ðồng Lưỡng Viện.

Do bài điếu văn không nói lên ý nghĩa của việc Phúng Ðiếu, mà lại dùng những lời lẽ thiếu tinh thần đạo vị. Ông Phan Ðình Thăng càng đọc mọi người xung quanh càng không hiểu ý nghĩa bài điếu văn muốn nói gì. Từ "đầu tuồng" tới bây giờ chư tôn đức hiện diện vẫn giữ sự Im lặng, nhưng càng lúc thấy mọi người càng không hiểu gì cả, nên Thượng Toạ Thích Chơn Tâm (Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục GHPGVNTN) đứng bên cạnh Kim Quan Ðức Tăng Thống ngỏ ý kiến xin đừng đọc điếu văn nữa, tức thời Huynh trưởng tên Nguyễn Công Minh pháp danh Như Thật đang quỳ, vội vàng đứng dậy lao thẳng vào Thượng Tọa Chơn Tâm đang đứng và thốt lên những lời hăm dọa và còn dùng tay xỉ vả Thượng Tọa, gây xôn xao chư Tăng cùng Phật tử đứng xung quanh. Ngay lúc đó, có người lớn tiếng phát biểu: "Phật tử gì mà hành hung Chư Tăng như vậy?" - Nhờ thế mà điếu văn mới bỏ dở.

Trên đây là sự kiện có thật. Một sự kiện đau lòng. Một sự kiện quá xấu hỗ của những người huynh trưởng đã được GHPGVN (Quốc Doanh) huấn luyện.

Trở lại sự ra đi của Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống đang để lại một lỗ hổng lớn trong lòng chư tôn hàng giáo phẩm lưỡng viện, chư môn đồ pháp quyến và toàn thể các Phật tử chân chánh trong cũng như ngoài nước, tất cả mọi người đều một lòng khâm tuân chương trình Tang Lễ Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống do chư tôn đức thuộc lưỡng viện soạn ra. Ðó là ý nguyện của các Ngài làm tốt cho Ðức Tăng Thống. Tại sao Ban Hướng Dẫn GÐPTVN (Quốc Doanh) của Nguyên Tín Nguyễn Châu lại có thể phạm thượng thất lễ trước Kim Quan của Ðức Ðệ Tứ Tăng Thống và dám xúc phạm đến Thượng Toạ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục GHPGVNTN như vậy?

Nếu tin "ban Hướng Dẫn Trung ương của GÐPT, hiện do Huynh Trưởng Nguyên Tin Nguyễn Châu làm Trưởng Ban, đang điều động mời các huynh trưởng khắp các tình, đặc biệt là Bình Ðịnh, Phú Yên, Thừa Thiên Huế và Ðà Nẵng về Tu Viện Nguyên Thiều dự tang lễ ..." và nếu tất cả mọi người đều răm rắp tuân lệnh của Nguyên Tín Nguyễn Châu, thì than ôi, chuyện gì sẽ xảy ra trong tang lễ của Ngài Ðệ Tứ Tăng Thống trong vài ngày tới?.

Chúng tôi kêu gọi quý Phật tử ở hải ngọai hãy đồng tâm hiệp ý cầu nguyện mọi sự an tịch lặng lẽ trang nghiêm tại Tu Viện Nguyên Thiều từ bây giờ cho đến lúc cung tiễn Ðức Tăng Thống nhập vào cảnh giới mà Ngài đã chọn để hoàn thành đại hạnh độ sanh của Ngài.

Tin giờ chót:

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ sẽ công bố vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội cũng như Danh Sách Hội Ðồng Lưỡng Viện vào ngày Chủ Nhật 13-7-2008 tại chùa Diệu Pháp thuộc thành phố San Gabriel tiểu bang California sau nghi lễ Thọ Tang do Văn Phòng II Viện Hoá Ðạo tổ chức.

Ðược biết hiện nay các họat động của Giáo Hội tập trung vào việc tổ chức Tang lễ cho vị Ðệ Tứ Tăng Thống vừa viên tịch là Ðại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang tại Tu Viện Nguyên Thiều tỉnh Bình Ðịnh, cũng như các buổi Lễ Cầu Siêu cho Ngài tại khắp nơi trong và ngoài nước Việt Nam.

Cho tới nay chưa thấy những hành động cản trở quyết liệt nào từ phía nhà cầm quyền Hà Nội mà ít ngày trước đã từng bắn tiếng muốn giành lấy việc tổ chức tang lễ như một cách đánh phá Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.



Đặt Vấn Đề với Tâm Kiểm - Bạch Hoa Mai


Kính thưa anh,


Xin anh cho biết cái chuyện anh bị giải nhiệm vào năm 1972 vì quá thiếu tư cách có đúng hay không? Nếu không đúng thì không đúng chỗ nào? Nếu đúng thì xin cho biết anh đã làm gì mà bị coi là quá “thiếu tư cách”? Anh chạy xe ẩu tả, ăn mặc lôi thôi, hút thuốc, uống rượu, chưởi thề trong khuôn viên chùa chiền, hay tại anh giựt vợ một người bạn thân của anh khi anh ta bị nạn, và một vài chuyện “thiếu tư cách” khác?

Cũng xin anh cho biết, khi qua Mỹ, với tư cách gì anh lại hoạt động lại trong Ban Hướng Dẫn Trung Ương như một lãnh tụ trong khi anh đã bị giải nhiệm ra khỏi Ban Hướng Dẫn Trung Ương vào năm 1972 rồi? Ai cho phép anh hoạt động trở lại, hay anh nghĩ qua Mỹ, Giáo Hội và các ACE trong Ban Hướng Dẫn Trung Ương .. quên, hoặc có nhớ thì cũng không còn văn thư, dữ kiện để đặt vấn đề với anh?

Nếu không có gì phiền, xin anh cho biết luôn từ ngày qua Mỹ anh đã về VN mấy lần, và mỗi lần về VN như vậy, anh có “làm việc” với Ban Tôn Giáo của bạo quyền, với nhóm Giáo Hội quốc doanh, và nhất là với nhóm Võ Đình Cường (đảng viên CS, được cấp thẻ), với Nguyễn Châu (cánh tay mặt của Võ Đình Cường), hay không? Anh có trốn tránh gặp gỡ nhị vị ĐLHT Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ hay không, nếu không, thì trong mười lần về VN sau cùng, anh đã gặp, hay đã xin gặp nhị vị được mấy lần? Anh có trốn tránh gặp gở anh Htr Lê Công Cầu (người được Giáo Hội công cử nằm GĐPT - Việt Nam bởi tinh thần hộ tự - bảo vệ / ủng hộ chùa; hộ pháp - bảo vệ chánh pháp; và hộ quốc - bảo vệ tổ quốc, đấu tranh cho dân chủ tự do, hay không?


Anh có viết nhiều bức tâm thư, trong những bức thư đó anh cho anh Lê Công Cầu biết anh khâm phục tư cách và lòng dũng cảm của anh Lê Công Cầu đã ngang nhiên đối đầu với bạo quyền, đa bị mời lên “làm việc” với CA mấy ngày liên tiếp, bị hăm doạ nhưng anh ta vẫn khẳng địnhh “Tới chết tôi vẫn trung kiên với GHPGVNTN, không chấp nhận theo cái giáo hội của nhà nước”? Trong những bức thư đó, anh có cho anh Lê Công Cầu biết rằng anh đã “khóc” – nguyên văn; cho rằng anh khóc vì anh thương mến anh Lê Công Cầu sẽ phải chịu nhiều thử thách với bạo quyền, nhục nhã với chính ACE có lòng phản trắc trong tổ chức GĐPT, hay không? Xong, cũng trong những bức thư đó, anh khuyên anh Lê Công Cầu từ chức, giao quyền và chức vụ lại cho Nguyễn Châu (cánh tay mặt của Võ Đình Cường) hay không? Khi anh Lê Công Cầu từ chối, anh về Mỹ, anh có bắt đầu công kích anh Lê Công Cầu dữ dội, hay không, và anh cho rằng tư cách của anh Lê Công Cầu quá bết bát mà cách đó không lâu anh vừa khen nức nở, rồi anh chụp mũ vu cáo anh Lê Công Cầu là CS, hay không?

Anh có biết trước vấn đề mưu sát anh Lê Công Cầu do Võ Đình Cường chủ mưu, hay không? Anh có cùng Võ Đình Cường tiếp tay với bọn Công An và Ban Tôn Giáo Vận của bạo quyền để truy lùng bắt bớ các ACE chân chính trong tổ chức GĐPT-VN, gây khó khăn với cơ quan CA của bạo quyền khi ACE chân chính trong tổ chức GĐPT - Hải Ngoại trở về họp hành với ACE chân chính trong tổ chức GĐPT-VN, hay không?

Anh có kêu gọi tất cả những Htr cao cấp ở Mỹ, nói riêng, và ở khắp nơi ở hải ngoại, nói chung, đứng lên cô lập GHPGVNTN, đả kích cá nhân của nhị vị lãnh đạo, đả kích hàng giáo phẩm, chư tôn đức của GHPGVNTN, đả kích hàng lãnh đạo của GĐPT trong nước do chính GHPGVNTN công cử, hay không? Anh cùng đồng bọn có thanh trừng tất cả các Htr trung kiên với GHPGVNTN ở Mỹ hay không? Anh có từng nhìn nhận anh là đệ tử, hàng con cái của GHPGVNTN, Giáo Hội và vì vậy, anh sẵn sàng khâm tuân mọi chỉ thị từ GHPGVNTN nhưng sau khi anh bị Giáo Hội nhắc nhở anh hãy khâm tuân quyết định giải nhiệm anh vào năm 1972, anh lại trở mặt, đặt vấn đề pháp lý cho rằng Giáo Hội không có quyền công cử hay giải nhiệm anh, hay không?

Dù là bị giải nhiệm từ năm 1972, anh mới bị HT Huyền Việt gởi văn thư chính thức yêu cầu anh tôn trọng quyết định giải nhiệm đó, có nghĩa là tự xử lấy, và đừng tiếp tục tiếm danh anh và đồng bọn vẫn là thành phần lãnh đạo trong Ban Hướng Dẫn Trung Ương, vẫn là đệ tử của Giáo Hội, vẫn là con của cha mẹ, và vẫn trung kiên với Giáo Hội, nhưng anh và đồng bọn vẫn tiếp tục, hay không?

Hiện giờ, xin anh cho biết, Ban Hướng Dẫn Trung Ương đã tan hàng … cố gắng chưa, anh đã tự giải nhiệm chưa, hay vẫn tiếp tục tiếm danh?

Có phải anh viết một loạt bài bình luận, có tiêu đề Thời Sự từ số 1 đến số 10, lấy tên là Áo Giáp hay không, trong những bài bình luận này anh đã phủ nhận Giáo Hội là bậc thầy của mình, cha mẹ của mình, và anh đả kích cá nhân, tư cách của nhị vị ĐLHT, xong tới hàng giáo phẩm của GHPGVNTN, hay không?

Mới đây, anh có đầu thú với 15 vị tu hành ( nick names là Thập Ngũ Cô Hồn) có dấu tích thoả hiệp với CS một cách công khai, hay không? Nếu không thì tại sao tháng qua anh về Nam Cali họp với họ? Anh có biết sư Giác Nhiên nổi tiếng hủ hoá, ham gái trẻ và ham tiền, hay không, anh có biết sư Giác Nhiên trở về tham dự Đại Hội Vesak 2008 và trong Đại Hội này, sư tuyên bố trung thành với “nhà nước”, khen ngợi “nhà nước” cho Phật giáo được tự do chưa từng có trong lịch sử, hay không, anh có biết sư Giác Nhiên đứng xếp hàng để được “diện kiến” xác ướp của “Bác” tại Ba Đình, có hình chụp đăng khắp các mạng lưới hay không? Nếu có thì tại sao anh còn đầu quân với những ma tăng hủ hoá và thoả hiệp với CS như vậy?

Anh có biết sư Tuệ Sỹ đã phản lại GHPGVNTN, đã cố lập ra GHPGVNTN-không-Huyền-Quang-không-Quảng-Độ hay không? Anh có biết nhóm Thân Hữu Già Lam, nhóm Tăng Ni Hải Ngoại, nhóm Về Nguồn đã và đang nhận chỉ thị của Tuệ Sỹ và Ban Tôn Giáo của bạo quyền hay không? Anh có biết sư Nhất Hạnh về VN, ra Bắc, viếng thăm cựu ĐT Võ Nguyên Giáp, tặng ông ta một tấm thư pháp, rồi tuyên bố “Kính chúc ĐT sống lâu hơn nữa để làm gương cho hậu thế”, sau đó trở ra ngoài tuyên bố với báo chí Tây phương rằng “Ở VN, hoàn toàn không có đàn áp tôn giáo, không ai bị bắt bớ hết” hay không? Nếu biết thì tại sao anh lại gia nhập nhóm này, chấp nhận làm con cháu của họ mà không tới ½ năm, anh tuyên bố bằng văn thư anh chính là con cháu, đệ tử của GHPGVNTN?

