Wednesday, July 9, 2008

Trách Nhiệm của Các Thế Hệ Việt Nam

Trần Trung Đạo

(Vài suy nghĩ sau khi đọc tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập” của nhà văn Tô Nhuận Vỹ và tự truyện Lạc đường của nhà văn Đào Hiếu).

Tháng 2 năm 2007, trên diễn đàn talawas, tôi có viết một bài để góp ý với ông Võ Văn Kiệt về “hòa giải dân tộc và khép lại quá khứ”. Thời gian ngắn sau đó, tôi nhận một email từ Việt Nam chuyển lời của ông Võ Văn Kiệt, rằng nhiều điểm góp ý của tôi có thể tranh luận nhưng cũng rất nhiều điểm ông thừa nhận là rất có lý. Ông cũng dặn với người đưa tin nếu tôi có dịp về thì đưa tôi đến nhà chơi để trao đổi với ông. Tôi trả lời, cũng qua trung gian người đưa tin, cám ơn ông về việc mời đến nhà nhưng quan trọng hơn tôi mong ông đáp lại những điều tôi đã nêu ra trong bài viết, nhất là những điểm ông cho rằng có thể tranh luận được, và phổ biến rộng rãi cho mọi người cùng đọc. Chuyện đất nước là chuyện chung chứ không phải là chuyện giữa ông và tôi. Các thế hệ Việt Nam mai sau trưởng thành từ những bài học, những kinh nghiệm của các thế hệ đi trước để lại. Không có kinh nghiệm lịch sử nào là nên bỏ qua và không có bài học lịch sử nào mà không đáng học. Có lần tôi đọc đâu đó, ông Võ Văn Kiệt dự tính viết một cuốn sách, tôi rất mừng và âm thầm chờ đợi một tác phẩm hay một hồi ký của ông.

Tôi không kỳ vọng ở hồi ký của ông Võ Văn Kiệt một con số đúng về bao nhiêu sĩ quan công chức chế độ Việt Nam Cộng hòa bị ông và Đảng của ông đày ra các vùng rừng sâu nước độc Tiên Lãnh, Hàm Tân, Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Thanh Hóa. Tôi không kỳ vọng ở hồi ký của ông một con số bao nhiêu người dân Sài Gòn bị ông và Đảng của ông đuổi đi khắp các vùng kinh tế mới miền Đông, miền Tây Nam Bộ. Tôi không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ công bố đầy đủ danh sách những người bị Ủy ban Quân quản, do ông làm bí thư Đảng ủy đặc biệt, xếp vào thành phần tư sản mại bản; của cải, nhà cửa bị tịch thu, cha mẹ phải vào tù, con cái phải sống lang thang đầu đường cuối chợ. Tôi không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ giải thích nguyên nhân nào khiến hàng triệu người Việt đã bất chấp sóng to gió lớn để vượt biển tìm một con đường sống trong muôn ngàn đường chết. Tôi cũng không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ chính thức xin lỗi cùng nhân dân miền Nam nói riêng và cả nước nói chung, những sai lầm của Đảng do ông trực tiếp lãnh đạo đã gây ra. Và như tôi đã đọc tiểu sử, quá trình đấu tranh của ông và những mất mát của riêng bản thân ông, tôi cũng không nghĩ ông Võ Văn Kiệt sẽ thành lập một đảng hay một cánh đối lập, công khai thách thức vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản để lót đường cho một cuộc vận động toàn dân, toàn diện nhằm tiến đến một xã hội mới, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng như một số người đã bàn tán trước đây.

Ông Võ Văn Kiệt từ năm 1938 cho đến cuối đời vẫn là người cộng sản. Khác chăng so với những lãnh đạo cộng sản cùng thời, ông Võ Văn Kiệt sinh ra từ miền cây trái Vĩnh Long, phần lớn quãng đời đấu tranh của ông cũng từ ruộng đồng, sông nước miền Nam, gần gũi với nhân dân miền Nam và trong những ngày cuối đời nhìn lại đã có lúc chạnh lòng buông những câu nói như những lời an ủi muộn màng, rải rác đó đây trên vài cơ quan ngôn luận, trong những buổi nhậu, dành cho những người đã chịu đựng dưới bàn tay ông.

Dù sao tôi cũng mong ông viết, bởi vì hơn ai hết, ông Võ Văn Kiệt là người có thẩm quyền để viết. Giá trị trong tác phẩm của ông Võ Văn Kiệt không hẳn ở chỗ là sự thật mà là sự kiện, dù được nêu ra để biện hộ cho những sai trái của chính ông. Những Giọt nước trong biển cả của Hoàng Văn Hoan và Hồi ký của một Việt cộng của Trương Như Tảng vẫn có giá trị sự kiện nhất định và là những tác phẩm tham khảo cần thiết cho các sử gia và thế hệ mai sau. Hôm nay, ông Võ Văn Kiệt đã qua đời. Ông ra đi mang theo nhiều chi tiết quan trọng của những năm khó khăn nhất trong lịch sử dân tộc thời cận đại. Phần lớn những lời phân ưu dành cho ông đều chấm dứt bằng câu cầu mong hương linh ông được yên nghỉ, nhưng làm sao hương linh ông có thể yên nghỉ được khi vẫn còn nợ thế gian này một món nợ mà ông chưa trả hết.

Những chịu đựng của dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân miền Nam nói riêng dưới bàn tay ông Võ Văn Kiệt và Đảng của ông trong những năm ngay sau 1975, sẽ mãi mãi sẽ là một vết thương hằn sâu trong lịch sử. Máu và nước mắt của nhân dân miền Nam đổ xuống trong các trại tù, trên các khu kinh tế mới, dọc các vỉa hè Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn đã đóng thành băng trong ký ức của giống nòi. Không ai trách ông Võ Văn Kiệt tại sao bảy mươi năm trước đã tham gia Đảng Cộng sản nhưng chắc chắn các thế hệ Việt Nam mai sau sẽ trách ông đã không có những câu trả lời cho những thảm trạng mà đất nước đã trải qua trong suốt 22 năm dài (1975 - 1997), thời gian ông đã đóng vai trò quan trọng trong chính trị Việt Nam.

Ông Võ Văn Kiệt, giống như hầu hết những người cộng sản trong thế hệ Tân Trào, Pác Bó đã không làm được, đã không trả lời được những câu hỏi của phiên tòa lịch sử, nhưng tôi tin các thế hệ Viêt Nam tham gia Đảng Cộng sản sau ông, thế hệ “chống Mỹ cứu nước”, thế hệ “Tổng công kích Tết Mậu Thân” với một số khá đông vẫn còn đang sống, có thể trả lời và thậm chí phải trả lời trước khi các anh các chị xuôi tay nhắm mắt ra đi.

Điều đáng mừng là trong thời gian qua, một số hồi ký như Tôi bị bắt của nhà thơ Trần Vàng Sao, Tôi bày tỏ của nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự mà tôi đã có dịp góp ý trước đây, tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập” của nhà văn Tô Nhuận Vỹ, hay mới đây tự truyện Lạc đường của nhà văn Đào Hiếu đã nối tiếp nhau ra đời. Các anh viết vì bức xúc cá nhân hay từ nhận thức chính trị không phải là điều quan trọng, điều quan trọng nhất vẫn là viết ra. Tôi tin rằng với chiều hướng Việt Nam đang cố mở rộng các mối quan hệ với nước ngoài, những tấm màn sợ hãi sẽ được vén lên cao hơn, những biên giới cách ngăn sẽ dần dần thu hẹp, trong tương lai sẽ có nhiều tác phẩm như thế nữa.

Tôi vừa đọc hết tự truyện Lạc đường của nhà văn Đào Hiếu. Là một người trong thế hệ trẻ hơn, tôi cảm ơn anh đã kể lại những chặng đường anh đã đi qua, ghi lại những thao thức và trăn trở của anh và thế hệ anh. Ngay cả những việc chúng ta mới làm hôm qua, hôm nay có thể đã không còn đúng nữa và những câu nói mới vừa thoát ra khỏi cửa miệng nhiều khi biết mình nói sai rồi, huống hồ những việc đã làm 40 năm trước. Ai cũng có một thuở hai mươi và ai cũng trải qua một thời tuổi trẻ. Sinh ra và lớn lên trên quê hương chiến tranh, nghèo khó, chịu đựng cái nhục của một nước nhược tiểu bị các nước lớn khinh khi, coi rẻ, câu hỏi làm gì cho đất nước luôn là mối ám ảnh hàng ngày, hàng đêm trong ý thức của những người trẻ biết đau cái đau của đất nước.

Năm 1968, năm cao điểm của cuộc chiến Việt Nam, tôi lớn lên ở gần cửa biển Sơn Chà, quận 3, Đà Nẵng. Buổi chiều tôi thường ngồi trên cồn cát trắng ở xóm Cổ Mân nhìn những đoàn xe chở bom đạn nối đuôi nhau từ cảng Tiên Sa nhập vào các kho quân sự chung quanh thành phố để từ đó đi vào cuộc chiến. Tôi thầm nghĩ những bom đạn kia nay mai đây sẽ rơi xuống ở một nơi nào đó trên quê hương tôi. Đêm đêm trên đường Bạch Đằng dọc bờ sông Hàn những anh lính Mỹ đen, Mỹ trắng miệng sặc mùi bia rượu, tay ôm những cô gái Việt bằng tuổi chị tôi và cất tiếng cười khả ố. Niềm tự ái dân tộc trong lòng tôi dâng cao. Tôi cảm thấy bi xúc phạm. Họ xúc phạm không chỉ dân tộc Việt Nam, người con gái Việt Nam, mà dường như còn xúc phạm đến cả hàng phượng đỏ, hàng sao xanh trên con đường Bạch Đằng thơ mộng. Cách thành phố Đà Nẵng không xa là bãi rác Hòa Cầm rộng mênh mông. Nơi đó, mỗi buổi sáng, hàng trăm đứa bé mới ngoài mười tuổi như tôi bám theo những chiếc xe rác Mỹ để nhặt những miếng thịt thừa, những lon bơ bỏ dở và ngay cả từng chiếc bao nhựa dơ dáy. Ngày đó, tuy còn khá nhỏ tôi đã biết tủi thẹn cho số phận của một cây cổ thụ bốn ngàn năm đang biến thành dây chùm gởi, đồng thời tôi cũng tự hỏi, những điêu tàn đổ nát, những bất công phi lý của xã hội Việt Nam, trong đó có sự hiện diện của những người Mỹ đen Mỹ trắng kia phải phát xuất từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó.

Hoàn cảnh đất nước và nhiệt tình tuổi trẻ đã buộc các anh chị chọn lựa cho mình một hướng đi, một lý tưởng sống, một dâng hiến dành cho quê hương mà các anh chị nghĩ là đúng nhất. Sự chọn lựa nào cũng kèm theo đó sự hy sinh, cũng mang tính lịch sử và lịch sử Việt Nam trước 1975 là một lịch sử đầy nhiễu nhương, đau thương và ngộ nhận. Nhìn lại tuổi hai mươi không phải để phê phán những việc làm thời đó đúng hay sai. Sai hay đúng là thái độ của hôm nay và về sau chứ không phải của quá khứ.

Bốn mươi năm trước, nếu có người cho rằng xã hội miền Bắc tốt đẹp hơn xã hội miền Nam có thể đã không gây ra nhiều tranh cãi bởi vì các tệ nạn tham nhũng, quan chức lộng hành quá phổ biến ở miền Nam trong khi chưa ai thật sự sống một ngày dưới chủ nghĩa xã hội; thế nhưng, hơn 30 năm sau mà những người đó vẫn còn tiếp tục luận điệu giống như thế thì đó chỉ là một cách nói liều.

Bốn mươi năm trước, vì giới hạn về tài liệu tham khảo, nếu có người nhận xét ông Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh, ông Lê Duẩn về mặt đạo đức tốt hơn các ông Tổng thống miền Nam có thể còn thông cảm, nhưng sau 30 năm với tất cả tài liệu đã được tiết lộ, Cải cách Ruộng đất, Nhân văn - Giai phẩm, vụ án xét lại, Tổng công kích Mậu Thân, chuyên chính vô sản, độc tài đảng trị, mà có người sùng bái các lãnh tụ cộng sản trên thì thật là một niềm tin mù quáng.

Tôi cũng cám ơn nhà văn Tô Nhuận Vỹ đã phổ biến tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập”, kết quả của đề tài nghiên cứu mà anh tham gia với William Joiner Center (WJC) thuộc Đại học Massachusetts trong hai năm 2005 đến 2007. Vài điểm trong tiểu luận của anh có thể thảo luận như tôi sẽ làm dưới đây, nhưng về tổng quát tiểu luận này đã giúp cho tôi thêm những kiến thức về sinh hoạt văn học trong nước mà tôi không biết đến nhiều.

Nhắc đến WJC, tôi nhớ lại những chuyện xảy ra mười năm trước. Tôi sống ở Boston và không xa lạ gì các khóa hội thảo mùa hè của WJC. Trong hai năm 1998 và 1999, tôi đã cùng một số anh chị trong giới cầm bút đến nói chuyện tại các khóa hội thảo mùa hè của trung tâm này. Mặc dù không phải là nhà văn, nhà thơ có những tác phẩm văn chương đủ tầm vóc để đại diện cho văn nghệ sĩ hải ngoại, tôi vẫn được mời, đơn giản chỉ vì tôi sống ngay tại Boston, quen thuộc với sinh hoạt của cộng đồng người Việt và đã có thời học ở Đại học Massachusetts.

Tôi ủng hộ quan điểm và thái độ tích cực tham gia vào các khóa hội thảo mùa hè tại Đại học Massachusetts của tổ chức cộng đồng Việt Nam. Thay vì tập trung các sinh hoạt trong nội bộ người Việt, sự có mặt trong những buổi thảo luận về văn học Việt Nam, chiến tranh và hậu quả xã hội Việt Nam tại các diễn đàn rộng hơn, liên quan đến nhiều quốc gia là những việc nên làm và ngay cả phải làm. Chúng ta đang đấu tranh cho quyền tự do phát biểu của đồng bào trong nước thì không có lý do gì tự giới hạn quyền phát biểu của chính mình trong một xã hội tự do.

