Tuesday, August 31, 2010

Giới Truyền Thông Nhà Nước Iran gọi Phu nhân Tổng Thống Pháp là “con đĩ”

    Iran state media call French first lady prostitute
AP

Iranian state media called France’s first lady, Carla Bruni-Sarkozy, a “prostitute” on Monday in an unusual attack on the wife of a world leader that shows deep anger over her support for an Iranian woman who faced death by stoning on an adultery conviction.The wife of French President Nicolas Sarkozy has condemned the stoning sentence against Sakineh Mohammadi Ashtiani, which Iran temporarily suspended but did not throw out after an international outcry.

Ashtiani, a 43-year-old mother of two, could still face execution by stoning or hanging after a final review of her case, her lawyer, Javid Houtan Kian, told The Associated Press Monday.

The Kayhan newspaper, whose editor is a representative of Supreme Leader Ayatollah Ali Khamenei, described Bruni-Sarkozy as a “prostitute” on Saturday in an article headlined “French prostitutes enter the human rights uproar.”

The state-owned news website inn.ir carried similar remarks on Monday.

“Although Bruni, the morally corrupt singer and actress of Italian (origin), was able to break the Sarkozy family and marry the French president, lately new reports have emerged about her affair with a singer,” said the weekend report in Kayhan.

That appeared to be a reference to rumors of infidelity in her marriage that Bruni-Sarkozy dismissed in April as “insignificant.” The rumors have since died down.

The French president’s office declined Monday to comment on the remarks in Iranian media.

The media attack was in response to an open letter Bruni-Sarkozy wrote to Ashtiani that was printed in several French news outlets last week.

“How to remain silent after learning of the sentence against you?” Bruni-Sarkozy wrote, adding that the stoning would “deeply wound all women, all children, all those who have feelings of humanity.”

“Deep within your jail cell, know that my husband will plead your cause tirelessly and that France will not abandon you,” she wrote.

Ashtiani was convicted in May 2006 of having an “illicit relationship” with two men after the murder of her husband and was sentenced to 99 lashes. Later that year, she was convicted of adultery and sentenced to be stoned, even though she retracted a confession she claims was made under duress.

Iran last month stayed her stoning, but authorities now say she has also been convicted of being an accomplice in her husband’s murder. In a purported confession aired on state TV early this month, Ashtiani admits to unwittingly playing a role in the 2005 killing. She could also face a separate death sentence in that case.

Her lawyer denies Ashtiani was ever charged with murder or brought to trial in her husband’s killing.

Protesters in cities across the globe have denounced the stoning sentence. About 300 people from rights organizations demonstrated in Paris Saturday to urge Iran to lift her death sentence.

“The stoning verdict has only been delayed, not halted,” Kian, Ashtiani’s lawyer, said in a telephone interview Monday.

The woman’s previous lawyer, who brought the case to the world’s attention in his blog, fled the country and received asylum in Norway after Iranian authorities began to pressure him and his family.

Kian said he, too, was coming under pressure. He said authorities broke into his home Sunday.

“Intelligence agents beat the guard of the residential complex where I live and broke into my home in my absence,” he said. “They took my computer, which contained the files of my clients, including Ashtiani.”

Kian said authorities have stopped him and Ashtiani’s two children from meeting her ever since her purported confession.

“Authorities say I’m banned from meeting my client. And they have told Ashtiani’s two children that their mother didn’t want to see them,” he said.

AP


Monday, August 30, 2010

Ngàn năm Thăng Long hay Ngàn năm nô lệ - Phan Văn Song

Phan Văn Song

1. Ngàn năm Thăng Long, trò chơi mới của Đảng Cộng sản VN ?

Tôi đã tự hứa là từ nay tôi không theo dõi tình hình thời sự ở Việt nam Cộng sản nữa; tôi không để ý và sẽ mặc kệ những vung vít màu mè của Đảng Cộng sản Việt nam Hà nội. Tôi đã tự hứa từ nay không biết đến và mặc kệ những … Đại hội Đảng, lần nầy là lần thứ mấy ? tôi không cần biết, vì những sinh hoạt ấy không phải là sinh hoạt của toàn người dân Việt nam. Tôi đã tự hứa mặc kệ không cần biết tên tuổi chức tước những tay cán bộ của Nhà nước, Quốc hội hay của Đảng Cộng sản Việt nam. Tôi đã tự hứa từ nay không động lòng, đau khổ, … không giận hờn khi những tay đương quyền tuyên bố đàn áp dân lành, và cũng không mừng rỡ, không hân hoan khi một anh cựu cán bộ về hưu, hay một anh cựu tướng về vườn chỉ trích phê bình chế độ, vì đàn áp, công an trị, là chuyện bình thường của một chế độ độc tài, và những chỉ trích đối kháng kia, đều là giả tạo, tất cả đều là giả dối, chỉ là cái súp-páp để hạ hơi một nồi đầy tức tối và oan ức sắp bùng nổ. Tôi cũng đã tự hứa, từ nay, không để ý đến những vai trò quốc tế của Việt Nam như chủ tịch ASEAN,.. APEC … hay ngay cả những lễ lạc, như lễ Quốc tổ và ngày nay lễ … kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long do Đảng Cộng sản Việt nam tổ chức, tất cả là màu mè, tất cả chỉ là biểu diễn, và …. biết rồi khổ lắm nói mãi!!

Cái quan trọng là do người dân Việt nam trong nước có phản đối không ? Hay vẫn dững dưng chạy theo miếng ăn hằng ngày, người giàu có, nhờ phe phái, ngày áp-phe, tối ăn nhậu, người lao động nghèo đói ngày chạy gạo, tối chạy cơm, báo chí trăm tờ thì viết ra chỉ một giọng cường điệu, láo lếu nâng bi, radio truyền hình thì chỉ rao bán tin vịt do Đảng chỉ đạo … Người đối kháng, dân chủ ? có đấy, nhưng lèo tèo vài bạn; kẻ phản tỉnh ? cựu đảng viên ? cựu quân đội ? cũng có đấy, nhưng chỉ lẻ tẻ vài người, …vài hàng can ngăn, đôi chữ can gián; lèo tèo hai ông tướng về hưu, lẻ tẻ ba ông đại tá về chiều, nói cho có nói, la cho có la … Vì sao có kẻ nói bị mang tội là phản quốc, vì sao có người nói lại cho là xây dựng ? Nói cỡ nào bị bắt ?, nói cỡ nào ở tù ? , nói cỡ nào là phản quốc ?, nói cỡ nào là phê bình xây dựng ? không ai biết, không một luật sư nào đo lường, bảo vệ, bào chữa … Một quốc gia vô tổ chức, không luật lệ, không tôn trọng luật lệ, có người ra tòa, công an dùng tay bịt miệng (Linh mục Nguyễn Văn Lý), kẻ blogger xử dụng mạng vi tính, bị công an dùng hệ thống Tin tặc phá mạng bịt mồm (Tướng Công An Vũ Hải Triều hãnh diện tuyên bố phá tan 3000 blogs và bắt giam nhiều bloggers). Một quốc gia điều khiển bởi những tay côn đồ với những bằng cấp dỏm, với những chức vụ mua, với những quân hàm phe đảng, tự biên tự diễn. Người ta nói với tôi rằng bằng cấp dỏm bên Việt nam là do các Đại học nước ngoài (ở Mỹ) dỏm bán đấy ! ! !

Lại đổ thừa nước ngoài ! Lại lỗi tại đế quốc Mỹ !

Việc gì phải mua nước ngoài cho tốn tiền, Đảng Cộng sản Việt nam đủ tài đủ sức tự tạo ra một Đại học và tự trao hay bán cho những đảng viên những bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ !. Người ngoại quốc, qua lại liên hệ thương mại hay ngoại giao với người Việt nam Cộng sản, vẫn tiếp tục đọc những học vị như Doctor, hay Professor để gọi các vị Thạc sĩ hay Tiến sĩ Việt nam, vì đó là những chữ đã được in trên danh thiếp … còn cái dỏm hay không là việc của người Việt nam cộng sản … người ngoại quốc chỉ lo cái phần thương mại hay ngoại giao xem họ có lợi hay không ? Và cuối cùng … cái Dỏm nay đã biến thành cái Thiệt rồi ! Phải chăng Lê Nin, thầy của Đảng Cộng sản quốc tế đã dạy các đàn em rằng: «cứ tiếp thục nói láo, nói mãi, nói hoài, cái láo cái dỏm sẽ thành cái thiệt» ?

Vì vậy, tôi đã tự hứa là không thèm nói đến Đảng Cộng sản Việt nam nữa ! Nói làm gì khi trong một đất nước do người Cộng sản cai trị, chưa bao giờ người lao động, người nông dân, người ngư phủ, giới dân nghèo Việt nam bị chèn, bị ép như vậy ! ! Lao động thì đồng lương dưới mức tối thiểu là 2 dollars một ngày, và 1/3 dân số Việt nam sống dưới mức nghèo tuyệt đối là 1 dollar một ngày (theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc). Sống cạnh bờ biển, người ngư phủ Việt nam đã bị Hải quân Tàu Cộng cấm không cho ra biển đánh cá, vì biển Đông hải Việt nam nay đã biến thành biển Nam Hoa hải (Mer de Chine du Sud). Sống vùng cao nguyên, người sơn cước Việt nam không còn được khai thác rừng núi, lâm sản, khoáng sản vì cả ngàn héc ta rừng cao nguyên Việt nam nay đã bị Tàu Cộng thuê mướn và sở hữu chủ khai thác: trồng bạch đàn cho kỹ nghệ giấy Tàu, khai thác Bô xít cho kỹ nghệ nhôm Tàu …. Và như thế, chỉ trên vài năm sau, đất đai vùng cao nguyên toàn đất nước Việt nam sẽ khô cằn. Sống ở đồng bằng sông Hồng, hay sông Cửu Long, người nông dân Việt nam không còn làm chủ của những cơn nước lớn nhỏ hay những ngọn thủy triều cao thấp nữa, vì thượng nguồn sông Hồng và sông Cửu Long bên kia biên giới đã bị Tàu Cộng cho xây bừa bãi những đập thủy điện, ngăn chận giòng nước và đất lắng đọng (sédiments) mầu mỡ phì nhiêu của hai đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long (ngày nay nước phèn đã vào sâu vào miền Hậu giang, nước mặn đã lên tận miệt vườn).

Sáng hôm nay, nhân đọc bài tản mạn của bạn Mai Thanh Truyết, tôi rùng mình khi bạn Truyết cho biết (vì tôi hoàn toàn không biết, vì quá vô tình hay thờ ơ !) là ngày lễ kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long là ngày 1 tháng 10 năm 2010 nầy, trùng ngày với ngày Quốc khánh Tàu Cộng, và kinh phí cho buổi lễ là 94 ngàn tỷ Đồng Việt Nam (VNExpress) tương đương với 4,5 tỷ Mỹ kim (1tỷ Đồng # US$50.000). Với một kinh phí tương đương gần 10% ngân sách quốc gia chỉ để cho “lễ hội”. Quả thật Việt Nam quá sang trọng và chịu chơi ! ! Tôi thật ngao ngán, trong một thời kỳ củi châu gạo quế đang trên đà khủng hoảng kinh tế mà dùng 10 % ngân khỏan quốc gia để làm một cái lễ kỷ niệm.

Mà kỷ niệm cái gì ?

Khi Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long, là để đánh dấu một kỷ nguyên mới, để nói rằng: một ngàn năm đô hộ của Tàu đã qua, thời gian tranh tối tranh sáng từ tranh chấp sứ quân đến học đòi quân chủ đã qua; bắt đầu từ đấy (năm 1010) dời đô từ Hoa lư chật hẹp đến Thăng Long rộng mở là để đánh dấu một nền tự chủ của dân tộc Việt, và bắt đầu từ đấy là sự trưởng thành của nền quân chủ đầy Việt tánh … Từ một Hoa lư hiểm trở, bao bọc bởi những sưởn núi, thoát ra Thăng Long mở rộng quang đảng, nằm giữa sông Hồng, trên một đồng bằng rộng rãi.

Sau một ngàn năm đen tối, Hán thuộc, dời đô từ Hoa Lư đến Thăng Long là đánh dấu mở đầu một thời đại mới, thời đại tự chủ. Một kỷ nguyên mới, với những thăng trầm, Đinh Lê Lý Trần Lê Nguyễn,… từ Tống đến Thanh qua Nguyên và Minh hay Thanh, mỗi triều đại Trung Hoa, dù người Hán tộc, Mông cổ hay Mãn thanh, mỗi thời kỳ đều có thử sức, có khi một lần, có khi nhiều lần, đem đại binh qua quyết chinh phục nước Việt ta. Những vào mỗi thời đại quân đội Tàu đều gặp những anh hùng Việt nam đánh cho tời bời vứt giáo, cởi giáp chạy về Bắc. Từ ngày Ngô Quyền giết tướng Nam Hán là Hoàng Thao trên sông Bạch Đằng (939), rồi như cái lệ, từ Lê Đại Hành phạt Tống (981) xưng Vương, rồi Lý thường Kiệt tướng nhà Lý, hai năm đánh Tống (1075-1077) đến Trần Hưng Đạo tướng nhà Trần ba lần bình Nguyên (1258, 1284-1285, 1287), rồi Lê Lợi (1418-1427) mười năm kháng quân Minh phục quốc, và Hoàng đế Quang Trung (1789), chỉ một trận huy hoàng dẹp quân Thanh, ... bao chiến thắng của bao anh hùng phương Nam đại phá Bắc quân giữ bờ cõi non sông cho dân tộc Việt, cho đất nước Việt. Có những cuộc chiến chậm chạp dai dẳng, như Trần Hưng Đạo phải ba lần ra quân, giặc Nguyên mới từ bỏ, có những cuộc chiến dài đăng đẳng phải gần mười năm kháng chiến nằm gai nếm mật, Lê Lợi mới đuổi được quân Minh, nhưng cũng có cuộc chiến chớp nhoáng chỉ trong vài ngày là phá tan quân thù như Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ, chỉ cần năm ngày đuổi quân Thanh vế bên kia biên giới.

Kỷ niệm ? Phải, nhưng phải kỷ niệm những lần đại thắng quân Tàu xâm lược.

Kỷ niệm ? Phải, nhưng phải kỷ niệm những lần toàn dân đoàn kết trước mọi ngoại xâm.

Kỷ niệm ? Phải, nhưng phải kỷ niệm sau một ngàn năm thăng trầm nhưng vẫn giữ được tinh thần dân tộc, con người và văn hóa Việt nam. Vì mặc dù sau 200 năm Trịnh Nguyễn phân tranh, sau gần 100 năm Pháp thuộc, sau 70 năm Cộng sản cầm quyền Thăng Long, ngày nay Hà nội vẫn còn giữ được sắc thái Việt Nam và cả nước Việt nam vẫn còn nói chung một ngôn ngữ.

Nhưng sau ngày 1 tháng 10 năm 2010 ?

Có còn chắc Hà nội vẫn còn là Thăng Long không ?

Người dân Việt nam ở Hà nội còn mãi mãi là người Việt nam không ?

Và đất nước Việt nam ? và giang sơn Việt nam ? mãi mãi vẫn còn là Việt nam ? Khi 1/3 biên giới không còn nữa : Thác Bản Giốc ? Ải Nam Quan ? Hoàng sa, Trường sa ? khi những khu rừng trên Cao nguyên đã bị người «lạ» mướn ở, khi những vùng … những vùng … làm sao dân biết cho hết, làm sao kiểm soát được những ai thực sự là chủ nhơn đất nước Việt nam ngày nay !! Ta hay Tàu ?

