Friday, August 13, 2010

Mặt trận kháng chiến "BỊP" dzịt tiềm

    Mặt trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh Lừa bịp ngay từ lúc đầu !


Lúc 12 giờ 18 phút ngày 5/12/2000 Ký giả Tân Dân của báo Quê Hương thực hiện cuộc phỏng vấn ký giả Hoàng Xuyên của bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong, ký giả đầu tiên được mời đến chiến khu biên thùy Ðông Dương của MT Hoàng Cơ Minh tham dự buổi ra mắt ”Cương Lĩnh của Mặt Trận"

Cuộc phỏng vấn dài 16 trang A 4 người viết xin chép lại nhiều kỳ trên Tinparis để quý độc giả rộng đường dư luận.Cùng nhận diện những tên đại bịp cả dân tộc từ "Giải Phóng đến Canh Tân "…..

- Sơn Tùng -
Bài của ký giả Tân Dân

Lời mở đầu: Cụ Hoàng Xuyên là nhà báo đầu tiên được "Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam" mời vào Khu Chiến tham dự Lễ Tuyên Bố Bản Cương Lĩnh Chính Trị. Sau khi ở Khu Chiến về cụ Hoàng Xuyên viết một loạt bài du ký tả lại cuộc đi thăm Khu Chíến được đăng trên bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong xuất bản tai Arlington, Virginia khiến Mặt Trận được đồng hương trên thế giới cuồng nhiệt hoan nghênh đưa tin "Mặt Trận" lên tận may xanh như thể Việt Nam chắc chắn sắp được giải phóng khỏi ách thống trị bạo tàn của Cộng Sản.

Số tiền do đồng hương yểm trợ vượt kỷ lục trong một thời gian ngắn đã thu được một số tiền khổng lồ, lên tới hàng chục triệu Mỹ kim. Song song với chiến dịch làm tiền đồng hương, Ban Kinh Tài của Mặt Trận cũng ráo riết hoạt động, 4 tàu đánh cá, nhiều nhà in và con số chưa phải là cuối cùng, 38 tiệm Phở Hoà được khai trương tại nhiều tiểu bang có đông người việt cư ngụ, đó là chưa kể Âu châu, Úc châu và Gia Nã Ðại …

Ðể hiểu rõ thêm về cái gọi là "Mặt Trận” đã có lần ồn ào ấy thật sự có muốn dấn thân làm lại lịch sử giải phóng quê hương hay chỉ lợi dụng lòng căn thù Cộng Sản của Người Việt hải ngoại mà bầy trò kháng chiến bịp bợm với mục đích duy nhất móc túi đồng hương một cách trắng trợn, chúng tôi nghĩ không cách gì bằng phỏng vấn cụ Hoàng Xuyên để có thêm một tiếng chuông vô tư có những điều chưa được nói ra về cái Mặt Trận vang bóng một thời.

Hỏi: Thưa bác Hoàng Xuyên , bác là nhà báo dầu tiên được về thăm Chiến Khu của “ Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” mà người ta thường nôm na là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, tuy nay đã rõ rệt trắng đen nhưng còn là đề tài để đồng hương tranh luận. Có nhiều người đến nay vẫn mù quáng hoạt động cho Mặt Trận ấy, nhưng hầu hết đều kết tội bọn chủ chốt anh em Hoàng Cơ Minh, Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Ðịnh đều là những tên đại bịp mà các ông Phạm Văn Liễu, Phạm Ngọc Lũy Trần Minh Công vì ngây thơ nhẹ dạ cũng mang tiếng lây. Bác không phải là đoàn viên của Mặt Trận, chỉ là một nhà báo duy nhất được mục kích cái Khu Chiến giả tạo và tham dự "Lễ Tuyên Bố Bản Cương Lĩnh Chính Trị" tiếng nói của bác chắc chắn trung thực để gióng lên tiếng chuông vô tư theo sự tai nghe mắt thấy hầu làm sáng tỏ thêm vấn đề. Trước hết xin hỏi tại sao không là người khác , mà bác lại là người may mắn được vào thăm Khu Chiến ?

ÐÁP: Tôi xin đính chính ngay, đó là một "đại bất hạnh", một sai lầm to lớn, chớ không phải là may mắn khi tôi nhận lời đại diện tờ Văn Nghệ Tiền Phong đi về cái Chiến Khu "dổm" đó để cũng bị mang tiếng lây ! Chuyện Mặt Trận Hoàng Cơ Minh cũ rích rồi, bươi ra làm gì nữa đề đồng hương lợm giọng.

Hỏi: Xin bác cho đồng hương biết ý kiến

ÐÁP: Tôi quen ông Phạm Văn Liễu khi còn ở Sài Gòn. Năm 1975 khi tỵ nạn Hoa Kỳ, ông Liễu thường liên lạc với tôi, tâm tình cho tôi biết sơ qua về dự định thành lập mặt trận với nguyên trung tướng Nguyễn Chánh Thi, rồi sau với cựu phó đề đố Hải Quân VNCH Hoàng Cơ Minh. Dĩ nhiên tôi hết sức khuyến khích.

Tháng 7 năm 1981, ông Liễu từ Nam Cali điện thoại cho tôi biết hôm sau sẽ cùng bốn người nữa đến nhà tôi ở Milpitas và yêu cầu "tiện nội" tôi sửa soạn cho bữa cơm 5 người ăn. Khoảng 2 giờ chiều. Liễu đến giới thiệu với tôi những kkuôn mặt mà tôi chưa hề biết lần nào như Hoàng Cơ Minh, luật sư Vũ Ngọc Tuyền, luật sư Nguyễn Tường Bá và Phạm Ngọc Lũy. Tôi được mời dự thính hội nghị bàn tròn để nghe Hoàng Cơ Minh phân tích về tình hình thế giới liên quan đến "cái thế "xuống dốc của Cộng Sản Việt Nam và sự cần thiết khẩn cấp có một lực lượng võ trang của người Việt hải ngoại bắn một tiếng súng khai hoả là các tổ chức cách mạng chống cộng trong nước đồng loạt nổi dậy thì "cái thế tất thắng " (Minh thường dụng cụm từ này) chắc chắn rõ rệt như hai cộng hai là bốn. Cuối cùng Minh cho biết hai tuần sau sẽ có một số cán bộ từ Hoa Kỳ về Khu Chiến. Trong lúc ăn cơm Liễu cho biết Phạm Ngọc Lũy đã nhận lời giữ vai hề "Chủ Tịch Ủy Ban Yểm Trợ Kháng Chiến Trung Ương" và yêu cầu luật sư Vũ Ngọc Tuyền nhận chức Ủy Trưởng Tài Chánh còn tôi làm phụ tá. Ông Tuyền và tôi đều giữ yên lặng, không nhận lời mà cũng không từ chối. Tin buổi họp này bị tiết lộ nên một vài tờ báo Việt ngữ địa phương đăng tin rằng nhà con trai tôi là địa điểm của một buổi họp kín lịch sử. Ít hôm sau tôi gọi điện thoại hỏi luật sư Vũ Ngọc Tuyền về vai tuồng được mời thì ông cười trả lời "Ðó là các ông âý đề nghị chứ tôi đã nhận lời đâu". Tôi trả lời cũng cùng quan điểm.