Anh có biết sư Quảng Ba – Úc mặt ngoài ra vẻ trung kiên với GHPGVNTN, lo lắng cho sự an nguy của GHPGVNTN, mặt trong thì gởi văn thư chính thức kêu gọi tăng ni bên Úc nổi lên chống GHPGVNTN, hay không?

Kính thưa anh,

Anh và đồng bọn trong vòng 10 năm qua đã làm rất nhiều điều tai hại không những cho GĐPT nói riêng mà còn cho GHPGVNTN nói chung, dù vậy, để rộng đường dư luận, tôi không vu cáo anh, chụp mũ anh, mà tôi chỉ muốn hỏi anh. Tôi rất mong anh trả lời tất cả những câu hỏi ở trên, và trả lời từng câu hỏi một. Nếu anh có lý do chính đáng, có chính nghĩa, mong anh sau đó cứ thẳng thắn trình bày.

Nếu cần, chúng tôi sẽ xin phép báo Take2Tango cho phép chúng tôi và nhóm anh một khoảng đất để trình bày và trưng bày bằng chứng. Báo Take2Tango nổi tiếng chống Cộng nhưng rất công bằng, chúng tôi tin báo sẽ giúp chúng ta thôi.

Đám ma tăng đã trốn tránh tất cả những câu hỏi của giới truyền thông, của Phật tử dù rằng họ cứ cho rằng GHPGVNTN sai trái v.v… Đám ma tăng đã từ chối tham dự Hội Thảo dù rằng đã được mời rất nhiều lần dù rằng họ cứ cho rằng nhị vị lãnh đạo đã bị “mờ mắt” / “lú lẫn” (nguyên văn qua băng thâu mà chúng tôi đã phỏng vấn họ) đến nổi đập nát tinh thần đoàn kết của tăng ni. Nói trắng ra là nói gì thì nói, làm gì thì làm, đám ma tăng đã vẫn không dám trực diện với giới truyền thông, với công đồng, với Phật tử. Chúng tôi mong anh khá hơn. Không làm thì thôi, đã làm thì dám nhận, dám trực diện vấn đề.

Kính anh
Nhóm Áo Lam

Thursday, July 10, 2008

Xin đề nghị mọi Cộng Đồng Công Giáo Hải Ngoại đệ thỉnh nguyện thư lên Vatican xin truất phế Hồng Y Phạm Minh Mẫn


Kính thưa quý tín hữu CG, độc giả khắp nơi nội ngoại,

Theo bản tin VietCatholic news dưới dây thì csVN đang cướp đất đai của Tỉnh Dòng Phao lồ, CG Sàigòn, một tu hội dưới quyền giám sát của HY Phạm Minh Mẫn (PMM), thế mà HY Mẫn chẳng lo việc Thiên Chúa, việc Giáo Hội là bảo vệ tài sản của Giáo Hội, mà HY Mẫn lại vác thân đi làm ba cái chuyện RUỒI BU, tôi mọi cho csVN ... là tranh chấp cờ VÀNG cờ MÁU ... thử hỏi lương tâm của HY Mẫn để ở đâu?

Đó là chưa kể trong quá khứ vừa qua, HY Mẫn lại vác thân đi qua Tàu, chiêu dụ giáo hội quốc doanh Chệt đễ đánh phá Giáo Hội Thầm Lặng Hầm Trú Trung quốc, một giáo hội đã trung thành với Giáo Hội Vatican hơn 1/2 thế kỷ qua.

HY Mẫn còn tuyên bố những lời phạm thượng đụng chạm đến đương kim Giáo Hoàng hiện nay.

Tôi thiết nghĩ: Mọi Cộng Đoàn CG người Việt hải ngoại nên họp nhau, làm một "thỉnh nguyện thư" đệ lên Vatican, yêu cầu truất phế "con quỷ dang dội lốt kẻ chăn chiên lành" ra khỏi tưóc vị Hồng Y...

Đã đến lúc Vatican nên nghe tiếng nói của các cộng đoàn Công Giáo Hải Ngoại.

Matthew Trần

Tỉnh Dòng Thánh Phaolô Saigòn kêu cứu vì chính quyền cướp Vườn Trà bán cho nước ngoài làm sân golf .

VietCatholic News (Thứ Ba 08/07/2008 09:16)

THỊ XÃ BẢO LỘC, Lâm Đồng -- Một khu đất do quyền sở hữu của các nữ tu Dòng Thành Phaolô, tỉnh dòng Sài Gòn, đang dùng làm đất canh tác để nuôi dưỡng hàng trăm trẻ em mồ côi và khuyết tật từ bao năm qua, nay chính quyền ngang nhiên cướp bán cho nước ngoài làm sân chơi Golf.

Một vườn trà ở Lâm Đồng
Từ Sai Gòn, nữ tu Êligiabét Lê Thị Thành, người chịu trách nhiệm về nhà đất của tỉnh dòng Phaolô Sài Gòn, vừa cho chúng tôi biết thông tin đau lòng này. Các nữ tu vốn có một đời sống hiền hoà và khiến tốn, chịu thương chị khó cả một đời luôn tìm cách xoa dịu nỗi đau của biết baô kiếp người trong xã hội Việt Nam này, bây giờ không biết nương nhờ ai lên tiếng công khai tố cáo việc làm bất nhân của giới chính quyền địa phương của Thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

Sr Thành đang là người đứng tên Sổ Đỏ sở hữu khu đất có diện tích khoảng 5 mẫu nam bộ, toạ lạc tại Xóm 4, Hiệp Nhất, Phường Lộc Phát, Thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Hiện nay, Sr Thành cùng với các nữ tu của nhà dòng đang tìm mọi cách để giữ lại khu đất canh tác là nguồn sống cho trẻ em mồ côi khuyết tật từ bao năm nay. Xin dư luận quốc tế cùng lên tiếng để lên án vấn đề này, đòi lại công lý và bảo vệ nhân nghĩa cho các nữ tu và các trẻ em tội nghiệp.

Được biết, khu đất mà dòng Phaolô đang sở hữu hiện đang trồng trà và cà phê, các cây trồng đang tươi tốt và cho nguồn thu nhập, nhờ bao công sức và vốn đầu tư của các tổ chức Misereor, Caritas Đức, Secours Catholicque Pháp, và tổ chức của Ý trợ giúp qua trung gian là các nữ tu dòng Phaolô thành Chart.

Sr Thành nói: “Khi nghe tin chính quyền làm như vậy, ai nấy đều bức xúc, không còn tinh thần để làm việc”. Sr Thành nói thêm rằng chính quyền từ Trung ương đến cấp Sở đều công nhận đây là chương trình duy nhất trong nước đã thành công, bởi vì công việc trồng cây và canh tác trên phần đất trên đã đảm bảo môi trường sinh thái tốt và đem lại nguồn thu nuôi dưỡng các trẻ em xấu số.

Việc làm sân Golf có khả thi hay không hoặc có nguy hại như thế nào, xin đọc các bài viết với chủ đề “Khi sân golf lấn ruộng vườn” trong Link sau: http://vnarchitects.ashui.com/index.php?opic=1638

Sau đây là bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hiếu ở đại học tổng hợp London:

Ám ảnh sân golf

Mươi năm gần đây, các sân golf ở VN nở rộ. Với trên 60 sân golf đã đi vào hoạt động, các tỉnh vẫn muốn tiếp tục thu hút đầu tư vào các dự án sân golf mới. Theo thống kê mới nhất của Bộ Tài nguyên - môi trường, cả nước sẽ có tới 123 sân golf sử dụng trên 38.000ha đất.

Từ Hà Nội, Hà Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc cho đến Đà Nẵng, Lâm Đồng, Nha Trang, Phan Rang, Bình Dương, Đồng Nai, Long An, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ... đâu đâu cũng có sân golf. Quanh Hà Nội đã và đang xây dựng bảy sân, đồng bằng Bắc bộ sẽ có tới 25 sân, Nam Trung bộ hàng chục sân. Đáng chú ý là phần lớn sân golf ở VN không xây trên các đồi cát ven biển hay đồi dốc cằn cỗi không canh tác được mà tọa lạc trên những khu vực nhiều nước, vẫn canh tác được và có cảnh quan đẹp.

Sân golf nhiều như vậy nhưng phần lớn lỗ vốn, hiện chỉ có vài sân có lãi ở gần TP.HCM. Sân golf thường chỉ đông khách vài ngày trong tuần nhưng phải đầu tư hạ tầng, thuê đất, tưới nước chăm sóc liên tục nên có chi phí tính trên người chơi rất cao. Nếu chỉ xét riêng về kinh doanh môn golf thì hầu hết các sân hiện đang lỗ vốn vì chưa tìm đủ người chơi.

Thống kê mới đây cho biết VN mới có khoảng 5.000 hội viên và 2.000 người chơi thường xuyên. Với năng lực các sân hiện có thì thậm chí hàng chục năm nữa vẫn đủ phục vụ dù hội viên tăng nhanh.

Người chơi ở các sân golf chủ yếu là người nước ngoài, doanh nhân thành đạt và các hội viên được hưởng suất giao tế. Mỗi thẻ hội viên giá từ mười ngàn tới vài chục ngàn đôla Mỹ. Hội phí dù đắt nhưng cũng mới chỉ là một phần bởi chi phí hướng dẫn tập, bộ đồ nghề, tiền trả cho người phục vụ, nhặt bóng rất cao. Mỗi buổi chơi như vậy tốn chừng một tháng lương công chức nên ở VN ít người có đủ tiềm lực kinh tế để theo đuổi môn thể thao này.

Chỉ ba năm trước, các sân golf đều lỗ và kiến nghị Chính phủ giảm thuế, nhưng tại sao gần đây các tỉnh lại sốt sắng duyệt dự án xây mới sân golf?

Đầu tiên là các sân golf đã được sử dụng đất nằm trong các dự án phát triển đô thị mới, dự án đầu tư nước ngoài vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Chi phí thuê đất ở các dự án như vậy khá thấp (1ha đất nông nghiệp ở Long An được đền bù giá 350 triệu đồng). Đặc biệt, ở những nơi cảnh quan đẹp, có nguồn nước dồi dào và hạ tầng giao thông thuận tiện, các chủ sân golf sẽ kết hợp kinh doanh bất động sản, như cắt một phần đất để xây biệt thự, nhà nghỉ, xây các công trình dịch vụ và cho thuê để kinh doanh kết hợp, và bất động sản ở cạnh các sân golf sẽ ngày càng có giá. Sân golf Long Thành là một ví dụ.

Lý do thứ hai là tính thương hiệu của sân golf. Các dự án phát triển bất động sản sẽ gia tăng giá trị nếu có sân golf ở trong. Hội phí giá trị cao thì các suất ngoại giao càng có ý nghĩa. Golf là môn chơi của giới thượng lưu nên đưa golf về địa phương cũng có nghĩa là sẽ có nhiều cơ hội giao lưu cho những người đang muốn vươn lên “đẳng cấp” mới.

Tuy nhiên, vấn đề là số lượng sân golf quá nhiều và danh mục các đề xuất lấy đất trồng lúa xây sân golf ngày càng dài. Nếu động cơ làm sân golf là đầu cơ bao chiếm đất thì việc quản lý sẽ rất khó. Bài học của ximăng lò đứng, gạch tuy nen, nhà máy đường vẫn còn đó. Vấn đề là ai sẽ đảm bảo sự cân đối vĩ mô này trong đầu tư trong tình hình luật pháp đất đai vẫn còn nhiều kẽ hở.

Trích dẫn:

“Trò chơi golf (còn gọi là môn cù) xuất xứ từ Scotland, một xứ sở mưa quanh năm, nhiều đồi dốc và nhiều khu vực đất đai cằn cỗi không canh tác được. Đến thế kỷ 20, môn này trở nên thịnh hành cùng với sự thịnh vượng của các nền kinh tế và nhìn chung là dành cho giới quí tộc và trung lưu lớp trên. Golf được nhân rộng cùng với sự bành trướng của đế quốc Anh và phát triển ở những quốc gia giàu có, đất rộng người thưa như Hoa Kỳ, Úc, Canada...

Giới nhà giàu trên thế giới coi golf là biểu tượng của sự thành đạt. Nhưng sân golf tiềm ẩn nhiều hiểm họa về môi trường do sử dụng nhiều thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu và nước sạch.