2. Dân tộc sanh tồn:
    Nam quốc sơn hà Nam đế cư
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư


Anh hùng Lý thường kiệt đã nhận định như vậy, trước khi đánh tan quân nhà Tống bên bờ sông Như Nguyệt (năm 1075). Đó là bản tuyên bố độc lập và chủ quyền của dân tộc Việt đầu tiên của lịch sử Việt nam. Lời tuyên bố khảng định:

Đây là không gian sanh tồn của dân Nam: Đất Nam do Vua nước Nam trị. Từ đời nhà Lý, từ nay, từ ngày dời đô ra Thăng Long, dân tộc Việt đã khẳng định rằng: chúng ta là dân nước Đại Cồ Việt (Năm 968, Vua Đinh Tiên Hoàng sau khi dẹp tan nạn sứ quân, thống nhứt đất nước, lên ngôi, đặt tên nước là Đại Cồ Việt), khác hẳn với dân Hán, bên Tàu, phía Bắc rồi. Năm 1054, Vua Lý Thánh Tôn đổi tên nước là Đại Việt. Và từ đấy, nước ta tuy có những tên gọi Việt nam (Gia Long – 1804 và ngày nay) hay Đại Nam (Minh Mạng -1828) nhưng không bao giờ chúng ta nhận chúng ta là người An Nam cả, như các triều đình Tàu muốn. Bài thơ của Đại tướng Lý Thường Kiệt, khi đã bình Tống đã nói đến Chủ quyền của Vua và dân Việt, đã khẳng định không gian Sanh tồn của dân tộc Việt.

Đến năm 1427 sau khi đã chém đầu Liểu Thăng, đánh bại quân Minh ở Chi Lăng, đuổi quân nhà Minh về Tàu. Nguyễn Trải bằng bài Bình Ngô đại cáo, tuyên bố một lần nữa chủ quyền của Vua tôi đất Việt, và khẳng định không gian sanh tồn của dân tộc Việt, khác với không gian sanh tồn của dân tộc Hán.
….
    Như nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
    Nước non bờ cỏi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác;
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần
    Bao đời xây nền độc lập;
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên
    Mỗi bên hùng cứ một phương;
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
    Song hào kiệt thời nào cũng có
...

3. Để kết luận:


Và ngày hôm nay, trong không khí bán nước, dâng đất dâng biển dâng hải đảo bán núi rừng cho Tàu, người dân Việt nam phải tỉnh dậy và đứng lên.

Phải chăng đã đến lúc người dân cần phải đứng lên để tự cứu lấy mình ?

Bạn Mai Thanh Truyết đã đặt câu hỏi nầy !

Tôi xin nói thêm, cả người dân Việt nam ở hải ngoại cũng như ở quốc nội.

Và tôi cũng cùng chung bạn Mai Thanh Truyết cùng nhận xét và kết luận:

Ngàn năm Thăng Long sắp đến không phải để đánh dấu mối vinh quang của dân tộc mà là một dấu ấn, chuẩn bị cho chính sách đô hộ lần thứ 5 của giặc Tàu, tiếp nối ngàn năm Việt Nam bị Tàu đô hộ trong quá khứ.

Từ nay, nếu để người tàu Quảng đông gặp người Việt chúng ta không còn gọi chúng ta là “Dế Nản dành” nữa mà là “Thòn dành” thì ôi thôi, tôi nghiệp cho người Việt chúng ta lắm ! (Dế Nản dành = Việt Nam nhân = người VN, Thòn dành = Đường Nhân, người Đường, người Tàu).

Và cũng thừa cơ hội, xin gởi quý bạn đọc một thành ngữ quen thuộc bằng tiếng quảng đông, chúng tôi đã được nghe ở Sài gòn thời trước 30 tháng tư năm 1975: “Mậu thén cún sản cỏn, chỉ khán cún sản khầu xì” (Đừng nghe Cộng sản nói, chỉ nhìn cộng sản hành động), để người Việt chúng ta nghe dần dần tiếng Quảng đông cho quen lỗ tai.

Thành ngữ nầy hình như của một vị cựu lãnh đạo miền Nam Việt nam, nhưng khi ổng nói hổng ai nghe !

Mong kỳ nầy mọi người Việt nam ráng mở mắt ra để nhìn “cún sản khầu xì”. !

Và bịt lỗ tai lại để khỏi nghe lời đường mật của “cún sản cỏn” ! !

Mong lắm !

Phan Văn Song
Tháng 8 /2010



Võ Nguyên Giáp: Tên đồ tể khát máu của quê hương - Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền

Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền

Lời Giới Thiệu: Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền là Giáo sư về khoa Giải phẫu Tiểu Nhi (Pediatric Surgery) tại đại học noi tieng McGill, Montreal, Canada. Tuy là môt chuyên gia bận rộn, nhưng ông là một trong số những ít bác sĩ quan tâm và viết đến những vấn đề đất nước. BS Duyên Lãng Hà Thượng Nhât, Nguyễn Tiến Cảnh học cùng lớp…

Tên đồ tể Võ Nguyên Giáp
Nhà văn quân đội nổi tiếng Phan Nhật Nam đã gọi Võ Nguyên Giáp là một thiên tài của quê hương. Tôi chia sẻ ý kiến của ông, nhưng chỉ chia sẻ một nửa thôi.

Vâng, Võ Nguyên Giáp thực quả là một tên khốn kiếp, đã đẩy hàng triệu thanh niên đất Việt vào chỗ chết từ năm 1946 tới năm 1975, để thực hiện cho được việc áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản sắt máu trên toàn quê hương. Nhưng Y có là một thiên tài hay không, dù là một thiên tài khốn nạn của quê hương, thì cần phải xét lại. Sau mấy chục năm, các tài liệu về chiến tranh tại Việt Nam, các dữ kiện lịch sử đã được giải mật. "Huyền thoại Võ Nguyên Giáp" đã hết còn là một huyền thoại.

Võ Nguyên Giáp sanh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha Y là Võ Quang Nghiêm, một hương sư dạy chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và hành nghề Đông Y như phần lớn các nhà nho lỡ vận. Khi cuộc chiến Việt-Pháp bùng nổ, Ông Nghiêm bị Pháp bắt đưa về giam ở Huế rồi chết trong tù. Mẹ Giáp là Bà Nguyễn Thị Kiên.

Võ Nguyên Giáp là con thứ 6 trong số 8 người con của Ông Bà Võ Quang Nghiêm. Năm 14 tuổi (1925), Giáp vào Huế học trường Quốc Học. Hai năm sau, bị đuổi học, Giáp về quê tham gia Tân Việt Cách mệnh Đảng – một đảng có mầu sắc Cộng Sản được thành lập năm 1924 ở miền Trung.
Đầu tháng 10 năm 1930, Giáp bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phú ( Huế ). Năm 1931, Giáp được thả ra khỏi nhà tù, ra Hà Nội học tại trường Albert Sarraut cho tới khi đỗ Tú tài.

Năm 1937, Giáp tốt nghiệp trường Luật tại Hà Nội.

Năm 1934, Giáp kết hôn cùng Nguyễn Thị Quang Thái, một đồng chí của ông. Bà Thái có với Giáp một người con gái, Võ Thị Hồng Anh. Năm 1943, Bà Thái bị Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội. Bà chết trong tù.

Tháng 5 năm 1939, Giáp bắt đầu dạy môn Sử tại trường tư thục Thăng Long tại Hà Nội. Theo lời thuật của một số người, Giáp là một giáo sư Sử giỏi và hùng biện.

Từ năm 1936 đến năm 1939, Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân Chủ Đông Dương. Võ Nguyên Giáp vào Đông Dương Cộng Sản đảng vào năm 1940, bắt đầu các hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Giáp tham gia gây dựng cơ sở và huấn luyện quân sự ở Cao Bằng dù Giáp chưa từng được huấn luyện về quân sự.. Trong đảng Cộng Sản Đông Dương, có lẽ chỉ có Phùng Chí Kiên được theo học một thời gian tại trường Võ bị Hoàng Phố ở Trung Hoa.

Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo sự phân bố của Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với 34 người. Theo tài liệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đó là khởi thủy của đạo quân Cộng Sản Việt Minh sau này.

Tháng 8 năm 1945, Giáp được bầu vào Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương.

Tháng 1 năm 1948, Giáp được Hồ Chí Minh phong quân hàm Đại Tướng. Cùng được phong Tướng có một số tên như Văn Tiến Dũng, Vương Thừa Vũ, Nguyễn Chí Thanh, Đinh Đức Thiện, Lê Trọng Tấn, Trần Đăng Ninh …

Trên: Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Quang Thuận, Hoàng Đăng Minh, Nhận, Bạch Ngọc Giáp, Sáng
Dưới: Lê Liêm, Giáp, Hồ, Trường Chinh, Đặng Việt
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ kéo dài cho tới năm 1954 và chấm dứt ở trận Điện Biên Phủ.

Từ năm 1945 cho đến năm 1991( năm Giáp nghỉ hưu, hết còn là ủy Viên Trung Ương Đảng) Giáp đã giữ những chức vụ như sau:

- Ủy Viên Bộ Chánh trị
- Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng
- Tổng Tư lệnh Quân Đội
- Phó Thủ Tướng
- Chủ Nhiệm Ủy Ban Khoa học nhà nước.
- Năm 1983, Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch.

Chức vụ Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội là những chức vụ Giáp ở lâu nhất, từ năm 1945 đến năm 1980.
Chức vụ coi về sanh đẻ năm 1983 là môt hình thức hạ nhục Giáp do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ trương. Để nói về việc hạ nhục này, trong dân gian có truyền tụng hai câu thơ diễu cợt đượm đầy mỉa mai:

Ngày xưa Đại tướng cầm quân
Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em

Thằng hèn Võ Nguyên Giáp
Sau trận Điện Biên Phủ năm 1954, sự hiện diện của người Pháp cáo chung, Võ Nguyên Giáp nổi tiếng như cồn. Sau cái gọi là Đại thắng mùa xuân năm 1975 – một may mắn bất ngờ cho đảng Cộng Sản Việt Nam ( một bất hạnh cho dân tộc Việt ) chiếm được miền Nam – trước mắt người ngoại quốc mù tịt về cơ cấu tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Võ Nguyên Giáp trở thành một huyền thoại.

Một số sách viết về Giáp như:

- General Giáp: Politician and Strategist của Robert j. O'Neil (Australia)
- Giáp: the Victor in Vietnam của Thiếu tướng hồi hưu Peter McDonald In năm 1993 ( British )
- Các bài viết rải rác của Douglas Pike thuộc University of California, Berkeley (USA)

Xin mở một dấu ngoặc ở đây về các sách viết về các lãnh tụ Công Sản Việt Nam cũng như các lãnh tụ của các nước Cộng Sản khác trên thế giới. Tác giả phải được sự chấp nhận của Bộ Chính trị và chỉ được viết những gì mà cơ quan quyền lực tối cao của Cộng Sản đưa ra mà thôi.

Giáp được các tác giả ca tụng như một thiên tài quân sự, một chiến lược gia tài tình của thế giới (genius strategist, geniusgeneral of the world). Từ mấy năm gần đây, các tài liệu mật về 2 cuộc chiến tại Việt Nam (1946-1954 và 1954-1975) được giải mật khiến ta thấy rằng "thiên tài Võ Nguyên Giáp" đã được các đồng chí nặn ra như các đồng chí đã nặn ra anh hùng Lê Văn Tám, chú Kim Đồng ….. trong suốt chiều dài của cuộc chiến xâm nhập của chủ nghĩa Cộng Sản man rợ lên quê hương mà đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là một lũ thừa sai.

Bản chất của những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, kể từ Hồ Chí Minh trở xuống, là gian hùng, dối trá, thâm độc và tàn bạo. Giáp có đầy đủ các "đức tính" đó.

Năm 1946, Hồ Chí Minh ký hòa ước với Pháp để quân Pháp trở lại Việt Nam. Các lãnh tụ Công Sản, trong đó có Giáp, đã thẳng tay tiêu diệt các người quốc gia (Losers are Pirates by James Banerian1984, p.69)

Năm 1946, khi cuộc chiến tranh Việt – Pháp sắp xẩy ra, Giáp là Bộ Trưởng Quốc phòng trong Chánh phủ liên hiệp. Tại Hà Nội, trong khi quân Pháp và Tự Vệ Thành đang gầm ghè nhau, Giáp và đồng bọn hứa hẹn là quân chánh qui của họ tức các đơn vị Vệ Quốc Đoàn tinh nhuệ đã kéo về đóng chung quanh Hà Nội, sẵn sàng làm cỏ quân Pháp.

Ngày 19 tháng 12, chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội. Nhóm lãnh đạo Cộng Sản đã rút về Hà Đông từ mấy ngày trước. Vệ Quốc Đoàn đâu chẳng thấy, chỉ thấy các Tự Vệ Thành đánh vùi với quân Pháp trong các đường phố Hà Nội. Họ đã cầm cự với quân Pháp trong gần 2 tháng, thời gian đủ để dân chúng rời thành phố lánh nạn, đủ để đám Cộng Sản rút vào các an toàn khu Việt Bắc. Giáp và đồng bọn muốn mượn tay quân Pháp để thủ tiêu các thanh niên Hà Nội. Quả thực, Tự Vệ Thành là những thanh niên tiểu tư sản, phần lớn xuất thân từ các gia đình khá giả. Đám tiểu tư sản này là những thành phần không có chỗ đứng trong chế độ Cộng Sản. Càng lợi cho việc thiết lập chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam nếu họ bị Pháp tiêu diệt, bớt đi càng nhiều càng tốt cho chủ nghĩa Mac Xít Léninist dễ phát triển ở Việt Nam.

Giáp đã viết sách về chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân (được dịch ra tiếng Pháp; Guerre du peuple, l'Armée du peuple), tự cho rằng mình và đảng Cộng Sản Việt Nam là nguồn gốc của quan niệm chiến lược, chiến thuật này.

Sự thực, quan niệm về chiến tranh nhân dân đã được Tướng Trần Canh, một trong ngũ hổ tướng của Mao Trạch Đông, du nhập vào Việt Nam kể từ trận chiến biên giới Cao Bằng Lạng Sơn năm 1950.

Giáp thực sự không phải là cha đẻ của quân đội Cộng Sản Việt Nam, tuy rằng cuối năm 1944, theo lệnh Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đoàn Võ Trang tuyên truyền gồm 34 thành viên với trang bị rất thô sơ. Quân đội Trung Cộng mới thực sự là cha đẻ của quân đội nhân dân của Cộng Sản Việt Nam.
Tháng 3 năm 1946, 1 Trung Đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa tràn qua biên giới, vào Việt Nam để tránh bị các Lộ Quân 46, 64 của Tưởng Giới Thạch tiêu diệt. Chính Trung đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa này đã giúp Cộng Sản Việt Nam huấn luyện Quân đội. Tình báo của Mỹ đã đánh hơi thấy việc Trung Cộng huấn luyện quân đội Cộng sản Việt Nam từ những năm này.