11 giờ đêm ngày 10/12/1981 Liễu gọi điện thoại cho tôi từ Sacramento rủ tôi về Khu Chiến. Trong lúc ngái ngủ tôi hỏi không suy nghĩ “Khu Chiến nào" Liễu cười chê tôi là anh cả quỷnh rồi. "Ngoài MTQGTNGPVN thì làm gì còn có Mặt Trận nào để rủ về Khu Chiến". Tôi hỏi tại sao lại rủ một anh già yếu như tôi thì Liễu cho biết Ðài Truyền Hình CBS đã cử cameraman Nguyễn Ngọc Ấn. Liễu biết tôi có một số kinh nghiệm về nhiếp ảnh nên yêu cầu tôi cùng đi để phụ trách thu vào ống kính những bức ảnh lịch sử mà anh vững tâm tôi có thừa điều kiện làm việc đó.

Hỏi: Bác nhận lời?

Ðáp: Không, tôi từ chối ! Tôi nhắc cho Liễu biết, tôi đã 64 tuổi (năm 1981) Sức đâu mà băng rừng lội suối, trèo non thì Liễu thuyết phục rằng phụ nữ người ta còn đi về như đi chợ, còn tại sao một "lão gân" như tôi lại không đi được? Rồi anh cho biết, đến biên giới thì có anh em chiến sĩ võ trang, đón hướng dẫn váo Chiến Khu, họ sẽ mang hết hành lý, máy ảnh, máy quay phim mình chỉ chống gậy thơ thới hân hoan đi, khi nào mệt thì dừng lại nghỉ. Liễu cũng cho biết hành trình từ biên giới vào khu chiến mất hai ngày. Tôi hỏi biên giới nào, thì Liễu trả lời: Bí mật quân sự đến nơi sẽ biết! Tôi yêu cầu để tôi suy nghĩ rồi bàn với tiện nội nếu đi đưọc tôi sẽ trả lời, thì Liễu muốn tôi nhận lời ngay bằng cách cho tôi biết là có cả Phạm Ngọc Lũy, Hồ Anh chủ nhiệm báo Văn Nghệ Tiền Phong và một kỹ sư trẻ tuổi ỏ Oregon cùng đi. Ðến Bangkok sẽ có "phái đoàn Nhật Bổn” gồm một giáo sư người nhật tên Tonoko và một số sinh viên Việt Nam trong nhóm Người Việt Tự Do sống lâu năm ở Nhật, trong đó có Ngô Trí Dũng, Nguyễn Văn Ðoàn vân vân … sẽ cùng nhập bọn đi Chiến Khu.

Tôi vẫn không dứt khoát nhận lời.

Còn hai tuần lễ trước ngày lên đường Liễu gọi điện thoại cho tôi biết Hồ Anh và Phạm Ngọc Lũy bị bệnh không đi được. Ðể tôi trả lời dứt khoát nếu không sẽ tìm người khác, Liễu cho biết Hồ Anh đề nghị sẽ trả tiền vé máy bay khứ hồi cho cả Liễu và tôi với điều kiện tôi nhận lời viết bài tường thuật cho báo Văn Nghệ Tiền Phong. Tôi gọi diện thoại cho Hồ Anh để làm sáng tỏ vấn đề. Ðồng thời tôi cũng bảo Hồ Anh nên cố đi để viết theo đường lối của tờ báo thì anh ta thuyết phục tôi rằng cứ việc ghi đầy đủ tất những gì tai nghe mắt thấy rồi về viết lại, nếu cần thì anh ta sẽ hiệu chính sau.

Sau cùng Hồ Anh bảo tôi cứ viết những bài tôi đã viết cho VNTP trong năm năm qua mà Lê Triết đã có lần "cho điểm” là văn viết vững, rất Pro ! Thật ra trước năm 1975 tôi đã từng là thông tín viên của chiến trường cho NBC, KTLA Los Angeles, British Commomwealth International Agency và thông tín viên tự do (free lancer) cho UPI, AP và tuần báo newsweek, v.v... trong 13 năm với những biến cố sôi động xảy ra hằng ngày tại Việt Nam, tôi đã viết hàng ngàn bài tường thuật bằng Anh văn. Vậy thì một bài tường thuật tầm thường dù là "du ký về Chiến Khu" có gì mà không viết nổi. Tôi dè dặt vì chơi với Hồ Anh từ lâu biết tính tình anh ta trở mặt …[……..] không trích.

Hỏi: Ðã biết thế sao bác lại nhận lời đi Khu Chiến để viết bài cho VNTP

Ðáp: Vì Hồ Anh than rằng hắn thật sự bị bệnh và quá bận, năn nỉ tôi cố gắn giúp hắn, hắn đã đưa tiền cho Liễu mua vé máy bay khứ hồi cho Liễu và tôi rồi. Vốn có máu giang hồ, cộng với lòng tò mò muốn biết sự thật có kháng chiến hay không, sau bàn sơ qua với tiện nội, một giờ sau tôi điện thoại dứt khoát nhận lời mời đại diện cho VNTP đi Khu Chiến.

Theo lời yêu cầu của Liễu từ hai hôm trước, mọi người phải có mặt trước 5 giơ chiều Chủ Nhật 22/2/82 tại nhà Nguyễn Văn N, một đoàn viên của Mặt Trận ở Oakland để cùng ra phi trường San Francisco. Ðến nơi tôi thấy cả Phạm Ngọc Lũy, Hồ Anh không ai có dáng điệu gì đau ốm cả. Tôi hỏi thì Liễu nói nhỏ vào tai tôi "họ là những con thỏ gan to bằng ... con kiến. Thôi đừng hỏi nữa". Sau bữa cơm do các anh chị em đoàn viên Mặt Trận khu Oakland khoản đãi để chúc chúng tôi … một ra đi sẽ trở về!

Phái đoàn Hoa Kỳ chính thức lên đường gồm có Phạm Văn Liễu bí danh Trần Trung Sơn trưởng đoàn, tôi đại diện bất đắc dĩ tờ báo […bỏ hai chữ] VNTP, Nguyễn Văn Ấm quay phim cho CBS, kỹ sư trẻ tuổi Trường Sơn Bổn từ Oregon tới. Chúng tôi được khoản 20 đoàn viên Mặt trận đưa tiễn tại phi trường San Francisco. Mọi người vui vẻ đứng chụp hình lưu niệm với phái đoàn, dĩ nhiên không ảnh nào thiếu mặt hai con "thỏ đế". Lợi dụng lúc nhân viên đài truyền hình CBS phỏng vấn Phạm Văn Liễu trước khi lên phi cơ, Hồ Anh kéo tôi ra một nơi dặn dò tôi nhớ ghi mọi chi tiết những gì tai nghe, mắt thấy để về viết bài và chụp nhiều ảnh. Tôi riễu "biết rồi khổ lắm nói mãi".

11 giờ đêm chúng tôi vui vẻ bước lên phi cơ và sau 15 giờ bay chúng tôi đến phi trường quốc tế Bangkok. Ra đón tại phi truờng có Nguyễn Kim Hườn, bí danh Nguyễn Kim (hiện giữ chức Tổng Vụ Hải Ngoại sau khi Phạm Văn Liễu bị anh em Hoàng Cơ Minh hạ bệ) rồi ông bà Nguyễn Chí Trung bí danh Phạm Thái Hòa (Hồi còn mồ ma VNCH, ông Trung được BS Trần Kim Tuyến cử sang làm tình báo tại Tòa Ðại Sứ VNCH tại Bangkok, sau miền nam Việt Nam sụp đổ, ông Trung ở lại và trở thành công dân Thái. Ông bà Trung rất thạo Thái ngữ nên đã thành công trong công tác môi giới trung gian với giới chức thẫm quyền Thái Lan thuê đất rừng để làm Chiến Khu cho Mặt Trận). Phái đoàn Nhật Bản gồm năm thanh niên cũng ra đón tại phi trường để cùng nhập bọn với chúng tôi đi Khu Chiến.