Trong chiến tranh, chế độ Việt Nam Cộng hòa không có nhiều cơ hội để nói lên tiếng nói chính nghĩa của mình. Miền Nam không phải của ông Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu hay Dương Văn Minh mà là miền Nam của hơn hai chục triệu người, trong đó có một triệu người lính đã phải chiến đấu trong những điều kiện hết sức khó khăn, vừa cô đơn và cũng vừa cô thế. Những vành khăn tang trắng của những người vợ lính, những đứa bé mồ côi vì cha vừa tử trận chỉ trắng trong các khu gia binh nghèo, trong những căn nhà tranh heo hắt chứ không trắng trên các màn ảnh truyền hình quốc tế. Và từ sau 1975, các nhà văn, nhà thơ từ các quốc gia khác cũng chỉ biết Việt Nam dưới chế độ cộng cản qua vở kịch do Đảng Cộng sản Việt Nam dàn dựng, qua các khẩu hiệu tuyên truyền của phe có quyền ăn nói, nhưng không biết đến một Việt Nam khác đang bị bịt miệng, đang bị đày ải trong tù ngục và bị tước đoạt những quyền căn bản của con người. Do đó, giống như việc thắp lên que diêm trong đêm tối trời, gióng lên được một tiếng nói của lương tâm dù ở đâu cũng là điều cần thiết.

Ngoại trừ tôi, hầu hết các nhà văn miền Nam tham dự các khóa hội thảo mùa hè do WJC tổ chức đều đã nhiều năm phục vụ trong quân đội và thời gian ở tù sau 1975 cũng không ngắn hơn bao nhiêu so với quãng đời lính tráng của họ. Trong số anh em chúng tôi, nhà văn Hoàng Ngọc Liên lớn tuổi nhất. Vào tháng 9 năm 1999 ông đã ngoài 70 tuổi. Là một cựu sĩ quan cao cấp trong quân đội Việt Nam Cộng hòa và bị giam 13 năm trong các nhà tù khắp miền bắc, thế nhưng, ông không dùng diễn đàn WJC để tố cáo tội ác cộng sản, để đòi Đảng Cộng sản phải đền nợ máu trước nhân dân, đòi giới lãnh đạo Đảng phải ở tù ít nhất bằng số năm ông đã từng phải ở. Không. Nhà văn Hoàng Ngọc Liên xem buổi hội thảo chỉ là cơ hội để kể lại những điều mắt thấy tai nghe trong năm tháng ông ở tù và quan trọng hơn, nhắn gởi những lời đầy hy vọng đến những người cầm bút Việt Nam thuộc thế hệ trẻ trong nước cũng như đang tham gia trong khóa hội thảo mùa hè năm đó. Trong bài viết “Những câu chuyện chưa kể” ông đọc ở hội thảo vào buổi chiều ngày 1 tháng 9 năm 1999 tại Đại học Massachusetts, Boston, nhà văn Hoàng Ngọc Liên kết luận: “Tôi nghĩ rằng lâu nay, nhất là từ năm 2000, tuổi trẻ Việt Nam là kỳ vọng của dân tộc Việt Nam, trong chiều hướng góp phần xây dựng đất nước chúng tôi, một đất nước bị chiến tranh tàn phá, sau 24 năm hòa bình, thống nhất, vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu mà dân chúng hầu như xa lạ với những quyền Tự do căn bản của con người. Tôi, và những người như tôi, tin tưởng vào thế hệ trẻ, ủng hộ các bạn trẻ cầm bút, với văn phong mới mẻ hơn, súc tích hơn.”

Nếu câu nói trên do tôi nói ra thì chẳng có gì đáng để ý. Tôi trẻ hơn nhà văn Hoàng Ngọc Liên nhiều, chưa từng bị đánh đập, bị đày ải một ngày nào trong các trại tập trung Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Vĩnh Phú, phát biểu hay ca ngợi lòng nhân ái là chuyện thường tình, nhưng nhà văn Hoàng Ngọc Liên thì khác, ông vừa mới thoát ra khỏi địa ngục trần gian cộng sản, sức khỏe chưa kịp phục hồi, thân thể còn đau nhức nhưng vẫn dựa lên các giá trị thiêng liêng của tình dân tộc và mục đích Tự do, Nhân bản cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau để nói lên những lời tâm huyết của mình. Thật quý hóa và may mắn biết bao nhiêu. Không ai hòa giải với ông và ông cũng chẳng cần ai hòa giải. Ông đã tự hóa giải các xung đột bằng nhận thức và qua đó đã hòa giải được với chính mình. Dù bị tù 13 năm ông đã bước ra khỏi cổng trại như một người chiến thắng chứ không phải người thua trận. Ông trở về như sau một cuộc hành quân dài chứ không phải một người vừa được trao trả tự do, bởi vì lý tưởng Tự do Nhân bản vẫn còn là nguồn thôi thúc trong lòng nhà văn 70 tuổi và ông vững tin mục đích tốt đẹp đó một ngày sẽ đến với đất nước Việt Nam.

Đọc tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập”, tôi cũng tìm thấy trong nhà văn Tô Nhuận Vỹ một ước vọng ngày mai tươi sáng như nhà văn Hoàng Ngọc Liên. Đất nước phải vượt qua những bế tắc, văn học phải vượt qua những bế tắc, mỗi nhà văn nhà thơ cũng phải tìm mọi cách vượt qua những bế tắc của chính mình để đi lên và đưa đất nước đi lên. Tuy nhiên, khác với nhà văn Hoàng Ngọc Liên ở điều kiện tự do, nhà văn Tô Nhuận Vỹ cho rằng bước đầu tiên và cần thiết nhất để hội nhập văn học Việt Nam trong cũng như ngoài nước là hòa hợp hòa giải trong giới văn nghệ sĩ: “đội ngũ nhà văn Việt Nam sẽ đóng vai trò đi đầu, là chiếc cầu nối cho việc hoà giải, hoà hợp dân tộc, đặc biệt giữa cộng đồng người Việt ở nước ngoài với đồng bào trong nước, do hoàn cảnh lịch sử, đã để lại một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót sau chiến tranh.”

Tôi không nghi ngờ thiện chí của nhà văn Tô Nhuận Vỹ nhưng thành thật mà nói, hòa giải hòa hợp chỉ là một chiếc bóng do Đảng vẽ ra mà những người Việt có lòng đang đuổi bắt như đã từng đuổi bắt con bồ câu hòa bình trước 1975.

Hình ảnh con bồ câu trắng hiền hòa trên bầu trời quê hương thân yêu đã đẩy bao nhiêu tuổi trẻ Việt Nam tự nguyện lao vào chỗ chết, đơn giản bởi vì “nếu là chim tôi sẽ làm một bồ câu trắng và nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”. Các thành phố lớn miền Nam như Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, đâu đâu cũng xuất hiện các phong trào đòi quyền sống, đòi hòa bình, đòi tự quyết. Các cuộc xuống đường diễn hành gần như mỗi ngày, mỗi tuần, nhiều đến nỗi làm cho dư luận quốc tế và cả những người hiểu biết giới hạn về chính trị có nhận xét trong các phe đang đánh nhau chỉ có chính quyền miền Nam mới là những kẻ hiếu chiến và đi ngược lại khát vọng hòa bình dân tộc.

Kỹ thuật tuyên truyền tinh vi của Đảng đã biến những người lính miền Nam đang ngày đêm đổ máu trong cuộc chiến mà không có quyền chọn lựa thành những kẻ sát nhân, trong lúc những kẻ ném lựu đạn vào nhà hàng Mỹ Cảnh, pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy, chôn sống đồng bào trên Bãi Dâu Huế, đặt mìn trên quốc lộ số một… lại trở thành những anh hùng dân tộc. Và sau 1975, mọi người đều biết tất cả các phong trào hòa bình giả tạo đó đều do Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo, những con chim bồ câu trắng xinh xinh kia là do bàn tay Đảng vẽ ra, và những kẻ ném bom ngày nào cũng không ai khác hơn chính là những đảng viên biệt động thành trung kiên của Đảng.

Tôi cũng không nghĩ cần thiết phải có một nhu cầu hòa giải trong giới văn nghệ sĩ dù một thời đã phải đứng hai bên chuyến tuyến khác nhau. Tôi chưa gặp anh Tô Nhuận Vỹ chỉ vì chúng ta chưa có điều kiện gặp nhau chứ không phải tôi hận thù, oán trách gì anh mà không gặp. Tôi đi rất nhiều nơi và tiếp xúc với nhiều anh chị chú bác trong giới cầm bút nhưng rất hiếm khi gặp một nhà văn nhà thơ mang lòng thù hận các nhà văn nhà thơ trong nước. Một số khá đông không thích tham gia vào các tác phẩm viết chung giữa các nhà văn trong nước và hải ngoại bởi vì họ không muốn làm cái loa tuyền truyền giùm cho Đảng, vả lại những tác phẩm viết chung chẳng đem lại một lợi lạc gì cụ thể khi phần lớn chỉ phát hành tại hải ngoại chứ không phải trong nước, một nơi có 80 triệu người cần phải đọc. Sau 33 năm, hàng trăm tác phẩm được viết trước 1975 tại miền Nam vẫn chưa được tái bản, chưa được công nhận, nhà văn nhà thơ gốc Việt Nam Cộng hòa vẫn còn bị đối xử như một thứ công dân hạng hai, nói chi là các nhà văn nhà thơ vượt biên sau 1975 và tác phẩm của họ được viết ra tại hải ngoại. Nếu văn học là đời sống tinh thần của con người trong một thời đại nhất định thì văn học hải ngoại hẳn phải mang đậm nét của hành trình tìm tự do đầy gian khổ, đương nhiên những tác phẩm như thế sẽ không bao giờ có mặt trong một nhà sách nào ở Việt Nam khi chế độ cộng sản còn tồn tại.

Tình cảm giữa những người cầm bút dù bên này hay bên kia không xa cách nhiều như anh Tô Nhuận Vỹ lo lắng. Tôi còn nhớ mười năm trước, vài ngày trước khi đến WJC tham gia hội thảo, có người hỏi tôi, nếu gặp nhau trong buổi hội thảo, tôi sẽ làm gì, sẽ đối xử ra sao với những người được gọi là “văn nô cộng sản” từ Việt Nam sang. Tôi trả lời người đó rằng sau buổi hội thảo, tôi sẽ rủ các anh chị từ trong nước sang đi uống cà-phê. Mọi người ngồi chung quanh tôi hôm đó đều bật cười vì nghĩ rằng tôi nói chơi. Không, tôi nói thật. Tôi đã đi uống cà-phê với nhiều anh chị văn nghệ sĩ từ trong nước sang. Không giống như những năm đầu, thời anh Lê Lựu sang tham gia WJC trở về, viết những bài ký sự rẻ tiền được in trong hai tập ký Một thời lầm lỗi và Trở lại nước Mỹ, các anh chị đến những năm sau dễ thông cảm hơn nhiều. Gặp ai tôi cũng chỉ yêu cầu một điều, hãy viết về cuộc đời và đất nước như các anh các chị đã từng sống. Thời kỳ viết theo chỉ thị đã qua rồi, xin để lại cho các thế hệ mai sau những lời chân thật. Hơn bao giờ hết đất nước đang cần những người nói thật và sống thật.

Đối với các em sinh viên du học cũng thế. Tôi gặp họ rất sớm. Nhiều em mới sang còn đọc thơ Tố Hữu cho tôi nghe và còn nói về “Bác Hồ là vị cha chung, là sao Bắc Đẩu là vầng Thái Dương” của các em bằng một ánh mắt hồn nhiên và hãnh diện. Tôi kiên nhẫn nghe mà không phản đối bởi vì tôi hiểu đó là tất cả những gì em có. Thế giới tri thức của em từ lớp vỡ lòng đã được đóng khung trong những bài giảng đầy tính giáo điều cuồng tín. Một tuần lễ trước khi bị xử tử hình về tội diệt chủng, Nicolae Ceausescu vẫn còn được học sinh Rumani, giống như các em học sinh Việt Nam ngày nay, ca tụng là tinh hoa kết tụ từ dòng trường giang Danube. Tôi biết sau 4 năm đại học, các em sẽ thay đổi. Các em còn trẻ nên những thói hư tật xấu, mê tín dị đoan dễ đến nhưng rồi cũng sẽ dễ đi. Bệnh sùng bái cá nhân sẽ bớt dần, nhường chỗ cho ánh sáng khoa học thâm nhập vào tâm hồn trẻ trung của các em. Quá trình đổi mới nhận thức không diễn ra trong một sớm một chiều mà là một quá trình dài, từng bước và liên tục. Các em sẽ lớn lên và trưởng thành không phải chỉ ở tuổi tác mà cả về trí thức. Mỗi thế hệ có trách nhiệm riêng trong từng giai đoạn lịch sử. Các bậc cha chú dù đúng hay sai rồi cũng sẽ lần lượt xuống đất hay lên giàn hỏa và các em sẽ phải nghiêng vai gánh vác trách nhiệm lịch sử của thế hệ mình. Các em có quyền trách móc, đổ thừa nhưng không có quyền từ chối.

Cửa nhà tôi ngày đó giống như cửa chùa, ai đến cũng được, tôi chưa bao giờ hỏi lý lịch hay căn cước người nào. Cách nói và cách trả lời với từng người có thể khác, nhưng đều chuyên chở một quan điểm chính trị và niềm tin về tương lai đất nước giống nhau. Quan điểm chính trị của tôi rất rõ ràng và đơn giản. Với tôi, cả dân tộc Việt Nam từ Bắc đến Nam, từ nhà văn nhà thơ cho đến người chưa hề viết nổi một lá thư, từ các nhà trí thức học nhiều hiểu rộng cho đến các bác nông dân tay lấm chân bùn, từ các cha cho đến các thầy, từ những người đã chết sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập năm 1930 hay còn sống hôm nay, nói chung hơn 80 triệu người, đều là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản.

Đảng Cộng sản thắng trong chiến tranh không phải vì họ có chính nghĩa, mà bởi vì họ đã kiên trì với mục đích nhuộm đỏ Việt Nam, được tổ chức một cách tinh vi từ trung ương Đảng cho đến tận tổ ba người và khai thác triệt để lòng yêu nước sâu đậm của người dân Việt Nam. Tôi cũng có một niềm tin rằng dân tộc Việt Nam với mật độ dân số trung bình không quá đông hay quá ít, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với lực lượng chuyên viên đông đảo trong các ngành khoa học đang có mặt trên khắp thế giới, với truyền thống yêu nước Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa vẫn chảy đầy trong huyết quản, nếu được chắp đôi cánh tự do, dân chủ, nhân bản, Việt Nam sẽ bay lên cao, sẽ thật sự trở thành một cường quốc kinh tế, cường quốc quân sự, sẽ đủ khả năng bảo vệ sự toàn vẹn vùng trời, vùng biển của tổ quốc thiêng liêng. Nếu không có tự do dân chủ, “khát vọng cất cánh” mà anh Tô Nhuận Vỹ nêu ra trong phần đầu tiểu luận chỉ là một giấc mơ tiên.