Từ năm 1950, Trung Cộng không ngừng cung cấp người, võ khí và tiếp liệu cho Công Sản Việt Nam. Chính Võ Nguyên Giáp, trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ đã viết: Trong một buổi làm việc ở Moscou với Staline, Mao Trạch Đông, Mao đã hứa trang bị cho Việt Nam 10 sư đoàn. Mao nói: Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn (sư đoàn) để đánh Pháp. Trước mặt hãy trang bị 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc Việt Nam. Có thể đưa ngay một số đơn vị sang Trung Hoa nhận vũ khí. Tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam. Sau đó các đơn vị của quân đội nhân dân lần lượt được đưa sang Tầu để thụ huấn và nhận vũ khí.

Theo Giáp: những đơn vị sang Trung Quốc, ngoài việc trang bị lại vũ khí còn được huấn luyện thêm về chiến thuật công kiên, đặc biệt là kỹ thuật đánh bộc phá. Trước đây, vì chưa có thuốc nổ, ta chưa hề xử dũng kỹ thuật này.

Cũng theo Giáp, chính Hồ Chí Minh đã yêu cầu Tầu Cộng gửi qua Việt Nam một đoàn cố vấn. Theo lời yêu cầu đó, một đoàn cố vấn Trung Cộng khoảng 80 người đã sang Việt Nam, giúp quân Cộng Sản Việt Nam: Lã Quí Ba, Ủy Viên Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc, Trưởng đoàn Cố vấn; Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn về Quân sự: Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưu; Mã Tây Phu, Cố vấn về công tác hậu cần. Chính các Cố vấn Trung Cộng đã giúp Công Sản Việt Nam tổ chức 3 (ba) cơ chế chánh trong quân đội: Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục chánh trị và Tổng cục hậu cần. Tóm lại ngay trong công việc tổ chức quân đội của Cộng Sản Việt Namm, Giáp chỉ là người thừa hành.

Năm 1983, Giáp bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn hạ nhục bằng cách cho đi làm Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch. Giáp đã ngậm bồ hòn làm ngọt, ngoan ngoãn vâng lời. Trong vụ Nhân văn Giai phẩm xẩy ra tại miền Bắc năm 1955, nhiều người đã ở trong Quân Đội Nhân dân của Giáp như Trần Dần, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán … bị đem ra đấu tố, tù đầy. Giáp vẫn giữ im lặng. Trong vụ án chống đảng do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ mưu, các tướng Cộng sản đàn em của Giáp như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Vịnh, các Đại tá thuộc cấp của Giáp như Lê Minh Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Văn Dzoãn… bị hãm hại; Giáp vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Khi các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái (cũng là thông gia của Giáp) bị đột tử sau khi miền Nam đã bị cộng sản hóa. Giáp vẫn ngậm miệng, im lặng là vàng. Giáp đã để lộ rõ cái hèn, thủ khẩu như bình.

Giáp kệ mặc đàn em bị thảm sát, tù đày. Theo Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập của báo Cộng Sản Quân Đội Nhân dân, sở dĩ Giáp không bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thủ tiêu vì Giáp biết thủ nghĩa là Giáp biết cách tránh né để bảo toàn mạng sống.

Khi được một ký giả ngoại quốc hỏi Giáp có hối tiếc gì về số 3-4 triệu người Việt Nam chết vì các cuộc chiến tranh, gọi là chiến tranh ý thức hệ, Giáp đã trả lời là y không hối tiêc gì cả (Non, pas du tout).

Mạng sống của thanh niên Việt Nam bị họ Võ coi như cỏ rác. Giáp sẵn sàng thí quân trong các trận chiến. Trong trận chiến tranh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1950, để tiêu diệt cứ điểm Đồng Khê do 262 lính Pháp trấn đóng, Giáp đã dùng tới 10.000 quân (đông hơn quân trú phòng 40 lần). Sau trận đánh, hơn 500 quân Việt tử trận, không kể số bị thương hàng ngàn. Trong trận đồng bằng Phủ Lý, Ninh Bình, Vĩnh Yên vào tháng giêng năm 1951, chiến thuật biển người của Giáp đã bị Tướng Pháp De Lattre de Tassigny dùng bom Napalm tiêu diệt. Quân Cộng sản, dưới sự chỉ huy của Giáp, đã bị nhiều tử vong, thất bại trong ý đồ đưa chiến tranh về đồng bằng. Số tử vong của quânđội cộng sản, khi tháo lui, là trên 6000 người. Số bị thương chắc chắn là gấp đôi, gấp ba con số 6000.

Trong chiến tranh Việt – Pháp 1946-1954, người thực sự chỉ huy các trận đánh lớn không phải là Giáp mà là các tướng Trung Hoa Cộng Sản như Trần Canh trong những năm 50, sau đó là đoàn cố vấn Trung Quốc đứng đầu là Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba. Hào quang chiến thắng của Giáp chỉ là một giả tạo, một hào quang do Trung Cộng ban cho.

Chiến dịch biên giới năm 1950.

Chiến dịch này nhằm mục đích đuổi quân Pháp ra khỏi biên giới của 2 nước Việt Nam-Trung Hoa để cho việc tiếp vận từ Trung Hoa Cộng Sản cho quân đội của Cộng Sản Việt Nam được dễ dàng. Tướng Trần Canh của Trung quốc sang Việt Nam ngày 22-7-1950. Trần Canh đã áp dụng học thuyết chiến tranh nhân dân của Mao vào chiến tranh Việt Nam.

Kế hoạch tiến công của Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch biên giới được thay thế bằng kế hoạch tác chiến của Trần Canh. Thay vì tấn công Cao Bằng như kế hoạch của Giáp, Trần Canh đề nghị kế hoạch tấn công Đông Khê, một đồn của Pháp nằm giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, để lùa quân Pháp ra khỏi hai tỉnh trên và sau đó phục kích tiêu diệt (công đồn đả viện). Hồ Chí Minh chấp thuận kế hoạch này. Kết quả trận đánh là quân Pháp thảm bại phải bỏ hết các tỉnh biên giới. Chiến thuật công đồn đả viện của Cộng Sản Việt Nam là do các cố vấn Trung Quốc, nhứt là Trần Canh, truyền thụ cho.

Từ năm 1951, nhóm cố vấn chánh trị do Lã Quí Ba cầm đầu đã giúp Hồ tạo lập luật lệ và chánh sách liên quan đến tài chánh, thuế khóa, quản lý báo chí và đài phátthanh cũng như các chánh sách đối với các dân tộc thiểu số ...

Chiến dịch Tây Bắc 1952

Sau các tổn thất ở đồng bằng sông Hồng Hà năm 1951, Việt Minh, theo sự cố vấn của các cố vấn Trung Quốc, mở chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Lã Quí Ba trách nhiệm hoạch định chiến dịch thay Vi Quốc Thanh về Tầu chữa bệnh. Hồ Chí Minh chấp thuận hoàn toàn đề nghị của Lã Quí Ba. Theo Qiang Zhai (China and the Vietnam wars 1950-1975) cuối tháng 9 năm 1952, Hồ bí mật sang BắcKinh để thảo luận về chiến dịch Tây Bắc cũng như chiến lược thắng quân Pháp.

Ngày 14-10 Việt Minh tập trung 8 tiểu đoàn tấn công Nghĩa Lộ và các đồn bót lân cận.

Ngày 16-10 Vy Quốc Thanh trở lại Việt Nam để cùng Lã Quí Ba chỉ đạo chiến dịch. Sau khi mất Nghĩa Lộ, quân Pháp chạy khỏi Sơn La ngày 21-11. Việt Minh hoàn toàn chiếm lĩnh một khu vực lớn ở Tây Bắc, cho phép họ có thể tiến hành các hoạt động ở Lào.

Đối phó với kế hoạch Navarre – Trận Điện Biên Phủ

Tháng 5-1953, tướng Henri Navarre đảm trách chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương với kế hoạch:

1- Kiểm soát vùng đồng bằng sông Hồng
2- Bình định các khu do Cộng Sản kiểm soát ở miền Trung và miền Nam
3- Mở tổng phản kích tiêu diệt các cứ địa của Việt Minh tại miền Bắc

Navarre cho thành lập các binh đoàn lưu động.

Việt Minh Cộng Sản, lúc đầu muốn tập trung quân tại vùng Tây Bắc và Lai Châu, nhưng sau Giáp từ bỏ ý định đó, muốn kéo quân tấn công quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng Hà. Như vậy Giáp hạ thấp tầm quan trọng của chiến dịch ở Lào. Bắc Kinh không đồng ý với kế hoạch của Giáp. Bắc Kinh nhấn mạnh Việt Minh cần giữ nguyên kế hoạch tập trung vào Tây Bắc và Lào. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nếu thực thi chiến thuật này, Việt Minh Cộng Sản có thể chuẩn bị lực lượng cho công cuộc đánh chiếm đồng bằng sông Hồng và cuối cùng sẽ đánh bại Pháp ở Đông Dương.

Tháng 9, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam, phủ quyết kế hoạch của Giáp để theo kế hoạch của các cố vấn Tầu.

Ngày 27 tháng 10 năm 1953, Vy Quốc Thanh trao cho ông Hồ một bản sao kế hoạch của Navarre mà tình báo Trung Cộng đã thu đoạt được. Sau khi xem xét, các lãnh đạo của Cộng sản Việt Nam nói đề nghị của Trung Quốc là đúng. Cộng Sản Việt Nam, nếu theo đúng kế hoạch của Trung Quốc, có thể phá vỡ kế hoạch của Navarre.

Khi Navarre đưa quân đến Điện Biên Phủ, Giáp và Bộ Tham mưu chưa nhận ra tầm quan trọng của vị trí này. Chính Vy Quốc Thanh là người đã thúc Giáp mở chiến dịch bao vây và tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Trung Quốc nhấn mạnh chiến dịch Điện Biên Phủ không chỉ quan trọng về quân sự mà còn có ảnh hưởng quốc tế.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam thông qua kế hoạch tác chiến ở Điện Biên Phủ. Giáp chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc Thanh đề ra. Người hùng Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp đã được cố vấn Tầu nặn ra.

Chính các cố vấn Trung Cộng đã giúp Việt Minh trong các chiến dịch biên giới, Tây Bắc và Điện Biên Phủ. Trung Cộng đã chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ 8286 tấn tiếp liệu gồm võ khí, lương thực v.v… Cố vấn TC có mặt ở mọi đơn vị. Thí dụ họ đã giúp Việt Minh bố trí pháo binh trong các hào sâu trên sườn núi để tránh bị phi cơ Pháp phát hiện và phá hủy. Pháo binh của Việt Minh, được các cố vấn Trung Cộng điều khiển, là một bất ngờ cho quân đội Pháp. Nhưng sự tham dự tích cực của Trung Cộng vào sự thành công của chiến dịch không hề được Giáp nhắc tới trong các bài viết, trong các sách của y như cuốn Điện Biên Phủ: điểm hẹn lịch sử. (The Chinese support for the North Vietnam during the Vietnam War; The Decisive Edge by Bob Seals).

Sự giúp đỡ của Trung Cộng không ngừng ở chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân. Sự giúp đỡ vẫn được tiếp tục trong cuộc chiến xâm lăng miền Nam 1954-1975.

Thay lời kết:
Thằng hèn Võ Nguyên Giáp sám hối

Người hùng Võ Nguyên Giáp, tướng huyền thoại của Cộng Sản Việt Nam chỉ là một nhân vật đại bịp trong số hàng trăm hàng ngàn tên bịp bợm (trong đó có cả tên Hồ), trong quá trình hiện hữu của đảng Cộng Sản Việt Nam. Y không phải là một thiên tài quân sự như đảng Cộng Sản Việt Nam thổi phồng.

Chính các cố vấn Trung Cộng do Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba cầm đầu đã đánh thắng quân Pháp trong cuộc chiến 1946-1954 chứ không phải là Giáp. Hào quang của Giáp là do Trung Cộng nặn ra, treo vào cổ Giáp. Sự thực các trận đánh lớn, có tính cách quyết định đều do các cố vấn Tầu Cộng thiết kê và điều khiển.

Giáp đã sống trong cái vỏ thiên tài đó trong hơn nửa thế kỷ. Đến nay thì sự thực đã được phơi bầy:

Trong suốt hai cuộc chiến 1946-1954, 1954-1975, Giáp và đảng Cộng Sản Việt Nam đã dựa vào Trung Cộng gần như toàn diện. Nay họ đã và đang trả món nợ đó, trả bằng cả số phận của dân Việt, bằng cả đất nước do tổ tiên để lại: quê hương đang mất dần vào tay người Trung hoa Cộng sản.

Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền

Sunday, August 29, 2010

TỪ ĐẠI HỘI NHÀ VĂN ĐẾN ĐẠI HỘI DÂN CHÚA - LM.Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm

LM.Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
    “Sự thật sẽ làm cho các ông được tự do” (Ga 8,32)
Sự kiện gần nhất

Trong những ngày này, truyền thông Việt Nam không ngớt lời ca ngợi Giáo sư Ngô Bảo Châu, một tài năng trẻ Việt Nam, 38 tuổi, đã nhận giải toán học Fields. Trong khi đó, một nhà trí thức khác, Phạm Minh Hoàng, giảng viên Đại học Bách khoa Sài Gòn, rời Việt Nam năm 1972 qua Pháp du học, rồi trở lại Việt Nam năm 1990 vào thời kỳ “đổi mới”, nay đang chờ ngày ra toà, chắc không vì lý do gì khác hơn là vì đã mớm cho sinh viên những ý tưởng tự do, dân chủ. Chẳng biết nếu khoa học không nhằm mục đích phục vụ con người thì đối tượng của nó sẽ là cái gì !

Đại hội Nhà Văn Việt Nam

Vẫn là chuyện thời sự liên quan đến giới trí thức Việt Nam xảy ra chỉ mới đầu tháng 8 này, chính xác là trong hai ngày 5 và 6 tháng 8 : tại trường Học viện Hành chính Quốc gia đã diễn ra Đại hội Nhà Văn VIII, với số tham dự viên lên đến bảy tám trăm, trong số đó quãng 2/3 là các đảng viên cộng sản. Nghe đâu chi phí dành cho Hội Nhà Văn lên đến trên 86 tỷ đồng trong thời gian 2005-2010. Điểm đặc biệt là lần này trong Chủ toạ đoàn có nhà văn trung tướng công an Hữu Ước, không biết có quen cầm bút bằng cầm súng hay không.

Đến lượt nhà văn bị bịt miệng

Nhưng yếu tố đã tạo ra sự chú ý tại đại hội Nhà Văn Việt Nam lần này không là gì khác hơn là một số nhân vật thuộc cánh “lề trái” như Ngô Minh, Bùi Minh Quốc, với những bài viết không được trình bày công khai tại Đại hội, nhưng được biết đến nhờ đưa lên mạng.

Tuy nhiên có lẽ tiếng nói mạnh mẽ nhất là Trần Mạnh Hảo, tác giả bài tham luận được phổ biến trên mạng trước cả khi Đại hội bắt đầu. Tuy được viết theo đơn đặt hàng của nhà văn Hữu Thỉnh, Chủ tịch hội Nhà Văn Việt Nam, nhưng lại không được phép đọc tại Đại Hội. Không những thế, tại hội trường, khi tác giả bài tham luận chỉ muốn ngỏ lời với dăm câu ba chữ thôi, thì cứ đụng đến micro nào là đường dây micro đó y như bị sét đánh, thành ra cuối cùng chẳng nói năng gì được.