Hỏi: Bác có thể "bật mí" cho biết đích xác Khu Chiến nằm ở đâu không ?

Ðáp: Trong loại bài du lý của tôi chỉ có một đoạn bắt buộc tôi phải viết sai vị trí của Mật Khu, vì cả Hoàng Cơ Minh lẫn Phạm Văn Liễu đều nhiều lần nhắc nhở mọi người, nếu muốn CSVN đem máy bay đến tàn sát thì hãy tiết lộ địa điểm Mật Khu, cho mọi người biết. Chúng tôi nghĩ vấn đề quan trọng là họ có thật sự chiến đấu hay không, còn vấn đề giữ bí mật địa điểm Mật Khu là điều mà không cần dặn chúng tôi, chúng tôi cũng có ý thức bảo mật điều đó. Ít năm sau, mặt nạ bịp bợm của Mặt Trân phơi bày, tôi đã viết mội bài trần tình coi như "viên đạn ân huệ" (coup de grâce) đăng trong VNTP số 233 kể rõ tất những bịp bợm và nói rõ địa điểm Khu Chiến nằm sau trên lãnh tổ Thái Lan, thuộc tỉnh Ubon, làng Bultarit, cách biên giới Cao Miên khoảng 15 cây số.

Tôi xin kể tiếp là sau khi chúng tôi ra khỏi phi trường Bangkok thì ông bà Nguyễn Chí Trung hướng dẫn mọi người lên hai chiếc xe Toyota minivan đi đến Ubon cách Bangkok khoảng 500 kilomét về phía Ðông Bắc, ngừng lại một tiệm ăn nhỏ để dùng bữa. Thái Lan có khỏang 500 ông đại tướng, mỗi ông chia nhau làm chủ một cơ sở thương mại; ông thì làm chủ một số nhà tắm hơi, ông thì cai quản một số sòng bạc, ông thì có một số ổ mãi dâm, vân vân … Ðại tướng Sud Sai làm vua vùng Ubon để khai thác gỗ đồng thời cho thuê một số đất rừng hoang để tổ chức chiến khu như loại Chiến Khu Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Văn Chức ( công binh) vân vân ... có lần Nguyễn Chí Trung hỏi tôi nếu tôi muốn có mấy mẫu đất để làm "chiến khu", chỉ cần chi cho tướng Sud Sai 20,000 Mỹ kim tiền vào cửa là xong, ngoài ra chỉ phải trả mỗi tháng 3,000 Mỹ kim tiền thuê ….

Bất hạnh cho dân tộc Việt luôn bị lừa, từ tên tay sai Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản Hồ Chí Minh (HCM) đánh lừa dân tộc qua chiêu bài "giải phóng bởi thực dân đế quốc phong kiến" Hoàng Cơ Minh (HCM) và bè lũ Việt Tân đã và đang lạm dụng lòng căm thù đế quốc cộng sản cai trị dã man tàn ác đè đầu cởi cổ dân ta cũng với chiêu bài "giải phóng" đến bánh vẽ "canh tân".

Nhìn vào những bản mặt ba xu của đám côn đồ Việt Tân ở Úc bọn này đang manh tâm thôn tính các HỘI CỘNG ÐỒNG khuynh loát tài chánh, khống chế, hăm dọa, hành hung, bức hại người dân lương thiện như những ngày đầu khởi xướng "bạo lực cách mạng" của Hồ Chí Minh và bè lũ Việt Minh.

Hoàng Cơ Minh đứng ra thành lập Mặt Trận Thống Nhất Giải Phóng Việt có phải vì quê hương, vì dân tộc hay lợi dụng lòng căm thù Cộng Sản của nhân dân để móc túi đồng hương và đánh lừa dân tộc. Xin mời quý vị đọc tiếp:

Cơm nước xong mọi người lại lên xe, chạy thêm khoảng 30 cây số thì đến một làng hẻo lánh có tên là Bultaret nằm ngay bên cạnh một khu rừng già. Xe đến một con đường mòn độc đạo có một khúc cây dài chắn ngang do hai ba anh lính địa phương đứng gác. Ông Trung xuống xe đưa cho hai người lính xem giấy phép của Thủ Tướng Thái Lan ký. Anh lính xem xong, chạy vào đồn trình một sĩ quan cấp trên. Viên sĩ quan trẻ tuổi đi ra nói với ông Trung rằng anh không biết Thủ Tướng là ai, chỉ được lệnh của Ðại Tướng không cho ai vào nếu không có giấy pháp do chính Ðại Tướng ký. Thì ra câu "quan thì xa, mà bản nha thì gần" được áp dụng khắp mọi nơi. Ông Trung cố thuyết phục viên sĩ quan trẻ tuổi nhưng vô hiệu, đành phải cho xe lui đến một phòng ngủ rẻ tiền gần đó, mọi người xuống để ông bà Trung lái xe về Bangkok vận động.

Chúng tôi ăn chực nằm chờ ở Bultarit 12 ngày. Ông bà Trung trở lại với giấy phép của Tướng Sud Sai sau khi đã nộp 2,000 Mỹ kim tiền mãi lộ. Sáng ngày 7/3/1982 chúng tôi rời phòng ngủ lại lên xe vượt qua gát canh để vào đường mòn dẫn đến một khu rừng rậm, xuất hiện 5 người ăn mặc quần áo đen tay cầm súng. Nhạc sĩ Trần Thiện Khải, bí danh Trần Khánh tươi cười tiến đến cho biết anh được lệnh dẫn một tiểu đội đến đây đón chào chúng tôi và hướng dẫn mọi người vào Khu Chiến.

Anh phát cho mỗi người một bộ bà ba đen, một đôi dép râu ‘’Bình Trị Thiên’’ một khăn rằn ri và một chiếc mũ đen, rồi yêu cầu mọi người vào gốc cây hay bụi rậm gần đó để thay quần áo. Mười phút sau chúng tôi đã thật sự "lột xác" thành những dị nhân … nửa người nửa ngợm. Thì Trần Khánh yêu cầu mọi người tập hợp để anh thuyết trình, anh lập lại lời đã nói: "Tôi được lệnh chiến hữu Chủ Tịch ra đây đón chào chiến hữu Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại (Phạm Văn Liễu) và quý vị trong phái đoàn Hoa Kỳ và Nhật Bổn và mời quý vị theo tôi vào Mật Khu của chúng ta. Ðường vào mật khu có hơi vất vả, nhưng các anh em chiến sĩ chúng tôi vừa có bổn phận hộ tống, vừa mang hành lý dùm cho quý vị. Ngoài ra , xin quý vị cứ an tâm suốt lộ trình vào Mật Khu đều có đều có binh sĩ võ trang của ta đóng rải rác. Ðường đi mất hai ngày, chúng ta cũng sẽ ngủ lại đêm tại một trạm giao liên".