Có người cho rằng Đảng Cộng sản đã có một thời đồng hành với dân tộc, cùng hướng đến một mục tiêu như dân tộc Việt Nam, do đó vai trò lãnh đạo của Đảng ngày nay là hệ quả tất yếu của lịch sử. Tôi không đồng ý. Đó là lý luận của kẻ cướp. Với tôi, rất nhiều đảng viên Đảng Cộng sản tham gia chống Pháp phát xuất từ lòng yêu nước và đã chết cho đất nước như tôi đã nhiều lần viết trên diễn đàn này, nhưng bản thân Đảng Cộng sản như một tổ chức chính trị chưa bao giờ đồng hành với dân tộc. Việc giành lại nền độc lập và chủ quyền đất nước từ tay thực dân là mục tiêu, là bến bờ của dân tộc Việt Nam, trong khi đó đối với Đảng Cộng sản, độc lập dân tộc chỉ là phương tiện, một chiếc cầu, một chiếc ghe họ cần có để đi qua trên đường tiến tới cách mạng vô sản. Mục tiêu đó đã được khẳng định ngay trong “Luận cương chính trị” Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm:"Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”

Sau 1975, một số người từng xếp bút nghiên vào rừng “Chống Mỹ cứu nước” đã phẫn nộ, kết án giới lãnh đạo Đảng đi ngược lại quyền lợi dân tộc, phản bội lý tưởng, phản bội máu xương của đồng chí họ, đưa đất nước đi vào con đường nghèo đói, độc tài, đảng trị. Nghĩ cho đúng, đó là những lời kết án thiếu cơ sở lý luận lẫn thực tế. Thật là oan cho Đảng. Nếu họ chịu khó đọc các đề cương chính trị đại hội Đảng từ ngày thành lập 78 năm trước cho đến đại hội lần thứ X cách đây hai năm, sẽ thấy Đảng Cộng sản chưa bao giờ phản bội mục tiêu của mình. Mục tiêu cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam và đặt dân tộc Việt Nam dưới quyền cai trị tuyệt đối của Đảng chưa bao giờ thay đổi. Vì một số điều kiện cách mạng và biến chuyển chính trị thế giới xảy ra ngoài tiên liệu, các chính sách của Đảng cũng phải theo đó mà áp dụng một cách thích nghi hơn, mềm dẻo hơn qua những chính sách gọi là “đổi mới”, “hội nhập” v.v..., nhưng mục đích của Đảng từ trước đến sau luôn nhất quán.

Có người đến nay vẫn nghĩ rằng việc họ hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản để đứng lên “Chống Mỹ cứu nước” là một lý tưởng cao đẹp của cuộc đời họ, nhưng không biết rằng câu đó chỉ là một trong hàng chục khẩu hiệu có tính giai đoạn mà Đảng đã dùng. Nếu Mỹ không qua Việt Nam thì Đảng có để yên cho nhân dân miền Nam xây dựng một xã hội tự do dân chủ không? Chắc chắn là không. Dĩ nhiên, Mỹ không qua sẽ không có khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước”, nhưng Đảng có thừa chuyên viên truyên truyền chuyên nghiệp để nghĩ ra những khẩu hiệu khác không kém phần khích động.

Tôi đồng ý với nhà văn Tô Nhuận Vỹ rằng giữa các nhà văn nhà thơ trong và ngoài nước hay đã từng đứng trên chuyến tuyến khác nhau vẫn còn “một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót”, nhưng nghĩ cho đúng, cái hố sâu đó chẳng phải do nhà văn nhà thơ nào đào ra. Đó không phải là hố sâu tình cảm mà là hố sâu ý thức hệ. Theo lẽ tự nhiên, ai đào ra thì người đó phải lấp lại. Trách nhiệm hòa giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ các cách ngăn về ý thức hệ là trách nhiệm của giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong suốt 33 năm qua với bao nhiêu cơ hội nhưng các lãnh đạo Đảng chẳng những không thể hiện một hành động nào cụ thể để chứng tỏ tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc mà càng đào sâu hơn những hố sâu ngăn cách, làm lở loét thêm những vết thương vẫn còn đang mưng mủ trên da thịt của nhiều triệu người Việt Nam. Việc yêu cầu chính quyền Nam Dương đập bỏ tấm bia tưởng niệm đồng bào chết trên Biển Đông hay việc tổ chức rầm rộ kỷ niệm 40 năm Mậu Thân trên nỗi đau câm nín của hàng ngàn đồng bào Huế là vài ví dụ điển hình.

Với đồng bào hải ngoại, những hành động xúc phạm hương linh của những em bé chết trôi, những bào thai ngột nước ngay lúc còn trong bụng mẹ, những oan hồn đang vất vưởng khắp Biển Đông như thế, làm sao lãnh đạo Đảng Cộng sản có thể vận động được đoàn kết trong ngoài, nhất là đối hơn hai triệu người Việt hải ngoại, để cùng đưa đất nước đi lên?

Với đồng bào trong nước, những chương trình ca nhạc rầm rộ mừng 40 năm chiến thắng Mậu Thân, trong lúc cùng thời điểm đó trên khắp ba miền đất nước, nhất là tại Huế, hàng trăm ngàn đồng bào đang khóc trong âm thần, trong tủi nhục, trong hờn căm u uất, thì làm sao lãnh đạo Đảng có thể phát huy được nội lực dân tộc?

Bất cứ một người Việt Nam nào với một trình độ nhận thức trung bình cũng biết những hành động vừa nêu của giới lãnh đạo Đảng là không cần thiết và quá đáng. Tôi tin ngay cả trong Bộ Chính trị và Trung ương Đảng cũng có người biết việc đó là phi nhân, lạc hậu, vụng về và quá đáng, nhưng họ không có chọn lựa nào khác ngoài việc phải làm, đơn giản bởi vì che đậy tội ác là phản ứng tự nhiên của những kẻ đã gây ra tội ác.

Chim bay cần đôi cánh nhưng không phải giống chim nào có cánh cũng có thể bay cao. Chim se sẻ chỉ biết bay quanh vườn, nhảy nhót trên những cành xoài, cành ổi, nhưng để có một hạm đội Việt Nam, một phi đoàn Việt Nam, một vệ tinh Việt Nam, một phi thuyền Việt Nam, đất nước phải cần có đôi cánh phượng hoàng, nói đúng hơn là đôi cánh dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam, với những mâu thuẫn đối kháng và bế tắc ngay từ bên trong cơ cấu độc tài đảng trị sẽ không có khả năng đưa đất nước lên ngang tầm với thời đại, và do đó, việc chọn lựa một con đường thay thế là trách nhiệm của các thế hệ Việt Nam trong và ngoài nước hôm nay.

Trần Trung Đạo

© 2008 talawas

Cộng đồng người Việt T. B. WA phản đối hiệu quả: Hồng Y Phạm Minh Mẫn vội rời Seattle đi Washington DC


SEATTLE (NVTB).- Buổi lễ kỷ niệm 50 năm chịu chức Linh Mục của TGM Brunett, từ một ngày trước đã gửi email đến báo chí sẽ không có người khách mời như dự liệu đó là: Hồng Y Phạm Mẫn.

Tuy vậy sau những thư phản đối và tuyên cáo, một nhóm giáo dân và đồng hương đã có mặt trước Nhà Thờ Chính Tòa Tổng Giáo Phận Seattle số 710, đường số 9th Ave., lúc 2 giờ chiều thứ Ba 8-7-08 để phản đối, và chỉ nhằm thêm một lần giải thích với quý vị lãnh đạo Công Giáo: Họ bất bình với lời phát biểu của Hồng Y Phạm Minh Mẫn, và ước mong ông nhìn ra được chuyến công du này thất bại vì đâu?

Nhiều hàng giáo phẩm đã thăm hỏi đoàn biểu tình lịch sự, ôn hòa, và cho biết Hồng Y Phạm Minh Mẫn có âm thầm tới Seattle, và cũng lặng lẽ lên máy bay đi Washington DC trong ngày.

Trong hai ngày cuối tuần vừa qua, những bản văn, tuyên cáo của Cộng Đồng NVQG/WA và của Ủy Ban Vinh Danh Cờ Vàng VNCH Tiểu Bang WA cùng một số giáo dân, từ Ủy Ban Chống Cờ Việt Cộng và Giáo dân Seattle đã lên tiếng phản đối Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng như chuẩn bị một cuộc biểu tình ôn hòa để bày tỏ thái độ, tìm cách "mở rộng nhận thức" cho một nhà lãnh đạo tôn giáo vốn đã nhận định vừa lòng nhà cầm quyền hiện nay nhưng phật lòng đồng bào hải ngoại, như lời ông Tăng Phước Trọng CĐNgười Việt Quốc Gia Washington, BS Nguyễn Xuân Dũng, chủ tịch Ủy Ban Vinh Danh Cờ Vàng, ông Vũ Tuấn, Ủy Ban Chống Cờ Việt Cộng....

Chương trình của Hồng Y Phạm Minh Mẫn được thông báo hạn chế sẽ: thăm viếng cộng đồng Công Giáo Việt Nam dự trù qua một thánh lễ lúc 6 giờ chiều thứ Tư 9-7-2008, và một buổi "tiếp tân hạn chế" tiếp sau lễ cầu nguyện ở nhà thờ theo thư mời - nội bộ - của Ban Thường Vụ nhưng chương trình đến nay sẽ hủy bỏ vì chương trình đã hoàn toàn thay đổi, tiếp theo Úc, San José, Spokane WA... đều bãi bỏ

Được biết, cuối tuần qua, như chương trình dự định, Hồng Y Mẫn đến làm lễ tại nhà thờ Maria Goretti và St Patrick tại San José vào chiều thứ Bảy 5-7 vừa qua với sự tham dự của giáo dân Việt Nam tại đây, nhưng cuối cùng cả hai buổi lễ nói trên đã bị hủy bỏ vì Hồng Y Mẫn "cáo bệnh" không đến. Tuy đã được thông báo, giáo dân San Josécũng mang theo cờ Vàng đến dự lễ, sẵn sàng giương cao nếu có Hồng Y đến.

Ông Denny O'Leary từ tòa Tổng Giám Mục phổ biến tới báo chí chiều thou Hai 7 tháng 7 , 2008 cho biết: Tòa TGM Seattle xác nhận cho dù Hồng Y Phạm Minh Mẫn có mặt kín đáo tại Seattle nhưng bảo đảm sẽ không xuất hiện trước thánh lễ, và buổi tiếp tân chúc mừng Tổng Giám Mục Alexander Brunett 50 năm theo dự trù, tránh những rắc rối và sự phản đối từ cộng đồng, mà Tòa Tổng Giám Mục đã ghi nhận được liên tục qua điện thoại, điện thư...

Dù vậy một số người vẫn cho rằng các giới lãnh đạo tinh thần cũng cần lắng nghe và nhìn thấy "sự phản đối mạnh" hướng về Hồng Y Phạm Minh Mẫn, vì những lời phát biểu "thiếu thận trọng, minh mẫn".


Uỷ ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế (USCIRF) phân ưu về sự viên tịch của vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN)



Uỷ ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế (USCIRF) phân ưu về sự viên tịch của vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN); và thúc giục huỷ bỏ tất cả các hạn chế hoạt động hợp pháp áp đặt lên tổ chức Phật giáo bị cấm đoán này.

Khánh Ðăng lược dịch

HOA THỊNH ÐỐN — Uỷ ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế (USCIRF) xin thành kính phân ưu cùng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) về sự viên tịch của Hoà thượng Thích Huyền Quang. Vị Tăng thống của GHPGVNTN đã viên tịch vào ngày Thứ Bảy tại Tu viện Ngưyên Thiều ở tỉnh Bình Ðịnh, là nơi ngài đang bị quản thúc vì sự vận động ôn hòa của ngài kéo dài hàng thập niên cho tự do tôn giáo và các vấn đề liên quan đến nhân quyền ở Việt Nam.

“Hòa thượng Thích Huyền Quang là một tiếng nói mạnh mẽ cho tự do tôn giáo và nhân quyền ở đất nước của ngài. Các chính quyền tiếp nối nhau ở Việt Nam đã cố gắng một cách vô hiệu qủa để bịt miệng ngài, và ngài đã phải chịu đựng nhiều nỗi thống khổ to lớn vì tranh đấu ôn hòa cho tự do tôn giáo”, theo bà chủ tịch USCIRF Felice D. Gaer cho biết.

GHPGVNTN là tổ chức Phật giáo lớn nhất ở Việt Nam, trên thực tế là đã bị cấm hoạt động từ năm 1981 khi nhà nước cộng sản thiết lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và đòi hỏi tất cả các tổ chức Phật giáo phải gia nhập vào. Kể từ năm 2003, hầu hết các vị lãnh đạo lão thành của GHPGVNTN đã bị giam giữ dưới các hình thức như “quản thúc tại chùa”, và các nỗ lực mới đây để tổ chức việc sinh hoạt các ban đại diện Phật giáo và gia đình Phật tử các tỉnh đã bị sách nhiễu, đe doạ, và có vài vụ bắt giữ.

Nhà cầm quyền Việt Nam đã cảnh cáo vị lãnh đạo tạm thời của GHPGVNTN là Hoà thượng Thích Quảng Ðộ và các chư tăng khác không được biến tang lễ của Hòa thượng Thích Huyền Quang trong tuần này thành một “cuộc biểu dương chống nhà nước” và vẫn tiếp tục chiến dịch bôi lọ Hoà thượng Thích Quảng Ðộ. Một phái đoàn của Uỷ ban đã gặp gỡ Hoà thượng Quảng Ðộ và các vị lãnh đạo lão thành khác của GHPGVNTN trong chuyến viếng thăm Việt Nam vào năm 2007.