Việc xây dựng sân golf trên thế giới đã bị các nhà khoa học và môi trường phản đối trên 50 năm nay vì phí phạm và hủy hoại tài nguyên thiên nhiên. Mỗi sân golf 18 lỗ sử dụng 5.000m3 nước tưới hằng ngày (tương đương lượng nước sử dụng của 8.000-10.000 hộ gia đình), chiếm dụng 30-60ha đất (khoảng 2-4 lần hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội). Vì vậy, xu hướng hiện nay là xây sân golf trên cát sa mạc như ở vùng Vịnh. Bất chấp điều đó, một số nước nghèo như Indonesia, Philippines đã cho mở nhiều sân golf với hi vọng thu hút du lịch và phát triển kinh tế.

Sa Nguyên

Ðức Giáo Hoàng Benedictô XVI mạnh mẽ kết án chủ thuyết quốc xã và chủ thuyết cộng sản vô thần


Kính thưa qúi vị,

Trước khi Đức thánh cha tham dự đại hội giới trẻ tại Đức Quốc năm 2005, Ngài đã gửi đến toàn thể nhân loại và thế giới lập trường trong sáng và dứt khoát của Ngài đối với CS vô thần và chủ thuyết Đức Quốc Xã. Bản chất của hai chủ nghĩa này giống nhau ở chỗ: xâm phạm giá trị nhân phẩm con người, độc tài độc đoán, gây bao tai họa tan thương đau khổ cho con người và nhân loại.

Nhân dịp Đại hội giới trẻ sắp tới tại Sydney, chúng tôi xin được gửi lại đến qúi vị quan điểm của Giáo Hội Công Giáo, đứng đầu là ĐỨc Thánh Cha.

Mong được sự đón nhận và phổ biến rộng rãi của quý vị!


Đức Giáo Hoàng Benedict XVI mạnh mẽ kết án chủ Thuyết CS vô thần (Đài Chân Lý Á châu)



ÐTC Benedictô XVI tiếp kiến nam tài tử Piotr Adamczyk
Prepared for Internet by Radio Veritas Asia, Philippines

Tin Vatican (Apic 19/05/2005) - "Lời kết án chung và thành thật đối với chủ thuyết quốc xã, cũng như đối với chủ thuyết cộng sản vô thần, phải là dịp để cho tất cả mọi người dấn thân xây dựng sự hòa giải và hòa bình dựa trên sự tha thứ."


Nam tài tử trẻ người BaLan, Piotr Adamczyk, người đóng vai Ðức Karol Wojtyla trong cuốn phim dựng lại cuộc đời của Ðức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, mang tựa đề: "Karol, một con người trở thành giáo hoàng" (Karol, a Man Who Became Pope).

Ðức Bênêdictô XVI đã tuyên bố như thế, sau khi xem xong cuốn phim thời sự, dài 3 tiếng đồng hồ, dựng lại cuộc đời của Ðức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Cuốn phim được trình chiếu hôm thứ Năm 19 tháng 5 năm 2005, tại Ðại Thính Ðường Phaolô VI, cho cử tọa khoảng 4,000 người. Cuốn phim mang tựa đề: "Karol, một con người trở thành giáo hoàng" (Karol, a Man Who Became Pope), kể lại cuộc đời của Ðức Karol Wojtyla, từ khi sinh ra vào năm 1920, cho đến khi được chọn lên kế vị Thánh Phêrô tại ngai tòa Roma, vào năm 1978. Người ta thấy vị thư ký riêng của Ðức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Ðức Tổng Giám Mục Stanislaw Dziwisz, ngồi bên cạnh Ðức Benêdictô XVI, trong suốt thời gian chiếu phim nầy.

Ðức Thánh Cha còn giải thích thêm về cuốn phim như sau:

    "Những hình ảnh về sự tàn bạo khủng khiếp của quốc xã tại BaLan, như được dựng lại trong phim, khơi dậy nơi người xem phim một phản ứng khủng khiếp và thôi thúc người đó suy nghĩ về những vực thẳm của tội lỗi có thể phát sinh trong tâm hồn con người ... Diễn biến khai sinh những sự lầm lạc như thế không thể nào không khơi lên trong mỗi người sự dấn thân làm những gì có thể, ngõ hầu chúng ta không bao giờ phải sống lại những biến cố đầy bạo tợn như vậy nữa ... Mỗi lần một ý thức hệ toàn trị chà đạp con người, thì toàn thể nhân loại đều gặp phải nguy hiểm nghiêm trọng. Với thời gian, những kỷ niệm không nên bị xóa bỏ đi, nhưng cần trở nên như những bài học nghiêm khắc cho thế hệ chúng ta cũng như cho những thế hệ tương lai. Chúng ta có bổn phận phải nhắc lại, nhất là cho giới trẻ, biết rằng việc khinh thị con người và sự xúc phạm những nhân quyền, có thể dẫn đến sự bạo tợn chưa từng có trong lịch sử. Làm sao không đọc theo ánh sáng của sự quan phòng Thiên Chúa sự kiện rằng trên ngai tòa thánh Phêrô nầy, một người con dân của quốc gia Ðức, --- nơi mà chế độ quốc xã đã được củng cố như một sức mạnh tàn bạo tấn công vào các quốc gia bên cạnh, trong đó có Balan, --- được chọn lên kế nhiệm vị giáo hoàng người BaLan. Hai vị giào hoàng nầy, trong thời tuổi trẻ của các ngài, --- mặc dù trên hai mặt trận đối nghịch nhau và trong những hoàn cảnh khác nhau, --- đã có kinh nghiệm về sự bạo tợn của thế chiến thứ hai và của nạn bạo lực không ngừng gia tăng giữa những người nầy với những người khác, giữa những dân tộc nầy với những dân tộc khác.

    Cũng trong dịp nầy, Ðức Bênêdictô XVI nhắc đến tuyên ngôn chung của các giám mục Ðức và các giám mục BaLan, được công bố vào những ngày cuối cùng của Công Ðồng Vaticanô II, với tựa đề như sau: Chúng ta tha thứ và cầu xin sự tha thứ. Ðức Thánh Cha nói tiếp như sau: "Như thế, tôi hy vọng rằng, nhờ chứng từ của Ðức Gioan Phaolo II, như được nhắc lại trong phim, mà được làm sống lại trong tất cả mọi người sự nhất quyết dấn thân phục vụ cho hòa bình tại Âu Châu và trên thế giới."

Ðược biết cuốn phim về cuộc đời của Ðức Karol Wojtyla, đã được trình chiếu trước, hôm ngày 14 tháng 4 năm 2005, tại Ðại Học Latêranô. Và hôm ngày 18 và 19 tháng 4 năm 2005, Kênh Truyền Hình 5 của Italia đã phổ biến bộ phim nầy. Và khi còn sống, Ðức Gioan Phaolô II đã tiếp riêng nam tài tử trẻ người BaLan, là Piotr Adamczyk, người đóng vai Ðức Karol Wojtyla trong cuốn phim thời sự nầy.

LM Ðặng Thế Dũng


Tâm sự cùng Đồng Hương Tỵ Nan Úc Châu

Thưa Quý Vị và Các Bạn thân mến,

Tôi vô cùng phấn khởi đọc bản thông báo cuả Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu khẳng định lập trường cương quyết tôn vinh Cờ Vàng Chính Nghiã tại Đai Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Sydney vào trung tuần tháng 7 này, đặc biệt là trong ngày Bế Mạc Đại Hội, ngày mà hàng ngàn (tôi thật sự đang nghĩ đến hàng vạn) đồng hương tỵ nạn người Việt khắp nước Úc và trên toàn thế giới sẽ tựu về để tôn vinh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, lá cờ chính nghiã, điểm hội tụ cuả mọi người Việt yêu Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền thuộc mọi tôn giáo, mọi doàn thể, mọi khuynh hướng chính trị … trên khắp năm châu, bốn biển.

Trong niềm cảm xúc dạt dào đó, tôi xin gửi đến Quý Vị Lãnh Đạo Cộng Đồng, Quý Vị Lãnh Đạo Tinh Thần Các Tôn Giáo cùng toàn thể Đồng Hương Tỵ Nạn Úc Châu mấy vần thơ mộc mạc sau đây:

    Tâm sự cùng Đồng Hương Tỵ Nạn Úc Châu

    Quyết tâm bảo vệ Cờ Vàng Chính Nghiã và Căn Cước Tỵ Nạn.

    Tâm tình thương mến gửi Úc Châu,
    Thăm hỏi đồng hương ở tuyến đầu.
    Cờ Vàng Chính Nghiã, nguyền bảo vệ;
    Căn Cước Tỵ Nạn, quyết khắc sâu.

    Thương nước điêu linh, tim quặn thắt;
    Xót dân cùng khổ, dạ đớn đau.
    Kiên gan tranh đấu, tranh đấu mãi,
    Đến khi Dân Chủ trổ phép mầu!
Boston, ngày 7 tháng 7 năm 2008
Bác sĩ Vũ Linh Huy

Caritas Carney Hospital, Massachusetts, Hoa Kỳ
Huy DRVU mail to: drvuboston2@yahoo.com

Tâm Sự cùng Đồng Hương Tỵ Nạn Seatle Về ĐHY Mẫn


    Seattle! Đừng mang tiếng nhục,
    Mà hạ mình đón Đức Hồng Y!
    Dẫu ngài cao trọng, uy nghi,
    Ta, người tỵ nạn, quý gì tay sai!

    Luôn miệng xưng là đày tớ Chuá,
    Mà bán mình thờ lũ vô thần,
    Thờ phường bán nước, hại dân,
    Bỏ đường ngay thẳng, theo quân dối lường.

    Chẳng xót đau quê hương tan tác,
    Quên lao nô khốn cực muôn phần,
    Nô lệ tình dục nhục nhằn,
    Chỉ "thăm mục vụ" giáo dân nước giàu!

    Vì "Bác", "Đảng", đi đầu xung kích,
    Bao năm qua du lịch thoả thuê,
    Rỉ tai chính giới Hoa Kỳ,
    Và Hàng Giám Mục, đền nghì cộng nô.

    Gây chia rẽ tín đồ Hoà Hảo,
    Cho vinh quang, áo mão, hồi hương,
    Dụ hàng một lũ bất lương,
    Phản Thày, phản Đạo, theo phường tam vô.

    Rồi đánh phá Ngọn Cờ Chính Trực,
    Lá Cờ Vàng, xúi dục bỏ ngay,
    Căn Cước Tỵ Nạn quý thay,
    Tấn công liên tiếp: chữ này quên đi!

    Giờ sự thật ta thì đã rõ,
    Rằng hồng y, áo đỏ, lòng đen,
    Ta vì đại nghiã, đứng lên,
    Không cho chân địch dẵm lên đất này!
Boston, ngày 6 tháng 7 năm 2008
Bác sĩ Vũ Linh Huy

Caritas Carney Hospital
Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ.
"huy vu" huylinhvumdboston@gmail.com

Về bức thư HY Phạm Minh Mẫn

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Tôi không tính viết về vấn đề này vì nó khá tế nhị, dễ bị đụng chạm. Nhất là nó liên quan đến vấn đề bản sắc của một cá nhân hay đoàn thể hay một lý tưởng mà người ta đang theo đuổi. Nhưng sau khi thăm hỏi nhiều ý kiến và suy nghĩ đắn đo tôi quyết định viết. Viết không phải để làm “tắc nghẽn” đường hiệp thông nhưng để làm sáng tỏ vấn đề cho những ai “không biết” hoặc “cố tình” không muốn biết .

Hơn nữa, cổ nhân nói (thuyết TRI-HÀNH hiệp nhất của Vương dương Minh): “Biết mà không làm là chưa biết / Vị hữu tri nhi bất hành giả, Tri nhi bất hành, chỉ thị vị tri”. Nói một cách khác biết điều sai trái mà không lên tiếng phản đối là đồng lõa. Chúa Giêsu cũng đã nói: “…hãy lên mái nhà mà nói; hãy nói ra giữa ban ngày điều anh em nghe trong bóng tối hoặc nghe rỉ tai…” (Mt. 10: 27)

Đó là lý do tôi viết bài này. Rất ngắn gọn và chỉ nói về một vài điểm cần phải nói mà thôi.

Khi quí vị đọc bài này thì quí vị cũng đã đọc bức thư của ĐHY Mẫn gửi ba giám mục Việt Nam nói về lá cờ vàng ba sọc đỏ trong đại hội giới trẻ thế giới 2008 tại Sidney, Úc Châu (WYD 2008). Mở đầu bức thư bằng lý do tại sao ĐHY đi dự đại hội giới trẻ thế giới rồi nhân đó kết án lá cờ vàng ba sọc đỏ lồng khung trong bộ áo tôn giáo đạo đức.