Phải nói rằng Hoàng Cơ Minh và đồng bọn đã mất khá nhiều ngày giờ để soạn thảo một vụ bịp có quy cũ, mặc dù đôi khi tréo cẳng ngỗng vì ông nói gà bà nói vịt!

Ði được một đoạn đường khá xa, đến một cái đồi dưới ánh nắng khó chịu vùng nhiệt đới thì Khải cho biết có một phụ nữ vào thăm Khu Chiến đến đây bị mệt xỉu nên anh em chiến sĩ đặt địa danh nơi đây là "đồi Bà Xỉu". Rồi đến một khu đầy dây leo chằng chịt thì cũng có tên là "đồi Tarzan" rồi "suối Yamamoto" để kỷ niệm một thân hữu Nhật Bổn đã vào Khu Chiến đến đây vì nóng bức quá phải xuống tắm. Quá trưa, mọi người ngừng dưới một khu rừng rậm, bóng mát dầy đặc, trên nhiều cây cổ thụ có những cụm lan rừng nở đầy hoa. Gần đó là một vũng nước đọng trên vài khối đá to bằng cánh phản đầy rêu và cung quăng bơi lội.

Khải nói địa danh này là “hồ Xuân Hương”. Ăn trưa xong, mọi người lại khăn gói bị gậy lên đường đi một quãng qua “Suối Mơ”, vì cách đó khoảng 500 mét có một cái thác nhỏ. Vất vả nhất là lúc băng qua một vùng cát trơ trụi không cây cối dài khoảng 4 cây số. Nắng trên trời chiếu xuống hắt hơi nóng dưới cát lên khiến mọi người vô cùng khó chịu, nơi này cũng được đặt tên là “sa mạc Kháng Chiến”. Khi mặt trời đã lặn, chúng tôi đến một nơi có sẵn một nhà sàn, mái tranh, vách lá còn khá mới mà Khải nói đó là “trạm giao liên”. Các anh em “chiến sĩ” chia nhau công tác, người thì đem thức ăn ra (sôi nếp, muối vừng, cá khô, lạp xưởng ...), người lo chụm lửa nấu nước, người lo trải báo làm nơi bày thức ăn. Các anh em khác vác súng chia nhau mỗi người một góc để bảo vệ an ninh cho mọi người. Ðêm hôm đó, chúng tôi được nằm trên căn nhà sàn ọp ẹp, còn các anh em “chiến sĩ” thì móc võng nằm chung quanh.

Sáng hôm sau, mặt trời vừa hừng sáng, mọi người lại chuẩn bị lên đường. Từ đây đường đi phần nhiều dưới bóng mát và ít phải leo trèo nên đỡ mệt. Khoảng quá ngọ, chúng tôi được hướng dẫn leo lên một ngọn đồi đầy tre già mọc chi chít. Ðến một ven đồi, Khải chỉ cho mọi người thấy xa xa phía dưới khoảng 5 cây số đường chim bay, có đường mòn và rải rác vài căn nhà tranh mà Khải nói đó là “khu vực của Việt Cộng”, rồi y phịa ra những chuyện giật gân rằng khoảng nửa năm về trước, hai chiến sĩ của ta đã phục kích chỗ gần bản doanh của địch, phá hủy một xe Jeep, giết chết hai tên Việt Cộng, nhưng một trong hai “chiến sĩ anh dũng” của ta đã đền nợ nước. Cái đặc biệt là tuy chết nhưng chiến sĩ can trường của ta vẫn ôm trong người khẩu tiểu liên!

Mỗi người tìm một chỗ dưới rặng tre để ngồi nghỉ trong khi Khải ra lệnh cho ba chiến sĩ trong “đội thám báo” đi trước thám thính xem có an toàn hay không. Nửa giờ sau, Khải cho biết các chiến sĩ đã trở về và cho biết tình hình tương đối an toàn nên mọi người âm thầm luồn lách qua những rặng tre để đi thêm khoảng 30 phút thì trong bụi rậm nhô ra “chiến hữu chủ tịch” và “bộ tham mưu” của ông. Sau này tôi đoán 3 anh “thám báo” chỉ là “đóng kịch” cho có vẻ quan trọng, thật ra họ đi trước báo cho Hoàng Cơ Minh biết chúng tôi đã đến nơi để ra đón.

Hỏi: Ngày giờ ... “lịch sử” ấy là ngày nào?

Ðáp: Khoảng 2 giờ chiều (giờ địa phương) ngày 7/3/1982. Hoàng Cơ Minh gầy gò, mảnh khảnh trong bộ bà ba đen, râu ria cũng gần giống ... già Hồ! Ðầu tiên, “ông Chín” (bí danh của Minh) tiến đến ôm chặt, bắt tay Phạm Văn Liễu và tươi cười nói:

“Ðây là Chiến Khu của chúng ta, xin mời tất cả các chiến hữu đi theo tôi”. Rồi ông ôm từng người và giới thiệu các chiến hữu trong Bộ Tham Mưu gồm có thiếu tướng Tư Lệnh Lê Hồng, bí danh Ðặng Quốc Hiền, Nguyễn Trọng Hùng, Trần Văn Lộc, Hoàng Nhật, v.v... Ði khoảng 100 mét thì đến “đại bản doanh” (sic!) của Mặt Trận. Ðây là một khu đất rừng khoảng hơn một mẫu tây, cây nhỏ và cỏ tranh được dọn sạch, chỉ còn rải rác một số cây cổ thụ. Mọi người được dẫn vào “hội trường” là một căn nhà mái tranh, vách tre dài khoảng 15 mét, rộng 5 mét. Cuối nhà là một bàn thờ Tổ Quốc làm bằng cây rừng cao khoảng 1 mét 30, trên tường có hình bản đồ Việt Nam đè lên lá quốc kỳ Việt Nam màu vàng ba sọc đỏ. Trên bàn thờ ở giữa là một lư hương lớn bằng đồng khói hương nghi ngút, hai bên có hai cây cắm nến (chandeliers) cũng bằng đồng, một bên là đĩa trái cây, một bên là một bình bông cắm các loại hoa rừng. Dọc theo chiều dài của các bức tường, treo rải rác những cụm hoa lan (orchids) đủ màu sắc. Ðầu bên này căn nhà, đối diện với bàn thờ là lá quốc kỳ VNCH được ghim chặt vào tường. Giữa căn nhà, theo chiều dài là một bàn dài làm bằng thân cây rừng, hai bên có hai dẫy ghế dài cũng làm bằng thân cây còn cả vỏ. Ðầu bàn hướng về phía trên bàn thờ là một ghế cá nhân có dựa tay cũng bằng cây rừng.