Bà Gaer nói, “Thật là bất hạnh khi nhà nước Việt Nam lợi dụng sự viên tịch của Hòa thượng Thích Huyền Quang để gia tăng đe doạ các vị lãnh đạo của GHPGVNTN và cương quyết dành quyền kiểm soát việc hành đạo độc lập của Phật giáo ở Việt Nam. Thay vì đưa ra những lời cảnh cáo, nhà nước nên giảm bớt các biện pháp hạn chế vô lý đối với GHPGVNTN ”

Nhà nước cộng sản Việt Nam cho phép vài nhóm tôn giáo được chính thức công nhận được hoạt động, nhưng đặt ra ngoài vòng luật pháp các nhóm khác muốn sinh hoạt và tổ chức độc lập không qua sự chấp thuận của nhà nước. Trong những tổ chức tôn giáo độc lập này là GHPGVNTN, các giáo phái Hòa Hảo và Cao Ðài, và vài giáo hội Tin Lành cũng như của người dân tộc thiểu số. Ðặc biệt là tín đồ của các tổ chức này đã bị sách nhiễu, bắt bớ, giam giữ và bỏ tù trong nhiều năm qua.

Hoa Kỳ đã chỉ định Việt Nam là một quốc gia cần quan tâm đặc biệt (CPC) vào năm 2004 vì liên tục vi phạm trầm trọng, và vô cùng ác liệt đến tự do tôn giáo, nhưng lại được hấp tấp tháo bỏ sự chỉ định đó vào năm 2006 vì lý do nêu ra là “có tiến bộ”. Nhưng mặc dù có vài cải thiện, tình trạng nhân quyền tại Việt Nam nói chung là đang đi xuống, và có vài lo ngại nghiêm trọng có thể đưa đến việc chỉ định Việt Nam trở lại danh sách CPC. Nhiều cộng đồng tôn giáo tại Việt Nam tiếp tục gặp các khó khăn nghiêm trọng, nhịp độ cải thiện thì không đồng đều, và nhiều người tiếp tục bị bắt bớ và bỏ tù vì các lý do liên quan đến việc họ xử dụng hoặc ủng hộ cho quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng. Năm nay, Uỷ ban lại đề nghị cho Việt Nam bị tái chỉ định là một quốc gia cần quan tâm đặc biệt.

Sự sách nhiễu giam giữ các vị lãnh đạo và chư tăng thuộc GHPGVNTN, và việc cấm đoán GHPGVNTN đã trực tiếp thánh thức đến các luận điệu cho rằng tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam đã được cải thiện rất đáng kể. Phật giáo là một tôn giáo lớn vào bậc nhất trong dân số 86 triệu người ở Việt Nam và việc tiếp tục đàn áp GHPGVNTN là một trong những lý do chủ yếu mà Uỷ ban tin chắc rằng chính phủ Hoa Kỳ đã sai lầm khi tháo gỡ sự chỉ định Việt Nam khỏi danh sách CPC vào năm 2006.

“Sự viên tịch của Hòa thượng Thích Huyền Quang tạo ra một cơ hội hiếm có cho nhà nước Việt Nam để vinh danh một chiến sĩ tranh đấu cho tự do được tôn trọng khắp nơi, bằng cách cho phép GHPGVNTN được tự do chọn lựa vị lãnh đạo của riêng họ, được tiến hành các công việc từ thiện và sinh hoạt gia đình Phật tử mà không bị quấy rầy, và các ban đại diện Phật giáo các tỉnh được hoạt động mà không bị sách nhiễu. Chúng tôi thúc giục chính phủ Hoa Kỳ hãy nêu lên các vấn đề này với nhà nước Việt Nam ở cấp cao nhất và kêu gọi Ðại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam nên thân hành tham dự tang lễ vào Thứ Sáu này. Thêm nữa, chúng tôi cũng thúc giục chính phủ Hoa Kỳ nên đặt việc hoạt động hợp pháp của GHPGVNTN là một ưu tiên trong việc đối thoại ngoại giao Mỹ - Việt được tiếp tục mới đây về nhân quyền”.

Khánh Ðăng lược dịch.

http://www.uscirf.gov/index.php?option=com_content&task=view&id=2220&Itemid=1

Chính phủ Việt Nam muốn giành tổ chức tăng lễ cho Đức Tăng thống

Lê Minh lược dịch

(New York - 9/07/2008) - Hôm nay Tổ chức Giám sát Nhân quyền quốc tế (HRW) đã tuyên bố rằng, chính phủ Việt Nam không nên can thiệp mà phải để cho các giáo đồ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tự lo liệu việc tổ chức và tham dự tang lễ của Đức Tăng thống. Chính phủ Việt Nam cũng đã loan báo rằng Giáo hội Phật giáo quốc doanh được nhà nước thừa nhận sẽ đứng ra lo liệu tang lễ cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang.

Là một người tích cực hoạt động cho hòa bình trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và trong suốt cuộc nội chiến Nam Bắc, Hòa thượng Thích Huyền Quang đích thực là một nhà đấu tranh cho nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam. Ngài đã qua đời tại một tu viện tại tỉnh Bình Định ở miền Trung Việt Nam hôm 5 tháng 7 năm 2008, hưởng thọ 88 tuổi. Hòa thượng là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ thập niên 60s, một giáo hội bị nhà nước Việt Nam đặt ra ngoài vòng pháp luật vì không chịu gia nhập vào giáo hội quốc doanh, khiến trong hơn 30 năm qua Ngài đã phải sống trong cảnh bị trù dập, khi thì trong tù, khi phải nay đây mai đó, khi thì bị quản thúc tại gia.

Ông Brad Adams, Giám đốc của HRW-Á Châu nói: “Trong hơn 30 năm qua Hòa Thượng đã xả thân vì nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam. Chính phủ không nên can thiệp và các giáo đồ phải được phép tổ chức và tham dự tang lễ theo nguyện ý của mình”.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất dự trù tổ chức tang lễ cho Đức Tăng thống vào ngày 11 tháng 7 tại Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định. Hòa Thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo thứ hai trong hàng giáo phẩm, rất có thể là người kế thừa - sẽ chủ tọa tang lễ. Tuy nhiên nhà nước Việt Nam muốn giành quyền kiểm soát và tổ chức tang lễ bằng cách tuyên bố là tang lễ sẽ do Giáo hội Phật giáo nhà nước đứng ra tổ chức.

Các phương tiện truyền thông báo chí nhà nước đã tung ra chiến dịch lăng mạ Hòa Thượng Thích Quảng Độ và tố ngài là “thành phần cực đoan khoác áo nhà tu”, lợi dụng cái chết của Đức Tăng thống để mưu đồ chính trị. Hôm 6 tháng 7, hệ thống truyền hình nhà nước VTV1 phát đi bản tin nói rằng “Trước những việc làm trái đạo lý của nhóm Quảng Độ, các môn đồ, đệ tử, những người tu hành chân chính ở Tu viện Nguyên Thiều đã phản ứng kịch liệt, kiên quyết không cho nhóm Quảng Độ đứng ra tổ chức tang lễ”.

Ông Adam nói “Chính phủ Việt Nam đang mạo hiểm khi đương đầu với giáo đồ của Đức Tăng thống bằng cách kiểm soát Ngài lúc còn sống và ngay cả khi qua đời”.

HT. Thích Huyền Quang, nguời từng được hai nhân vật nổi tiếng đề cử lãnh giải Nobel Hòa bình, đã trở thành Đức Tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhẩt kể từ năm 1992.

Ngài xuất gia từ lúc 12 tuổi và có một quá trình lâu dài của một nhà hoạt động Phật giáo. Vào cuối thập niên 40s, Ngài có tham dự vào cuộc kháng chiến chống Pháp trong tư cách là Phó chủ tịch Phật giáo Cứu quốc (Liên khu 5). Vào thập niên 60s, trong cuộc chiến Việt Nam, Ngài là nhà hoạt động tích cực vì hòa bình và thường chỉ trích chính sách bài bác Phật giáo của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Sau 1975, HT. Thích Huyền Quang đã trở thành nhà đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền. Mặc dầu Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phản đối cuộc chiến, nhưng nhà cầm quyền Hà Nội vẫn trưng thu tài sản của giáo hội, bỏ tù nhiều nhà lãnh đạo trong hàng giáo phẩm và ép buộc gia nhập vào giáo hội quốc doanh. HT. Thích Huyền Quang bị bắt vào năm 1977 và lần sau vào năm 1982 vì đã kêu gọi nhà nước công nhận Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và phản đối việc vi phạm tự do tôn giáo và nhân quyền. Năm 1982 Ngài bị bị trục xuất khỏi thành phố Saigon, đưa ra quản chế tại một ngôi chùa nhỏ tại một vùng hẻo lánh ở Quảng Ngãi.

Năm 1993, trong lúc còn bị quản thúc tại chùa, Ngài đã đưa ra “Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn”, nêu ra 12 điểm yêu cầu nhà nước thực thi cải cách dân chủ, thả tù nhân chính trị, nới lỏng tự do tôn giáo và tôn trọng nhân quyền.

Tổ chức Giám sát Nhân quyền quốc tế bày tỏ mối quan ngại về một số báo cáo từ trong nước cho rằng công an đã đến một số chùa ở các nơi, bao gồm Vũng Tàu, Bà Rịa và Bình Định, và ra lệnh cho các chư tăng không được tổ chức tang lễ cho HT. Thích Huyền Quang.

Khi nhà nước Việt Nam can thiệp vào việc chuyển tiếp quyền lãnh đạo giáo hội vào ngày 3 tháng 5 năm 1992 sau sự ra đi của Ðức Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu, đã làm bùng lên làn sóng chống đối của Phật tử. HT. Thích Đôn Hậu, vị lãnh đạo cao nhất của Giáo hội trước lúc lâm chung đã nói rằng, lễ tang của Ngài sẽ được thực hiện theo nghi lễ Phật giáo thuần túy mà không có sự can dự của nhà nước. Thế nhưng, ngay sau khi Ngài vừa viên tịch thì nhà nước đã bất ngờ ban cho Ngài huân chương Hồ Chí Minh và giành lấy quyền tổ chức tang lễ, mặc dầu nhiều sư tăng đã tuyệt thực để phản đối và sẵn sàng cúng dường bản thân. HT.Thích Huyền Quang khi đó đang bị quản chế tại chùa, chỉ được phép đến dự tang lễ sau một ngày tuyệt thực. Trong lời tác bạch tại tang lễ, Ngài đã lên án nhà nước đã tìm cách xóa bỏ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để sát nhập vào Giáo hội Phật giáo nhà nước

Ông Adams cũng nói rằng: “Nhà nước Việt Nam phải để cho bất cứ ai muốn tham dự tang lễ của HT. Thích Huyền Quang được tự do đến đó, thay vì gây khó khăn cản trở người ta đến dâng hương cho Ngài”.

Lê Minh lược dịch

http://hrw.org/english/docs/2008/07/08/vietna19311.htm

Những Tiếng Rú của Bản Tình Ca Vùi Dập


Ðặng thiên Sơn

Càng ngày việc làm của thị trưởng Chuck Reed và nghị viên Madison đối với cộng đồng Việt Nam càng tệ, càng coi không được. Hình như hai người họ đã mất hết khả năng kiểm soát của lý trí khi phải đối diện với lương tâm con người. Lương tâm ở đây, là một người ăn ở có đạo nghĩa thì phải biết: “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Uống nước phải nhớ nguồn”. Phải biết giữ chừng mực cái đạo lý làm người.

Chuck Reed hôm nay, không còn là Chuck Reed mặc áo dài, khăn đống hay áo sơ mi với cà vạt cờ vàng ba sọc đỏ để kiếm phiếu thị trưởng. Và Madison hôm nay, không còn là Madison ngày nào đi gõ cửa từng nhà đồng hương để cầu khẫn, van xin sự ủng hộ. Hình ảnh một Chuck Reed hay một Madison gần gũi với cộng đồng Việt Nam ngày nào nay đã không còn nữa, đã nhạt nhòa trong tâm trí họ. Thế vào đó, là hình ảnh mới toanh của một Chuck Reed hùng hùng, hổ hổ, gân cổ nổi cộm và hùng hụt đi từ lầu 18 City Hall xuống quán cà phê uống rượu nho để tính chuyện - No recall - Anti recall - Support Madison. Và hình ảnh một Madison trâng tráo với những lời kể công không đúng sự thật, mặt mày dáo dác khi ra đường. Hai hình ảnh này, tạo thành chân dung một Mỹ, một Việt - một nam, một nữ - một rỗ, một rá. Một cao lêu khuê, một thấp lè tè, khắn khít dưới ánh đèn vàng để cùng “rú” bài “Tình ca vùi dập”, đã làm nỗi bật tinh thần “ôm nhau mà sống” của đôi nam, nữ này.

Với nỗ lực sáng tác nhịp điệu vùi dập, bà Madison lên hệ thống truyền thông Quê Hương cho biết - những cử tri đã ký tên bãi nhiệm, nay có thể thay đổi ý định. Bà kêu gọi người nào nghĩ lại thấy thương bà muốn rút lại chữ ký, thì có hai cách:

- Cách thứ nhứt, tự động viết thư xin rút tên gởi về văn phòng Thư ký thành phố.

- Cách thứ hai, vào mạng lưới toàn cầu No recall của bà lấy mẫu thư đã được soạn sẳn, điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa, rồi bỏ vào bao thư, dán tem, gởi cho bà Lee Price Thư ký thành phố thì mọi chuyện sẽ đẹp như mơ.

Tuy nhiên, như đã nói rất nhiều lần là bà Madison - người nữ nghị viên “cưng” của ông thị trưởng Chuck Reed và của các ông Sam Licarrdo, Pete Constant, Forrest William, bà Judy Chirco… là giống nữ nhi trong máu đã có sẳn vi trùng dối trá, nên những gì bà nói ra đều thiếu trong sáng, không rõ ràng. Dưới đây là bằng chứng.

Dựa vào điều lệ bầu cử (election code) 103 và 11303 trong Tiến Trình Bãi Nhiệm Các Viên Chức Tiểu Bang và Khu Vực ( Procedure for Recalling State And Local Officials) đăng nơi trang 20, bà Madison đã viết trên mạng lưới toàn cầu No Recall của bà như sau:

“Withdrawal of Signatures

Under California state law, any voter may withdraw his or her signature from the recall petition upon filing a written request with the appropriate elections official (103, 11303”).Tạm dịch là: “Dưới luật của tiểu bang California, bất cứ cử tri nào cũng có thể rút lại chữ ký trong thỉnh nguyện bãi nhiệm bằng cách viết thư yêu cầu nhân viên phụ trách bầu cử (103, 11303).