Lý do chẳng có gì khó đoán, đó là vì nội dung của bài tham luận “có vấn đề”. Nguyên cái tiêu đề thôi cũng làm cho ai yếu bóng vía phải giật mình: “Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước”. Đọc những chữ, những câu đầu tiên, ta có cảm tưởng đang chứng kiến cảnh một võ sĩ vừa nhảy lên khán đài đã vung tay múa kiếm: “Thói thường, con người sợ món gì nhất ? Sợ ma quỷ ư ? Không ! Sợ vợ ư ? Không ! Sợ công an ư ? Không ! Sợ kẻ cầm quyền ư ? Không ! Sợ chết ư ? Không !”. Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật.

Sau khi đặt câu hỏi và tự trả lời, tác giả liền chứng minh: “Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị ? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.”

Rồi dựa vào định đề của K.Marx: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”, tác giả lần lượt nêu lên ý tưởng của cố tổng thống Ba-lan Lech Kaczinxki: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất, luôn luôn giải phóng con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hoà hợp”. Tác giả cũng nhắc lại chủ đề cuộc hội thảo do Ban Tuyên giáo trung ương tổ chức đại Đà Lạt trong hai ngày 12-13 tháng 07 năm 2010, chủ đề đó là “Văn học nghệ thuật phản ảnh hiện thực đất nước hôm nay”. Tác giả cũng không quên nhắc lại lời cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh căn dặn văn nghệ sĩ: “Cởi trói như thế nào … Cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí … Tôi cho rằng khi sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh …”.

Ba sự thật

Sau khi đã cẩn thận rào trước đón sau, tác giả lần lượt đề cập đến 3 sự thật:

SỰ THẬT MỘT: chưa bao giờ, số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà, anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dùng chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong lòng địch”… rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng …

Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải …

Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực … Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục. Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa … là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ … lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam …

SỰ THẬT HAI: Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không ? Không ! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng ? Thưa, chính quyền ! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi …

SỰ THẬT THỨ BA: Nói một đàng, làm một nẻo, hay là danh không chính thì ngôn không thuận.

Đảng, Nhà Nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.”

Trên đây chỉ là mấy trích đoạn của một bài viết dài gần 16 trang A5 với những ví dụ rất chi tiết, rất cụ thể để chứng mình rằng: “Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước”. Thiết nghĩ không riêng gì tôi, mà bất cứ ai quan tâm đến văn học, đến con người, đến đất nước, đọc bài này xong chỉ có thể vui mừng, cảm phục và tri ân nhà văn Trần Mạnh Hảo đã “dám liều mạng nói lên những sự thật cay đắng nhất, khủng khiếp nhất của đất nước chúng ta hiện nay, những sự thật chết người, ai ai cũng biết, mà vì sợ tù tội nên không ai dám nói ra”.

Hướng về Đại hội Dân Chúa

Đại hội các Nhà Văn vừa nói trên đây khiến tôi liên tưởng tới một Đại hội khác sẽ diễn ra tháng 11 tới đây, đó là Đại hội Dân Chúa. Chẳng phải tôi không biết đến những gì là tích cực mà mọi thành phần dân Chúa đã và đang góp phần xây dựng để Giáo Hội Việt Nam được như hôm nay. Nhưng điều tôi e ngại, là những thành công đạt được sẽ ru ngủ chúng ta, không cho chúng ta can đảm nhận ra những yếu kém cần khắc phục, những sai lầm cần sửa chữa. Nếu theo lời Trần Mạnh Hảo, chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước, thì cũng chỉ có sự thật mới giải phóng được Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Và cùng với Trần Mạnh Hảo tôi cũng xin được chỉ ra ba sự thật:

Sự thật một: Những điều Trần Mạnh Hảo nói trên đây liên quan đến sự tồn vong của đất nước, của dân tộc là điều hiển nhiên không thể phủ nhận. Câu hỏi đặt ra là trước thảm trạng đó, Giáo Hội Công Giáo chúng ta đã có động thái nào để chứng minh là mình gắn bó với dân tộc, với đất nước. Trong khi các nhà trí thức nhận ra ý đồ xâm lược của ngoại bang nhân vụ bauxite Tây Nguyên, đã nhanh chóng và mạnh mẽ lên tiếng, không những chỉ những người sống trong nước, nhưng cả đến những người Việt ở nước ngoài, kể cả những người không còn giữ quốc tịch Việt Nam, trong khi có những sinh viên, học sinh mạnh dạn kéo nhau đi biểu tình, rồi đến khi bị công an sách nhiễu, canh chừng quá kỹ, thì đêm đêm tìm cách lén vẽ lên tường mấy chữ HS-TS-VN để biểu hiện lòng yêu nước, biểu hiện quyết tâm bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa, quyết tâm giữ gìn sự toàn vẹn của lãnh thổ, thì Giáo Hội Công Giáo không có nổi một cử chỉ, một tiếng nói, cứ bình chân như vại, như thể những chuyện đó chẳng liên quan chi tới mình. Vậy sự thật có phải là Giáo Hội Công Giáo đang quyết tình đứng bên lề dân tộc ?

Sự thật hai: Tại Na-da-rét, Đức Giê-su đã mặc khải sứ mạng cứu thế của ngài khi trích dẫn lời sấm của I-sai-a: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc 4,18). Và sứ mạng của Hội Thánh là tiếp nối công trình cứu độ của Đức Giê-su. Thế thì trên đất nước Việt Nam hôm nay, khi từ bắc chí nam, từ nông thôn đến thành thị, người dân oan bị cướp đất không còn biết kêu ai, vì đi nộp đơn kêu oan thì cứ bị đùn đẩy từ toà dưới lên toà trên, rồi lại từ toà trên xuống toà dưới, khi những người bày tỏ chính kiến cách ôn hoà nhằm góp phần xây dựng xã hội, xây dựng đất nước, những người đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền, bị áp bức, bị tù tội, ngay cả lúc chưa vào tù thì cũng không còn đường sống, vì đi xin việc không ai dám nhận, đi thuê nhà không ai dám cho, khi phụ nữ bị bán làm gái mại dâm, người lao động bị bóc lột tàn tệ, trong những hoàn cảnh bi đát thê thảm như thế, mà Giáo Hội Công Giáo vẫn ngậm miệng làm thinh, thì sự thật hôm nay có phải là Giáo Hội đang quay lưng lại với người nghèo, người bị bóc lột, bị áp bức ?

Sự thật ba: Chúng ta viện cớ “không làm chính trị” để khỏi lên tiếng khi phải lên tiếng, chúng ta nói hiệp thông mà chẳng hiệp thông, chúng ta đề ra phương châm hấp dẫn “Đồng hành với dân tộc”, để cuối cùng chỉ đồng hành trên giấy, chúng ta tôn vinh lòng thương xót Chúa, nhưng khi xảy ra các vụ Thái Hà, Tam Toà, Loan Lý, và mới đây nhất là Cồn Dầu, thái độ của ta là ai chết mặc ai. Thế thì câu hỏi đặt ra là: phải chăng chúng ta cũng như những cán bộ cộng sản: “nói mà không làm, hay nói một đàng làm một nẻo ?”

Mấy điểm tôi nêu trên đây chỉ mang tính gợi ý để ta có thể nhìn lại và suy nghĩ, vì tôi không muốn, mà cũng không có khả năng liệt kê đầy đủ những điều phải tránh, hay những việc phải làm. Hy vọng sẽ còn nhiều người khác góp ý cho Đại hội.

Vai trò của lãnh đạo

Trong tổ chức nào cũng thế, người lãnh đạo nắm vai trò quan trọng. Chính vì thế mà trong thời gian qua, nhất là từ khi xảy ra những biến động trong Giáo Hội Việt Nam liên quan đến việc thay bậc đổi ngôi tại Toà Tổng Giám Mục Hà Nội, các giám mục đã bị truyền thông phê phán gay gắt, nặng nề. Nhưng làm sao biết được ai đúng, ai sai ?

Trước câu hỏi này, diễn đàn Nữ Vương Công Lý ngày 20-08-2010 đăng tải bài của Lê Thiên: “Hội Đồng Giám Mục: Giáo luật và thực tiễn tại Việt Nam”. Đọc xong bài của Lê Thiên, tôi thầm nghĩ: ông này đúng là “bạo phổi”. Là vì dám “đụng” đến giám mục đã là “to gan” rồi, nhưng ở đây Lê Thiên đụng tới cả Hội Đồng Giám Mục (HĐGM) ! Có điều ông không nói vu vơ, nhưng nói có sách. Trong phần chú thích, ông liệt kê ra đến 86 điều trong Bộ Giáo Luật liên quan đến HĐGM ! Ông dựa vào đó để chỉ ra quyền hạn và trách nhiệm của HĐGM. Rồi ông khẳng định : “Chúng ta có thể kết luận rằng, theo nội dung Bộ Giáo Luật, HĐGM là một tập thể những vị Chủ Chăn cùng liên đới trách nhiệm làm “tiếng nói cho những người không có tiếng nói” trong một quốc gia. Bất cứ lúc nào và ở đâu trong địa bàn hoạt động của mình, khi xảy ra một biến cố đụng chạm đến đàn Chiên, thì tập thể Chủ Chăn trong HĐGM cũng đều nhanh chóng can dự vào bằng cách này hoặc cách khác, chứ không lưỡng lự “lên tiếng hay không lên tiếng” để rồi đi tới chỗ vô cảm, vô can và … vô trách nhiệm.

Với hàng loạt quyền hạn pháp định, không một HĐGM nào tự cho phép mình nại ra bất kỳ lý do gì để tránh can dự vào việc đấu tranh bảo vệ công bằng xã hội, bảo vệ quyền sống của con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, quyền sở hữu tài sản, quyền tự do ngôn luận, tự do tỏ bày tư tưởng hay phát biểu quan điểm, quyền tự do cư trú cùng các quyền tự do căn bản chính đáng khác… !”

Không dừng lại nơi những nguyên tắc trừu tượng, Lê Thiên đi thẳng vào các vấn đề thời sự đặc biệt trong hai năm vừa qua: “Những vụ xúc phạm đến các biểu tượng thiêng liêng của người tín hữu, như xúc phạm tới Thánh giá, tới các ảnh tượng và nơi thánh, dù xảy ra ở bất cứ nơi nào trên đất nước, đều không thể coi là chuyện riêng của một cá nhân, một nhóm người, một giáo xứ hay giáo phận. Trong những biến cố dầu sôi lửa bỏng như trên, hay những vụ đàn áp bắt bớ, tù đày, gây thương tích hoặc làm chết người, làm sao HĐGM có thể nhẫn tâm chần chờ, đắn đo để xem có nên “lên tiếng hay không lên tiếng? Chưa nói tới khía cạnh đạo đức và tình người, mà chỉ căn cứ vào mệnh lệnh của Giáo Luật, thái độ không dứt khoát hay cố tình tránh né trách nhiệm ấy khó có thể biện minh dù bằng bất cứ lý lẽ nào. Chẳng những thế, thái độ ấy còn làm cho niềm tin bị giao động và lung lay tận gốc.”

Không biết trong hàng ngũ các giám mục Việt Nam, đã có bao nhiêu vị chịu dành thì giờ nghiên cứu các tài liệu Công Đồng Vatican II và giáo luật hiện hành liên quan đến quyền hạn và trách nhiệm của HĐGM như Lê Thiên đã làm. Nếu không ai chứng minh được là Lê Thiên sai, thì nay các tín hữu Công Giáo đã có cơ sở để đánh giá lập trường và thái độ các giám mục Việt Nam trước những vấn đề thời sự nóng bỏng của đất nước và Giáo Hội.
Kết luận

Sau 350 năm truyền giáo và 50 năm thành lập hàng giáo phẩm, lạc quan hay bi quan là quyền của mỗi người. Nhưng sự thật khách quan là suốt nhiều thập niên liên tiếp, số tín hữu Công Giáo Việt Nam không vượt quá ngưỡng 7 hay 8 phần trăm. Trong cộng đồng dân tộc 86 hay 87 triệu hôm nay, chúng ta vẫn là thiểu số. Nếu truyền giáo là bản chất người Ki-tô hữu, thì chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Thế nhưng nếu dưới mắt người Việt Nam ngoài Công Giáo, Giáo Hội chúng ta chỉ là một tổ chức mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có tài sản lớn lao, có nhân lực có trình độ, nhưng lại thờ ơ với vận mạng dân tộc, quay lưng lại với đại đa số vốn là những người nghèo, thờ ơ với mọi cuộc tranh đấu cho nhân quyền, cho tự do dân chủ, thì đồng bào ta có gì để chờ mong, có gì để hy vọng ? Làm sao tin tưởng vào những vị lãnh đạo tôn giáo chỉ vì muốn được yên thân mà chịu khuất phục bạo quyền ? Trong bối cảnh đó, những tiếng nói như Trần Mạnh Hảo hay Lê Thiên là những tiếng nói rất đáng trân trọng.

Sài Gòn, ngày 28 tháng 08 năm 2010
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
pascaltinh@gmail.com


Việc đi theo “Lề Phải” của HĐGMVN - Trường Sơn

Trường Sơn

Ông Ngô-Bảo-Châu một nhà toán học trẻ Việt-Nam vừa nhận được giải thưởng toán học cao quý Fields năm 2010 vì đã chứng minh được một công thức cơ bản về toán học làm bàn đạp vững chắc cho phương pháp tân kỳ phối hợp được mọi phép tính toán bằng số học và hình học gọi là “Chương Trình Langlands” mà đã mấy chục năm qua bao nhà toán học khác đã nghiên cứu nhưng chưa thành công.

Ngoài niềm hân hoan của thế giới khoa học về thành tựu của Giáo Sư Bảo-Châu, nhà nước CHXHCN Việt-Nam cũng hớn hở không kém khi thấy một công dân của mình đang được thế giới khen ngợi dù công dân này đã xin nhập quốc tịch Pháp vào đầu năm 2010. Ông Phó Thủ Tướng Việt-Nam Nguyễn-Thiện-Nhân vui sướng quá đến độ phải tìm gặp mặt Giáo Sư trẻ Ngô-Bảo-Châu để mò mẫm cho bằng được cái dế (vế) của anh ta mong dính được chút khí vinh quang mà cả Đảng Cộng Sản Việt-Nam đang thèm rỏ dãi trong cơn sỉ nhục bị toàn thế giới phỉ nhổ về vi phạm nhân quyền, bán nước và buôn lậu muôn mặt, từ sừng tê giác đến gái nô lệ tình dục cho ngoại bang.

Để được vui hưởng trọn vẹn niềm hãnh diện đó, nhà nước Việt Nam phải cố gắng lờ đi không muốn nhắc đến những lời tuyên bố thẳng ruột ngựa của cậu con cưng Bảo-Châu đang xem cái quốc tịch Việt-Cộng của mình chẳng ra gì. Khi được hỏi tại sao anh lại nhập quốc tịch Pháp thì anh này đã nói rằng: “Tôi có thêm quốc tịch Pháp từ đầu năm 2010, nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Quốc tịch Pháp tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại”. Như vậy là anh xác nhận cái quốc tịch Việt-Nam của anh đã và đang tạo nhiều khó khăn cho anh trong khi ra vào các nước khác quanh thế giới ! Tại sao ? Thì cũng giống như Đức Tổng Giám Mục Ngô-Quang-Kiệt trước đây đã nói rằng “mang hộ chiếu VN đi ra ngoại quốc là một điều xấu hổ” … vì hộ chiếu của công dân Việt Nam bị các nước ngoài dò xét và xem như là gian manh, đòi kiểm tra kỹ lưỡng và theo dõi như kẻ tội phạm.