Vào đến “hội trường”, Hoàng Cơ Minh ngồi trên chiếc ghế chủ tọa và mời tất cả các “đồng chí” an tọa hai bên. Ngồi cạnh Minh bên tay mặt là Liễu, bên trái dành cho tôi, người lớn tuổi nhất trong đám. Sau những lời chào sáo ngữ, Minh lại “vở cũ soạn lại” kể lể và phân tích những khó khăn Việt Cộng đương gặp phải nhất là vấn đề kinh tế lụn bại, mức sống của người dân sau 7 năm độc lập, thống nhất vẫn đói khổ, Việt Nam được xếp hạng là một quốc gia nghèo nhất thế giới nên dân tình oán trách, những phong trào cách mạng trong nước bí mật thành hình chỉ chờ hải ngoại “bắn súng lệnh” là họ sẽ nhất loạt đứng lên tiêu diệt bọn Cộng Sản khát máu. Ðến phần phát biểu ý khiến, tôi hỏi vấn đề lương thực có đủ cho các anh em chiến sĩ thì Minh đáp: “Nhờ tinh thần vượt mọi khó khăn, quyết tâm diệt Cộng giải phóng quê hương nên các chiến hữu cũng như cá nhân tôi, cơm thì ngày được ăn với cá khô, một tuần phải xen kẽ một vài bữa cháo hoa với trứng vịt muối, đau ốm thì chỉ có aspirin và tylenol". Nói đến đây, Minh vén ống quần lên cho tôi thấy từ đầu gối xuống đến mắt cá chân có nhiều mụn nhọt to bằng vẩy cá hay đồng quarter, rồi nói tiếp: “Chính bản thân tôi bị ghẻ lở như thế này mà cũng không dám bỏ tiền đi khám bác sĩ.” Hít một hơi thuốc lá, Minh lại nói: “Quần áo không ai đủ mặc, nhưng ai cũng vui vẻ hăng hái làm nhiệm vụ.” Tôi lại hỏi: “Sao không sắm lấy ít chiếc nỏ để anh em chiến sĩ săn hươi nai, cáo chồn ... tưởng cũng giải quyết được phần nào vấn đề lương thực.” Minh cười: “Có chứ, thỉnh thoảng cũng hạ được hoặc heo rừng hoặc mang mễn, nhưng hàng ngày thì có hai đồng chí có kinh nghiệm cao về “bẫy chuột”. Vì sợ chuột nghe thấy nói đến tên mình sẽ không vào bẫy nên các anh em cứ phải nói trệch hỏi nhau ”hôm nay được mấy ông chí, chứ không dám dùng danh từ “chuột”!

Tôi lại hỏi có được sự trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp của Hoa Kỳ không, thì Minh trả lời: “Hoàn toàn không. Trước hết chúng ta phải tự cứu và phải làm được những gì cụ thể tốt đẹp mới mong người ngoài trông thấy rồi trợ giúp chúng ta.” Rồi ông phịa ra câu chuyện: “Nếu có tiền thì công cuộc giải phóng quê hương rất nhanh, vì cách đây không lâu có một tiểu đoàn địch, khoảng 300 người, liên lạc cho biết muốn đem cả vũ khí chạy về với chúng ta. Nhưng chúng tôi không dám nhận vì tiền đâu mà nuôi họ ăn hàng ngày. Người nào không có quần áo, vũ khí thì tiền trang bị vũ khí, quần áo mỗi người cũng phải tốn khoảng 200 mỹ-kim.” Rồi Minh kết luận: “Công cuộc giải phóng quê hương là nhiệm vụ chung của mọi người Việt Quốc Gia, tôi yêu cầu các chiến hữu khi trở lại Hoa Kỳ hãy dùng cơ quan ngôn luận kêu gọi đồng hương khắp nơi trên thế giới tiếp tay cùng chúng tôi thì chắc chắn quê hương chúng ta sẽ được giải phóng một ngày không xa.”

Sau khoảng 2 giờ trao đổi ý kiến mà đúng ra là để nghe “ông Chín” phịa ra những chuyện trên trời dưới biển, mọi người được mời tham quan một vài nơi như nhà bếp, sân tập dượt quân sự, ngôi nhà tranh nhỏ nơi “ông Chín” làm việc và ngủ, rồi ông dẫn đến một cái suối nước chảy rất yếu, cách “đại bản doanh” khoảng 100 mét, được gọi là “Suối Thiên Phù”, vì - theo lời Minh - ở một khu rừng thiêng nước độc như thế này, bỗng có một ngọn suối nằm ngay bên cạnh Mật Khu thì quả là thượng đế thương mà phù hộ cho những người chiến đấu vì quê hương. Khi mặt trời đã bắt đầu lặn, chim chóc đã xào xạc bay về tổ, mọi người được mời đến một góc rừng, dưới mấy cây cổ thụ có một bàn dài làm bằng thân cây rừng. Ngay gần đó là một lều tranh dùng làm nhà bếp. Ông Chín ngồi đầu bàn, mọi người ngồi hai bên. Ông Chín cho biết bữa cơm hôm nay là “đại tiệc” vì được ăn rau, cá khô, lạp xường và ruốc thịt heo.

Sau bữa “đại tiệc”, tôi được một chiến hữu dẫn đến một căn lều nhỏ chỉ vừa một người nằm, giữa đám cỏ tranh cao ngất. Vì có muỗi và đêm lạnh nên anh chiến sĩ mắc cho tôi chiếc mùng cá nhân màu cứt ngựa và một mền đơn cũng của nhà binh. Suốt hai ngày đi đường mệt nhọc, tôi nằm xuống là ngủ như chết. Khoảng 5 giờ sáng hôm sau, Liễu đến chòi tôi ngủ, ngồi bên cạnh và cho tôi biết hôm nay, tại buổi lễ tuyên bố Bản Cương Lĩnh Chính Trị, lúc đến phần đại diện các đoàn thể phát biểu ý kiến thì tôi là người lớn tuổi hơn cả trong phái đoàn Hoa Kỳ sẽ được mời ra phát biểu đầu tiên. Sau những lời ca tụng sự hy sinh và can trường của các anh em chiến sĩ, Liễu dặn tôi đừng quên tuyên bố lớn rằng tôi sẽ “ủng hộ Mặt Trận 2.000 mỹ-kim để mua vũ khí”. Tôi ngồi nhỏm dậy bảo Liễu: “Tôi đem theo 2.000 mỹ-kim, nhưng nằm “valise” 12 ngày ở làng Bultarit, phần nhiều ăn uống tôi phải bỏ tiền ra trả, cộng thêm tiền mua rượu, quà tặng các anh em chiến sĩ, tôi làm gì còn đủ hai ngàn mà tặng ai?”. Liễu cười bảo tôi: “Vì có gần 30 người ở Thái và Lào đến dự nên anh (tức tôi) chỉ làm cử chỉ cò mồi chứ đâu có phải bỏ tiền ra mà sợ.”

Sau khi rửa mặt, tôi được một “chiến hữu” đem hành trang của tôi gồm hai máy ảnh cùng nhiều phim ảnh và cuốn sổ đựng trong hai bao da đen, hướng dẫn tôi đến địa điểm hành lễ là một khu bằng phẳng nằm bên cạnh đồi, phía trong là một phiến đá thiên nhiên mặt bằng phẳng như một bức tường cao khoảng hơn 10 mét, rộng 5 mét. Một lá quốc kỳ VNCH màu vàng ba sọc đỏ vĩ đại được căng thẳng trên mặt tường đá. Phía dưới có ba hàng ghế dài để Chủ Tịch và Ban Tham Mưu ngồi hàng ghế trước, còn các đồng bào và phái đoàn các nước ngồi hai hàng ghế sau. Những khẩu hiệu dài nền vàng chữ đỏ được giăng từ cây cổ thụ này sang cổ thụ kia kín cả khu hành lễ. Dưới mỗi khẩu hiệu là những lá quốc kỳ VNCH treo dầy đặc như một rừng cờ. Ðến địa điểm hành lễ khoảng 8 giờ, tôi thấy ông Minh và mọi người trong Bộ Tham Mưu đã có mặt đầy đủ. Ông Minh, Liễu và Lê Hồng ra đứng nơi chiếc cổng duy nhất để đón các đơn vị võ trang vào tham dự buổi lễ.