TẠI SAO HY MẪN LẠI NÓI TỚI CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ?

Bức thư của HY Mẫn thực sự không phải là thư mục vụ gửi cho giới trẻ tham dự đại hội WYD 2008 mà là thư gửi cho ba giám mục Việt Nam sẽ tham dự đại hội. Bức thư lại được phóng ra hải ngoại và hải ngoại đọc được bức thư trong khi ở trong nước chưa ai biết. Có thể ba giám mục kia cũng chưa kịp đọc thư nữa. Tại sao HY Mẫn lại viết một cách gián tiếp như vậy ? Với tư cách là HY, người cha nhân lành viết thẳng cho giới trẻ, nhắn nhủ khuyên biểu chúng thì hay biết mấy!

Vấn đề nổi cộm là HY Mẫn lại xác định chắc như đinh đóng cột là cờ vàng ba sọc đỏ “đã làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ” khi nhắc tới ba lần đại hội trước ở Pháp, Đức, Canada mà không đưa ra bằng chứng, trong khi ĐHY đã ca ngợi ba lần đại hội trước là thành công! Có chăng là cờ vàng đã làm tắc nghẽn nghị quyết 36. Hay là lần này vì HY chính thức tham dự đại hội nên sợ có cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện mà HY không ưa?

CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ CÓ LÀM TẮC NGHẼN SỰ HIỆP THÔNG KHÔNG?

Thực sự cờ vàng ba sọc đỏ có làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của giới trẻ không? Theo nhận xét thì có thể nói không một bạn trẻ nào ở hải ngoại lại e dè, hận thù hay ghét bỏ những người trẻ hiện đang sống ở trong nước. Chúng tôi sinh hoạt gần gũi và thường xuyên với giới trẻ nên biết rất rõ vấn đề đó. Trong gia đình con cháu chúng tôi cũng vậy. Chúng được giáo dục khai phóng, tự do, cởi mở thân thiện với mọi người, đừng kể giới trẻ công giáo với tinh thần bác ái yêu thương mọi người thì chuyện tắc nghẽn hiệp thông giữa giới trẻ trong và ngoài nước lại càng không bao giờ có. Không rõ giới trẻ trong nước có e dè gì với giới trẻ ở hải ngoại không? Tôi cũng nghĩ là không? Bởi lẽ không một người trẻ nào ở trong nước ra hải ngoại chơi mà không mong ước được ở lại. Hiện nay khá nhiều du sinh Việt Nam sau khi học xong đã tìm mọi cách để được ở lại ngay cả chấp nhận ở lại bất hợp pháp. Đó là chưa nói về tình gắn bó thắm thiết của đồng bào hải ngoại với quốc nội. Mỗi khi người trong nước bị ức hiếp bất công hoặc bị tai ương bão lụt thì đồng bào hải ngoại cấp kỳ lo lắng giúp đỡ để họ mau thoát cảnh khốn khổ. Bằng cớ là đồng bào hải ngoại gửi về cho bà con anh em ho hàng cả hảng tỷ mỹ kim mỗi năm. Xem vậy đủ biết không có vấn đề tắc nghẽn hiệp thông giữa hai giới trẻ trong và ngoài nước như HY Mẫn nói. Giới trẻ Việt Nam hải ngoại khi giương cao cờ vàng ở đại hội là biểu lộ bản sắc của mình, tinh thần tự do dân chủ mà họ hằng bảo vệ và trân quí, cũng như bất cứ một quốc gia nào khác như Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha … giương cờ quốc gia của họ mà thôi. Họ đâu có ý phản đối hay “sự cố” làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của ai đâu…Có chăng là cung cách ĐHY viết về lá cờ vàng đã khơi mào làm tắc nghẽn hiệp thông giữa trong và ngoài nước, nhất là đồng bào công giáo. Có thể vì ngài không ưa lá cờ vàng ba sọc đỏ nên ngài không muốn nhìn nó mà thôi? Hay ngài sợ nhà cầm quyền Việt Nam , đảng CSVN phật lòng? Nếu vậy thì ngài lại tự mẫu thuẫn, không thành thực với lòng mình, với cả giáo huấn của Giáo Hội: “….Giáo Hội Công Giáo chưa bao giờ được xây dựng trên nền tảng một chủ nghĩa trần thế” (4).

Từ chỗ không ưa cờ vàng ba sọc đỏ mà HY đã cắt nghĩa biểu tượng lá cờ một cách chủ quan, gượng gạo và ví von áp đặt … Cờ vàng ba sọc đỏ không bao giờ và sẽ chẳng bao giờ là “biểu trưng một ‘ thói đời’ mang tính đối kháng”. Đồng bào hải ngoại liều chết bỏ nước ra đi “vì không thể sống dưới chế độ cộng sản độc tài áp chế được nên phải tìm một lối sống thích hợp với bản tính con người trong xã hội công dân thật sự với đầy đủ tự do dân chủ và nhân quyền…” mà Thiên Chúa đã phú bẩm cho họ từ lúc mới thụ thai và lúc vừa mới sinh ra. Đó là lý tưởng của họ, quyền tự do của họ, không ai có quyền lăng mạ.

THẾ NÀO LÀ BIỂU TƯỢNG MỘT LÁ CỜ

Lá cờ luôn luôn là biểu tượng lý tưởng của một đoàn thể, tổ chức hay quốc gia dân tộc. Lá cờ là linh hồn của đất nước. Lá cờ rất quan trọng và phải được gìn giữ, bảo trọng hơn cả vị nguyên thủ quốc gia. Diễn giải biểu tượng lá cờ với hình thức giả dụ ví von dài dòng với mục đích đi đến chỗ chà đạp lá cờ mà mình không ưa và muốn khai trừ nó là thiếu tình bác ái, không tôn trọng tự do của người khác. “Lá cờ…có lúc chỉ là biểu trưng của một thói đời mang tính đối kháng”.

Đọc câu diễn tả lá cờ như vậy, người ta nghĩ là nó chỉ có thể được nói ra nơi cửa miệng của một chính trị gia mưu sỉ và hiểm độc. Nếu giới trẻ có giương lá cờ vàng nơi đại hội thì cũng không đến nỗi bị một giáo chủ của mình quở trách thậm tệ đến như thế. Một khi đã chà đạp lá cờ vàng như vậy thì hẳn là có ý muốn nêu cao lá cờ đỏ của phía đối nghịch? ĐHY Mẫn lại ví von Mẹ Việt Nam mặc áo Vàng, áo Đỏ, lúc Lành lúc Rách nhưng vẫn là “Mẹ đã dày công sinh thành dưỡng duc con dân Việt Nam, vẫn là mẹ đã để lại cho dân tộc VN một di sản vô giá…một nền văn hóa khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức….” Đúng vậy, nhưng không phải bà mẹ Việt Nam nào cũng là mẹ hiền, luôn luôn đùm bọc che chở, giúp đỡ tất cả mọi đứa con đồng đều như nhau từ đứa giàu đến đứa nghèo, từ trí thức, công nhân, thợ thuyền, thương gia cho đến nông dân, lao động tay chân. Bà mẹ nào chủ trương đấu tranh giai cấp, gây cảnh con tố cha mẹ, vợ tố chồng, bạn bè tố cáo nhau … Bà mẹ nào ăn cướp tài sản ruộng vườn của dân? Bà mẹ nào chiếm đoạt nhà thờ, chùa chiền, học đường, nhà thương, cơ sở bác ái giáo dục của các tôn giáo? Chắc chắn không phải bà Mẹ Việt Nam mặc áo vàng. Đâu là di sản vô giá và văn hóa phong phú của dân tộc với những giá trị tinh thần và đạo đức mà bà Mẹ áo đỏ đem lại như ĐHY miêu tả? Phải chăng là một nền văn hóa người bóc lột người, một nền văn hóa sự chết mà ĐGH Gioan Phaolo II đã kết án, một xã hội tha hóa với đầy dẫy tham nhũng, bất công, hận thù, kỳ thị, áp bức, gian dối, trí trá và lừa bịp, một nền giáo dục phi nhân bản, phi con người, phi tôn giáo, một nền giáo dục thương mại / mua bán bằng cấp, một nền giáo dục một chiều chủ trương “hồng hơn chuyên” chỉ để phục vụ đảng CSVN, một nền giáo dục vô giáo dục.

Không thể lấy hình ảnh bà Mẹ hiền để nhập nhàng trí trá đánh lận giữa Hiền với Ác hầu che dấu khỏa lấp tội lỗi của Ác mẫu.

Đánh tráo giữa hai hình ảnh bà Mẹ vẫn chưa đủ, ĐHY lại đem Chúa và Giáo Hội ra làm bùa hộ mệnh để đánh bóng cho biện luận của mình. ĐHY đã dấu kín con người “chính trị” trong cái áo Mẹ Hiền và Tôn Giáo bằng những lời hay ý đẹp thì quả là mưu trí.

KẾT LUẬN

Tôi sinh ra đời vào một thời tao loạn, chịu ảnh hưởng của cả hai Mẹ: Có nước mắt, có mồ hôi, có tiếng cười tiếng khóc, có cả no cả đói, có hân hoan mừng vui, có tiếng than van thở dài lo âu. Rồi lớn lên trong chinh chiến bom đạn. Tôi đã từng thắc mắc ai nêu cảnh tang thương này để phải ba lần chạy trốn rời bỏ nơi thân yêu. Lần đầu mẹ bế chạy giặc ra Hanội. Lúc đó tôi chưa hiểu gì cả. Lần thứ hai phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn vô Nam , tôi được bố mẹ và các cha xứ biểu “vào Nam để giữ đạo”. Lúc đó tuy chưa khôn lớn đủ nhưng cũng biết thắc mắc tại sao phải vào Nam mới giữ được đạo? Lần thứ ba gần đây nhất đã phải chạy trối chết vượt sóng gió đại dương bất kể hiểm nguy để có được Tự Do, để bảo vệ lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Tôi được bà mẹ áo vàng nuôi dưỡng giáo dục thành nhân và thành danh. Khi tốt nghiệp vì bổn phận công dân tôi đáp lời sông núi ra đi bảo vệ quê hương. Tôi đã từng chứng kiến biết bao nhiêu đồng bạn ngã gục trong lửa đạn. Những đêm dài nằm nghe tiếng súng pháo kích để sáng mai nhìn thảm cảnh đàn bà con nít, ông già bà cả vô tội tan thây nát xác, nhà tan cửa nát. Chúng tôi có lúc đã phải xông pha lửa đạn để cứu những thương bệnh binh và dân lành vô tội, cả những người lính cộng sản bị thương nơi trận địa để rồi khi bà mẹ áo Đỏ chiếm đoạt được miền Nam đã lừa chúng tôi vào những trại gọi là học tập cải tạo để giáo dục: “Các anh là kẻ có tội vì đã cứu sống / chữa lành những tên ngụy cho chúng khỏe mạnh để chúng tiếp tục đánh phá cách mạng. Các anh tuyên úy đã giải tội và tha tội cho lính ngụy để chúng được sạch tội, thảnh thơi thoải mái trở lại tiếp tục truy lùng đánh giết cách mạng. Tất cả các anh đáng tội phải chết”. Và khá nhiều bạn bè, đồng đội chúng tôi đã nằm xuống một cách rất thê thảm …

Những Đại Lộ kinh hoàng, những Mùa hè Đỏ Lửa, những trận mưa pháo / bắn sẻ vào dân lành, vào bệnh viện, vào những bệnh nhân, vào những xác chết hai lần, vào linh địa La Vang …, tất cả tôi đều chứng kiến tận mắt. Rồi thảm trạng Tết Mậu Thân ở Huế đã hằn xâu vào tim óc chúng tôi để nhận ra ai là mẹ áo Đỏ ai là Mẹ áo Vàng. Những người lính chiến đã liều chết để treo cho được lá cờ vàng lên cố đô Huế, lên cổ thành Quảng trị. Đến khi mẹ Áo Vàng không thể bảo vệ được chúng tôi thì chúng tôi bằng mọi cách thoát khỏi Mẹ Áo Đỏ tìm nơi tự do hầu bảo vệ lá cờ vàng, tượng trưng cho tự do, dân chủ và tình người. Không ai có quyền ngăn cản chúng tôi, có quyền xỉ nhục lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Thiết nghĩ tất cả đồng bào Việt Nam ở hải ngoại bỏ nước ra đi sau sau 30-4-1975 đều có cùng một tâm trạng như chúng tôi.