Điều này là một sự thật hiển nhiên. Một bà Việt-Nam đi ra nước ngoài du lịch đã nói rằng: “Thật là xấu hổ, khi ghé một phi trường để chuyển máy bay, tôi đi vào nhà vệ sinh mà họ cũng theo dõi, xem tôi như là tội phạm hay con mẹ lưu manh buôn lậu không bằng !..”. Một sự xấu hổ mà công dân Việt Nam nào cũng cảm nhận được, chỉ có những tên cán ngố quá quen với sỉ nhục mới vênh mặt khi ra nước ngoài không biết ngượng mà thôi. Giờ này, dù nhà toán học Ngô-Bảo-Châu đã xác nhận lại “sự bất tiện” của quốc tịch Việt-Nam trước cộng đồng thế giới, thế nhưng nhà nước cũng phải phái ông Phó Thủ Tướng đến ve vãn sờ mó ! Trước đây họ đã vận dụng toàn bộ hệ thống truyền thông của họ, từ truyền hình, radio đến báo chí để xuyên tạc bôi lọ Tổng Giám Mục Ngô-Quang-Kiệt vì Ngài cũng nhận định giống như Anh Bảo-Châu, họ còn sai cả bọn “quần chúng tự phát” đến đòi giết Ngài nữa, thế sao bây giờ họ lại mềm nhũn hèn hạ đi nịnh bợ, sờ vế xin “nâng bi” một người cùng nói lên một nhận định như Tổng Giám Mục Ngô-Quang-Kiệt ?

Ngoài ra Anh Bảo-Châu đã phê bình đường lối "theo Lề Phải" của chính quyền VN là: “bám theo lề là việc của con cừu, không phải việc của con người tự do”. Nếu như câu nói đó là của một nhà báo hay của một blogger sống tại VN thì chắc người này cũng bị khuấy nhiễu, gọi đi làm việc, hoặc cho ngồi tù vài tháng cho biết mùi cải tạo, nhưng lần này người nói là một nhà toán học nổi tiếng thế giới cho nên, tuy xót xa lắm, nhưng nhà nước Việt-Nam vẫn giả lả cười vui vì không dám buông lời trách móc để khỏi bị cả thế giới chê là ngu dốt đần độn ! Thế đấy, cái “Lề Phải” của Việt Nam là một “đường đi dành cho thú vật”, vì nó gồ ghề dơ bẩn ngoằn ngoèo và không có đường song song để mọi con thú có thể cùng nhau tiến nhanh tiến mạnh theo từng lối riêng của mình. Thế mà hiện nay cái Hội Đồng Giám Mục Việt-Nam vẫn nhắm mắt đi theo Lề Phải do bọn Việt Cộng vạch ra mà vẫn khăng khăng cho đó là đường đi đúng với đạo lý của … của Vatican, hay là của Quỷ ?

Đạo lý của Chúa không hề áp đảo tự do của loài người mà chỉ nhằm giải phóng họ thoát khỏi vòng nô lệ của lề luật kiềm chế (tức chẳng có ép buộc phải đi theo lề phải hoặc lề trái), Ngài cho phép con người được tự do hành động theo lý trí của mình, theo lòng tin của mình vào Đấng Tạo Hóa Tối Cao. (Gal 5:1, 13-18). Bao lần Chúa Giêsu đi rao giảng và Ngài thường nói rằng: “Ai có tai thì hãy nghe”, tức là chẳng ép buộc một ai, ai muốn nghe thì được hưởng ơn phước, còn không chịu nghe thì đánh mất cơ hội để tự cứu mình ! Tuy Ngài là Con Thiên Chúa nhưng chỉ tự cho mình cái nhiệm vụ là rao giảng chứ không áp đặt, thế nhưng dường như Giáo Hội Công Giáo VN lại thích áp đặt lề luật khiến những ai không chịu làm theo thì e rằng như bị vạ tuyệt thông khiến những người dưới quyền phải sợ răm rắp, và cũng có những vị lãnh đạo đã lợi dụng cái uy quyền đó để che đậy cái hèn nhát ngu si hoặc quan liêu của mình. Họ bào chữa rằng: Vì Công Đồng Vatican 2 bảo chúng tôi phải thỏa hiệp thì chúng tôi phải làm đúng theo như vậy, sao lại chê chúng tôi hèn nhát ??? Thì ra họ lợi dụng sự dốt nát của giáo dân để tự bênh vực cho sự sai đường lạc lối của mình, đồng thời lại hướng dẫn giáo dân theo đường hướng tiêu cực của họ mà thôi. Nếu Giáo Hội Việt-Nam cho rằng Công Đồng Vatican 2 buộc con người phải đối thoại và thỏa hiệp với bọn quỷ ma Việt Cộng phỉ báng Thiên Chúa, thì ắt cũng thừa nhận rằng Công Đồng này đã là công cụ giúp cho bọn Ma Quỷ Cộng Sản chà đạp tự do tôn giáo, phỉ báng Thiên Chúa và đập phá Thánh Giá cùng tượng ảnh Chúa hay sao ? Tại sao đa số giáo sĩ và giáo dân Ba-Lan vẫn áp dụng chính sách cởi mở của Công Đồng Vatican 2 mà lại không thỏa hiệp với Cộng Sản ? trái lại họ đã chống đối tích cực và đã mang chiến thắng cho Giáo Hội và cho đất nước Ba-Lan. Điều này chứng tỏ Giáo Hội VN đã không áp dụng đứng đắn đường lối cởi mở hiếu hòa nhưng kiên trì vũng chắc với bổn phận phục vụ Thiên Chúa của tinh thần Vatican 2.

Thật là một sự sa đọa cho Giáo Hội Việt-Nam, chỉ vì ngu dốt cua vài "dang" và hèn nhát mà kể từ ngày Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam. HĐGMVN đã bóp méo tinh thần Công Đồng Vatican 2 để lòn cúi thỏa hiệp với Việt Cộng. Kết quả của 35 năm hèn hạ lòn cúi là sự tổn hại ghê gớm cho uy tín và sự hợp nhất của Giáo Hội, một sự phai nhạt niềm tin của toàn thể giáo dân VN vào Hội Thánh. Sự kêu gọi của Hồng Y Phạm-Minh-Mẫn rằng: “Việc cần làm: chuẩn bị xây ngôi nhà chung trên nền đá vững chắc” là một sự kêu gọi ngớ ngẩn ! Không phải trước đây Giáo Hội đã được xây trên nền đá rất vững chắc rồi hay sao mà nay lại phải “chuẩn bị ” để xây ? Nhưng vì ai mà hiện nay giáo hội lại lung lay bị sập và phải chuẩn bị “xây lại” ? Ấy có phải là do những tên giáo sĩ quốc doanh phá hoại, những tên chủ chăn khiếp nhược đã làm cho nó mục rữa và nứt rạn ? Chính sự sợ hãi và hèn nhát thích ngồi mát hưởng thụ đã khiến cho những chủ chăn và giáo sĩ quốc doanh tay sai của Việt Cộng cam lòng phá nát giáo hội trong 35 năm qua ! Đức Tổng Giám Mục Nguyễn-văn-Bình đã thổ lộ cho đến lúc chết là Ngài luôn “sợ Việt Cộng”, sợ đến nỗi phải vâng lời chúng trong mọi việc sai trái mà chúng sai khiến. Vậy thì còn gì là chức năng mục tử Công Giáo dẫn đường và bảo vệ cho con chiên ? Mục tử mà chó sói đến sủa lớn bảo mở chuồng chiên thì liền mở, bảo đuổi con chiên nào ra khỏi chuồng thì liền đuổi con chiên đó đi ngay, thấy sói cắn cổ xé xác chiên trong chuồng mà vẫn lãnh đạm làm ngơ ? Mục tử kiểu này thì tại sao không từ chức cho giáo hội được nhờ mà lại cứ mãi tham quyền cố vị ?

Nếu có can đảm thì người mục tử sẽ, một là xông vào chống chọi với sói để được chết anh hùng trong nhiệm vụ, hai là mời gọi kẻ khác đến thay mình và mình rút lui để khỏi vướng chân những kẻ dũng cảm khác.

Nhân 100 năm kỷ niệm ngày sinh của cố Tổng Giám Mục Nguyễn-văn-Bình, một số tay sai Cộng Sản đang manh nha hô hào “tinh thần nô lệ” của vị Giám mục này để dụ dỗ giáo dân đi vinh danh cái tinh thần nô lệ đó hầu sa vào vòng phục tùng nô lệ cho mưu đồ cai trị đen tối của chúng. Những bọn thầy tu đội lốt “hiếu thảo bề trên” này đang phục vụ cho ma quỷ nhưng lại đóng kịch rất giỏi khiến người nhẹ dạ phải nghe theo.

Giáo dân Việt-Nam phần đông là thứ nhẹ dạ, thấy ma quỷ đội lốt linh mục ngay trước mặt mình mà cũng cúi đầu vâng dạ. Hậu quả của sự vâng dạ này sẽ là một hình phạt trong ngày phán xét. Ngày đó quý vị sẽ thấy đàm chặn ngang cổ và nghẹt thở và hoảng hốt thấy bóng tối sự chết bắt đầu bao trùm lấy mình, quý vị sẽ chết trong tuyệt vọng, vì khi còn sống quý vị đã không chịu nghe theo lời cảnh cáo của những người rao giảng sự thật. Lúc đó quý vị sẽ thấy những tên giáo gian như Huỳnh-Công-Minh, Phan-Khắc-Từ vv.. bị quỷ dữ dẩn đi lòng vòng trong hỏa ngục với xiềng xích quanh người và sẽ nhận thấy mình cũng đang bị buộc tay với nhau vào trong hàng ngũ tội phạm dưới sự hành hạ của quỷ dữ mà không còn lối thoát nào ! Đừng nghĩ rằng Thiên Chúa là nhân từ vào giờ phút đó. Thánh Kinh ắt cũng đã dạy rằng: Có một thời để vui sướng hưởng thụ và cũng có một thời để khóc lóc chịu hình phạt (Giảng Viên 3:17), và Chúa Giêsu cũng dùng những giai đoạn đó để yêu thương và khoan hồng, và cũng để luận tội và trừng phạt !! Đó mới chính là sự công bằng của Thiên Chúa, Đấng có thể vừa diệt được thể xác và diệt luôn cả linh hồn. Hãy đọc dụ ngôn trong phúc âm Luca đoạn 16 câu 22 đến 31 trong đó, kẻ giàu có vui chơi thụ hưởng trong hoan lạc bất chấp đau thương của tha nhân, đã bị khước từ mọi ân huệ sau khi chết vì họ đã đánh mất cơ hội hoán cải khi đã được các tông đồ của Thiên Chúa khuyên nhủ lúc còn sống, câu chuyện kết thúc bằng câu: "Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại [để cảnh cáo họ thì], họ cũng chẳng chịu tin". Vì vậy ngay bây giờ, khi quý vị đang còn ý thức thì hãy cố gắng nghe theo lời khuyên nhủ của các người có thiện tâm mà rời bỏ hàng ngũ của quỷ dữ Việt Cộng hoặc lánh xa những tên chăn chiên giả đang phá hoại Hội Thánh, để mưu cầu đời sống vĩnh cữu cho mình về sau !

Nhà nước Việt-Nam là một lũ sói lang chuyên đàn áp kẻ trung chính, dù có thỏa hiệp với chúng hay không, chúng vẫn triệt tiêu những kẻ không đồng chí với chúng. Bao nhiêu cố gắng thỏa hiệp của TGM Nguyễn-văn-Bình cùng Ủy Ban Đoàn Kết Yêu Nước đều là vô tích sự, chẳng đem lại vinh quang lợi ích gì cho Giáo Hội và cho Thiên Chúa. Hoàn toàn chẳng được gì mà lại còn mất mát thêm nhiều hơn. Ngoài những mất mát về cơ sở vật chất thì còn mất mát về tinh thần ! Mất tinh thần ở chỗ nào ? Đó sự chia rẽ rạn nứt trong giáo hội hiện nay và sự bại hoại tinh thần hy sinh vì Chúa. Muốn biết thiệt hại tinh thần ra sao thì hãy xem mấy thằng hút xách nghiện ngập thì biết ngay ! Khi đã được một tên lưu manh cung cấp ma túy hút sướng ngất ngư rồi, thì thằng lưu manh này sai bảo gì thì kẻ nghiện ngập đều làm theo, vì vâng lời nó tức là có thuốc hút để cho thể xác đê mê. Và từ đó mất đi hẳn ý chí tự chủ của mình, mất đi hết nhân cách. Đáng ra tội kiêu ngạo là tội nặng nhất, nhưng song song thì còn phải kể tội ghiền ma túy là tội rất trọng nữa vì nó đã phá hủy đi nhân cách của con người. Thế nhưng Hội Thánh Công Giáo VN chẳng hề biết đây là tội, vì thế họ dung dưỡng cho sự sa đọa của tinh thần. Hiện nay vì sa đọa đó mà họ chẳng chú ý đến giá trị tinh thần của việc mục vụ mà ngược lại, họ luôn chủ tâm tô vẽ cho sự “hoành tráng” bên ngoài, đồng thời tâng bốc những cảm giác vui vẻ giả tạo: nào là nhà thờ hoành tráng, nào là kiệu ngò cung nghinh, kèn trống náo nhiệt cờ xí rợp trời, và cho đó là mở rộng nước Chúa. Nói thật, hồi nhỏ tôi đã từng đi kiệu và hát thật lớn để tỏ ra oai vang với thiên hạ, nhưng khi đã dò hỏi hàng xóm, nhất là dân ngoại về việc cung nghinh kiệu ngò của Công Giáo thì mọi người đều mỉa mai và tỏ vẻ chán ghét vì quá khoe khoang và áp đảo, và như vậy thì làm sao mà bành trướng đạo cho được !! Đạo được bành trướng là nhờ thu phục nhân tâm và thuyết phục được lý trí, chứ phô trương bề ngoài cho hoành tráng cho sang trọng thì càng làm cho người ngoài ghét thêm thôi. Khi nhìn thấy một phụ nữ trang sức quá sang trọng và phô trương lòe loẹt bên ngoài thì đa số chẳng ai thích người phụ nữ đó cả. Sự phô trương bên ngoài của giáo hội công giáo Việt Nam hôm nay chỉ là sự tự mãn để che dấu sự suy đồi trong nội tâm. Khi nhìn thấy những giáo sĩ ăn mặc sáng láng, đi xe lộng lẫy, được cung nghinh vênh váo thì trong lòng của giáo dân hèn mọn sinh ra sự sợ hãi vì thấy cảnh xa hoa của ma quỷ đang phô trương trước mắt mình. Từ một Hồng Y cho đến một giám mục trong HĐGMVN hiện nay chẳng có ai làm được một hành vi nhỏ mọn đơn sơ để an ủi thật tâm người bị đau khổ, bị đàn áp cả. Không thấy một đấng mũ gậy nào có thái độ khiêm nhu và ăn nói cần kiệm liêm chính cả ! Phần đông đều đòi hỏi giáo dân phải biết “tôn sư trọng đạo”, phải biết dâng cúng tiền của và công sức cho các ngài để các ngài hưởng thụ cho những kế hoạch riêng của mình ! Và khi một giáo dân bị chính quyền đánh sặc máu thì các “đấng” này bỗng biến mất, chẳng giống được cái móng chân của người Samaritanô biết giúp đỡ kẻ bị đánh cướp trên đường. Đạo Công Giáo tại Việt-Nam (và có thể cũng ở một vài nơi khác trên thế giới bơ sữa vật chất) đã biến chất rất nhiều, họ không còn bám víu vào lời của Chúa Giêsu để hướng dẫn cuộc đời mình mà chỉ noi theo gương của ông Hồng Y nổi tiếng này, ông giám mục giàu sang nọ, hoặc một ông “thánh dổm” như ở giáo phận Hưng Hóa, giáo sĩ quốc doanh đã bưng tượng tên Hồ Dâm Tặc đặt lên bàn thờ của Mẹ Maria. Thế đó, những gương xấu trước mắt ghê tởm đến như vậy mà Giám Mục Vũ-Huy-Chương cùng các tên đầu nậu khác lại làm ngơ chẳng dám phê bình sửa sai.