Loa phóng thanh bắt đầu hô to: “Ðây là tiểu đoàn Pháo Binh 27 vào khu hành lễ” thì khoảng 20 anh chị em chiến sĩ vũ trang đủ loại súng săn cổ lỗ sĩ, mousquetons, tiểu liên AK ..., đi đầu là chiến hữu chỉ huy đơn vị vừa đeo súng vừa vác hành lý, cùng đi hàng một qua chiếc cổng được “chiến hữu Chủ Tịch” tươi cười vỗ tay đón chào. Rồi đại đội “Thám Báo 36”, trung đoàn “Xung Kích 45”, “trung đội Cảm Tử 72”, vân vân và vân vân ... Ðiều đáng chú ý là số của mỗi đơn vị, nếu cộng lại đều thành số hên “9 nút”. Khoảng gần 200 chiến sĩ vừa đực vừa cái lần lượt vào đứng chung quanh khu hành lễ.

Tôi đứng chụp hình khi họ đi qua khiến tôi lại nhớ đến cái đoàn quân “Tàu phù ô hợp” của Lư Hán khi sang miền Bắc nước ta tước võ khí quân đội Nhật năm 1945. Có những chiến sĩ lối phục sức. mặt mày, tóc tai khá kỳ dị! Trong lúc hành lễ, lợi dụng đệ tứ quyền của một nhà báo tôi len lỏi đi vào những nơi các binh sĩ đứng để chụp ảnh và phỏng vấn một số chiến sĩ đứng phía sau thì không ai thèm trả lời!

Ðến một nơi khác, tôi lại hỏi thì một chiến sĩ người Việt bảo tôi: “Họ là người Lèo, đâu có biết tiếng Việt mà bác hỏi!” Thì ra, Bộ Tham Mưu Mặt Trận đã thuê khoảng 3/4 số người Lèo giả là binh sĩ đứng phía sau với mục đích “mập mờ đánh lận con đen” để chúng tôi chụp hình quay phim quảng cáo với đồng hương rằng lực lượng của Mặt Trận có nhiều, rất nhiều, nhưng chỉ có một số tối thiểu từ các mặt trận gần về tham dự mà thôi. Thật ra thì thực lực quân số của Mặt Trận vỏn vẹn có khoảng không hơn 40 thanh niên ốm yếu lấy từ các trại tỵ nạn ra.

Trong bối cảnh lịch sử đen tối nhất của dân tộc Việt có gần 5000 năm Văn Hiến là thời gian quân Cộng Sản xâm lược miền Nam 30-4-75. Cảnh tượng hải hùng là sự cai trị tàn bạo của chế độ cộng sản chúng đã biến nhân dân miền Nam bằng những con vật hai chân. Chỉ biết cúi đầu để bọn cán bộ sai khiến, hành hạ bức hại, nhân dân lầm than kêu khóc như một địa ngực của trần gian.

Thì những con kên kên của gia đình Hoàng Cơ, cùng đồng bọn những lũ gian manh lợi dụng sự bần hàn cơ cực uất hận của nhân dân, lập ra kỹ nghệ kháng chiến, không vốn nhiều lời. Trên cõi đời này có hai nghề không cần vốn là gái đĩ và Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh mà nay là quái thai Việt Tân.

Nhưng gái đĩ còn có phẩm hạnh hơn là bọn Việt Tân vì họ đem cái của trời cho để làm vốn độ nhật. Còn gia đình Hoàng Cơ và đám tay sai Việt Tân lợi dụng sự đau thương của dân tộc, đánh lừa dân tộc để tự do móc túi, công khai móc túi và cái nguy hại hơn là là bọn này đã đào tạo một số giới trẻ từ lương thiện nhưng khi đã tham gia Việt Tân thì trở thành những tên đại lưu manh thế giới . Tiếc thay!

Bài của ký giả Tân Dân


Buổi lễ khởi sự bằng nghi lễ thông thường: chào quốc kỳ, phút mặc niệm, đến diễn văn khai mạc của ông Phan Thái Hòa, lời hiệu triệu chiến sĩ của tướng Ðặng Quốc Hiền (Lê Hồng), diễn văn của Trần Trung Sơn (Phạm Văn Liễu) rồi kế tiếp là “hịch” của chủ tịch Hoàng Cơ Minh; sau đó Bản Cương Lĩnh được đọc to, mọi người đồng loạt giơ quả đấm lên cao hô to “Việt Nam Ðộc Lập Muôn Năm! Ðả Ðảo Cộng Sản!” Sau đó một số chiến sĩ được tuyên dương công trạng và được gắn huy chương trong đó có bà Cao Thị Phượng Loan (vợ Nguyễn Chí Trung), Trần Văn Lộc là hai người có công tiếp tế đều đều cho Mặt Trận. Chiến sĩ Hoàng Nhật được khen thưởng vì đã chỉ huy mặt trận tả ngạn sông Cửu Long đánh nhiều trận làm đối phương thiệt hại lớn về nhân mạng và vũ khí (sic!). Cuối cùng là phần phát biểu của đại diện các phái đoàn và đoàn thể. Tôi được mời đầu tiên.

Hỏi: Bác vẫn nhớ lời Liễu dặn đấy chứ?

Ðáp: Nhớ lắm chứ! Ðó là “nghề của chàng mà”! Năm 1945 tham gia “Mặt Trận Kháng Chiến Nam Bộ” tôi bị thực dân bắt cùng Huỳnh Tấn Phát nhốt trong Khám Lớn Sài Gòn 18 tháng. Ở trong tù tôi đã tham dự một lớp huấn luyện về tài hùng biện trước công chúng nên sau khi lớn tiếng ca ngợi “lòng hy sinh dũng cảm vô biên của các chiến sĩ, con yêu của tổ quốc Việt Nam đã vì đại cuộc mà hy sinh cả gia đình hạnh phúc, lẫn cuộc sống đầy tiện nghi tại các quốc gia văn minh về đây hăng say làm lại lịch sử. Ðể tỏ lòng ngưỡng mộ sâu xa đó tôi xin ủng hộ Mặt Trận số tiền hai ngàn mỹ-kim để mua thêm súng đạn diệt thù. Tôi mong rằng hiện diện tại đây cũng có nhiều vị mạnh thường quân yêu nước sẽ nhiệt liệt ủng hộ không những tinh thần mà cả vật chất để các anh em chiến sĩ có thêm phương tiện làm tròn sứ mạng”. Sau khi tôi dứt lời, tiếng vỗ tay vang dội cả khu rừng.

Khoảng 12 giờ thì buổi lễ bế mạc, sau khi tiễn phái đoàn Việt kiều ở các nước lân bang ra về, ông Chín vui mừng hướng dẫn chúng tôi đi tham quan một số cơ sở kể cả việc dẫn vào một hang đá trong đó có một máy điện nhỏ cũ rích và một số dụng cụ mà ông Chín nói đó là để thiết lập đài phát thanh. “Vì không có tiền”, ông Chín nói tiếp, “nên cứ phải mua dần dần mà chỉ dám mua đồ cũ chớ tiền đâu mà mua dụng cụ mới! Chỉ trong một thời gian ngắn chờ một số máy móc ở Nhật gửi về đài phát thanh sẽ có thể hoạt động, chắc chắn vùng Ðông Nam Á, nhất là Việt Nam có thể nghe rất rõ tiếng nói của Mặt Trận!”