Tuy nhiên, theo nguyên văn điều 103, 11303 không phải như trên, mà như sau:

“Withdrawal of Signatures

Any voter may withdraw his or her signature from the recall petition upon filing a written request with the appropriate elections official prior to the day the petition section on which the signature appears is files (103, 11303)” Tạm địch là: “Bất cứ cữ tri nào cũng có thể rút lại chữ ký trong thỉnh nguyện bãi nhiệm bằng cách viết thư yêu cầu nhân viên phụ trách bầu cử trước ngày thỉnh nguyện với chữ ký đó được đệ trình .(103, 11303).”

Qua hai đoạn văn vừa trình bày, người đọc chắc hẳn đã thấy rõ được sự thiếu thẳng thắn của bà Madison. Bà Madison đã “tự ý đục bỏ” hàng chữ “prior to the day the petition section on which the signature appears is files” .

Mấy chữ “prior to the day the petition section on which the signature appears is files” (trước ngày thỉnh nguyện với chữ ký đó được đệ trình) là 14 chữ nói về thời gian hạn định cho việc rút chữ ký. Tại sao bà Madison lại “đục bỏ” như vậy? Trả lời ngay, là nếu để nguyên con như chính phủ ấn định thì cho tới giờ phút này việc bà Madison lên đài Quê Hương hô hào, khuyến khích rút chữ ký là chuyện tào lao, chẳng đi đến đâu vì không phải lúc.

Theo luật định, tiến trình ký tên trong Thỉnh Nguyện Bãi Nhiệm trải qua hai giai đoạn. Giai đạn I, là giai đoạn phải có những chữ ký tiên khởi đính kèm với Thỉnh Nguyện nêu lý do xin bãi nhiệm. Giai đoạn II, là giai đoạn sau khi Thỉnh Nguyện và chữ ký tiên khởi đã hợp lệ, Thư ký thành phố phụ trách hồ sơ cho phép UBBN đi lấy số chữ ký bãi nhiệm theo luật định.

Đối với giai đoạn I: Ủy Ban Bãi Nhiệm đã hoàn tất thủ tục. Nên không có vấn đề rút tên hay thêm tên trong Thỉnh Nguyện Bãi Nhiệm. Như vậy, trong giai đoạn này thời hạn rút chữ ký (Withdrawal of Signatures) đã khóa sổ. Vậy thử hỏi, bà Madison còn kêu gọi, khuyến khích cử trư rút chữ ký bãi nhiệm thì làm sao mà rút đây. Chuyện này, y như trường hợp tòa phán quyết xong rồi. Nhân chứng bất ngờ muốn phản cung và đòi hồi tố khi thời gian hạn định đã hết thì việc xét lại bản án chắc chắn sẽ chẳng bao giờ xảy ra.

Đối với giai đoạn II: Ủy Ban Bãi Nhiệm chưa hết hạn 120 ngày nộp danh sách 3,200 chữ ký (đây là con số thí dụ), thì nhân viên phục trách dựa vào đâu mà rút tên theo ý người viết thư yêu cầu?. Bà Lee Price, Thư ký thành phố - người phụ trách việc tiếp nhận những thủ tục trong tiến trình bãi nhiệm. Dù là người làm dưới quyền ông Chuck Reed, nhưng bà cũng không biết làm sao mà rút chữ ký của cữ tri khi chưa có danh sách do Ủy Ban Bãi Nhiệm đệ nạp trong tay. Thành ra, khi bà Madison không đề cập tới hạn định rút tên là một trò đánh lận con đen. Biết là không đúng, không có kết quả, nhưng bà Madison cứ hô hào ầm ỉ. Nên đây chỉ là một cách chữa cháy vụng về.

Đối với thủ tục hành chánh, chắc hẳn những người muốn rút tên cũng cần phải làm “appointment” để được tuần tự gọi đến văn phòng bà Lee Price trình ID hay Driver licenseso để xác nhận thực, hư. Vì thủ tục xin chữ ký của UBBN đòi hỏi sự chính xác, những người đã cho chữ ký biết rõ điều này, thì đương nhiên việc rút tên của họ cũng phải như vậy, để tránh trường hợp 92 chữ ký mà ông bánh mì thịt nguội Lê văn Hướng đã làm. Cho nên, ngay lúc này nếu bà Lee Price có nhận được thư xin rút tên thì cũng để đó mà chơi, ngồi mà ngó và người xin rút tên ngóng cỗ đợi làm hẹn .

Tóm lại, việc kêu mọi người viết thư để rút tên bãi nhiệm mà không nêu rõ thời gian hạn định, là một sự thiếu trong sáng của bà Madison. Điều này hiễn nhiên, thêm một lần nữa, làm nổi bật hạnh kiểm không tốt của bà Madison. Chính cái bản chất xấu xa này và thêm vào sự vi phạm luật Brown Act của bà, đã dẫn đến việc ông Chuck Reed phải ngậm đắng nuốt cay nhìn bà nghị viên mà ông ta ca tụng, tâng bốc tới trời xanh đang bị “Recall”. Đây mới chính là nguyên do, chớ không phải vì cái tên “Little Sàigòn” như các cơ quan truyền thông của bà Madison ra rả ngày này sang ngày nọ bóp méo sự thật.

Ngoài việc bà Madison “tự ý đục bỏ” thời hạn rút chữ ký theo luật định. Thiên hạ còn cho biết có người đến các khu nhà Mobile Home và nhà dân trong khu vực 7, chìa cái Nghị quyết ký ngày 25 tháng 3 năm 2008 của HĐTP tạm thời cộng nhận tên “Lillte Sàigòn” trên lá phướn, khoe đó là thành tích của bà Madison, rồi xin đồng bào thương dùm Madison, đừng ký tên bãi nhiệm.

Khi nhắc đến cái “nghị quyết lá phướn”. Mọi người nhớ đến phiên họp điều trần giữa Sở Kế Hoạch Thành Phố và Ban Thành Lập Little Saigòn (Little Saigon San Jose Foundation) ngày 26/6/08 tại Leninger, Kelley Park. Trong ngày này, không ai thấy sự hiện diên của bà Madison như người của bà đã kể công.

Mọi người ngạc nhiên, đã kể công như vậy. Tại sao bà Madision không có mặt để làm việc cho tới nơi, tới chốn, là nói với đại diện Sở Kế Hoạch Thành Phố là Debra Figone và Joe Horwedel rằng, số banner mà LSSF xin thực hiện là 20 cái như trong thư của ông Dave Cortese đã đề cập, chớ không phải chỉ có 7 cái hay 11 cái. Và tại sao bà không có mặt, để “chỉnh” Sở Kế Hoạch khi cơ quan này cho biết chỉ cho phép treo các baner từ ngã tư đường McLaughin/Story đến đường Roberts mà thôi. Điều này, trái với tinh thần nghị quyết TP có bà Madison ký tên ngày 25/3/08, mà người của bà cầm đi lấy điểm tùm lum. Vì theo nghị quyết này, các baner được phép treo trên các trụ đèn từ cầu freeway 101 đến đường Senter. Do đó, sự vắng mặt của bà Madison, một lần nữa đã tố cáo:

- Thứ nhứt, bà không quan tâm, ngó ngàng gì đến quyền lợi, nguyện vọng cử tri khu vực 7.

- Thứ hai, bà dị ứng với cái tên chống cộng “Little sàigòn” dù nó có treo… ở cột đèn.

Bên cạnh những lời kêu gọi rút chữ ký của bà Madison. Sự thể hiện sức mạnh quyền lực của một ông thị trưởng cũng bắt đầu ló dạng. Tin mới nhất cho biết chính quyền thành phố sẽ tịch thu và phạt UBBN về vi phạm cắm và dán những bản “Recall Madison Nguyễn” tại những nơi công cộng. Như vậy là đèn xanh đã bật, tập đoàn vùi dập bắt đầu tiến lên.

Có lẽ mọi người chưa quên, cách nay hơn một tháng trên chương trình phát thanh Việt Nam Radio AM do ông Huỳnh Hớn phụ trách. Ông Thomas Nguyễn, thành viên UBBN, đã lên tiếng báo động trước chính quyền và công luận về vấn đề nhiều bảng “Recall Madision Nguyễn” cắm trong sân nhà cử tri đã bị kẻ gian lấy đi. Đồng thời UBBN đã kêu gọi đồng bào cố gắng ghi nhận lại hình ảnh thủ phạm như chụp hình, lấy số xe vân vân, gởi đến UB sẽ được trọng thưởng 500 đồng.

Với những việc làm có nghiên cứu, có phương pháp, nắm vững luật lệ. Chắc chắn UBBN sẽ không cho người đi cắm hay dán những bảng hiệu Recall Madison Nguyễn bừa bãi trên đất công do ông Chuck Reed “tạm thời quản lý” trong nhiệm kỳ của ông. Cho nên, hôm nay, những bảng “Recall Madison Nguyễn” nếu có xuất hiện bừa bãi trên đất công cộng của thành phố, sẽ không tránh khỏi người ta nghi ngờ đã đến lúc những tấm bảng bị mất cắp được đem ra xử dụng để vu oan, giá họa, làm mất uy tín và hao tốn ngân quỷ eo hẹp của UBBN khi bị phạt từ 100 - 250 đồng một cái.

Nếu UBBN bị chính quyền Chuck Reed phạt vì những bãng hiệu “Recall Madison Nguyễn” thì đây là điều bất thường. Đây là những trò áp dụng quyền bính vặt vãnh, hạ cấp, rẽ tiền, không xứng đáng là một thủ đoạn chánh trị của người lãnh đạo thành phố khi đứng về phía chống bãi nhiệm. Vì từ nhiều năm qua trong mùa tranh cử, các bảng hiệu quảng cáo tên tuổi ứng viên cắm đầy đường, từ đất tư cho đến ngoài công cộng. Nhưng chưa có báo nào đăng là các chủ nhân các bảng hiệu đó nhận được giấy cảnh cáo hay giấy phạt của chính quyền.

Có người thì thầm, có lẽ vì “quá cưng” cục cưng Madison, nên ông thị trưởng đã tuyên bố rất hùng hồn và rất “cứng cựa” đến nỗi quên cả quyền Bãi Nhiệm là một quyền hiến định.

Trò vùi dập của thế lực Chống Bãi Nhiệm đã bắt đầu nổi lên qua sự kêu gọi rút chữ ký quờ quạng của bà Madison, qua sự ông thị trưởng quờ quạng sẳn sàng cho người đi biên phạt các bảng “Recall Madison Nguyễn”. Đã cho thấy bản “Tình ca vùi dập bãi nhiệm” đã bắt đầu cất lên với những nốt nhạc khủng bố tinh thần. Những nốt nhạc này là những âm thanh kêu rú thảm thiết, quái đản trong nền dân chủ của một Hội Đồng Thành Phố đang trên đà phá sản.

Khi bài viết còn đang dở dang, thì một người bạn gọi điện thoại cho tôi, nói anh có người quen ở bên Thụy sĩ sang chơi. Và cho biết nhiều đồng hương bên đó cũng biết chuyện bãi nhiệm bà Mdision qua mạng lưới toàn cầu. Mọi người đều cho đây là việc làm chính đáng, hợp tình, hợp lý của cộng đồng người Việt tại San Jose. Rồi ông bạn tôi kết luận: “ Như vậy thì bà nghị Madison Nguyễn - một chuyên viên nói dối- sẽ không còn chỗ đứng trên quả địa cầu này”.

* Đặng thiên Sơn (8 tháng 7/2008)

Tuesday, July 8, 2008

Vinh Danh 60 Năm Cờ Vàng tại Paris



Bích Xuân

Sau Nam Cali (Mỹ) 21-6 và Liège (Bỉ) 27-6, chiều chủ nhật, lúc 16 giờ ngày 6 Juillet 2008 tại Paris là ngày vinh danh 60 năm Cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hoà ( lá cờ trước năm 1975). Người Việt tự do và những đồng hương đến từ các nước như : Đức, Bỉ, Hoà Lan… Mọi người tập trung tại nơi sinh hoạt chính của người Á châu ở khu 13 Paris để chuẩn bị diễn hành. Địa điểm để bắt đầu tại số 44 Avenue D’Ivry, lúc 16giờ 30, đồng hương vừa đi vừa hô to khẫu hiệu theo chị Dung Nghi một khuôn mặt tranh đấu quen thuộc của cộng đồng người Việt tự do ở Pháp. Đoàn người đến ngã tư Tolbiac, thì được sự hướng dẫn của cảnh sát đi rẽ sang một con đường lớn khác là Avenue D’Italie để tụ hôp trước tòa thị sảnh của quận 13.

Hôm qua, trời mưa to, gió lớn Ban tổ chức rất lo ngại, nhưng không ngờ hôm nay, trời bỗng có nắng, nhìn trên nét mặt ai cũng vui tươi, nhưng trời lại có gió. Cờ tung bay rực vàng theo gió đầy trên con đường huyết mạch của ngưới Á châu. Ban tổ chức cho biết 450 lá cờ đã hết sạch.

Trong đoàn người tham dự diễn hành, già có nhiều mà người trẻ cũng phải là không ít, trong đó người ta nhận thấy có những người ngoại quốc tay cầm cờ đi theo đoàn người từ lúc khởi hành cho đến tụ ở điểm cuối. Hai bên đường khách ngoại quốc đứng xem chật cả lối đi.

Cờ vàng được đưa đến trước cửa thị sảnh đúng 18 giờ, trên cao, lá cờ của Pháp đang tung bay trước cửa thị sảnh của Paris 13. Đồng hương trang trọng cùng nhau hát bài quốc ca Việt Nam Cộng Hoà. Giây phút mặc niệm để tưởng nhớ những anh hùng vì nước đã bỏ mình, và những nạn nhân mất ngoài biển khi đi tìm tự do. Chương trình diễn hành từ 16 giờ đến 18 giờ 30 thì chấm dứt. Mọi người ra về với niềm vui trong một chiều có nắng đẹp có nhiều ý nghĩa.

Bích Xuân
























Noi Gương


Nguyễn Khắc Anh Tâm

    Đúng là

    Thạch khả phá nan địch kỳ kiên
    Chu khả miên nan địck kỳ xích
Đá có thể bị nghiền nát nhưng khó mà mất đi tính chất kiên trì của đá; son có thể bị mài tan nhưng khó mà mất đi màu đỏ của son.