Và nay thì ông Hồng Y Phạm-Minh-Mẫn, trong lễ tấn phong linh mục cho 9 thầy phó tế tại DCCT Sàigòn vào ngày 26 tháng 6 năm 2010, đã không thèm đến dự và cũng ra lệnh cho các giám mục trong phe của Ngài không được đến để chủ tế cho lễ tấn phong này, lý do là vì 2 người trong số các thầy phó tế này đã không được “nhà nước” (là "Chúa" của Ông Hồng Y Mẫn) chấp thuận cho làm linh mục. Thiên Chúa thì mong có thêm tông đồ ngoan đạo để rao truyền chân lý của Ngài, còn ông Hồng Y chỉ mong có thêm giáo gian của quỷ để phục vụ cho chủ nghĩa hấp hối Cộng Sản. Nếu mà nhà nước nổi hứng đề nghị 100 thằng đảng viên đã học thuộc làu Công Đồng Vatican 2 vào làm linh mục và cử Ngài Hồng Y chủ tế để phong cho các tên này làm linh mục thì chắc chắn 100% Ngài hồng Y sẽ riu ríu và hoan hỉ vâng theo và cũng rống giọng kêu gọi ơn Đức Chúa Thánh Thần đổ xuống lên đầu mấy tên ma quỷ này ! Thật không thể hiểu nổi cái sức mạnh quỷ ma nào đã uốn nắn được một Hồng Y Việt-Nam đến mức đô ngoan ngoãn với thầy Lucifer như vậy ! Tuy buổi lễ phong chức linh mục này không có sự hiện diện của các Ngài quốc doanh, nhưng lại có cả trăm giáo sĩ ngoan đạo khác từ Bắc chí Nam đến tại nhà thờ DCCT Kỳ Đồng để tham dự và hiệp thông, và chủ tế của lễ phong chức “thiếu thỏa hiệp với nhà nước” này là Đức Giám Mục Micae Hoàng-Đức-Oanh thuộc giáo phận Kontum, một giám mục chỉ biết nghe theo lời Chúa chứ không thèm nghe lời của loài người.
    Không mợ thì chợ vẫn đông !
    Không Ngài Minh-Mẫn càng hân hoan mừng.
Và nay thì ai cũng biết rằng Ngài Hồng Y Mẫn chẳng thích tham gia việc gì của giáo hội mà không có mùi thum thủm của bàn tay lông lá Việt Cộng thọc vào trong đó. Đó là chất ma túy đã thấm nhập vào Đức Giám Mục Nguyễn-văn-Bình và đã di truyền cho HY Phạm-Minh-Mẫn, GM Nguyễn-văn-Nhơn, Nguyễn-văn-Khảm, và Vũ-huy-Chương vv..

Trường Sơn

Tổng lãnh sự Mỹ gốc Việt ra mắt tại TP.HCM

Hôm qua, Tổng lãnh sự quán Mỹ tại TP.HCM đã tổ chức buổi ra mắt tổng lãnh sự mới là ông Lê Thành Ân tại văn phòng Diamond Plaza.

Ông Lê Thành Ân, 56 tuổi, rời Việt Nam cách nay 45 năm, là quan chức gốc Việt đầu tiên giữ chức Tổng lãnh sự Mỹ tại TP.HCM và nhiệm kỳ của ông sẽ bắt đầu vào cuối tháng này. Ông cũng là người Mỹ gốc Việt giữ vị trí cao nhất trong ngành ngoại giao Mỹ hiện nay. Trước khi đến Việt Nam, ông Ân từng làm việc tại Singapore, Hàn Quốc và gần đây nhất là tại Pháp.

Phát biểu với cử tọa bằng tiếng Anh và tiếng Việt, ông Ân nhấn mạnh: “Chúng ta đều hy vọng một tương lai tươi sáng cho mối quan hệ Việt - Mỹ và tôi sẽ đóng góp sức mình để xây dựng mối quan hệ ngày càng tốt đẹp”.







Friday, August 20, 2010

Con cháu các cụ ! - Trần Văn Giang

    "Cái nhà là nhà của ta
    Công khó ông cha làm ra (*)
    Cháu con phải gin giữ lấy
    Muôn năm giữ nước giữ nhà..."


    (Đồng dao)
    (*) Có bản viết là: “Ông Cố ông Cha lập ra.”
Lời mở đầu:

Nhân dịp Nông Đức Tứng, 47 tuổi, con trai của Tổng bí thư Nông Đục Mạnh vừa được bầu làm bí thư tỉnh ủy Bắc Giang (với 100% số phiếu tán thành!) trong một phiên họp “đột xuất” của ban chấp hành Đảng bô tỉnh ngày 3 tháng 8 năm 2010 vừa qua, tôi chẳng đặng đừng phải vội viết bài này trước khi nhân dân ta trách là:
    “Sao chẳng thấy ai nói năng gì vậy hà? Bộ mấy ông (?) câm và đui hết rồi hay sao?”
Trần Văn Giang

Trước năm 1975, miền Nam Việt Nam có một câu nói để chỉ một tệ trạng liên quan đến vấn đề quyền lợi, tham nhũng mà giới ăn trên ngồi trốc trong chính phủ hoặc quân đội dành cho anh em, con cháu họ hàng thân thuộc của họ. Đó là vấn đề gọi là “Xê ô xi xi - COCC – Con Ông Cháu Cha.” Riêng đối với cs quốc tế và vi-xi, cái tệ trạng này là một văn hóa “đặc trưng” đã được coi là nền tảng tinh túy, là động lực và mục tiêu của của mọi hoạt động trong trên lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội trong chế độ cộng sản. Đây cũng là một “năng lượng” vô giá đã “lan tỏa” và biểu dương phẩm chất của con người công sản xuyên qua mọi ngành mọi giới từ trung ương đến địa phương… (tôi phải tận dụng những chữ của cs mới diễn tả trọn vẹn cái “cốt lõi” của sự “tha hóa” trong chế độ này!) Xin lưu ý đây là “Đồ thật;” không phải là “Đồ sơn” đâu! Csvn còn gọi cái tệ trạng rất thối này một cách văn hoa đượm mầu “văn hóa đảng” nôm na là “Bốn C - CCCC - Con Cháu Các Cụ!” Chữ “Cụ” ở đây dùng là để chỉ các “Cụ trong dân,” các “Cụ đồng chí đảng viên cao cấp” của bộ chính trị có quyền lực truyền từ đời cha, đến đời con, đời cháu… Chẳng khác gì một hình thức “cướp công khai giữa ban ngày” không cần phải dấu diếm vờ vĩnh hay đánh du kích… Có khác gì văn minh của thời kỳ đồ đá, bộ lạc, phong kiến man rợ!

Nhiều tài liệu đã ghi lại là cộng sản quốc tế rất nổi tiếng về vấn đề “Bốn C” này từ lâu lắm rồi. Vài bằng chứng tiêu biểu như sau:

- Fidel Castro vì vấn đề sức khỏe, trao quyền (transfer power) chủ tịch nhà nước và tư lệnh quân đội cho em ruột là Raul Castro ngày 31 tháng 7 năm 2006.

- Kim chính Nhật lên nắm quyền thay cho bố là Kim Nhật Thành làm Chủ tịch nhà nước “suốt đời” (Eternal President) ngay sau khi Kim nhật Thành “hui nhị tì” vì bệnh tim ngày 8 tháng 7 năm 1994. Kim chính Nhật sẽ dự định chính thức trao quyền cho con trai út là Kim Chính Ân vào ngày kỷ niệm sinh nhật 100 năm sắp tới của “lãnh tụ vĩ đại” Kim Nhật Thành (nhằm ngày 15 tháng 4 năm 2012).

- Hun sen, Thủ tường cộng sản Cam bốt, bổ nhiệm con gái là Hun Mana làm “Phụ tá văn phòng phủ thủ tướng” ngày 11 tháng 9 năm 2008. Nên biết mụ Hun Mana trước khi lên làm phụ tá cho ông bố thủ tướng thì đang làm Tổng giám đốc (đầy quyền lực về truyền thông và tuyên truyền) của đài truyền hình và phát thanh Bayon (Director general of Bayon Television and Radio). Ngoài ra trước đó Hun sen đã bổ nhiệm em họ (first cousin) là Hun Chouch – còn có tên khác là Dy Chouch - làm Tổng giám đốc chương trinh khai thác gỗ (logging business) to lớn và béo bở nhất của nước Cam bố t…

- Mao Tân Vũ 40 tuổi, con trai của Mao Ngạn Thanh - người con thứ hai của Mao trạch Đông , vừa được thăng cấp Trung tướng (một tướng trẻ tuổi nhất của quân lực Trung cộng) ngày 4 tháng 8 năm 2010.

Tại sao chế độ cs lại phải cần có “bốn C - CCCC?”

Cũng dễ hiểu. Có hai 2 lý do căn bản:

- Quyền lợi (và quyền lực): Được duy trì một cách liên tục không gián đoạn qua thời gian.

- An ninh: Lý do này còn quan trọng hơn cả vấn đề quyền lợi. Không có người thừa kế với thế lực mạnh bảo vệ thì sẽ có thể mất hết những gì mà “các cụ” đã ki cóp “tiếp thu” từ bao ngày trước!

Bây giờ nói đến chuyện “CCCC” ở nước “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam; Kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.”

Nông Đức Mạnh / Nông Đức Tuấn

(* phần này viết dựa theo một số sự kiện đăng trên “blog Free Lê Công Định”)

Bản thân Nông Đức Mạnh và chức vị ngon lành nhất nước “Tổng bí thư đảng csvn” đã có nhiều nghi vấn lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Có nhiều lời đồn đãi cho rằng Nông Đức Mạnh là con không chính thức của “cha già dân tộc” HCM và hộ lý / “tình nhân bất hạnh” Nông Thị Xuân. Khi báo chí ngọai quốc đặt câu hỏi trực tiếp với Nông Đức Mạnh về vấn đề “Nông Đức Mạnh có phải là con của HCM hay không?” thì Nông Đức Mạnh trả lời lơ lửng con cá vàng theo kiểu huề vốn là:

“Dân Việt Nam ai cũng là con bác Hồ cả!” (sic)

Thiệt tình! Chú Nông à! “Con bác Hồ” có hai loại “Con” khác nhau: “Con thật” và “Con dỏm.” Loại “con thật” như Nông Đức Mạnh thì mới có cơ hội “đục mạnh.” Chứ loại “con dỏm” cỡ dân ngu khu đen vô sản ăn mày ở chợ Đồng xuân thì vẫn muôn đời là dân ngu khu đen ăn mày vô sản thôi.

Từ quyết định của bộ chính trị trung ương đi đến một đại hội “đột xuất” của ban chấp hành đảng bộ tỉnh Bắc Giang, Nông Đức Tuấn, con trai Nông Đức Mạnh, được bầu với số phiếu tán thành 100% (lại chăm phần chăm?) vào chức vụ Bí thư tỉnh Bắc giang. Việc bầu bán chỉ là một hình thức chiếu lệ đi sau chỉ thị ngầm của bộ chính trị. Điều cần lưu ý là đồng chí đương nhiệm Đào xuân Cần bị bãi chức mà không có một thông báo chính thức nào từ đảng csvn về sự vi phạm kỷ luật hay hành vi sai lầm nào! Sự quyết định thay thế cho thấy có một sự chuẩn bị, dàn xếp nhân sự trước khi đại hội đảng lần thứ 11 của đảng cs.

Qua chức vụ mới “Bí thư tỉnh ủy” Nông Đức Tuấn đương nhiên sẽ trở thành “Ủy viên trung ương” của “Ban chấp hành trung ương đảng.” Đây là một cơ chế (gồm 180 ủy viên) sẽ quyết định cho kết quả “Đảng đề cử dân bầu” các ghế lãnh đạo cao cấp của đảng sắp tới.

Nông Đức Mạnh, đương nhiệm chức vụ Tổng bí thư đảng, trước viễn ảnh khó tiếp tục giữ vai trò số 1 của bộ chính trị trung ương trong kỳ đại hội đảng lần thứ 11, đã đẩy mạnh kế hoạch mà hai cha con nhà Nông đã tính toán từ trước dọn đường hoạn lộ lâu dài cho con, chứ không phải chuyện “bất ngờ” hay tình cờ đâu. Đừng có tưởng bở.

Trên giấy tờ, Nông Đức Tuấn sinh ngày 12 tháng 7 năm 1963 tại xã Cường lợi, huyện Na rì, tỉnh Bắc cạn.

Nông Đức Tuấn rời Việt Nam lúc 18 tuổi (vào tháng 9 năm 1981) để đi làm “công nhân xuất khẩu lao động” tại Singwits Đông đức. Vào thời điểm này (1981) Nông Đức Mạnh là Phó bí thư, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Bắc thái. Với ông cha làm lớn như vậy mà tại sao thằng con lại phải đi “xuất cảng lao động?” Nhiều nguồn tin tiết lộ là Nông Đức Mạnh cho con đi Đông đức “lao động trá hình” để cai nghiện ma túy!

Nông Đức Tuấn rời Việt Nam lúc 18 tuổi thì nếu giỏi lắm, hắn cũng chỉ học hết bậc trung học là cùng. Nông Đức Tuấn trở về Viêt Nam cuối năm 1988. Không thấy có ghi chép nào về việc Nông Đức Tuấn học hành ra sao sau năm 1988? 12 năm sau (vào tháng 12 năm 2000) tên Nông Đức Tuấn thấy xuất hiện trên báo chí cs với chức vụ “Phó chủ tịch thường trực trung ương hội thanh niên Việt Nam.” Đến tháng 12 năm 2004, Nông Đức Tuấn là thành viên của “Ban bí thư thành đoàn thanh niên cộng sản Hồ chí minh.” Tháng 1 năm 2008, Nguyễn tấn Dũng bổ nhiệm Nông Đức Tuấn vào chức vụ “Phó chủ nhiệm Ủy ban dân tộc.” Tháng 4 năm 2009, Nông Đức Tuấn trở về Bắc giang giữ chức “Phó bí thư tỉnh ủy phụ trách công tác xây dựng đảng” và chờ thời cơ để bố kéo lên thành “Bí thư tỉnh ủy” ngày 3 thánh 8 vừa qua. (Bên cạnh các chức vụ vừa kể, Nông Đức Tuấn còn là “Đại biểu quôc hội tỉnh Sơn la! Sao mà lắm chức đến thế! Tuy nhiên, không thấy Nông Đức Tuấn có sinh hoạt gì về cái chức tước nghiệp dư kềnh càng “Đại biểu quốc hội này?)