Pace Island, Florida 17-6-2008

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Xin Cộng Đồng Việt Nam tại Úc châu hổ trợ các em Công Giaó Việt nam Hoa Kỳ tham dự Đại Hội Giới trẻ


Trần Việt Yên

Kính thưa quý vị

Tối Chuá Nhật 6-7-08 Tôi được một vị trước đây từng quen biết và thân với nhóm người rất thân cận với Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn và giới chức Công giáo ở Nam Cali điện thoại cho biết, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ đến Seattle, Tiểu bang Washington để dự thánh lễ kỷ niệm 45 năm thụ phong Linh mục của Đức Tổng Giám mục Alexander Burnett đồng thời chủ toạ bữa tiệc gây quỹ giúp đỡ các cha già hưu dưỡng tại Tổng Giaó phận Saigon.

Qua câu chuyện ông tiết lộ cho biết, Đức Hồng Y đi ngoại quốc lần này có hai mục đích, nổi và chìm, mục đích nổi là vận động gây quỹ giúp đỡ các cha già hưu dưỡng thuộc Tổng Giáo Phận Saigon, nhung mục tiêu này không quan trọng lằm mục tiêu tối hậu là là bằng vào vị thế và uy tín , Đức Hồng y Mẫn sẽ vận động với các giới chức lãnh đạo các cộng đồng công giáo Việt Mỹ để giới trẻ tham dự Đại Hội kỳ này tại Úc sẽ chỉ đứng chung dưới một lá cờ Hoa kỳ, có nghĩa là sẽ CỐ GẮNG ĐỂ KHÔNG có cờ vàng chính nghĩa xuất hiện trong Đại Hội Giới trẻ kỳ này .

Mục tiêu thứ nhất của Đức Hồng Y Mẫn đã thất bại, ngài bị tẩy chay ở Nam, Bắc Cali, sẽ bị chống đối ở Seattle, và sẽ bị chống đối ở bất cứ chỗ nào ngài xuất hiện, xem như thế mục tiêu xin tiền cho các cha già đã thất bại, hay là gặt hái được kết quả rất khiêm tốn (Thật tội nghiệp cho các cha già hưu dưỡng bị Đức Hồng Y hất đổ chén cơm) nhưng mục tiêu thứ hai, mới là tối quan trọng và xem chừng ngài đã thành công.

Lời nhắc nhở của ông là tôi chợt liên tưởng đến bài viềt của Viêtcatholic, về Đại Hội giới trẻ Công Giáo lần thứ 15 tại Úc Châu mà tôi vừa đọc trưóoc đó khoảng 2 giờ, trong đó có một câu làm tôi giật mình, trang web Vietcatholic LM Trần Công Nghị viết về Đại Hội có đoạn như sau:

. . . “ Theo Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, lần đầu tiên tại một kỳ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, sẽ có một Thánh Lễ dành riêng cho tất cả các nhóm bạn trẻ Hoa Kỳ đến từ Sydney, trong số đó có rất đông các bạn trẻ gốc Việt hòa chung với các bạn trẻ Hoa Kỳ, dưới màu cờ của đất nước Hoa Kỳ. Đức Hồng Y George sẽ chủ tế Thánh Lễ và giảng vào ngày Thứ Bảy, ngày 19 tháng 7, tại một địa điểm bên ngoài trung tâm Sydney" (Trích bản tin Viet Catholic số 56351) . . .

Như thế các bạn trẻ Việt nam đã được Ban tổ chức Đại Hội Giới trẻ của Hoa kỳ được “Mỹ Hóa” hết rồi không còn mang cờ vàng làm e ngại cho các đấng bậc Việt Nam nữa.

Lời nói của ông cũng làm tôi liên tưởng đến một việc, ấy là các bạn trẻ Công Giáo tham dự ngày Đại Hội giới trẻ trên đường đi Úc thì sẽ ghé qua Việt nam để tham quan và tìm hiểu các sinh hoạt tại một vài địa phận Công Giáo Việt nam, dĩ nhiên bạn trẻ sẽ được hướng dẫn tham dự các nhà thờ mới kiến thiết nguy nga, tráng lệ, các buổi sinh hoạt cầu kinh thánh lễ tưng bừng náo nhiệt.

Nhưng mục đích tối hậu của VIỆC NÀY LÀ SẼ LÀM CÁC BẠN TRẺ SỢ KHÔNG DÁM MANG THEO CỜ VÀNG 3 SỌC ĐỎ ĐỂ BIỂU DƯƠNG TROGN NGÀY ĐẠI HỘI SẮP TỚI, HOẶC LÀ NẾU CÓ MANG THEO THÌ SẼ BỊ TỊCH THU Ở pHI TRƯỜNG TÂN SƠN NHẤT VÀ NỘI BÀI, VÀ CÁ NHÂN ĐÓ SẼ BỊ LÀM KHÓ DẼ, CÓ THỂ LÀ MẤT CƠ HỘI THAM DỰ ĐẠI HỘI.

Theo Vị này thì có một điều đáng buồn là theo nguồn tin đáng tin cậy thì Vị Giám Mục Việt Nam duy nhất taị Hoa Kỳ cũng đi theo trong phái đoàn này nhưng lại thác cớ là đi Âu Châu, việc này hư thực ra sao chúng ta sẽ rõ sau này. Nếu thực sự Đức Giám Mục này có đi theo phái đoàn sẽ là một điều đáng tiếc, vì một là ngài đã vô tình tiếp tay cho âm mưu triệt hạ cờ vàng của Đức Hồng Y Mẫn, hay chính ngài đã vui lòng thực hiện âm mưu này .

Tưởng cũng nên nhắc lại, hiện nay hầu như các thánh đường có cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại hoa Kỳ đều không còn trưng cờ Vàng trong thánh đường như trước đây khoảng 10 năm như bài viết của tác giả Bùi Văn Phú “Liên Đoàn Công Giáo Việt nam tại Hoa Kỳ cần một lời giải thích".

Chúng tôi nêu vấn đề ngày để cảnh giác trước công luận và đề nghị Cộng Đồng ngươì Việt tại Úc Châu chuẩn bị hổ trợ phân phối cờ vàng cấp thời cho các em bạn trẻ Công Giaó Hoa kỳ tham quan Việt Nam đặt chân đến Úc Châu

Trân trọng
Trần Việt Yên

http://tranvietyen-website.blogspot.com

Cần phải duy trì mặt trận pháp lý đối với thành phố San Jose và NV Madison




TS Lê Hũu Phú

Trong thời gian gần đây NV Madison đã vận động các vị dân cử trong Vùng Vịnh lên tiếng ủng hộ việc chống đối nỗ lực bãi nhiệm bà. Tất cả đều viện dẫn cùng một lý do duy nhất: đó là vì sự chống đối của NV Madison trong vấn đề đặt tên Little Saigon nên cộng đồng người Việt đã tiến hành thỉnh nguyện thu thập chữ ký để bãi nhiệm bà. Với tánh chất lừa đảo cố hữu chắc chắn NV Madison đã dùng thủ đoạn lừa dối họ và che dấu sự thật của vấn đề để kéo họ về phiá bà. Gần đây nhất là trường hợp ông Willie Brown, cựu thị trưởng thành phố San Francisco, một nơi cách xa và chẳng dính dáng gì đến TP San Jose. Tờ báo Anh ngữ lớn nhất của San Jose là Mercury News cũng luôn dùng cùng một luận điệu trên đây tạo ra sự hiểu lầm mà chúng tôi nghĩ cộng đồng Việt Nam và Ủy Ban Bãi Nhiệm phải cố gắng làm sáng tỏ cho các cử tri và các cộng đồng khác ngoài cộng đồng người Việt thấu rõ cốt lõi của vấn đề không phải hoàn toàn như thế. Ngay một số không ít cử tri gốc Việt ở khu vực 7 cũng chưa hiểu rõ vấn đề.

Cốt lõi của sự sai trái của NV Madison là nguyên nhân đàng sau những hành động chống đối tên Little Saigon. Tất cả các hành động của bà khởi đầu với sự giúp đỡ đặc biệt đại thương gia Tăng Lập cho ý muốn ông ta đặt tên Vietnam Town cho toàn khu vực thuơng mãi trên đường Story để quảng bá cho khu thương xá ông đang phát triển. Tiếp theo là âm mưu xếp đặt ra một danh sách gồm 15 danh tánh vừa cá nhân vừa một số hội ái hữu (mà sau đó các hội viên đã tố cáo bị lạm danh cũng như một số cá nhân đã rút tên ra khỏi danh sách) để ủng hộ một sự chọn lựa khác là tên New Saigon Business District nhằm mục đích dựa vào đó nói rằng cộng đồng chia rẽ để bà ta dùng tên Saigon Business District như là một giải pháp “dung hòa.” Sau đó NV Madison cũng bỏ thì giờ để vận động hội Story Road Business Association bầu lại cho tên Saigon Business District mà bà đã chọn mặc dù trước đó họ đã quyết định ủng hộ cho tên Little Saigon theo như đại đa số thành viên trong cộng đồng Việt cũng như các thương gia trong khu vực và các cư dân sống quanh đó 1000 ft mong muốn và phù hợp với kết quả của sự thăm dò mà chính bà ta chủ xướng. NV Madison cũng dồn mọi nỗ lực và ảnh hưởng của mình để vận động ông thị trưởng và các nghị viên khác trong hội đồng thành phố ủng hộ cho tên Saigon Business District để nhất định chống lại tên Little Saigon.

Qua sự tiết lộ của NV Forrest Williams, NV Madison đã cho cư dân có ấn tượng (perception) là bà đã vi phạm đạo luật Brown Act với sự đồng lõa của một số vị khác trong hội đồng thành phố nhưng nhân vật chủ yếu vẫn là bà NV Madison. Chính vì ấn tượng nầy mà luật sư thành phố đã khuyến cáo hội đồng thành phố phải hủy bỏ quyết định đặt tên Saigon Business District dù ông ta nói rằng ông không tìm ra bằng chứng thành phố và NV Madison vi phạm Brown Act. Tuy nhiên, điều không thể chối cãi là trong quá khứ thành phố San Jose đã nhiều lần vi phạm đạo luật Brown Act.

Vì vậy Ban Đại Diện Cộng Đồng Bắc Cali đã nhờ luật sư tìm cách điều tra đâu là sự thật. Viện dẫn đạo luật về các tài liệu công khai, luật sư của cộng đồng đòi hỏi thành phố phải cung cấp các sự liên lạc đi và đến của văn phòng NV Madison kể từ khi bà nhậm chức cho đến nay. Nỗ lực này đang bị thành phố gây trở ngại như đòi một số tiền thật lớn cho chi phí cung cấp các tài liệu này trong khi đó đúng ra các yêu cầu này không phải trả tiền. Hiện nay luật sư của cộng đồng đang tranh cãi tại Tòa án về sự việc này. Các tài liệu này rất quan trọng vì có thể giúp tìm ra bằng chứng NV Madison – cùng một số vị khác trong hội đồng thành phố - vi phạm đạo luật Brown Act hoặc từ đó phanh phui ra những hành động mờ ám vi phạm pháp luật khác của bà ấy. Một khi có thêm đủ dữ kiện luật sư đại diện cho cộng đồng có thể xin án tòa đòi hỏi NV Madison phải ra Tòa để phải trả lời hữu thệ các câu hỏi của luật sư liên quan đến nội vụ. Các lời khai hữu thệ nếu không đúng có thể dẫn đến tội trạng ngăn cản luật pháp (obstruction of justice), một tội trạng hình sự rất nặng. Chắc hẳn qúi vị còn nhớ trường hợp của ông Henry Hướng Lê thuộc Lee Sandwiches đã giả mạo văn bản của 92 thương gia trong khu vực Story Rd nhưng vì thành phố viện cớ là các lời trình bày tại hội đồng thành phố không phải hữu thệ nên đã quyết định không truy tố ông ta.

Nếu chứng tỏ NV Madison vi phạm Brown Act thì điều này sẽ gây ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc vận động đủ con số chữ ký để thành phố phải tổ chức cuộc bầu cử đặc biệt bãi nhiệm bà ấy. Như vậy đây là một việc làm quan trọng để hỗ tương cho tiến trình bãi nhiệm. Ngoài ra, sau khi có đủ số chữ ký mà cuộc bầu cử đặc biệt đòi hỏi, cư dân trong khu vực 7 chắc chắn tham gia đông đảo và bầu THUẬN trong lá phiếu bãi nhiệm. Nếu cho các vị dân cử đang ủng hộ chống việc bãi nhiệm NV Madison biết rằng bà đang ở trong vòng tranh chấp pháp lý với cộng đồng thì họ sẽ ngần ngại hơn trong việc ủng hộ bà ấy chống bãi nhiệm. Theo cung cách làm việc đặc biệt ưu đãi của NV Madison đối vói ông Tăng Lập, người ta không thể không nghĩ đến bà có thể đã nhận “quà cáp” gì đó của ông ta. Cá nhân tôi không dám xác quyết là bao nhiêu nhưng hành động của bà đã mang lại cái “ấn tượng” (perception) là bà có ăn hối lộ. Sở dĩ tôi muốn nhấn mạnh đến danh từ ấn tượng vì hiện nay không tìm ra được bằng chứng -- nếu có bằng chứng thì bà đã bị còng tay vào ngồi tù và cộng đồng chẳng phải phí công sức bãi nhiệm. Tuy nhiên không ai ngăn cản việc nhiều người đã có ấn tượng đó và chúng tôi có toàn quyền tự do nói lên điều này vì việc làm không chính đại của bà đã tạo ra ấn tượng đó. Giả sử NV Madison không nhận tiền hối lộ của ông Tăng Lập nhưng giúp ông để nhắm vào việc ông sẽ đóng góp cho qũy tái tranh cử của bà ấy trong tương lai cũng là có tội như thường.