Ngài Huyền Quang không những là bậc cao tăng của Phật giáo, Ngài còn là bậc anh hùng, dám trực diện và đối kháng với cả một khối công an của bạo quyền vốn dã man từ bản chất, ròng rã 33 năm, hoàn toàn không chao đảo, hòng giải trừ pháp nạn và quốc nạn. Công cuộc đấu tranh ôn hoà nhưng quyết liệt của Ngài, song song với tinh thần bất khuất của Ngài, do đó, đã đánh thức được lương tâm của toàn thể Phật tử, nói riêng, và của toàn thể dân tộc nói chung.

Ở cuộc diện khác, khi nhân loại đang đắm chìm trong vị kỷ và hưởng thụ, thì hành động của Ngài, tiếng nói của Ngài, trong chốn lao tù, quản thúc, nhằm để tranh đấu vì tự do, dân chủ cho cả 85 triệu người khác hơn là cho chính bản thân của Ngài, cũng đã đánh thức được lương tâm của toàn thể thế giới.

Ngày 4 tháng 4 năm 1968, khi Martin Luther King bị giết hại trên con đường đấu tranh đòi nhân quyền cho người Mỹ da đen, không chỉ người Mỹ da đen đã mất mát vị anh hùng của riêng họ, mà toàn thể nước Mỹ, toàn thể nhân loại đã mất mát một vị anh hùng can đảm cất tiếng nói của lương thức giữa một rừng người vô lương thức.

Bởi vậy, sự mất mát của Ngài Huyền Quang, do đó, không chỉ là sự mất mát to lớn cho tất cả Phật tử Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam, mà còn là sự mất mát cho nhân loại, sự mất mát của một tiếng nói dõng mạnh, kiên cường, đấu tranh từ ngục tù, từ quản thúc, cho cả khối người hoàn toàn bị bịt miệng không được nói, và lắm khi, không được sống.

Đau buồn và vô cùng thương tiếc vì sự mất mát này, do đó, là chuyện đương nhiên. Nói ra đã là thừa thải.

Nhưng chúng ta - tất cả con dân Việt Nam - phải làm tốt hơn là chỉ biết than khóc. Than khóc có mấy thì những giọt lệ này tới lúc rồi cũng ... khô cạn. Nếu thật sự đau buồn và thương tiếc Ngài, như chúng ta dễ dàng đau buồn và vô cùng thương tiếc bất cứ vị anh hùng dân tộc nào đã hy sinh, chúng ta phải làm hơn là chỉ dành cho Ngài những giọt lệ mang đầy cảm tính. Cảm tính thường có tánh chất đoản kỳ và thiếu hẵn sự cương quyết để noi gương Ngài, nối gót Ngài, trên con đường đấu tranh cho quê hương xứ sở.

Noi gương Ngài, nối gót Ngài không có nghĩa chúng ta phải theo đạo Phật, hay xuất gia như Ngài. Noi gương Ngài, nối gót Ngài là phải đấu tranh như Ngài đã đấu tranh dù chúng ta đang theo Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Hoà Hảo, hay Cao Đài. Giáo dân của mọi tôn giáo phải nhớ cho rằng chúng ta trước hết là con dân Việt Nam. Nếu chúng ta không làm tròn bổn phận con dân Việt Nam của chúng ta trước, chắc chắn chúng ta không thể làm tròn bổn phận của giáo dân đối với tôn giáo mà chúng ta đang theo đuổi. Đã không làm tròn, hay tệ hơn, không muốn làm tròn, bổn phận trong gia đình thì người ấy khó mà làm tròn bổn phận với xóm làng.

Thêm nữa, tất cả giáo dân của mọi tôn giáo đều phải hiểu cho rằng không tôn giáo nào có thể sống còn, hay ít ra được độc lập, để có được tự do tôn giáo thật sự dưới bản chất vô thần của bạo quyền. Bởi vậy, giáo dân của mọi tôn giáo phải đấu tranh để đòi hỏi tự do tôn giáo, nói riêng, và tự do dân chủ cho toàn thể dân tộc, nói chung.

Quan trọng hơn, tất cả giáo dân của mọi tôn giáo phải ý thức được rằng chúng ta không thể khoán trắng công việc đấu tranh tự do tôn giáo của tôn giáo mình cho bất cứ tôn giáo nào khác. Nhà chúng ta đang cháy, chúng ta từ chối chữa cháy nhưng chúng ta lạy lục hàng xóm chữa cháy cho mình, rồi chúng ta khoanh tay đứng ngó là hành động vô trách nhiệm. Chẳng những vậy, đó là hành động tàn nhẫn của những người sẵn sàng bỏ rơi dân tộc, bỏ rơi những vị lãnh đạo tinh thần của chính họ đã, và đang bị giết hại để bảo vệ tôn giáo cho chính họ. Giáo dân như vậy là những giáo dân chỉ theo đạo để tô son điểm phấn vào những sinh hoạt thường nhật, hay vì tính a-dua, ai sao tôi vậy, ông bà cha mẹ tôi theo, cho nên tới đời tôi thì tôi cũng theo. Những giáo dân như vậy không thể là những giáo dân biết dấn thân, biết hy sinh, và biết bảo vệ tôn giáo của họ, nói chi tới đất nước của họ.

Thêm nữa, ngoài pháp nạn mà tất cả mọi tôn giáo đều đang gánh chịu, với tình hình đất nước hiện giờ, tôn giáo nào không cảm nhận nổi cái đau khổ của 85 triệu người dân Việt Nam để vùng lên đấu tranh, tôn giáo đó chưa đủ đạo hạnh để có thể gieo rắc yêu thương trên toàn đất nước Việt Nam, nói chi đến cả thế giới. Từ bi không đồng nghĩa với khuất nhục, bác ái không đồng nghĩa với đê hèn, ôn hoà không đồng nghĩa với tiêu cực, vị tha không đồng nghĩa với ngu dốt, không nhận ra nổi ai là kẻ buôn thần bán thánh, ai là kẻ buôn dân bán nước, ai là kẻ đem nhục nhằn và đau thương đến cho 85 triệu người dân của mình. Không đủ can đảm để hy sinh cho những kẻ cùng khổ ngay trước mặt họ thì họ sẽ không đủ can đảm chết vì đạo tín của họ, cho quê hương của họ.

Không những vậy, giáo dân của mọi tôn giáo phải biết đoàn kết với giáo dân của các tôn giáo bạn hòng đem lại kết quả hữu hiệu trong công cuộc đấu tranh đầy cam go và thử thách này.

Trong nỗi đau thương của đất nước, đã 33 năm, nếu chúng ta còn đứng riêng rẽ, còn tị hiềm vì lằn ranh của tôn giáo, giai cấp, chúng ta sẽ là những tội đồ của dân tộc. Trong nỗi đoạ đầy của dân tộc, đã 33 năm, nếu chúng ta còn tiếp tục tự bịt mắt, bịt miệng để không thấy được rằng chúng ta cần phải đấu tranh, chúng ta cần phải nói lên một tiếng nói, chúng ta sẽ là những tội đồ của quê cha đất tổ.

Chưa có gì buồn cười hơn khi chúng ta bắt con em của chúng ta học tiếng Việt, học sử Việt, và bắt chúng kiêu hãnh vì dòng giống bất khuất của dân Việt, trong khi chúng ta lại đóng vai đê hèn, hoàn toàn từ chối bổn phận đấu tranh của chúng ta, trước mặt chúng.

Thêm nữa, trong sự thống khổ của kiếp lưu đày, nếu còn công kích vì khác biệt tôn giáo, ganh ghét cá nhân, chụp mũ nhau dưới bất cứ hình thức nào và nhân danh bất cứ ai, nhất là cứ miệt mài công kích, chụp mũ suốt 33 năm, đến độ không bị chụp mũ không phải là người Việt, chúng ta đang tiếp tay đắc lực cho bạo quyền để tiêu diệt khí thế đoàn kết của chính chúng ta.

Thực tiễn hơn, chúng ta hãy noi gương Ngài, nối gót Ngài bằng cách:

(1) Ý thức được trách nhiệm đấu tranh là trách nhiệm của mỗi chúng ta.

Tôi không đấu tranh cho anh, cho chị, cho em. Tôi đấu tranh cho riêng tôi. Quê hương này cũng là của tôi, dân tộc này vốn là dân tộc của tôi, những trang sử hiện đại có hào hùng hay không cũng là do bản thân của tôi đóng góp.

Chúng ta hãy chấm dứt ngay tệ nạn khoán trắng công việc đấu tranh cho những người khác, và chúng ta đành đoạn đứng bên lề để ... ngó. Suốt 32 năm qua chúng ta ngó chưa đủ sao, nếu chưa, thì phải ngó tới bao giờ mới đủ?

Chỉ có những dân tộc của các nước muôn đời là nhược tiểu, gánh hoài trên vai tinh thần nô lệ, mới khoán trắng công việc đấu tranh của họ cho ngoại bang, hay cho người đồng hương không may đứng ... bên cạnh.

(2) Nhập cuộc, và chấp nhận chung vai sớt gánh, cùng nhau mà đấu tranh cho quê hương, cho dân tộc.

Không ai làm quan, không ai làm lính. Đã là con dân Việt Nam thì ai cũng được gọi bằng “thằng”. Chúng ta đều mang nỗi nhục mất nước mà còn khoe khoang, lớn lối, tự cao tự đại thì sự thiếu tự trọng, vô liêm sĩ của chúng ta quả thật đang ở mức nhất nhì thế giới.

Dân Ba Lan chỉ có những anh thợ điện như anh Lech Walesa, và không chừng họ chỉ có những anh thợ điện như vậy mà họ làm nên lịch sử trong những thập niên 80s. Chúng ta suốt 33 năm bận bịu so tài coi ai bị làm thằng, ai được làm ông, cho nên chúng ta cứ phải dật dờ trên xứ lạ, ca bài hoài quốc muôn năm.

(3) Nhìn nhận mặt trận tôn giáo là mặt trận chính mà bạo quyền đang dùng để đối đầu với tất cả người Việt tại hải ngoại, và cũng qua mặt trận này, chúng đã, đang, và sẽ nhuộm đỏ hải ngoại.

Báo chí, sách vở, ai cũng bàn luận về NQ-36, đến độ con số 36 này được nhắc, nhớ nhiều hơn số tuổi của chính họ. Vậy mà họ cứ tưởng NQ-36 chỉ có ở mặt văn hoá, hoàn toàn quên rằng NQ-36 bao gồm luôn cả mặt trận tôn giáo. Thậm chí có nhiều đảng phái, đoàn thể, cơ quan truyền thông chống Cộng mãnh liệt đã thề nhất định không đụng tới tôn giáo, dù biết rằng tôn giáo đó đang bị CS lũng đoạn, giật giây, điều khiển suốt từ những thập niên 1980 tới nay.

Mỗi lần Nguyễn Minh Triết hay Nguyễn Tấn Dũng tới hải ngoại thì chúng ta hăng hái biểu tình, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng về, chúng ta liền tan hàng … cố gắng, ai nấy đều tưởng VC không có trước mặt nữa để mà chống.

Bởi vậy, những kẻ tu hành quốc doanh mà Đảng lượm lặt từ phường chợ búa, hay kết nạp từ những cơ quan tình báo, công an, mang NQ-36 tới chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, v.v… có thể công khai lên mặt “dạy dỗ” chúng ta. Trên phán, dưới chúng ta phủ phục quỳ, lắng tai nghe. Buồn cười hơn là nghe xong có người trong chúng ta liền chạy ra coi Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng còn hay không để họ biểu tình, chống đối tiếp.

Trên thực tế thì tôn giáo nào ít nhiều gì cũng đã bị lũng đoạn bởi VC. Đừng viện cớ chúng ta còn chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, còn kinh điển, còn các vị lãnh đạo tinh thần là tôn giáo chúng ta chưa bị ô uế bởi tập đoàn vô thần của CS. Không lẽ chúng ta đợi giấy chứng nhận từ Bộ Công An của CS gởi qua chúng ta mới nhìn nhận hay sao?

Phật giáo thì đã có rất nhiều “tung tăng” ở hải ngoại bị mua chuộc để trở thành “ma tăng”. Phật tử nhẹ dạ phủ phục dưới chân để chúng nhục mạ Phật tổ, bổn sư, đạo pháp của mình ngay trong chánh điện, trong ngôi chùa mà mình đã góp công xây dựng. Buồn thay, vô số Phật tử đã và đang cuồng tín đến độ họ cứ cho rằng sư nào cũng là sư, nếu họ cứ quỳ, cứ lạy, cứ phục vụ miệt mài thì có ngày họ cũng được phước báo dù rằng vị sư đó đang thực thi NQ-36. Tệ hơn, số Phật tử này - theo tinh thần kể trên - còn tiếp tay để chống đối những vị cao tăng, chống đối Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất - một tổ chức tôn giáo do dân lập - theo đuổi truyền thống từ ngàn xưa bằng cách nhập thế để bảo vệ quê hương, hòng làm vui lòng ma tăng, thầy của họ. Qua những công việc hộ tự đầy tính chất gia nô này, họ còn hy vọng thầy của họ nói giúp cho họ một tiếng với chư Phật để gia đình họ được hưởng phước báo kiếp này. Quen biết dù sao cũng lợi, thêm nữa, chờ hưởng phước báo ở kiếp sau … coi bộ không chắc! Để lâu sợ thầy mình hay Phật … quên. Khôi hài đến mức đó là cùng!