Điều đáng chú ý là từ khi đi “lao động xuất cảng” ở Đức về, không ai biết và thấy Nông Đức Tuấn học hành gì cả mà tiểu sử của Nông Đức Tuấn ghi là có 2 bằng cử nhân (1 bằng về kinh tế và 1 bằng về chính trị). Không lẽ Nông Đức Tuấn tự đại học học tại gia? Mà chúng ta có lạ gì về phần thông tin việc học hành và bằng cấp của giới lãnh đạo cs cứ như “bí mật quốc gia!” Đọc giả yên chí. Cứ thong thả ngồi gãi... đùi chờ xem. Không bao lâu nữa chuyện Nông Đức Tuấn có bằng dỏm sẽ nổ bung ra toàn quốc cho mà xem!

Thực chất của cái “CCCC” bày ra ở đây: chẳng phải làm gì đổ mồ hôi mà cứ được bổ nhiệm, lên chức ào ào... Hiển nhiên, thời cơ của Nông Đức Tuấn đang thực sự bắt đầu...

Nguyễn Chí Thanh / Nguyễn Chí Vịnh

(* phần này viết dựa theo một số sự kiện đăng ngày 15 tháng 9 năm 2008 của tác giả Võ Đồng Đội)

Nguyễn Chí Vịnh sinh ngày 15 tháng 6 năm 1957 tại Hà nội. Nguyễn Chí Vịnh là con út của Đại tướng vi-xi Nguyễn Chí Thanh Bí thư Trung ương cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân giải phóng miền Nam. Nguyễn Chí Thanh hết năm 1967 và có lời đồn (?) là “người” được bom chùm của máy bay B-52 Đế quốc Mĩ cho giải ngũ sớm hơn hạn định ở mặt trận Nam bộ.

Tiểu sử Nguyễn Chí Vịnh ghi là:

- Nguyễn Chí Vịnh theo học trường Văn hóa quân đội và sau đó học trường Đại học kỹ thuật quân sự (?) và làm việc cho Cục nghiên cứu của Bộ quốc phòng.

- Năm 1998 làm “Phó tổng cục trưởng Tổng cuộc 2” (Cơ quan quân báo, trinh sát và tình báo quân đội).

- Năm 1999 được Thủ tướng chính phủ phong đặc cách “quân hàm” Thiếu tướng quân đội nhân dân.

- Năm 2002 được bổ nhiệm Tổng cục trưởng Tổng cục 2, Bộ quốc phòng.

- Năm 2003 trình luận án tiến sĩ (?) chuyên ngành Quan hệ quốc tế.

- Năm 2004 thăng cấp Trung tướng.

- Năm 2009 thăng Thứ trưởng Bộ quốc phòng.

Nguyễn Chí Vịnh được xem là người đầu tiên trong chính quyền cs đã đề xuất, xây dựng, thành lập và tổ chức mạng lưới Tình báo khoa học, Kỹ thuật và kinh tế trong hệ thống tình báo Việt Nam (!) Vai trò và tiếng tăm của Nguyễn Chí Vịnh mỗi ngày một quan trọng hơn. Chị của Nguyễn Chí Vịnh là Nguyễn Thanh Hà là cựu Phó cục trưởng Cục hàng không Việt Nam. Vợ Nguyễn Chí Vịnh là con gái của Trung tướng Đặng Vũ Chính (tức Đặng văn Trung) nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục 2, Bộ quốc phòng” (1994-2002).

Nhìn cho kỹ con đường hoạn lộ của Nguyễn Chí Vịnh thấy có một “bước tiến nhẩy vọt” kỳ diệu! Chỉ trong vòng 10 năm ngắn ngủi (từ năm 1992 đến 2002), Vịnh từ một nhân viên “trợ lý” tầm thường của Cục nghiên cứu, Bộ quốc phòng nhẩy vọt lên 2 chức to kềnh cùng một lúc cho tiện sổ sách nhà nước: “Trung tướng quân đội nhân dân” và “Tổng cục truởng Tổng cục Tình báo quân đội.” Tức là từ một anh chủ quán cháo lòng (đây là “thương nghiệp” đầu tiên của đ/c Nguyễn Chí Vịnh) khiêm nhường trở thành một ông chủ lớn cả về kinh doanh, chính trị và quân sự. Tham vọng tiến thân làm nguyên thủ quốc gia của Nguyễn Chí Vịnh trong tương lai rất gần cũng không có gì gọi là quá đáng!

Vịnh chung với anh rể là Lê Việt Bắc mở ra và làm Giám đốc Công ty du lịch và thương mại TOSECO. TOSECO là chủ của nhiều khách sạn “xịn” trên toàn quốc. Cũng chính TOSECO đã đứng ra môi giới để Bộ quốc phòng mua máy bay SU27 của Liên sô…

Vịnh điều khiển nhiều chương trình mua sắm quan trọng “bí mật” (không cần khai báo giá thầu và mua cái gì?) của Bộ quốc phòng: hợp đồng mua vũ khí, máy bay, tầu thủy, phụ tùng cho phòng không, không quân, thiết giáp, đóng tàu… trị giá đến hàng chục tỉ đô la).

Ngoài ra cũng nên biết thêm, Nguyễn Chí Vịnh lúc đầu theo học khóa 7 Đại học kỹ thuật quân sự từ năm 1977. Đến năm thứ 2 (là năm 1979) thì Vịnh lén phá nóc nhà kho quân khu lấy cắp thuốc lá và quân trang đem bán để ăn nhâu với bạn bè; Xui xèo Vịnh bị bắt với tang chứng. Vịnh bị Hội đồng kỷ luật nhà trường đuổi học 1 năm (sau 1 năm mới cho nhập học lại). Trong giai đoạn treo giò này gia đình Vịnh xin cho Vịnh sang học trường Sĩ quan thông tin (Ậy! Ăn cắp Thông tin?) chứ Vịnh không trở lại trường Đại học kỹ thuật quân sự. Vì Nguyễn Chí Thanh chết hơi sớm cho nên thế lực chính mà Nguyễn Chí Vịnh dựa vào là ông bố vợ, Trung tướng Đặng Vũ Chính – nguyên Tổng cục truởng Tổng cục 2. Người dân bình luận chung là: “Không có Vũ Chính thì không có Chí Vịnh.” (Vịnh không thể lên nhanh được nếu không có thế lực của Vũ Chính) thì cũng không có gì lạ!

Giá mà Nguyễn Chí Vịnh không phải là con Nguyễn Chí Thanh; và nhất là không phải con rể của Đặng vũ Chính thì bây giờ cháu Vịnh cũng chỉ quét lá đa; hay lái xe ôm; hay làm chủ quán cháo lòng bia ôm đâu đó ở Hà nội... lấy gì để làm triệu phú; để tuyên bố lung tung về an ninh tình báo quốc gia, quan hệ quốc phỏng, liên minh quân sự Việt Mỹ...

Lê Duẩn / Lê Kiên Thành – Lê Kiên Trung

Lê Kiên Thành (sinh năm 1955) và em là Lê Kiên Trung (sinh năm 1958) là hai người con trai của người vợ thú 2 của Lê Duẩn. Lê Duẩn đã từng giữ chức lãnh đạo cao nhất - Bí thư thứ nhất / Tổng bí thư - lâu dài nhất của đảng csvn (25 năm 303 ngày – từ 1960 đến 1986).

Lê Kiên Thành được Lê Duẩn gởi đi học ở Liên sô, đậu bằng tiến sĩ khoa học hàng không; hiện đã có 35 tuổi đảng và làm Chủ tịch Hội đồng quản trị “Techcombank,” làm đại biểu quốc hội; làm Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Xây dựng và phát triển đô thị; chủ một sân golf; Tổng Giám đốc Công ty Thiên Minh và lãnh đạo một vài Công ty khác.

Lê Kiên Trung là Cục trưởng Cục hải quan Thành phố HCM – cơ quan béo bở nhất của thành phố Sài gòn.

Lê Hãn (sinh năm 1929) anh cùng cha khác mẹ với Lê Trung Kiên (Hãn là con cả của bà vợ lớn của Lê Duẩn), là đại tá quân đội nhân dân, nguyên Cục trưởng Cục quản lý các nhà trường quân đội, Tư lệnh Bộ tư lệnh Bảo vệ lăng HCM.

Lê Thị Diệu Muội (sinh năm 1940) là em gái (cùng mẹ) của Lê Hãn, tiến sĩ kinh tế, nguyên Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách Quốc hội khóa V; Thứ trưởng bộ Nội Thương.

Cả nhà Lê Duẩn đều làm quan to súng dài của chế độ! Sướng Thật!

Nguyễn Tấn Dũng / Nguyễn Thanh Phượng

Nguyễn Thanh Phượng, 30 tuổi, là con gái thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, từng đi du học ngọai quốc và có bằng Cao học Quản trị kinh doanh (MBA) ở Thụy sĩ.

Nguyễn Thanh Phượng là chủ tịch Hội đồng quản trị công ty Vietnam Holding Asset Management. Đây là một công ty đầu tư với số vốn gần 800 tỉ đồng Việt Nam. Công ty có khả năng vận động vốn nóng lên đến 100 triệu đô la từ các nhà đầu tư ngọai quốc nhờ uy tín và quan hệ với thủ tướng chính phủ. Nguyễn Thanh Phượng có bao nhiêu kinh nghiệm để nắm trong tay mốt số tiền lớn để đầu tư và khuynh đảo thị trường Việt Nam? Nếu Nguyễn Thanh Phượng không phải là con của Nguyễn Tấn Dũng thì thử hởi có ma nào dám bỏ tiền vào đầu tư với “Viet Capital Fund Management” (VCFM - đọc là “vi xi ép em”)?

“CCCC” là một hình thức thô bỉ của chế độ “gia đình trị và đảng trị” csvn. “CCCC” là một thế lực lũng đoạn và chi phối kinh tế chính trị của Việt Nam… Ngoài các liên hệ quyền lực “gia đình” nổi bật như kể trên, chúng ta còn thấy nhan nhản lọai Lê Nam Thắng con trai Lê Đức Thọ nắm Bộ Bưu chính viễn thông; Lê Mạnh Hà con trai Lê Đức Anh nắm Sở Bưu chính viễn thông thành phố HCM; Trương Gia Bình con rể Võ Nguyên Giáp làm Tổng giám đoấc công ty FPT; Ngô Hòang Hải con rể Nông Đức Mạnh nắm Trưởng phòng tư vấn PMU18…

Bây giờ nhân dân ta có lẽ đã hiểu rõ cái đuôi “Định hướng xã hôi chủ nghĩa” theo sau chính sách “Kinh tế thị trường” nghĩa là gì rồi?!

Ai đã hỏi: “Đồng bào nghe tôi nói rõ không?”

Rõ là một lũ “đồ đểu!”
    … Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó
    Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nó…


    (Hoa địa ngục - 1968)
Trần Văn Giang
Tháng 8/2010

Saturday, August 14, 2010

Đỉnh Cao Trí Tuệ Loài Người Của Sự Lừa Lọc - Trường Sơn-Trường Hận

Trường Sơn-Trường Hận

Người ta nói, Mao Trạch Đông có lần đã hỏi các đồng chí thân cận của ông rằng: “Tại sao mấy ông cha đạo nói thì giáo dân nghe, còn cán bộ của ta nói thì dân chúng không nghe?”.

Trong trại tù cải tạo, tôi đã nghiệm ra rằng: Cả hai cùng nói về chuyện Thiên Đàng xa xôi. Nhưng khi một linh mục nói, thì ông tin rằng điều ông đang nói là có thật và giáo dân khi nghe cũng biết như vậy. Còn khi các cán bộ nói về Thiên đàng cộng sản, thì họ biết rằng mình đang nói dối và người nghe cũng biết như vậy.

Trong chế độ cộng sản, tất cả mọi chuỵên từ lớn tới nhỏ, tất cả mọi người từ trên xuống dưới, tất cả đều giả dối như vậy.

Tôi kể quý vị nghe câu chuyện tiếu lâm tân thời này. Đó là, điều 4 Hiến Pháp hiện hành của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã viết nguyên văn như sau:

“Đảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Luật pháp”.

Đảng cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam !!! Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành của cái gì. Từ chủ tịch nước đến một đứa con nít, tất cả đã đều biết rõ, nhưng đều nín thở qua sông, đều giả điếc làm ngơ.

Hiến pháp là đạo luật tối cao, tối thượng, bao phủ mọi luật lệ khác, mà nó lại là một câu chuyện tiếu lâm!

Cộng Sản đã dành được thắng lợi trong cuộc chiến vừa qua vì họ đã có những võ khí mà Thế giới Tự Do và Miền Nam Việt Nam không thể có được. Đó là:

- Họ rất lì lợm và rất vô liêm sỉ.

- Họ rất can đảm, dám bỏ vào miệng trở lại cái mà họ vừa mới khạc nhổ ra. (Các Cụ ngày xưa gọi là “nhổ rồi lại liếm”).

Có người lạc quan thì hy vọng rằng Việt cộng, sau một thời gian tiếp súc với thế giới văn minh, trong tương lai, dần dần họ cũng sẽ biết lợm giọng giống như chúng ta!

Lịch sử của đảng cộng sản Việt Nam và tiểu sử của người sáng lập ra nó là một chuỗi liên tục những sự gian dối lừa lọc.

Tại vì Đảng CSVN là đỉnh cao trí tuệ loài người của sự lừa lọc cho nên đến tận ngày hôm nay, đối với những việc họ làm, những lời họ nói, nhiều người trong chúng ta vẫn còn quá bồng bột dễ tin, vẫn còn lạc quan hão huyền, giống như nhiều người thuộc các thế hệ đi trước.

Mở đầu là cuộc biểu tình ngày 19 tháng 8, 1945, rồi tới chính phủ Liên Hiệp ngày 03/3/1946. Vào thời gian ấy, hầu như cả nước đều đã tin rằng Hồ Chí Minh là một người quốc gia chân chính chứ không phải là một tên tay sai cho phong trào Cộng sản quốc tế. Cho nên các lãnh tụ của nhiều đảng phái chính trị danh tiếng như Vũ hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Tường Tam ... không những đã hăng hái tham gia vào cái gọi là chính phủ Liên Hiệp do HCM nặn ra, mà còn đề cử 70 đảng viên để làm đại biểu quốc hội nữa. Riêng Cụ Nhất Linh Nguyễn tường Tam thì đã đảm nhận chức bộ trưởng bộ ngoại giao, đi Tây, đi Tầu để đánh bóng tên tuổi cho tên cáo già Hồ Chí Minh. Cụ Vũ Hồng Khanh thì đã ký vào Hiệp ước sơ bộ bán nước ngày 6-3-1946, cùng với Hồ chí Minh và Sainteny. Ngay cả Giám Mục Lê Hữu Từ và vua Bảo Đại, lúc đầu cũng đã nhận làm cố vấn cho cái chính phủ liên hiệp lừa bịp đó nữa.