Chiều hôm đó, ông Chín dành cho tôi và chú Nguyễn Ngọc Ẩn của Ðài CBS lần lượt phỏng vấn. Trong lúc phỏng vấn, ông Minh nhắc đi nhắc lại rằng chú Ấn và tôi phải giữ tuyệt đối bí mật địa danh của Mật Khu và khi trở về Hoa Kỳ tôi phải dùng mọi phương tiện thông tin để thuyết phục đồng hương Việt Nam khắp thế giới hãy yểm trợ “tất cả cho Mặt Trận” thì đại sự mới mau thành công. Ông nói ông và các chiến hữu của ông đã uống máu ăn thề rằng con đường độc đạo họ phải đi là con đường “Ðông Tiến” hướng về quê hương Việt Nam, kẻ nào đi giật lùi kể cả ông Minh, những người phía sau có quyền xả súng. Ông và các chiến hữu của ông cũng đã quyết liệt nói với vợ con rằng chỉ sau khi Việt Nam được thật sự giải phóng khỏi ách thống trị của Cộng Sản thì họ mới trở lại với gia đình; ngược lại hãy coi họ như đã đền nợ nước. Sau cuộc phỏng vấn, tôi ngỏ ý cho Minh biết hôm sau chú Ấn và tôi sẽ quay phim, chụp ảnh đời sống của các anh em chiến sĩ đồng thời phỏng vấn họ thì Minh nói ngay rằng các chiến sĩ, sau buổi lễ đã trở về đơn vị tác chiến hết, chỉ còn vài chiến hữu ở lại canh gác, không còn ai mà phỏng vấn. Minh cho biết, sáng sớm hôm sau, điểm tâm xong thì tất cả các chiến hữu trong hai phái đoàn Hoa Kỳ và Nhật cùng ra về. Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao không cho chúng tôi ở thêm một ngày nữa để nghỉ ngơi và có dịp quan sát doanh trại thì Minh nhanh trí trả lời: “Trước khi các chiến hữu vào thì chúng tôi mong từng giờ từng phút, nhưng sau khi hành lễ xong thì chúng tôi lại mong quý chiến hữu rời nơi này càng sớm càng tốt, sợ số người từ các quốc gia khác đến tham dự buổi lễ có Cộng Sản trà trộn, họ về từ chiều hôm qua có đủ thì giờ báo cho địch biết đem máy bay đến bỏ bom tàn sát, trách nhiệm đó ai chịu? Tôi mong các chiến hữu thông cảm.” Tôi đi lang thang gặp một số cán bộ hỏi dò: “Mặt Trận có bao nhiêu chiến khu?” người thì nói rất nhiều, người thì nói năm sáu chiến khu. Về quân số thì họ “tiết lộ” rằng có nhiều ngàn người rải rác trên các mặt trận, kể cả tại quê nhà vùng giáp ranh Việt Lèo. Có chiến hữu cho tôi biết đây là Ðại Bản Doanh số 7, nhưng mươi phút sau hỏi một chiến hữu khác trong Bộ Tham Mưu thì lại xác nhận đây là Bản Doanh số 9.

Hỏi một binh sĩ thì anh này “tân binh” nên nói thật: “Cháu vào đây gần 3 tháng, nhưng có đánh đấm gì đâu.” Lúc chúng tôi rời Mật Khu, ông Chín đứng chặn lối ra bảo tôi: “Bác Hoàng Xuyên là người lớn tuổi hơn cả, yêu cầu bác nói với tất cả các anh em trong hai phái đoàn Nhật và Hoa Kỳ chụp được bao nhiêu cuốn phim, xin đưa cho tôi, tôi sẽ giao cho hai chiến hữu võ trang đi theo. Khi đến Bangkok sẽ trả lại đầy đủ cho các chiến hữu, vì sợ đến chỗ đồn canh, lính Thái xét tịch thu hết thì không lẽ chúng ta lại tổ chức lại buổi lễ để chụp hình quay phim hay sao?”. Tôi làm theo lời Minh yêu cầu, thu tất cả phim đưa cho Minh, nhưng riêng tôi, có hai cuốn mỗi cuốn 36 kiểu chụp hết rồi nhưng tôi ngại lấy ra cứ để trong máy, nhờ đó mà sau này còn có một số ảnh phổ biến.

Hỏi: Cũng có khá nhiều ảnh Chiến Khu được phổ biến trên các báo, nhất là trên tờ VNTP, vậy ảnh ấy của ai?

Ðáp: Tôi đã nói tôi còn hai cuốn phim, mỗi cuốn 36 kiểu nằm trong hai máy ảnh, là phim tôi chụp buổi lễ, tôi không đưa ông Minh nên mới có ảnh mà in lên các báo. Một điều tự tố cáo cái mưu mô xảo quyệt của Mặt Trận là lúc vào làng Bultarit đến Chiến Khu thời gian đi mất hai ngày, nhưng khi trở ra bằng đường tắt bằng phẳng dễ đi, lại chỉ mất có hơn hai giờ.

Hỏi: Bịp bợm như thế với mục đích gì?

Ðáp: Tôi đoán, có lẽ lúc đầu họ bàn với nhau dẫn phái đoàn đi vòng vo trong rừng để họ nói láo rằng Mật Khu nằm trên lãnh thổ Cao Miên. Nhưng sau, họ đổi ý dẫn về bằng đường tắt cho chính họ đỡ vất vả.

Hỏi: Lúc đi vào “mật khu”, bác và mọi người không biết họ dẫn đi vòng vo tam quốc hay sao?

Ðáp: Làm sao định hướng được, nhất là họ dẫn vào những khu rừng già dầy đặc, tối om, có chỗ người hướng dẫn phải dùng dao chặt những cây nhỏ để có lối đi. Lấy một thí dụ, chúng ta được dẫn đến một khu phố đông đúc ở bất cứ thành phố nào rồi bảo ta tìm đường về khách sạn, ta có làm được không? Chiến hữu Chủ Tịch rời Chiến Khu sau chúng tôi, thế mà khi chúng tôi đến khách sạn ở Bangkok đã thấy chiến hữu chủ tịch có mặt ở khách sạn, tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ rồi. Chiến hữu chủ tịch tìm tôi và gặp ở chân cầu thang, câu đầu tiên chiến hữu chủ tịch hỏi: “Bác Hoàng Xuyên hứa ủng hộ Mặt Trận 2.000 dollars, một số anh em chiến sĩ chờ bác đưa tiền để họ đi mua súng đạn ngay!” Tôi ngạc nhiên hỏi lại Minh: “Thế anh Liễu không nói gì với anh à?” Minh lắc đầu. Tôi yêu cầu Minh cho tôi vài phút để gặp Liễu rồi sẽ nói chuyện lại. Gặp Liễu, tôi cằn nhằn thì Liễu cười nham nhở xin lỗi vì nhiều việc nên quên chưa nói cho Minh biết và Liễu hứa sẽ tìm ngay Minh để nói rõ vấn đề. Sau khi gặp Liễu, chỉ năm phút sau gặp lại tôi, Minh đổi ngay thái độ thờ ơ, mặt lạnh như tiền! Tôi hơi khó chịu, nhưng vẫn hỏi về những cuộn phim thì Minh bảo tôi hỏi một chiến hữu khác, tồi chiến hữu khác lại chỉ cho một chiến hữu thứ ba, rốt cuộc không ai biết ai là người giữ mấy chục cuộn phim! Rứa là ... hòa cả làng

Hỏi: Lạ nhỉ! Sao họ lại muốn giữ độc quyền, không muốn để các người thông tin có tài liệu phổ biến những cái họ muốn quảng bá? Phái đoàn Hoa Kỳ sau khi rời Bangkok thì đi đâu, có chuyện gì xảy ra không?