Vì là ủy viên y tế của quận hạt Santa Clara, điều mà tôi học nằm lòng trong bài học về chính trực dạy các cá nhân phục vụ trong các ủy ban thành phố hay quận hạt (cũng như các vị dân cử) theo đạo luật AB1234 của tiểu bang bắt buộc chúng tôi hai năm phải học lại một lần là khi chúng tôi tạo cho người dân cái ấn tượng là mình làm việc vì lợi ích riêng là đã sai trái mặc dù trên thật tế chúng tôi không hành động như vậy.

Cũng trong bài học này tôi được biết rằng giới hạn quà cáp tối đa cho các cá nhân phục vụ trong các ủy ban hoặc các chức vụ dân cử là 390 cho nguyên một năm. Ngay cả khi được mời ăn tiệm các vị dân cử phải bỏ tiền túi ra để chia phần chi phí của mình cho dù trong lúc ăn có hoặc không bàn cãi đên công việc của thành phố hay quận hạt. Ông Terry Gregory chỉ vì ăn hối lộ có một két rượu trị giá 500 (tức trên giới hạn 390) mà bị bắt buộc phải từ chức và nhờ đó mà NV Madison thắng cử trong cuộc bầu cử đặc biệt sau đó để thay thế ông. Sự ưu dãi đặc biệt của NV Madison đối với ông Tăng Lập đã làm cho chúng tôi và rất nhiều người khác đang muốn bãi nhệm bà ấy có ấn tượng là số quà cáp phải hơn con số 500 rất nhiều! Vấn đề là NV Madison đã khôn ngoan hơn ông Gregory nên khó truy được dấu vết hơn. Nhưng không phải vì vậy mà cộng đồng không tìm mọi nỗ lực để tìm cho ra vết tích.

Một khi bà NV Madison đã tạo cho cư dân có ấn tượng bà làm việc vì lợi ích riêng thì họ không thể nào tiếp tục đặt tin tưởng vào bà trong vai trò nghị viên đại diện cho họ nữa.

Thành phố dưới sự lãnh đạo của thị trưởng Chuck Reed đang dùng công qũy do tiền thuế của cư dân để vùi dập nỗ lực tìm kiếm những khúc mắc mờ ám quanh vụ Little Saigon. Họ đang hết sức ngăn cản và ỷ vào sức mạnh tiền bạc của thành phố để cố đè bẹp các nỗ lực về mặt pháp lý của cộng đồng. Khi thị trưởng Chuck Reed ra tranh cử ông đã dùng các khẩu hiệu Honesty (Trong sạch), Integrity (Vẹn toàn), Open government (Cởi mở) nhưng ngay những ngày tháng đầu khi nhậm chức ông đã vi phạm các lời hứa tranh cử. Chắc rằng nhiều qúi vị đã theo dõi sát những sự việc đã xảy ra trong cuộc tranh cử của bà Hon Liên vào chức vụ nghị viên thành phố do thị trưởng Reed đạo diễn để mưu toan đưa vào hội đồng thành phố một nghị gật làm vây cánh dù cho bà ấy không biết tí gì về các vấn đề của thành phố. Vụ này đã làm xôn xao dư luận và báo SJ Mercury Mercury News cũng có đề cập tới sự việc thị trưởng Reed đã trả lương cho ông Vic Ajlouny từ ngân qũy thành phố. Trước đó ông Ajlouny từng là cố vấn tranh cử của ông Reed và sau đó thị trưởng Reed lưu ông Ajlouny lại làm cố vấn cho ông tại thành phố, một việc hiếm có vì thường khi sau khi ứng viên thắng cử thì hầu như cố vấn tranh cử không còn liên hệ gì nữa. Điều đã làm dân chúng thắc mắc hơn nữa là ông Ajlouny còn là cố vấn tranh cử toàn thời gian cho bà Hon Liên. Dạo đó báo Mercury News đã đưa ra thắc mắc là không có một ranh giới rõ rệt giưã vai trò cố vấn của ông Ajlouny cho thị trưởng Reed và cho bà Liên.

Công trình xây cất “Cổng chào Little Saigon San Francisco” vừa được hoàn tất vào chiều thứ Ba 01 tháng 07 năm 2008 vừa qua. Mặc dù thành phố San Francisco là nơi đặt trụ sở của Lãnh sự quán cộng sản Việt Nam, thành phố San Francisco đã chính thức có tên khu Little Saigon trên bản đồ thành phố. Đây là niềm hãnh diện của Cộng đồng người Việt tại San Francisco và khắp nơi ở hải ngoại. Qua sự việc này tôi không khỏi bồi hồi tự hỏi một thành phố không có vị dân cử nào trong hội đồng thành phố (vừa là quận hạt San Francisco) thì vấn đề đặt tên và thực hiện cổng chào hết sức trôi chảy với sự giúp đỡ tích cực của một giám sát viên không phải gốc Việt, còn tại San Jose có một nghị viên gốc Việt sờ sờ ra đó thì chính bà này lại ra mặt hết sức chống đối danh xưng Little Saigon. Thật là chuyện oái ăm, cười ra nước mắt. Chắc chắn sự chống đối hết sức tích cực của NV Madison phải có nguyên nhân sâu xa và công lý phải làm sáng tỏ nguyên nhân mờ ám đó.

Cộng đồng chúng ta không thể để thành phố dùng tiền thuế của cư dân đóng góp để bóp chẹt chúng ta ngưng tranh tụng trên mặt pháp lý với họ mà phải tiếp tục vụ kiện tụng cho công lý được sáng tỏ.

TS Lê Hữu Phú


Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên SàiGòn Phân Ưu GHPGTN

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN
P.O Box 17-516, Greenlane. Auckland – NEW ZEALAND
P.O Box 660935, Arcadia, CA 91066 – USA
Website: www.saigonforsaigon.org
Email: s4s@saigonforsaigon.org


THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN
vô cùng thương tiếc khi nhận tin buồn:

Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang

đã viên tịch tại Tu viện Nguyên Thiều lúc 13 giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 2008 tức mùng 3 tháng 6 năm Mậu Tý, trụ thế 89 năm, pháp lạp 69

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN xin thành kính chia sẻ niềm đau buồn và sự mất mát lớn lao với:

Chư Tôn Giáo phẩm Hội Đồng Viện Tăng Thống
Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
Văn Phòng II Viện Hoá Đạo GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ và các Châu Lục
Chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni
Cùng toàn thể Phật tử các giới trong và ngoài nước

Thành tâm nguyện cầu giác linh
Đức Đệ Tứ Tăng Thống cao đăng Phật Quốc.

Tại Thành phố Auckland , New Zealand
Ngày 7 tháng 7 năm 2008

Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
Đại Diện PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN

Tổ chức theo dõi nhân quyền yêu cầu csVN chớ nên can thiệp vào việc tổ chức tang lễ Đức Tăng Thống


TỔ CHỨC HOA KỲ THEO DÕI NHÂN QUYỀN
yêu cầu Việt Nam chớ can thiệp vào việc tổ chức lễ tang Đức Tăng thống. Chính quyền giành quyền tổ chức Tang lễ sẽ có nguy cơ gây chống đối dữ dội

(New York, 9.7.2008) – Các thành viên GHPGVNTN cần được phép tổ chức Tang lễ cho Đức Tăng thống mà không bị chính quyền sấn quyền, Tổ chức Hoa Kỳ theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) lên tiếng hôm nay. Nhà cầm quyền Việt Nam đã tuyên bố Giáo hội Phật giáo Nhà nước sẽ tổ chức Tang lễ cho Đức Tăng thống GHPGVNTN Thích Huyền Quang.

Là Tăng sĩ Phật giáo hoạt động cho hoà bình thời kháng chiến chống Pháp và trong cuộc chiến tranh Mỹ tại Việt Nam, Đức Tăng thống Thích Huyền Quang là nhà đấu tranh bền bỉ và vô địch cho nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam. Ngài vừa viên tịch tại Tu viện tỉnh Bình Định miền trung Việt Nam ngày 5.7.2008 vào năm 88 tuổi. Là thành viên GHPGVNTN thập niên 1960, Giáo hội bị nhà cầm quyền Việt Nam cấm đoán vì không chịu gia nhập Giáo hội Nhà nước. Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang đã trải qua ba thập niên bị nhà nước áp đặt lưu đày, quản chế hay cấm cố.

« Đức Tăng thống Thích Huyền Quang đã mất tự do 30 năm trường hầu mang lại nhân quyền tối thượng và tự do tôn giáo cho Việt Nam », ông Brad Adams, Giám đốc Vụ Á châu của Tổ chức Hoa Kỳ Theo dõi Nhân quyền, nói. » Hãy để cho Phật giáo đồ được phép thọ tang Đức Tăng thống theo nghi lễ thích nghi mà không bị chính quyền xâm lấn. ».

GHPGVNTN dự tính tổ chức Lễ Nhập Bảo tháp cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang vào ngày 11.7 tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định. Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ vị giáo phẩm đứng hàng thứ hai của Giáo hội, người cộng sự thân tín của Đức Tăng thống, và có khả năng kế vị, sẽ chủ trì Tang lễ. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam đã bước những bước giành lấy quyền kiểm soát Tang lễ để tiếm quyền di sản của Đức Tăng thống khi loan báo nghi lễ sẽ do Giáo hội Phật giáo Nhà nước cử hành. Chính quyền kiểm soát các cơ quan truyền thông tung những bài đả kích cay độc chống Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, tố cáo ngài và « các thành phần cực đoan trá hình làm Tăng sĩ » âm mưu với « ý đồ đen tối » để lợi dụng cái chết của Đức Tăng thống cho mưu đồ chính trị. Ngày 6.7 đài Truyền hình VTV1 loan tải : « Trước những việc làm trái đạo lý của nhóm Quảng Độ, các môn đồ, đệ tử [của Thích Huyền Quang], những người tu hành chân chính ở Tu viện Nguyên Thiều đã phản ứng kịch liệt, kiên quyết không cho nhóm Quảng Độ đứng ra tổ chức tang lễ ».

Ông Adams nói tiếp « Hành động không cần thiết của chính phủ Việt Nam có nguy cơ gây chống đối dữ dội với Phật giáo đồ của Đức Tăng thống khi kiểm soát Ngài lúc chết cũng như khi còn sống ».

Đức Tăng thống Thích Huyền Quang đã từng được hai Giải Nobel Hoà bình đề cử Ngài làm ứng viên Giải Nobel Hoà bình, được suy tôn làm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống năm 1992. Ngài xuất gia năm 12 tuổi và trải cuộc đời dài như một nhà hành hoạt Phật giáo. Thập niên 1940, Ngài tham gia Kháng chiến chống Pháp, giữ chức Phó chủ tịch Phật giáo Cứu quốc. Thập niên 1960, Ngài là bậc Cao tăng vận động cho Hoà bình trong cuộc chiến Hoa Kỳ và phản đối chính sách của chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Sau thời Việt Nam thống nhất năm 1975, Ngài trở thành người đòi hỏi đắc lực cho dân chủ và nhân quyền. Mặc dù GHPGVNTN chống chiến tranh, nhưng nhà cầm quyền Hà Nội chiếm dụng tài sản của giáo hội, bắt bỏ tù nhiều vị giáo phẩm, và cưỡng bức phải tham gia Giáo hội Phật giáo Nhà nước. Ngài bị bắt năm 1977 rồi năm 1982 vì lên tiếng kêu gọi chính quyền công nhận GHPGVNTN và phản đối những vi phạm tự do và nhân quyền của nhà nước. Năm 1982 Ngài bị cưỡng bách rời khỏi ngôi chùa của Ngài ở Saigon, bị cô lập và lưu đày tại một ngôi chùa tỉnh Quảng Ngãi.