Rồi đến cuộc kháng chiến chống Pháp. Biết bao đại gia tên tuổi, biết bao phú nông giầu có đã hăng hái dâng hiến tài sản cho kháng chiến vì họ được tâng bốc là tư sản dân tộc. Biết bao trí thức văn nhân nghệ sĩ đã hăm hở đi vào chiến khu vì cái danh hiệu trí thức yêu nước ... Nhưng năm 1954, vừa mới chiếm được một nửa giang san là chúng trở mặt,Trí, Phú, Địa, Hào ... đào tận gốc, trốc tận rễ.

Kịch bản cũ lại tái diễn trong cuộc chiến tranh nhuộm đỏ hoàn toàn cả nước Việt Nam. Và cũng đã lại được nhiều người tin theo. Nhưng chỉ một vài ngày sau ngày 30-4-1975, lá cờ nửa xanh nửa đỏ của Mặt Trận Giải phóng Miền Nam đã đồng loạt biến mất và lập tức được thay bằng lá cờ đỏ sao vàng của miền Bắc. Ngay trong cuộc diễu binh ngày 1-5-1975, tất cả mọi một đơn vị tác chiến của Mặt Trận Gỉai Phóng và của phong trào Nam Bộ kháng chiến ngày trước đều đã bị cấm xuất hiện. (Thế mà, ít lắm cũng đã có tới hai vị Quốc Trưởng của VNCH dự tính bắt tay thẳng với MTGP Miền Nam để ... qua mặt đảng cộng sản ngoài Bắc! Một trong hai vị này hiện vẫn còn sống). Rồi chỉ một thời gian ngắn sau đó, tất cả các nhà tư sản dân tộc đã mau chóng biến thành tư sản mại bản, hầu hết các trí thức yêu nước đã trở thành tay sai Mỹ Ngụy, ngay cả một Giáo hội có nhiều công lớn với Cách mạng cũng đã bị giải thể ... Chắc ăn rồi, nên chúng đã trơ tráo để lộ nguyên hình, đảng thì đối tên thành đảng Cộng Sản, nước thì đổi thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa, huỵch toẹt ra với toàn dân rằng “Yêu nước là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa”.

Còn về những người bỏ nước ra đi sau ngày 30/4/75, khi đang say men chiến thắng thì chúng công khai sỉ vả: “chúng nó trai thì là một lũ lưu manh, gái thì toàn là đĩ điếm”. Đấy là “nhổ ra”. Nhưng khi thấy họ có tiền có của thì lũ mặt mo đó lại “liếm vào”, lại tâng bốc họ là Kiều bào, là khúc ruột ... già ở xa!

Hòa giải hòa hợp mà đối xử với Nghĩa trang quân đội Biên hòa như là những cái Mả Ngụy, mấy cái Đài tưởng niệm thuyền nhân ở nơi rừng núi xa xôi hẻo lánh tận Thái Lan, Mã Lai, mà cũng cố đòi dẹp bỏ ... Đảng CS Việt Nam theo chủ nghĩa Mác Lê nin và là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Điều 4 hiến pháp đang ghi rõ ràng như vậy. Như thế thì là HÒA TAN, chứ đâu phải là hòa hợp. Vậy mà cá vẫn cắn câu.

Cộng sản thì đương nhiên là vô thần duy vật, đương nhiên là bất cộng đới thiên với tôn giáo, thế mà rất nhiều các nhà lãnh đạo tôn giáo cao cấp cũng đã bị chúng đánh lừa.

Nhưng có lẽ tiêu biểu nhất là việc kêu gọi trình diện học tập sau ngày 30-4-75. Diễn tiến giống hệt như trong vụ Tết Mậu Thân tại Huế trước đó vài năm, các mồ chôn tập thể còn sờ sờ ra đó, thế mà hàng trăm ngàn Quân, Cán Chính Miền Nam đã thản nhiên đút đầu vào rọ. May mà tình hình thế giới đã thay đổi mau lẹ, chứ nếu không thì hàng ngàn Killing Fields đã phủ kín Miền Nam Việt Nam rồi.

Liên tục cho đến ngày hôm nay. Tất cả những màn nhổ ra liếm vào trên đây đều do Hồ chí Minh hay trung ương đảng trực tiếp chỉ huy. Tất cả đều diễn đi diễn lại, từ 1945 cho đến tận ngày hôm nay. Thế mà màn kịch nhàm chán này lúc nào cũng có người tin. Thế mà hầu hết cả nước lại đang im re, chẳng ai dám cười thành tiếng. Vì đó đã là chuyện cơm bữa, cái gì mà chả như thế.

Cái tội lớn nhất của những người cộng sản Việt Nam đã và đang huấn luyện cho toàn dân, ngay từ khi còn học mẫu giáo, đã biết ăn gian nói dối, đã coi sự lừa bịp xảo trá là chuỵên bình thường, hơn nữa lại còn là thành tích đáng ngưỡng phục của những người khôn ngoan khéo léo. Không còn ai biết lợm giọng hay ghê tởm về sự giả dối của chính mình nữa. Trong thời gian gần đây, hàng năm, một số giáo phận Công giáo được phép tuyển mộ chủng sinh để đào tạo thành linh mục. Năm vừa qua, một trong các nội quy của cuộc thi tuyển tại Giáo phận Hà Nội là “không được quay cóp ...”. Gian dối, lừa lọc để được ... đi tu? Phải chăng, chẳng còn mấy người coi sự gian dối là cái xấu xa nữa, kể cả một số các bậc tu hành! Phải chăng chính vì vậy mà trước khi được tham dự các chương trình đào tạo chính thức, tất cả các ứng sinh này đều sẽ phải qua một năm học về tu đức, để gột rửa đi những ... cái thường tình ngoài xã hội.

Lý thuyết Cộng sản là đỉnh cao của sự lừa lọc, là kết tinh của một công trình nghiên cứu lâu dài, nó đã rút tỉa và gom góp được tất cả các thủ đoạn lưu manh gian xảo từ cổ chí kim, trong suốt lịch sử loài người. Nên nó đã tinh vi và ghê rợn tới mức, ngay cả những kẻ đang bị chúng công khai lừa dối phỉnh gạt, tất cả đều nhận thức rõ ràng là mình đang mắc mưu chúng, là mình đang làm những điều có lợi cho chúng, nhưng vẫn phải nhắm mắt làm ngơ, vẫn phải giả câm giả điếc, vẫn phải làm theo ý chúng.

Xin đan cử vài thí dụ:

- Trong trại học tập, chúng ta biết rằng những đồ tiếp tế của gia đình chính là máu và nước mắt của vợ, của con, ăn những cái đó vào để chúng ta không quá xanh xao gầy ốm, không tử vong hàng loạt, để cho Việt cộng hãnh diện rêu rao với mọi người, với quốc tế về “lòng nhân đạo” của chúng ... Biết vậy, nhưng chúng ta vẫn phải ăn.

- Chương trình ODP, chương trình HO và việc cho phép các nhà bất đồng chính kiến qua Mỹ, chỉ là để tống khứ hết các thành phần đối kháng, các “thế lực phản động” ra khỏi nước để “Tiền đồn ngăn Trung Quốc” được thêm ổn định vững mạnh. Biết như vậy, nhưng chúng ta vẫn phải làm đơn xin giấy xuất cảnh.

- Gửi tiền về giúp thân nhân, chínhnuôi béo bọn cán bộ cộng sản, nhưng chúng ta vẫn phải làm vì không thể để cho cha mẹ anh em sống trong đói rách bần hàn.

- Chúng ta cũng không đành lòng, không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước những đồng bào phong cùi bất hạnh, trước các nạn nhân của thiên tai lụt lội và trước cuộc sống lê lết của các chiến hữu thương binh ngày xưa của mình. Chúng ta vẫn nhắm mắt làm, vẫn phải cắn răng giúp đỡ những người không may này, mặc dầu ai cũng biết làm như vậy là tiếp tay nuôi sống chế độ độc tài độc đảng.

- Ngay cả các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng vậy, nhiều người đành phải miễn cưỡng hợp tác với bạo quyền, thân thiện với sói dữ để cho đoàn chiên của mình được sống trong an lành yên ổn.

- Đi du lịch Việt Nam là trực tiếp đưa tiền cho bọn bán nước hại dân, nhưng ai mà chả muốn về thăm lại cái nơi chôn rau cắt rốn của mình, ai mà không mong ước sẽ được tận mắt nhìn ngắm những vẻ đẹp, những địa danh mà ngày trước chỉ thấy mơ hồ qua thơ, qua nhạc, qua sách vở. (Còn những kẻ áo gấm về làng, “nhem nhem cho bà con chết thèm”, còn những kẻ táng tận lương tâm, về để hưởng lạc, để thỏa mãn thú tính trên thân xác của đồng bào mình. Những con súc vật dâm đãng, những kẻ tiểu nhân độc ác này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ).

- Rất nhiều đảng viên cộng sản, rất nhiều thanh niên trí thức trong nước đã đành ngoảnh mặt làm ngơ, đành giả câm giả điếc trước các bất công bóc lột vì sợ rằng những đặc quyền đặc lợi mà Công sản đang ban phát cho mình, cho gia đình mình sẽ bị sứt mẻ thui chột đi.

- Nhân dân Việt Nam vừa trải qua hai cuộc chiến tranh với những sự tàn phá và các đau thương tang tóc khủng khiếp, nên đang đành lòng miễn cưỡng cắn răng chịu đựng, đành nhắm mắt làm ngơ trước các ngang ngược bất công và các sự áp bức bóc lột của các đảng viên cộng sản để được tận hưởng những ngày an bình tạm bợ sau những năm dài chinh chiến điêu linh.

- Rất nhiều người, cả ở trong và ngoài nước, đang âm thầm miễn cưỡng chấp nhận những cái xấu xa thối nát của guồng máy chính quyền cộng sản hiện thời, vì họ coi đó như là một sự “xấu xa cần thiết”, như một “le mal nécessaire”. Cộng sản và nhiều đảng phái chính trị đang làm cho nhiều người tin rằng, nếu cộng sản ra đi, người khác lên thay, tình thế sẽ còn tệ hại hơn nữa.

(Thực ra, những ưu tư và lập luận trên đây chỉ là một con ngáo ộp mà đảng CS Việt Nam trương ra để hù dọa những người nhát gan yếu bóng vía. Ngày xưa, nếu cũng sợ sệt cầu an như vậy thì làm gì đã có đươc những cuộc cách mạng lật đổ các chế độ quân chủ chuyên chế, thí dụ như cuộc cách mạng Pháp năm 1789. Gần đây và sát cạnh Việt Nam là tấm gương của hai nước Nam Hàn và Đài Loan. Trong các thập niên 60, 70, cũng nhờ có những cuộc xuống đường chống đối của sinh viên và các đảng phái đối lập, tuy xã hội có bị tạm thời bất ổn trong một thời gian ngắn, nhưng sau đó, một nền dân chủ thực sự đã được thiết lập, và nền kinh tế của hai quốc gia này càng ngày càng hùng cường vững mạnh như chúng ta đang thấy ngày nay. Trái lại, ngay bên cạnh đó là Bắc Hàn, chính trị thì hoàn toàn ổn định, xã hội thì gần như không hề có một xáo trộn nào, nhưng dân chúng Bắc Hàn thì ngay cả cơm gạo cũng không có đủ mà ăn, cho đến tận ngày hôm nay, người dân vẫn còn đang bị chết vì đói rét. Phải chăng, chính những “bất ổn xã hội” nói trên, như trong Cách mạng Pháp 1789, như tại Nam Hàn, Đài Loan ... mới là những “le mal necessaire” mới là những cái giá mà Việt Nam cũng bắt buộc sẽ phải trả, những sóng gió mà đất nước cũng bắt buộc sẽ phải trải qua)?

- Đáng buồn hơn nữa là trong tương lai, nếu vô phước mà đất nước lại bị giặc Tầu xâm lăng, rất nhiều người trong chúng ta sẽ lại phải cắn răng “đoàn kết” với VC để mà giữ nước.

Tất cả, chỉ vì lý thuyết cộng sản đã là kết tinh của đỉnh cao trí tuệ loài người về sự gian manh lừa lọc.

Dưới thời Hồ Bố, đỉnh cao trí tuệ của sự lừa lọc đã kết hợp với sự cao đẹp của việc chống ngoại xâm và những hoang tưởng về một lý thuyết CS xa vời viễn vông.

Dưới thời Hồ con bây giờ, đỉnh cao trí tuệ của sự lừa lọc đang kết hợp với lòng tham vô đáy và các dục vọng ích kỷ dơ bẩn của những con người vô thần duy vật chất.

Ngày nay, tất cả mọi người đảng viên của đảng Công Sản Việt Nam đều đã biết rất rõ rằng Chủ nghĩa cộng sản chỉ là một mớ lý thuyết mơ hồ viễn vông. Do đó cái gọi là “chuyên chính vô sản” mà đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn đang áp đặt lên đầu lên cổ người dân cũng đã lỗi thời lạc hậu và cũng phải loại bỏ ngay lập tức.

Nói thì nói cho vui vậy thôi, ai mà chả biết, cứu cánh của đảng cộng sản Việt Nam ngày nay, chẳng phải là cộng sản chủ nghĩa, cũng chẳng phải là quốc gia dân tộc, mà chỉ là TIỀN.

Tại các quốc gia tự do, tại Mỹ bây giờ chẳng hạn, chúng ta gia nhập một đảng chính trị là vì chính kiến, vì lý tưởng, tại Việt Nam, nhất là hiện nay, người ta vào đảng CS là để tìm địa vị, tìm lợi nhuận, tìm ... tiền.
    Tiền là Tiên, là Phật,
    Là sức bật của tuổi trẻ,
    Là sức khỏe của tuổi già,
    Là đà hy vọng,
    Là lọng che thân,
    Là cân công lý.
Đó là “Quốc văn giáo khoa thư” của các cháu ngoan già Hồ, đó là kinh nhật tụng của các học viên trong tất cả mọi trường Đảng.

Thẻ đảng ngày nay chỉ là Cái Cần Câu Cơm ... chiên.

Đồng tiền nó liền khúc ruột. Không có độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn thì làm sao có tự do để vơ vét tiền bạc, để hối lộ tham nhũng, để rút ruột công trình, để thả dàn mà hút tới tận xương tận tủy của nhân dân như hiện nay. Vừa hút lại vừa bóp cổ bịt mồm, nên tuy bị hút tới tận xương tận tủy mà người dân không thể kêu than la khóc.

Ngu sao mà cho đa đảng!
Ngu sao mà không tiếp tục nhổ rồi lại liếm!

Cũng xin lưu ý rằng, nguyên nhận phát sinh ra chủ nghĩa Cộng Sản Của Karl Marx là … tính ghen ăn, đấu tranh giai cấp nghĩa là ghen ăn. Thèm thuồng từ đời ông đời cha rồi. Bây giờ miếng ngon đang dâng tới miệng thì phải đớp chứ. Ngu sao mà Cần, Kiệm, Liêm, Chính!

Làm gì có Niết Bàn Hỏa Ngục, làm gì có Kiếp Sau Kiếp Trước … Chết là hết, ngu gì mà không đớp hít, ngu gì mà không gian manh lừa lọc, không hối lộ tham những để được giầu sang phú qúi, ngu gì mà không tận hưởng các vui thú xác thịt …

Nếu muốn có được một tương lai tươi sáng huy hoàng, nhân dân Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất, đó là loại bỏ hoàn toàn cái đảng Cộng Sản hiện nay.

Trường Sơn-Trường Hận