Thiên Chúa giáo thì đã có rất nhiều “giáo gian”. Hết Linh mục, Giám Mục tới Hồng Y lên tiếng bài bác Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền - người đã bị CS giết hại; Linh mục Nguyễn Văn Lý - người đã bị CS bỏ tù. Những giáo gian có quyền cao chức trọng này thay vì phải đề cao tinh thần bất khuất của đồng đạo thì lại vu cáo họ tham gia chính trị, trong khi họ chỉ gióng lên tiếng nói để đòi hỏi quyền tự do và độc lập của tôn giáo họ, và cho dân tộc của họ. Tệ hơn, những Lm, Gm và mới đây vị Hồng Y thay phiên nhau xuất ngoại chỉ để xin tiền rồi sẵn dịp, nhục mạ lá cờ vàng, lá cờ mà giáo dân của họ đã và đang kính trọng. Có nhiều vị ngon cơm hơn, nhục mạ cờ vàng trước rồi xin tiền sau vì họ biết rằng dù gì đi nữa họ cũng được ủng hộ trên mặt tài chánh. Dựa hơi vào cây Thánh Giá, dựa hơi vào Đức Chúa Trời, dựa hơi vào quyền hạn của bậc chủ chiên họ xâm phạm đến danh dự những con chiên của họ một cách công khai và hỗn xược. Buồn thay, vô số giáo dân cuồng tín đến độ họ cứ cho rằng nếu cứ tiếp tục tuân lời, tiếp tục ủng hộ tài chánh cho những vị giáo gian này - như một hình thức hối lộ - thì một ngày nào đó họ cũng được lên thiên đàng. Quen biết để cầu cạnh được lên thiên đàng, với số giáo dân này, chắc mẩm, cũng giống trần gian, để đạt thêm lợi ích. Có giáo dân sau khi cho tiền vị chủ chăn đã nhục mạ lá cờ vàng của mình, còn lật đật chạy ra ngoài chào cờ vì hôm đó có lễ thượng kỳ. Khôi hài đến mức đó là hết nói!

Chúng ta phải mạnh dạn phân định đâu là "chánh", đâu là "tà" ngay cả trong hàng ngũ tu hành. Tu hành đúng, chúng ta sẵn sàng phủ phục, tu hành sai, hay trá hình để thực thi NQ-35, hay nhất định chỉ tu-không-thôi nhưng bịt mắt, bịt tai trước thảm cảnh của quê hương hòng tiêu diệt khí thế đấu tranh thì chúng ta phải dứt khoát chống, sẵn sàng chống, như chúng ta đã dứt khoát và sẵn sàng chống Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng. Mang danh nghĩa gì, ngay cả của tôn giáo, mặc quần áo gì, ngay cả của tôn giáo, ăn nói và hành xử gì, ngay cả nhân danh tôn giáo, nếu có hơi hướng của bạo quyền đều phải bị chống đối.

Đó không phải là hành động quá khích mà là hành động sáng suốt và công bằng. Hể có hơi hướng VC là chống! Hể cố tình tiêu diệt khí thế đấu tranh là chống! Giản đị có chừng ấy!

Chúng ta phải hiểu được rằng nhiều năm qua, chính chúng ta chứ không ai khác, không phải "bàn tay lông lá vô hình của ngoại bang" nào khác, không phải “bàn tay nhám xịt vô hình của bọn đặc tình” nào khác, chúng ta đã trực tiếp nuôi sống ma tăng để chúng đánh phá chánh tăng, tiêu diệt khí thế đấu tranh của những bậc cao tăng và anh hùng như Ngài Huyền Quang, Ngài Quảng Độ, như TGM Nguyễn Kim Điền, Lm Nguyễn Văn Lý, như Mục sư Nguyễn Hồng Quang.

(4) Hãy nghiêm chỉnh kính trọng lá cờ đầy chính nghĩa của chúng ta.

Năm nào chúng ta cũng có dịp để nêu cao ngọn cờ chính nghĩa của mình. Thấy ai đó giương cao ngọn cờ yêu quý này khó có ai trong chúng ta có thể cầm được những dòng nước mắt buồn tủi. Buồn thay, thấy riết rồi quen… Quen hình ảnh ngọn cờ yêu quý này đang tung bay trên vòm trời xứ lạ mà quên rằng lá cờ yêu quý đó không được tung bay trên vòm trời quê hương. Không khéo, lá cờ chính nghĩa của chúng ta, sẽ mãi mãi chỉ có quyền được tung bay trên vòm trời xứ lạ.

Chúng ta là dân lưu vong, trên tinh thần của một dân tộc, chúng ta không ít thì nhiều cũng đã và đang bị khinh khi; lá cờ của chúng ta, do đó, chắc chắn, cũng đã ít nhiều mất đi sự kính nể. Giương cao ngọn cờ chính nghĩa là chuyện phải làm nhưng đừng quên, hành động giương cao đó chưa đủ để rửa nhục cho lá cờ của chúng ta, chưa đủ nói lên sự kính trọng nghiêm chỉnh của chúng ta đối với lá cờ chính nghĩa ấy.

Chúng ta phải biết hẹn nhau như người Do Thái năm nào khi họ đã từng hẹn gặp lại nhau tại thành phố Jesuralem. Chúng ta phải biết hẹn gặp lại nhau tại Sài Gòn, và phải phất cao ngọn cờ chính nghĩa ngay tại thủ đô tự do của chúng ta. Muốn rửa nhục, hay tỏ vẻ kính trọng lá cờ vàng yêu quý của chúng ta một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn, chúng ta phải đem lá cờ ấy về lại quê hương ta, cắm trên Sài Gòn thủ đô của ta đã đành, chúng ta phải cắm luôn ở Hà Nội, đảo Trường Sa, Hoàng Sa của chúng ta, bằng mọi giá.

Tóm lại, gương sáng của Ngài - hay của bất cứ vị anh hùng nào khác của dân tộc từ ngàn xưa đến hiện đại - không nhằm để chúng ta khóc thương, dù đó là chuyện đương nhiên, mà là để chúng ta noi gương.

Dòng họ của giống Lạc Hồng, xưa kia thua, bỏ chạy, cởi con ngựa Lạc, theo dấu giống con chim Hồng, về phương Nam, nhất định không chấp nhận ở lại, cầu cạnh để bị đồng hoá, điều đó không có gì để thẹn. Dòng họ của Quang Trung noi gương kiêu dũng, đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, điều đó càng không có gì để thẹn. Dòng họ của dòng giống bất khuất, noi gương Ngài Huyền Quang, đứng lên để đấu tranh cho tự do, cho dân chủ, điều đó không có gì để thẹn, nếu không muốn nói điều đó là điều chúng ta nên hãnh diện.

Dân Nhật - dòng giống con trời - không nổi tiếng hào hùng chỉ vì chiếc áo Kimono và rượu saké của họ!

Dân Việt - dòng giống Lạc Hồng - không nổi tiếng bất khuất chỉ vì chiếc áo dài và tinh thần nô lệ, suốt đời van xin thế lực ngoại bang.

Dòng họ của bất cứ giống dân nhược tiểu có tinh thần nô lệ nào cũng đều giống nhau ở chỗ … họ cam tâm khuất phục. Dòng họ của bất cứ dân tộc anh hùng có tinh thần bất khuất nào cũng đều giống nhau ở chỗ … họ vùng lên để tranh đấu. Thắng cũng tranh đấu, thua cũng tranh đấu. Còn thở là còn tranh đấu, không thể không tranh đấu. Ngài Huyền Quang ngay trong lòng địch, trong lao tù, trong sự quản thúc, đã tranh đấu tới hơi thở cuối cùng, hoàn toàn không chao đảo, chúng ta sống đầy đủ trên những bến bờ tự do ở hải ngoại, chẳng lẽ không?

Nguyễn Khắc Anh Tâm

Đại Việt Quốc Dân Đảng chia buồn Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất



Thông cáo của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế

BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE l INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: Paris (331) 45 98 30 85
Fax: Paris (331) 45 98 32 61
E-mail: http://ubcv.ibib@buddhist.com/
Web: http://www.queme.net/


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 07.07.2008

Đài truyền hình Cộng sản VTV1 dối gạt về tang lễ Đức Tăng thống –Công an tấp nập đến Tu viện Nguyên Thiều sáng nay – HT Thích Đổng Quán đánh lừa đồng bào Phật tử

PARIS, ngày 7.7.2008 (PTTPGQT) - Lên tiếng trước báo chí và các hãng thông tấn hôm nay, ông Võ Văn Ái, Phát ngôn nhân Viện Hoá Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), đã cực lực tố cáo những sự dối gạt và áp lực Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, trong những ngày lo tang lễ cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang.

Ngày hôm qua, toàn thể chư Tăng dưới sự hướng dẫn của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ cử hành lễ nhập quan tại Tu viện Nguyên Thiều. Bức hình in trong Thông cáo báo chí của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế ngày 6.7 cho thấy rõ Hoà thượng Thích Quảng Độ và Hoà thượng Thích Thiện Hạnh cùng chư Tăng trẻ nâng kim thân Đức Tăng thống nhập quan. Đặc biệt trước cổng Tu viện Nguyên Thiều một pa nô lớn ghi rõ Chương trình Tang lễ Đức Đệ tứ Tăng thống GHPGVNTN như một chứng cớ rõ rành.


Thế mà Đài tuyền hình VTV1 của nhà nước Cộng sản, phát hình ngày hôm qua, 6.7, lại có thể công bố những lời dối gạt trắng trợn với hằng triệu người dân Việt khi loan rằng :

«Trước những việc làm trái đạo lý của nhóm Quảng Độ, các môn đồ, đệ tử, những người tu hành chân chính ở Tu viện Nguyên Thiều đã phản ứng kịch liệt, kiên quyết không cho nhóm Quảng Độ đứng ra tổ chức tang lễ. Theo đúng như nguyện vọng của hòa thượng Thích Huyền Quang và những đệ tử của ông, sau khi ông viên tịch vào ngày 5/7/2008, ngày 6/7, Ban Trị sự Giáo hội Việt Nam (tức Giáo hội Nhà nước) tỉnh Bình định, môn đồ cùng gia quyến đã tổ chức lễ nhập quan cho Hòa thượng Thích Huyền Quang.

«Chứng minh và tham dự lễ nhập quan có các vị cao tăng và các chức sắc trong ban trị sự Giáo hội phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Định, môn đồ, pháp quyến của Hòa thượng Thích Huyền Quang. Buổi lễ nhập quan đã diễn ra trang nghiêm, đúng lễ nghi của Phật giáo».

Thật tán tận lương tâm. Ở xa trên toàn quốc, hay ở nước ngoài xem chương trình này, làm sao biết được một sự thật xẩy ra trên nước mình ? Vì vậy ông Võ Văn Ái tố cáo sáng nay với báo chí, truyền thông rằng :

«Truyền thông và báo chí của nhà nước Việt Nam đã vi phạm điều 69 trên Hiến pháp về «tự do ngôn luận, tự do báo chí ; có quyền được thông tin ; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình», cũng như điều 19 trong Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của LHQ quy định « mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào (...) tôn trọng các quyền và uy tín của người khác » mà Việt Nam đã ký kết. Thật kinh khủng cho sự việc như thế xẩy ra trên lãnh thổ quốc gia đang làm Chủ tịch luân phiên Hội đồng Bảo an LHQ. Nhà nước cộng sản Việt Nam sử dụng truyền thông, báo chí đánh lừa hàng triệu dân Việt về một sự kiện xẩy ra ngay trên chính nước họ. Bóp méo những hình ảnh và sự kiện về tang lễ của bậc Cao tăng lãnh đạo tinh thần là một sự lăng nhục. May thay, nhà cầm quyền Hà Nội không thể đánh lừa toàn dân mãi mãi ».

Đài Truyền hình VTV1 còn làm cuộc phỏng vấn Hoà thượng Thích Đổng Quán trú trì chùa Thiên Hoà ở An Nhơn, thành viên của Giáo hội Nhà nước. Người mà trong Thông cáo báo chí hôm qua, 6.7, chúng tôi đã loan báo việc ông đến Tu viện Nguyên Thiều dự tính xé tờ Cáo Bạch và Chương trình Tang lễ, nhưng đã bị chư Tăng ở Tu viện mời đi chỗ khác. Trên Đài truyền hình, Hoà thượng Thích Đổng Quán « xác định » rằng Hoà thượng Thích Huyền Quang từng nói với ông rằng « Không ai được làm gì khác ngoài giáo dục tại Tu viện Nguyên Thiều ». Chứng tỏ vị Hoà thượng này chỉ biết bô bô theo lệnh nhà nước kết án GHPGVNTN tổ chức tang lễ vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội mình. Ông ở ngay tại Bình Định nhưng vô tâm đến đỗi không hiểu rằng chỉ vì Đức Tăng thống và GHPGVNTN của Ngài mong muốn ưu tư cho việc « giáo dục, văn hoá, tôn giáo » mà phải chịu cảnh đàn áp, tù đày suốt 33 năm ròng. Khiến cho Đức Tăng thống phải thốt lên câu nói thương tâm : «Tôi là người sống không nhà, đi không đường, chết không mồ, tù không tội». May thay nhờ cuộc tranh đấu trung kiên bền bỉ của chư Tăng, Ni, Phật tử trong và ngoài nước, với sự hậu thuẫn của công luận thế giới đã đem lại một thắng lợi trước mắt là ngày Ngài viên tịch, chư Tôn giáo phẩm, Tăng, Ni, Phật tử đã uy nghi đưa Ngài đến bảo tháp an nghỉ.


Từ hôm qua đến nay các đường dây điện thoại chùa đã bị cắt. Hôm nay một chiếc xe công an đậu trong sân chùa với bộ phận phá sóng nhằm phong toả các đường dây kể cả điện thoại di động. Khoảng 50 công an vào sân tu viện mang nhiều máy quây phim ghi hình. Phía trước cổng chùa thì 20 công an túc trực theo dõi người ra kẻ vào. Và ở cổng sau Tu viện công an dựng lều canh gác.

Một số báo chí, hãng thông tấn quốc tế có nhiệm sở ở Hà Nội than phiền không vào được Trang nhà Quê Mẹ / Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để tìm tài liệu viết về tang lễ và tiểu sử Đức Tăng thống.

Tình hình căng thẳng đang bao trùm quanh Tu viện Nguyên Thiều, chưa biết chuyện gì xẩy ra trong những ngày tới. Chư Tăng vẫn thay nhau luân phiên tụng niệm 24 giờ trên 24 giờ cho đến ngày 11.7 cử hành lễ nhập Bảo tháp. Được hỏi thì chư Tăng cho biết một tang lễ Vô tướng để ngăn ngừa các hình tướng xâm nhập nhiễu loạn.

Monday, July 7, 2008

Hiện Tượng Hồng Y Phạm Minh Mẫn




Linh mục Nuyễn Hữu Lễ


Có lẽ chưa bao giờ tên tuổi của Hồng Y Phạm Minh Mẫn được nhiều người Việt Nam ở khắp nơi đề cập tới bằng nhiều cung điệu khác nhau như trong một tháng qua, kể từ ngày Hồng Y Phạm Minh Mẫn công bố một lá thư gởi cho 3 vị Giám mục Việt Nam đi tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới (ĐHGTTG) tổ chức tại Sydney từ ngày 15 đến 20 tháng 7 năm 2008 sắp tới.