Vào tháng 11 năm 1993, từ nơi ngôi chùa bị giam giữ, Ngài đưa ra 12 điểm « Đề nghị của Phật giáo cho Dân chủ và Nhân quyền », kêu gọi chính quyền cải cách dân chủ, trả tự do cho tù nhân chính trị, bãi bỏ hạn chế tự do tôn giáo, và tôn trọng nhân quyền.

Tổ chức Hoa kỳ theo dõi Nhân quyền lo lắng cho những nguồn tin từ giới Phật tử ở Việt Nam cho biết Công an đã đến các chùa trong một số vùng, như Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Định, cấm chư Tăng Ni tổ chức Lễ Thọ tang Đức Tăng thống Thích Huyền Quang.

Sự sấn quyền của chính quyền Việt Nam trong lần trao quyền kế vị ngày Đức Đệ Tam Tăng thống Thích Đôn Hậu viên tịch hôm 4.5.1992 đã gây ra cuộc chống đối rộng lớn của Phật giáo đồ Việt Nam. Thời ấy Ngài Thích Đôn Hậu được tự do khi viên tịch và đã di chúc cử hành tang lễ tuyệt đối giản dị theo truyền thống Phật giáo, không có sự can dự của cơ quan công quyền. Tuy nhiên chính quyền cũng tìm cách gắn huân chương Hồ Chí Minh và giành quyền tổ chức Tang lễ mặc dù nhiều Tăng sĩ tuyệt thực phản đối hay đòi tự thiêu. Thời ấy Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang bị quản chế và chỉ được phép ra Huế thọ tang sau một ngày dài thuyệt thực. Tại Huế Ngài đã đọc điếu văn tố cáo nhà cầm quyền tìm cách giải thế GHPGVNTN qua việc thiết lập Giáo hội Phật giáo Nhà nước.

« Chính quyền phải để cho mọi người tự do đến dự tang lễ », ông Adams nói. « Thay vì thế, họ lại ngăn cản những người Việt muốn tỏ lòng tôn kính trước cuộc đời của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang tại các lễ tang địa phương ».


    Vietnam: Don’t Interfere in Buddhist Patriarch’s Funeral Government Attempt to Take Over Funeral Risks Confrontation.

(New York, July 9, 2008) – Members of the banned Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV) should be allowed to organize and attend funeral services for their patriarch without government interference, Human Rights Watch said today. The Vietnamese government has announced that the state-sanctioned Buddhist church will organize the funeral for the UBCV Supreme Buddhist Patriarch, Thich Huyen Quang.

UBCV Supreme Patriarch Thich Huyen Quang
© International Buddhist Information Bureau

A Buddhist peace activist who opposed French colonial rule and the US war in Vietnam, Thich Huyen Quang was a lifelong champion of human rights and religious freedom in Vietnam. He passed away in a monastery in Binh Dinh province in central Vietnam on July 5, 2008, at the age of 88. As a member of the UBCV since the 1960s, which is banned by the Vietnamese government because of its refusal to join the state-sanctioned Vietnam Buddhist Church, Thich Huyen Quang spent much of the last three decades in government-imposed internal exile, house arrest, or prison.

“Thich Huyen Quang gave up his liberty for 30 years in a quest for greater human rights and religious freedom in Vietnam,” said Brad Adams, Asia director at Human Rights Watch. “His followers should be allowed to pay their last respects without government interference, at a ceremony of their own choosing.”

The UBCV plans to hold funeral services for Thich Huyen Quang on July 11 at Nguyen Thieu Monastery in Binh Dinh province. Thich Quang Do – the patriarch’s deputy, close associate, and likely successor – will preside over the ceremony. However, the Vietnamese government has already taken steps to wrest control over the funeral and the patriarch’s legacy by announcing that the proceedings will be organized by the state-sanctioned Vietnam Buddhist Church. Government-controlled media has run vitriolic denunciations of Thich Quang Do, accusing him and “extremist elements disguised as Buddhist monks” of plotting “devious schemes” to exploit the patriarch’s death for political purposes. On July 6 the state television station, VTV1, broadcast a statement saying: “Confronting the immoral actions of the Quang Do group, the students and disciples [of Thich Huyen Quang], as well as the genuine monks of Nguyen Thieu Monastery, have vehemently reacted and they are determined not to let the Quang Do group organize the funeral ceremonies.”

“The Vietnamese government is risking unnecessary confrontation with the patriarch’s followers by trying to control him in death as in life,” Adams said.

Thich Huyen Quang, who was nominated for the Nobel Peace Prize by two former laureates, became Supreme Patriarch of the UBCV in 1992. He joined the monkhood at the age of 12 and had a long history as a Buddhist activist. In the 1940s he participated in the resistance to French colonial rule as vice president of a regional section of the Buddhist Movement for National Salvation. In the 1960s he was a prominent Buddhist peace advocate during the Vietnam War and a critic of anti-Buddhist policies by the South Vietnamese government of President Ngo Dinh Diem.

After the reunification of Vietnam in 1975, Thich Huyen Quang became an outspoken advocate for democracy and human rights. Although the UBCV had opposed the war, the Hanoi government confiscated its property, jailed many of its leaders, and attempted to force it to merge into the state-created Vietnam Buddhist Church. Thich Huyen Quang was arrested in 1977 and again in 1982 for publicly calling on the government to recognize the UBCV and for protesting violations of religious freedom and human rights. In 1982 he was forced to leave his pagoda in Ho Chi Minh City and sent into internal exile at an isolated pagoda in Quang Ngai province.

From pagoda arrest in November 1993, Thich Huyen Quang issued a 12-point “Buddhist Proposal for Democracy and Human Rights,” calling on the government to implement democratic reforms, release political prisoners, lift restrictions on religious freedom, and respect human rights.

Human Rights Watch expressed concerns about reports from Buddhist sources in Vietnam that police have been visiting pagodas in some areas, including Vung Tau-Ba Ria and Binh Dinh provinces, and ordering monks not to hold funeral ceremonies for Thich Huyen Quang.

The Vietnamese government’s interference during the UBCV’s last transfer of leadership after the death of UBCV Patriarch Thich Don Hau on May 3, 1992, sparked widespread protests by Vietnamese Buddhists. Thich Don Hau, the most senior UBCV monk still at liberty at the time of his death, had stipulated that his funeral was to strictly follow Buddhist tradition, without any official intervention. Upon his death, however, the government swiftly bestowed upon him the Ho Chi Minh Medal and set about organizing the funeral, despite hunger strikes and threats of self-immolation on the part of many monks. Thich Huyen Quang, who was under house arrest at the time, was permitted to attend the funeral only after a day-long hunger strike. He delivered an oration condemning the government’s attempt to dissolve the UBCV with the establishment of the state-controlled Vietnam Buddhist Church.

“The government should let anyone who wants to attend Thich Huyen Quang’s funeral services to travel there freely,” Adams said. “Instead the government’s trying to discourage Vietnamese from honoring Thich Huyen Quang’s life in local ceremonies.”

http://www.hrw.org/english/docs/2008/07/08/vietna19311.htm

Wednesday, July 9, 2008

Vì sao sau một ngàn năm đô hộ, bá quyền Trung Quốc vẫn không Hán hoá được Việt Nam ?

Phong Uyên

Từ thượng cổ, người Trung Hoa đã tự tạo cho mình niềm tin rằng vua chúa của họ là “Thiên tử” (con Trời), được ban cho “thiên mệnh” trị vì bàn dân thiên hạ. Từ khi vị hoàng đế đầu tiên (Tần Thủy Hoàng đế) thống nhất các nước nằm trong lưu vực sông Hoàng, nơi này được gọi là Trung Quốc – hàm ý quốc gia ở trung tâm toàn cõi đất.

Trăm họ tộc Hoa người Trung quốc được coi là thần dân. Những dân tộc không cùng dòng giống với người Hoa sống ở những khoảng đất chung quanh đều bị coi là man di như Hung Nô phía Bắc, Bách Việt phía Nam. Sau nhà Tần, các triều đại nhà Hán vẫn lấy danh nghĩa làm theo “mệnh trời”, tiếp tục chính sách bành trướng của Tần Thủy Hoàng chiếm hữu đất đai của các dân tộc này sáp nhập vào Trung Quốc. Còn tinh vi hơn, đàn bà con gái của các dân tộc này bị ép lấy người Hán, để rồi con cái họ trở thành người Hán vì mang huyết thống cha theo chế độ phụ hệ một chiều của người Tàu; bằng cách này, chỉ sau vài trăm năm, các dân tộc này đều bị tuyệt giống. Thật ra, đó là cách duy nhất để cung cấp nhân công cho một nền kinh tế có căn bản là nông nghiệp, khi người Hán chỉ là thiểu số so với toàn thể số dân đại lục Trung Hoa thời đó (vào khoảng 50 triệu, bằng dân số đế quốc La Mã cùng thời). Trong khoảng một ngàn năm gần như toàn thể các tộc Bách Việt sống ở phía Nam sông Dương Tử đều đã bị Hán hoá và tuyệt chủng. Chỉ còn lại duy nhất một dân tộc thoát được nạn này là dân tộc Lạc Việt, tổ tiên chủ yếu của dân tộc Việt Nam sau này: không những không bị đồng hoá mà, kỳ diệu hơn, còn giành được độc lập, giữ được một phần đất phía Bắc và tiếp tục bành trướng về phía Nam để tạo thành một quốc gia riêng, biệt lập với Trung Quốc, điều đã khiến cho cuộc Nam tiến của người Hán xuống cực Nam của vùng Đông Nam Á bị khựng lại từ hơn một ngàn năm nay.

Tôi đã thử tìm hiểu vì sao lại có được cái phép lạ đó. Theo tôi suy nghĩ, đó là nhờ ở bốn nhân tố:

Ý thức quốc gia của người Lạc Việt đã rất sớm nẩy nở, đủ sức chống lại ý thức bá quyền Đại Hán ngay từ khởi đầu.

Tinh thần dân tộc của người Lạc Việt đã vượt qua được giới hạn bộ tộc để đủ sức đương đầu với chủng tộc Đại Hán.

Truyền thống mẫu hệ của người Lạc Việt đã vô hiệu hoá phương thức đồng hoá bằng hôn nhân của người Hán theo chế độ phụ hệ, giúp cho dân Việt Nam bảo tồn được giống nòi.

Thể chế lạc tướng - lạc hầu được tồn lưu dưới hình thức cơ chế làng xã đã giúp dân Việt bảo vệ được nền tự chủ của mình.

Tôi cũng xin nói cho rõ hơn là cái nghĩa của từ “quốc gia” tôi bàn luận ở đây không cùng nghĩa với từ “quốc gia” bây giờ, và cũng không đồng nghĩa với chữ “quốc” trong “liệt quốc” thời Chiến quốc, mà có nghĩa “quốc gia Nam Việt” đối lập với “Trung Quốc” nhà Hán.

Theo tôi, chính Triệu Đà, để phục vụ tham vọng của mình, đã là người tạo cho dân Việt ý thức quốc gia và tinh thần dân tộc theo cái nghĩa đó. Trong lịch sử nhân loại có nhiều trường hợp như vậy: Alexandre Đại đế người Macédoine làm dạng danh nước Hi Lạp. Guillaume le Conquérant người Pháp lập ra nước Anh, trong quá khứ luôn luôn thù địch với Pháp. Napoléon người Corse đã đưa nước Pháp tới tột đỉnh vinh quang. Không kể những hung thần như Thành Cát Tư Hãn người Mông Cổ lập ra nhà Nguyên, Staline người Georgie, Hitler người Áo v.v...