Ðáp: Câu trả lời này xin nhường cho các “quan” có thẩm quyền trong Mặt Trận. Trên đường trở về Hoa Kỳ, chúng tôi theo Liễu ghé Tokyo một tuần lễ để Liễu họp các anh em trong nhóm “Người Việt Tự Do”. Chúng tôi được thong thả nên rủ Tài đi Atami thăm ông bạn đồng tuế Lê Văn Quý, một nhà bác học Việt Nam nổi tiếng đã từng bán trên 200 bằng sáng chế (inventions) cho Chính Phủ Nhật. Ngồi trên xe lửa tốc hành, tôi nói cho Tài biết những cái “tréo cẳng ngỗng” trong Mật Khu, tôi nghi đây lại là một trò bịp mà nếu chúng tôi không khéo sẽ bị vạ lây. Tôi nhắc lại số lượng các chiến sĩ tham dự buổi lễ phần đông là người Lèo, số các đơn vị chiến đấu đều “9 nút”, những lời tuyên bố trái ngược nhau, tại sao lại dẫn đường đi vòng vo trong rừng đến hai ngày trong khi chỉ cần vài giờ. Tại sao lại lừa dối để chiếm mấy chục cuộn phim, thái độ lạnh nhạt của Minh về số tiền 2.000 dollars, vân vân. Tôi nói khi trở lại Hoa Kỳ có lẽ tôi sẽ không viết lách gì cả. Lập tức Trường Sơn Bổn Tài nổi khùng liền lên lớp tôi: “Cháu nghĩ rằng bác là tay sai Cộng Sản thì hãy có ý nghĩ bất hợp tác như thế! Bác nên nhớ khi Hồ Chí Minh thành lập đảng Cộng Sản Ðông Dương trong hang Pac Bó chỉ có ba người. Thế mà, sau khi được quần chúng tích cực tham gia ủng hộ, họ đã giành được độc lập trong tay thực dân Pháp và làm cho Mỹ phải bỏ chạy khỏi Ðông Dương. Vạn sự khởi đầu nan, bác phải để cho người ta có cơ hội, có đà vươn lên đại sự mới thành công được. Chưa gì bác đã định phá hoại ngay thì chỉ có địch mới có những hành động vô trách nhiệm như thế!” Ðể tránh một cuộc tranh luận với một người trẻ đương đầy nhiệt huyết, tôi cáo lỗi rời chỗ đó đi về phía phòng vệ sinh.

Hỏi: Tại sao bác viết cho VNTP?

Ðáp: Về đến nhà hai tuần lễ, tôi vẫn ở trong tình trạng bất động trong khi Hồ Anh hàng ngày hai ba lần điện thoại hối thúc tôi viết bài, sợ để lâu tin tức sẽ thiu (stale news). Tôi nói rõ tất cả cho Hồ Anh biết những uẩn khúc, nghi kỵ tai nghe mắt thấy của tôi, kể cả việc Minh và Liễu dặn chú Ấn (CBS) và tôi đánh lạc hướng đường vào Mật Khu, thì Hồ Anh nói việc ấy không quan trọng. Cuối cùng Hồ Anh bảo tôi cứ viết lại đầy đủ để anh ta định liệu. Loạt bài du ký “Về Thăm Chiến Khu Vùng Giải Phóng” được đăng trên VNTP từ số 151 (ngày 1/5/1982) đến số 156 (ngày 16/7/1982).

Sau loạt bài của tôi thì hầu như, trừ những người cố hữu chống đối Mặt Trận vì lý do này hay lý do khác, tất cả người Việt hải ngoại đều thật sự lên cơn sốt, ai cũng phải công nhận từ trước đến giờ chưa có một phong trào đấu tranh nào được hầu hết mọi người cuồng nhiệt ủng hộ như Mặt Trận HCM. Những “Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến” được mọc lên khắp đó đây trong một thời gian kỷ lục. Riêng ở Hoa Kỳ tại bang Cali, ngoài “Ủy Ban Yểm Trợ Kháng Chiến” địa phương, người ta còn thành lập ở các công tư xưởng, hãng buôn những nhóm “yểm trợ kháng chiến” riêng rẽ do một người được anh chị em bầu lên làm “Trưởng ban” có nhiệm vụ thâu tiền yểm trợ hàng tháng của mọi người trong nhóm không cần biết người đó có ưng thuận đóng góp hay không. Nơi thì họ ấn định tiền yểm trợ tính theo bách phân (percentage) của tiền lương mỗi cá nhân. Tại các siêu thị, các phòng mạch bác sĩ, nha sĩ, bệnh viện, rạp hát, rạp chiếu bóng và cả tư gia cũng có những “Hộp Kháng Chiến” để mọi người có dịp tham gia tỏ lòng yêu nước. Ngoài ra, người ta còn thường xuyên tổ chức, tại những đô thị lớn trên khắp thế giới những nơi có đông người Việt cư ngụ, những đêm liên hoan, văn nghệ có chiếu phim Kháng Chiến với giá vé cắt cổ, vậy mà những rạp hát chứa năm sáu ngàn người không còn chỗ trống.

Hỏi: Thời gian đó nhiệm vụ của bác làm gì?

Ðáp: Người ta yêu cầu tôi đóng vai “nhân chứng sống” phải khoác vào người bộ áo bà ba đen, đi dép râu, quàng khăn rằn ri đến các nơi tổ chức văn nghệ để ba hoa chích chòe kể lể cuộc hành trình đầy ... gian khổ vào Mật Khu! Cũng có những nơi như Sacramento, Oregon mời cá nhân tôi đem cuốn phim đến chiếu và nói chuyện tại một rạp hát cho hàng ngàn người nghe. Tôi cũng khá bận rộn vì các báo, đài truyền hình Mỹ đến phỏng vấn. Ðiều lạ lùng nữa là, tôi không là cái quái gì trong Mặt Trận, thế mà mỗi buổi tối khách vào ra nườm nượp!

Hỏi: Bác có nghĩ rằng bác cũng chịu một phần trách nhiệm về sự lừa bịp của Mặt Trận không?

Trong khi người Việt nào có kiến thức tối thiểu cũng nhận thức rằng cuộc chiến đấu chống cộng sản để giải phóng quê hương của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh là một tổ chức lừa bịp và cái mặt nạ đó đã rơi xuống vào năm 1984. Thế mà họ vẫn tiếp tục duy trì để đánh lừa người Việt lưu vong và dân tộc.

Một số trí thức khoa bảng tại Úc châu vì tiền, vì hám danh cũng không ngần ngại bán đứng lương tâm cùng đồng lõa với giòng họ Hoàng Cơ vẫn tiếp tục làm tay sai cho cái gọi là "Canh Tân đất nước Canh Tân con người!"

Sơn Tùng (Úc châu)
6-8-2010

No comments:

Post a Comment