Càng gần tới ngày khai mạc ĐHGTTG thì “hiện tượng Hồng Y Phạm Minh Mẫn” càng trở nên nóng bỏng hơn. Có người đã dùng ngôn từ không ra gì với lời lẽ nặng nề để phản đối Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Là một linh mục Việt Nam, tôi rất đau buồn và cảm thấy nhục nhã khi phải đọc những lời lẽ nặng nề mà một số người đã dùng với một chức sắc cao cấp của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam như thế.

Vậy Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã viết những gì trong lá thư nói trên để rồi sóng gió và giông bão nổi lên như thế?

Trọng tâm của lá thư gồm 6 đoạn và dài hơn một trang giấy, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã công khai bày tỏ thái độ chống báng lá cờ vàng ba sọc đỏ, không muốn hình ảnh lá cờ vàng hiện diện trong ĐHGTTG tại Sydney và gọi đó là “sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN” (đoạn 2). Trong đoạn 3, Hồng Y Phạm Minh Mẫn giải thích khá dài dòng về ý nghĩa lá cờ và nhắc lại bài học quý giá mà ngài đã học được từ một vị giám mục quá cố về “Người mẹ VN lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ)...” Lá thư đó, đã được nhiều cơ quan ngôn luận và các diễn đàn điện tử cho in lại cùng với những lời bình luận chung quanh ý nghĩa và giá trị tinh thần của lá cờ vàng ba sọc đỏ trong tâm trí của đồng bào tỵ nạn Cộng sản ở Hải Ngoại và để phản đối quan điểm của Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong nhận định về lá cờ này.

Lá thư đó đã gây ra nhiều sự chống đối mạnh mẽ từ nhiều phía, từ những người Công giáo và các tín hữu thuộc các tôn giáo bạn, đáng kể nhất là Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đã lên tiếng quan ngại về nội dung lá thư một cách chính thức. Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu còn ra một Tuyên Bố Chung kêu gọi đồng hương bày tỏ lập trường quyết tâm bảo vệ lá cờ vàng ba sọc đỏ trong dịp ĐHGTTG tại Sydney. Khi tôi đang viết những dòng này cũng nhận được một bản Tuyên Cáo của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tiểu bang Washington phản đối lời tuyên bố của Hồng Y Phạm Minh Mẫn và kêu gọi đồng hương mang cờ vàng ba sọc đỏ “dàn chào” Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong thánh lễ dự trù được diễn ra vào chiều ngày 9 tháng 7 tại nhà thờ Thánh Tử Đạo Việt Nam ở Seattle.

Đứng trước làn sóng chống đối càng lúc càng dâng cao, đặc biệt là thái độ phản kháng một cách quyết liệt tại những nơi mà trong chương trình Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ tới với danh nghĩa làm công tác Mục Vụ, tôi nghĩ là Hồng Y Phạm Minh Mẫn nên xem xét lại việc xuất hiện trong ĐHGTTG ở Sydney. Trong quá khứ đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng sản tại Úc Châu đã nhiều lần chứng tỏ sự đoàn kết quyết tâm bảo vệ lá cờ vàng ba sọc đỏ và không bao giờ khoan nhượng trong việc thẳng tay tẩy trừ những kẻ nào có manh tâm muốn gieo rắc ảnh hưởng của chế độ Cộng sản Việt Nam tại đất nước này.

Vai trò Mục Vụ của Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong những chuyến thăm viếng theo đúng nghĩa là đem an bình và hợp nhất đến cho đàn chiên. Nhưng trong lần tham dự ĐHGTTG sắp tới tại Sydney, đã có nhiều dấu hiệu cho thấy Hồng Y Phạm Minh Mẫn chẳng những không mang lại được cho đàn chiên Công Giáo tại Úc Châu sự hợp nhất và bình an, mà còn có thể gây ra sự phẫn nộ, chia rẽ và rối loạn trong Cộng đồng người Việt tỵ nạn tại quốc gia này. Như vậy, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đến Sydney trong dịp đó để làm gì? Nếu vì một lý do nào khác mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn vẫn phải xuất hiện tại ĐHGTTG ở Sydney thì chắc chắn ngài sẽ thất vọng vì “sự cố” mà ngài đã viết trong thơ là “làm tắc nghẽn sự hiệp thông của các bạn trẻ VN” ở ba lần ĐHGTTG trước tại Pháp, Đức và Canada, lần này chắc chắn sẽ được đồng bào tỵ nạn ở Úc Châu bày tỏ cách dữ dội hơn. Không lẽ khi thấy cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện trong ĐHGTTG, lúc đó Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ rời ghế đứng dậy ra về?

Tôn vinh lá cờ vàng ba sọc đỏ cho dù bị Hồng Y Phạm Minh Mẫn cho là: “Có lúc chỉ biểu trưng một thói đời mang tính đối kháng”, điều này cũng không có gì khó hiểu. Là một linh mục Việt Nam tỵ nạn Cộng sản, tôi xin nói rằng đồng bào tỵ nạn Cộng sản ở Hải Ngoại và ngay cả đại đa số những đồng bào đang phải sống ở trong nước vì hiểm họa Cộng Sản sau biến cố đau thương 30/4/1975, trong tâm tư mỗi người luôn ấp ủ hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ. Đó là linh hồn của Dân Tộc Việt.

Lá cờ vàng ba sọc đỏ là hình ảnh mạnh mẽ nhất mà những đồng bào tỵ nạn đã may mắn trốn chạy thoát khỏi chế độ độc tài Cộng sản dùng để bày tỏ sự đối kháng chế độ phản dân hại nước và những kẻ làm tay sai cho chúng.

Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ




CỜ VÀNG TRONG ĐẠI HỘI THANH NIÊN THẾ GIỚI
QUAN NIỆM CỦA HỒNG Y PHẠM MINH MẪN


Saigon Times


Trung tuần tháng 7 năm 2008, Đại Hội Thanh Niên Công Giáo Thế Giới (WYD) sẽ được tổ chức tại Sydney, quy tụ hàng trăm ngàn thanh niên Công Giáo đến từ các quốc gia, trong đó có đông đảo thanh niên Công Giáo Việt Nam hải ngoại. Nhận thấy đây là cơ hội để tuyên truyền cho chế độ CSVN, đồng thời nguỵ tạo bộ mặt tự do tôn giáo với thế giới, và tạo phân hóa cộng đồng Công Giáo Việt Nam trong và ngoài nước, CSVN đã nham hiểm và thâm độc tìm mọi cách thao túng, lũng đoạn Đại Hội, qua nhiều hình thức, giật dây nhiều nhân vật, bao gồm cả một số vị linh mục. Hiểu được truyền thống của Đại Hội WYD từ xưa đến nay thường xuất hiện đông đảo thanh niên Công Giáo Việt Nam hải ngoại cùng với Cờ Vàng, CSVN đã một mặt cho xuất ngoại khoảng 600 thanh niên Công Giáo trong đó có nhiều "cán bộ đảng, đoàn thanh niên CS Hồ Chí Minh", mặt khác CS tìm mọi cách triệt hạ Cờ Vàng trong Đại Hội.

Là nạn nhân của chế độ CS trong suốt thời gian hơn nửa thế kỷ, hiển nhiên người Công Giáo Việt Nam trong và ngoài nước không lạ gì âm mưu và thủ đoạn của CS. Tuy nhiên, điều khiến mọi người Công Giáo Việt Nam ngạc nhiên là chính Hồng Y Tổng Giám Mục Phạm Minh Mẫn, trong lá thư đề ngày 4 tháng 6, 2008, đã có những lời lẽ công khai toan tính triệt hạ Cờ Vàng, qua những đoạn 2, 3 và 4 nguyên văn như sau:

    "2. WYD ba lần trước ở Pháp, Đức, Canada, đều có một sự kiện mà một số bạn trẻ ở một số nơi coi như một sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN. Sự cố đó là lá cờ vàng ba sọc đỏ đã được dương lên trong lúc các bạn trẻ VN từ nhiều châu lục quy tụ lại để cử hành phụng vụ hoặc sinh hoạt chung.

    "3. Một lá cờ biểu tượng cho điều gì? Có lúc lá cờ được coi là biểu tượng cho một đất nước, lúc khác được coi là biểu trưng một chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc gia... Có lúc chỉ biểu trưng một thói đời mang tính đối kháng. Giám mục của tôi, cách đây hơn 30 năm, lúc còn sinh thời, đã để lại cho các tín hữu và cho bản thân tôi bài học lịch sử nầy: người mẹ VN, lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc áo rách, vẫn là người mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục con dân VN, vẫn là người mẹ đã để lại cho dân tộc VN một di sản vô giá. Di sản đó là truyền thống văn hoá của dân tộc VN, một nền văn hoá khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức. (như Tứ hải giai huynh đệ; Chuyện hôn nhân là chuyện trăm năm, là mối tình chung thuỷ; Lá lành đùm lá rách...)

    "4. Mặt khác, lịch sử thế giới xác minh hai sự thật nầy: (1) đời sống cũng như tinh thần hiệp thông trong Giáo Hội Công Giáo chưa bao giờ được xây trên nền tảng một chủ nghĩa trần thế, hay một thói đời mang tính đối kháng; (2) một chủ nghĩa trần thế , dù là tư bản, hay cộng sản, hay quốc gia, bao giờ cũng tạo nên sự phân rẽ mang tính đối kháng và loại trừ nhau trong lòng một dân tộc, trong hàng ngũ con cái chung một mẹ."

Như chúng ta đã biết, mục đích và ý nghĩa của Đại Hội WYD từ xưa đến nay vô cùng cao đẹp, giống như sứ mạng của tôn giáo, trong đó có đạo Công Giáo là, gieo rắc niềm tin tôn giáo, giúp mọi người làm điều thiện, tránh điều dữ, mà chủ nghĩa cộng sản vô thần (trong đó có cộng sản VN) là đối tượng những người công giáo chân chính phải tiêu diệt. Vì hiểu rõ điều đó nên từ xưa đến nay trong các Đại Hội WYD, Cờ Vàng luôn xuất hiện, và Ban Tổ Chức của các Đại Hội WYD không hề có bất cứ văn thư hay lời tuyên bố nào phản đối. Không những vậy, trong văn thư mới nhất gửi các vị lãnh đạo cộng đồng người Việt tự do tại Úc, Giám Mục Anthony Fisher OP, đặc trách điều hợp toàn bộ Đại Hội WYD 2008 tại Sydney, còn khẳng định, việc thanh niên Công Giáo Việt Nam mang theo Cờ Vàng khi tham dự Đại Hội không những là quyền tự do, mà còn là điều đáng khích lệ và ca ngợi vì điều đó thể hiện rực rỡ màu sắc đa dạng và đa văn hóa của Đại Hội. Rất tiếc, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã không thấu hiểu được tư tưởng trong sáng và ý nghĩa cao cả này của Đại Hội. Không những vậy, Hồng Y Phạm Minh Mẫn còn không thấu hiểu nhân tâm của dân tộc Việt Nam trong đó có người Công Giáo Việt Nam, qua lời dậy của chính Giám Mục của Ngài cách đây 30 năm.

Hồng Y Phạm Minh Mẫn viết: "Giám mục của tôi, cách đây hơn 30 năm, lúc còn sinh thời, đã để lại cho các tín hữu và cho bản thân tôi bài học lịch sử nầy: người mẹ VN, lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc áo rách, vẫn là người mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục con dân VN, vẫn là người mẹ đã để lại cho dân tộc VN một di sản vô giá."

Đọc đoạn thư trên, ta thấy Hồng Y Phạm Minh Mẫn chỉ thấy được cái bề ngoài "người mẹ VN có lúc mặc áo vàng, có lúc mặc áo đỏ" mà không thấy được tình cảm của người Mẹ VN khi mặc áo vàng là tự nguyện, là hạnh phúc, là thấy Đời với Đạo hợp nhất; còn khi mặc áo đỏ là bị bắt buộc, là đau khổ, là thấy Đời trái ngược với Đạo.

Bằng chứng hiển nhiên, năm 1954, hàng triệu người Công Giáo VN đã từ bỏ chiếc "áo đỏ" để lũ lượt di cư vào Nam; rồi sau 1975, hàng triệu người Việt trong đó có rất đông người Công Giáo Việt Nam, cũng đã từ bỏ chiếc "áo đỏ" để lũ lượt vượt biển vượt biên, chấp nhận mọi rủi ro sinh tử; và đặc biệt cuộc sống cơ cực của dân tộc VN, trong đó có hầu hết người Công Giáo VN (ngoại trừ một số người bao gồm Hồng Y Phạm Minh Mẫn), phải mặc "áo đỏ" kể từ sau 1975, đã chứng tỏ "áo đỏ" là thảm họa cho dân tộc, cho đất nước quê hương, cho Đạo; và "áo vàng" là lý tưởng là hạnh phúc cho dân tộc, cho quê hương đất nước và cho Đạo.

Như vậy, rõ ràng Hồng Y Phạm Minh Mẫn tuy nghe lời dậy chân tình của Giám Mục từ hơn 30 năm trước, nhưng Ngài đã không hiểu. Rồi trải qua thời gian hơn 30 năm qua, chính Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã mắt thấy tai nghe không biết bao nhiêu tang thương của đất nước, của dân tộc, của Đạo Công Giáo, do những người CS gây nên, khi mẹ Việt Nam phải mặc "áo đỏ", nhưng Hồng Y Phạm Minh Mẫn vì lý do này, hay lý do khác, Ngài cũng không hiểu. Nguy hiểm hơn nữa cho Giáo Hội VN, Ngài lại ở cương vị của một người lãnh đạo khả kính, nên sự không hiểu của Ngài đã tạo nên những tác hại vô cùng to lớn. Và như vậy, chúng ta mới nhận thấy, nguyên nhân gây nên những thảm kịch cho dân tộc Việt Nam, cho tôn giáo VN, trong đó có đạo Công Giáo VN, không phải chỉ có chủ nghĩa CS vô thần mà còn vì những người lãnh đạo tinh thần như Hồng Y Phạm Minh Mẫn.

Saigon Times

Hình ảnh diễn hành Ngày Độc Lập Hoa Kỳ

Diễn Hành Ngày Độc Lập Hoa Kỳ