Ý thức quốc gia

Khi Tần Thủy Hoàng mất, Triệu Đà chỉ là một viên lệnh úy tầm thường gốc người nước Ngụy thuộc tộc Hoa, nhưng là người có chí khí, đã biết lợi dụng thời thế hợp quần một số tộc Việt để xưng đế lập ra nước Nam Việt cùng thời với Trung Quốc của Hán Cao Tổ. Theo các nhà sử học phương Tây, sở dĩ nước Tần thắng được các nước khác, không phải vì có Tần Thủy Hoàng mà vì nước Tần là nước có thể chế, có hành chính qui củ, có quân đội mạnh, vũ khí tân tiến hơn các nước khác thời bấy giờ. Từng là một viên tiểu lại của nhà Tần, Triệu Đà đã lấy kinh nghiệm nước Tần để gây dựng nước Nam Viêt thành một quốc gia tân tiến ngang, nếu không nói là hơn Trung Quốc của nhà Hán thời sơ khai, nhất là về quân sự (đánh chiếm Trường Sa). Có thể nói trên lục điạ Trung Hoa và gần như cả Đông Nam Á thời đó, chỉ có hai quốc gia ngang sức đương đầu với nhau là Trung Quốc và Nam Việt. Cả hai đều có cơ cấu phỏng theo nước Tần. Nhờ vậy người Bách Việt trong nước Nam Việt của Triệu Đà có ý thức quốc gia rất sớm và sau một ngàn năm bị đô hộ vẫn giữ được ý thức đó để tái lập lại nước Việt sau này. Người Hán cho đó là khi quân, một thế giới không thể có hai nước, một điều phạm đến “thiên mệnh” của Trung Quốc, nên dùng đủ mọi phương kế kể cả phương kế bỉ ổi nhất là mỹ nhân kế Cù thị để xoá bỏ cho bằng được nước Nam Việt. Khi tiêu diệt được nhà Triệu, nước Nam Việt bị đổi thành Giao Chỉ bộ và bị chia nhỏ thành 9 quận cho mất tang tích một quốc gia đã dám đương đầu với Trung Quốc. Tuy vậy người Trung Hoa cho tới ngày nay vẫn luôn luôn bị ám ảnh bởi một quốc gia đã dám chống đối mình ngay từ sơ khởi, nên không có gì lạ khi nhà Thanh vì mặc cảm đã bắt Gia Long phải đổi quốc hiệu mà ông dự kiến “Nam Việt” thành “Việt Nam”. Trong thâm tâm, người Tàu vẫn coi Việt Nam là Giao Chỉ quận hay An Nam đô hộ phủ. Chứng cớ là khi người Pháp mới đặt chân xuống miền Nam, hỏi mấy chú Chệt tên nước này là gì, mấy chú vẫn nói tên là “Giao Chỉ”. Tây nghe âm Tàu đọc trại là “Cochin”. Lại sợ lầm với tên đất Cochin bên Ấn Độ, nên đặt lại là “Cochinchine” để phân biệt (từ tố “-chine” có nghĩa là “Trung Quốc”).

Tinh thần dân tộc

Là một nhà chính trị khôn ngoan, Triệu Đà đưa ra chủ trương liên kết mọi tộc Việt trong nước Nam Việt với nhau (như trong câu “người trong một nước phải thương nhau cùng”), điều đã khiến cho mọi tộc Việt vượt qua được giới hạn bộ tộc của mình, đi đến một ý niệm cao hơn là ý niệm về dân tộc Việt. Tinh thần dân tộc lại càng thêm vững mạnh khi Triệu Đà đem lại cho dân tộc Việt vinh quang đầu tiên bằng chiến công đánh chiếm Trường Sa [1] của Trung Quốc. Hơn một ngàn năm sau Lý Thường Kiệt noi gương đem quân tràn qua Tàu đánh phá các châu Khâm, Liêm. Rồi lại gần 1000 năm sau nữa, sau trận Đống Đa làm nhà Thanh khiếp đảm, Thanh đế Càn Long sợ Quang Trung sang đánh và đòi đất, phải vội vàng hứa gả con gái cho và hứa trả lại Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây).

Chế độ mẫu hệ và truyền thống lạc tướng - lạc hầu

Khi lập Văn vương [2] , cháu đích tôn con Mị Nương và Trọng Thủy, lên kế nghiệp mình, Triệu Đà có ý muốn nương theo chế độ mẫu hệ của người Lạc Việt để Việt hoá dòng giống mình, ngõ hầu triều đại nhà Triệu trở thành triều đại quy mô đầu tiên của dân Việt và sau này có thể dựa vào dân tộc Việt chống lại được sự bành trướng của Trung quốc. Trong lịch sử nhân loại, những dân tộc yếu muốn bảo vê được sự sống còn của nòi giống mình trước những dân tộc mạnh hơn đều chỉ có cách là duy trì liên hệ gia đình theo mẫu hệ. Thí dụ điển hình nhất là dân tộc Do Thái, 2000 năm mất nước, phải di tản đến mọi nơi trên thế giới, trước đó đã bao lần bị lưu đầy qua nhiều nước khác mà vẫn bảo tồn được dân tộc (cùng truyền thống văn hoá) của mình nhờ – không cần biết cha là thuộc dòng giống nào – tự coi mình là người Do Thái nếu mẹ là người Do Thái. Người Hán cũng biết vậy nên đã mưu tính đưa Cù thị vào làm vợ lẽ Anh Tề để con của Cù thị (có với tình nhân của thị là Thiếu Quý) là thái tử Hưng máu Tàu 100% sau này lên ngôi đem đất nước dâng lại cho nhà Hán. Quả nhiên là như vậy: khi Minh vương Anh Tề mất, Hưng lên ngôi (tức Ai vương) tính cùng mẹ đem nước dâng cho nhà Hán. Khi tể tướng Lữ Gia biết, giết mẹ con Cù thị và sứ giả nhà Hán, đưa Dương vương có mẹ người Việt lên thay thì đã quá muộn. Lại gặp tướng giỏi nhà Hán là Phục Ba tướng quân nên dân Việt đành chịu thua. Một ngàn năm sau, khi phản công lại Lý Thường Kiệt ở Khâm châu và Liêm châu, nhà Tống lại đem tích “Cù thị vị quốc hi sinh” như một Chiêu quân cống Hồ ra ca tụng nhằm cổ võ quân sĩ. Đủ biết là sự hiện hữu của nước Nam Việt đối lập với Trung Quốc vẫn là một mối hận trong tâm thức người Tàu.

Cũng có lẽ nhờ giữ được truyền thống mẫu hệ trong phong tục nên đã có những cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và Bà Triệu. Noi gương Triệu Đà, nhiều quan lại, sĩ tử người Hán, được cử qua “Hán hoá” dân Giao Chỉ, đã lấy vợ Việt không chịu trở về Trung quốc và con cháu không những đều trở thành người Việt mà còn nổi lên chống lại người Hán như trường hợp Sĩ Nhiếp, hoặc trường hợp Vạn Xuân vương Lý Bôn... Ngoài ra, nhiều tăng thống gốc Việt hay mẹ Việt như Tăng Khương Hội còn trở về Trung Quốc thuyết giảng đạo Phật theo văn hoá và tư tưởng Việt. Có thể suy luận là trong 1000 năm bị đô hộ, sở dĩ dân Việt Nam không bị đồng hoá là vì chính sách Hán hoá “lấy vợ Việt để đẻ con Hán” lại có hậu quả ngược lại, “gậy ông đập lưng ông”, là các con cháu có “mẹ Việt” đều trở thành người Việt, giữ gìn huyết thống Giao Chỉ và truyền thống văn hoá Việt, nhờ vậy đã không những không bị Hán hoá mà ngược lại, còn “Việt hoá” người Tàu qua đô hộ. Khả năng “Việt hoá” mạnh mẽ đó không những đã giúp dân Việt bảo vệ được nòi giống của mình trước người phương Bắc mà còn có thể, trong cuộc bành trướng về phương Nam, đồng hoá những dân tộc khác từng một thời hưng thịnh như Chiêm Thành, Chân Lạp, cũng như sau này đã “Việt hoá” những người Tàu Minh Hương để mở mang miền Nam.

Truyền thống lạc tướng - lạc hầu ẩn mình dưới những cơ chế làng xã cũng đã giúp cho dân Việt bảo tồn được nền tự chủ của mình trong suốt thời kỳ bị đô hộ, vì “phép vua thua lệ làng”: phép tắc của các quan thái thú Tàu cũng không thể vượt qua được lũy tre làng. Nhờ vậy mà “ý thức quốc gia” vẫn tiếp tục trường tồn tuy bị thu hẹp trong ý thức “làng nước”: làng chỉ là nước được thu nhỏ lại, và vị Thần Hoàng được thờ ở đình làng như những anh hùng dân tộc, những bậc thánh linh thiêng sẽ phù hộ cho người dân giữ làng giữ nước; còn làng là còn nước, bảo vệ làng là bảo vệ nước.

Để kết luận

Trong lịch sử thế giới từ cổ chí kim, từ Đông qua Tây, không một dân tộc nào như dân tộc Việt Nam, sau một ngàn năm bị đô hộ bởi một nước lớn và mạnh như Trung Quốc, không những vẫn bảo tồn được nòi giống mà còn vẫn giữ được cơ cấu quốc gia, và lại tiếp tục duy trì nền tự chủ của mình trong suốt thời gian một ngàn năm nữa. Đó là nhờ ở những nhân tố mà tôi đã nêu ở trên, cũng như nhờ ở sự khôn khéo của ông cha ta đã biết lúc cương lúc nhu, lúc tiến lúc lùi, tuy giữ hình thức triều cống ba năm một lần nhưng vẫn luôn luôn cảnh giác, coi phương Bắc là giặc, là kẻ thù, không bao giờ coi là bạn cả.

Chỉ có gần đây, trong khoảng thời gian 30 năm từ 1949 đến 1979, vì ý thức hệ, vì muốn độc tôn chiếm hữu quyền hành, giới cầm quyền Việt Nam mới coi kẻ thù truyền kiếp là huynh trưởng, là ân nhân, để rồi tự nguyện trở thành tên lính tiền phong, đem xương máu của chính đồng bào mình bảo vệ “ân nhân” vốn là kẻ thù đó. Khi bị người “anh em” dạy cho một bài học biên giới mới tỉnh ngộ thì đã muộn: chủ nghĩa bành trướng Đại Hán cũng vẫn y nguyên như 2000 năm về trước, cho dù được che giấu dưới chiêu bài “chủ nghĩa quốc tế vô sản”, “môi hở răng lạnh”; kế sách “Cù thị” vẫn tái diễn mà trong đó, [các lãnh tụ] Đảng Cộng sản Việt Nam không khác nào một thứ “thái tử Hưng”. Tuy nhiên, lần này, bá quyền Trung Quốc có nhiều hi vọng thành công: họ đang sử dụng ưu thế kinh tế, chính trị, quân sự của mình để tạo ra một sợi dây xích trói chặt Việt Nam bốn bề từ biên giới phía Bắc bọc qua Hoàng Sa - Trường Sa phía Đông, dọc theo sông Mê Kông từ Tây Tạng tới những nước đã bị khống chế như Lào, Cam Bốt phía Tây. Việt Nam hiện nay đã như cá nằm trong rọ. Bành trướng Đại Hán có thể tiếp tục thực hiện âm mưu làm bá chủ Đông Nam Á và Biển Đông mà gần như không còn chướng ngại vật Việt Nam.

Làm thế nào thoát được vòng cương toả của Trung Quốc để tạ lỗi với tổ tiên, với đất nước? Dù sớm hay muộn, chính quyền cộng sản Việt Nam cũng sẽ phải trả lời câu hỏi này.

Phong Uyên

[1] Địa danh Trường Sa ở đây là thành phố cổ hiện đang là thủ phủ của tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Còn “Trường Sa” với tư cách là tên gọi quần đảo trên biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam, Trung Quốc gọi là “Nam Sa”. Đời Hán, thành Trường Sa là kinh đô của “Trường Sa quốc”, một trong số chư hầu của nhà Hán. Theo sử sách, vào khoảng sau năm 195 TrCN, Nam Việt vương Triệu Đà đã từng tấn công Trường Sa quốc, chiếm đất của nước này. Đây là hành động chủ yếu mang tính tự vệ, vì nhà Hán (sau khi Hán Cao tổ Lưu Bang đã chết, Lữ hậu thâu tóm chính sự) khi đó bộc lộ tham vọng thôn tính Nam Việt, mà Trường Sa là ngả tiến quân thuận tiện nhất. (Các chú thích đều của talawas.)

[2] Để độc giả tiện theo dõi đoạn trích dẫn sử liệu này của tác giả Phong Uyên, talawas xin tóm lược dòng chính lưu của cây phả hệ nhà Triệu (gồm cả thảy 5 đời vua) đã cai trị Nam Việt quốc, như sau: Triệu Vũ vương (tức Triệu Đà, trị vì từ 207 TrCN đến 137 TrCN), Triệu Văn vương (tức Hồ, cháu đích tôn của Vũ vương và cháu ngoại của An Dương vương Thục Phán nước Âu Lạc; 137 TrCN – 125 TrCN), Triệu Minh vương (tức Anh Tề, 125 TrCN – 113 TrCN), Triệu Ai vương (tức Hưng, 113 TrCN – 112 TrCN; thực ra Hưng là con của Cù thị [vợ lẽ Minh vương] với Thiếu Quý, tình nhân của Cù thị – cả Cù thị lẫn Quý đều là người Hán), và Triệu Dương vương (con của Minh vương với quý phi người Việt; 112 TrCN – 111 TrCN). Đến đây (năm 111 TrCN), nhà Triệu mất nước Nam Việt vào tay nhà Hán.