Friday, January 15, 2010

Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm - Bảo Giang

    Đồng Chiêm máu chảy hòa non nước,
    Tam Toà vững bước rạng niềm tin.
Hôm nay tôi viết đôi dòng muộn màng về Đồng Chiêm. Nhưng không viết về những đau thương thống khổ của người dân Đồng Chiêm đang phải oằn mình gánh trên vai, cũng không ca tụng nhửng mảnh áo thẫm máu đỏ của người dân Đồng Chiêm đổ ra vì cái hung tàn của côn dồ Việt cộng, như là những giọt máu hồng chứng minh cho niềm tin riêng của ngưòi Công Giáo. Nhưng tôi viết đến những giọt lệ trên cánh Đồng Chiêm như là Lệ Mừng hơn là những ưu tư mà trước đây, trong “Tam Tòa sóng đổ về đâu” tôi đã viết là:

“Nếu lửa Tam Tòa không nóng tời Phát Diệm, Bùi Chu, Hải Phòng, Hà Nôi, Cao Bắc Lạng, Sơn Tây. Không chiếu quang đến Huế Đà Năng Nha Trang Phan Thiết, Đà Lạt, Kontum, Sài Gòn. Lại qúa xa với Đồng Nai, Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Long, Phước Long. Còn xa hơn nữa với Mỹ Tho, An Giang, Cần Thơ, Cà Mâu, Trà Vinh, Rạch Giá … và lửa ở nhà thờ Tam Tòa không bén sang cửa nhà Phật, không thổi hơi nóng tới Thánh Thất Cao Đài, Hoà Hảo và rồi Tam Tòa ở mô? Hoặc giả, hồn ai nấy giữ … phần ta, lửa chưa đến cứ ăn ngon ngủ kỹ thì Tam Toà không phải là cái tên cuối nổi lên trong cuộc bạo hành bất lương do nhà nước Việt cộng tạo ra. Nhưng đó chỉ là một trong chuỗi những địa danh lần lượt được nếm trải mùi bạo lực trong chủ trương triệt hạ ảnh hưởng tôn giáo trên phần đất này của nhà nước Việt cộng mà thôi”.

Như thế, Đồng Chiêm hôm nay cũng chỉ là một mắt xích nối tiếp từ Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý … đến những địa danh khác trong tương lai. Nhưng Đồng chiêm hôm nay, sự kiện tưởng chừng giống như những nơi khác, trong thực tế, sự kiện Đồng Chiêm là một cuộc tấn công khác. Một cuộc tấn công trực diện vào biểu tượng niềm tin của ngưòi Công Giáo. Nên từ đó có khả năng khai mở ra một chân trời khác, tạo ra một hướng đi khác, tích cực hơn trong Niềm Tin của những người đi tìm Chân Lý, tìm Tự Do và Công Bằng Xã Hội.

Trước hết, có một điều không ai phủ nhận là: Cây Thánh Giá được coi như một biểu tượng khổ đau của nhân loại. Nhưng đồng thời, Cây Thánh Giá cũng là biểu tượng Ân Sủng của ơn Cứu Độ, của Tình Thương, hoặc gỉa, là biểu tượng của Bình An, nơi con người có thể đặt vào đó một niềm tin tuyệt đối. Cách riêng, đó lả biểu tượng Trung Thành trong đức tin của ngưởi công giáo trên hoàn vũ.

Thật vậy, trước khi Đức Giêsu Kitô, Người mà toàn thể nhân loại vui mừng chào đón ngày sinh vào ngày 25-12 hàng năm, bị treo lên Thập Tự Giá trên núi Sọ, Thập Giá chính là án phạt đau khổ nhất, ghê gớm nhất, nhục nhã nhất mà xã hội cách đây 2000 năm đã dành cho những tên tội phạm thuộc diện hung ác của xã hội. Nhưng khi Đấng Vô Tội là đức Giêsu Kitô bị treo lên đó. Ngài đã chết. Chết cho muôn người được sống thì Cây Thập Giá đó đã trở thành một biểu tương Thiêng Liêng tuyệt đối, Ân Sủng tuyệt đối, Tình Yêu tuyệt đối và đã đem An Bình, Hy Vọng tuyệt đôi đến ở trong lòng người.

Nói cách khác, trước biểu tượng Linh Thiêng viên mãn này, những độc ác tàn bạo, đầy uy lực của Neron, của Minh Mạng, Thiệu Trị và nay là Hồ chí Minh hay của những cường đạo Việt cộng Mạnh, Triết, Dũng, Trọng, Nghị, Thảo … có đáng là chi. Nếu như không muốn nói đó chẳng qua chỉ là những cỏ rác, rong rêu sẽ tàn lụi theo cát bụi của thời gian và để lại cho hậu thế những cái tên đáng ghê tởm. Phần Cây Thánh Giá, biểu tuợng kinh qua khổ đau sẽ mảĩ mãi muôn đời trổi vượt lên như một Ân Sủng toàn diện, một An Bình vĩnh cửu. một Niềm Tin vững chắc, một Hy Vọng tuyệt đối cho con người tìm đến để tín thác, để nương nhờ.

Vâng, hãy nhìn một người chiến binh thất trận, chạy tan hàng, lạc đồng đội và phía sau lưng là tiếng súng, tiếng giặc hò hét đuổi theo. Có lẽ đời anh sẽ không còn một nỗi kinh hoàng lo sợ, khủng hoảng nào hơn thế nữa. Nhưng khi anh chạy đến được một nơi có Cây Thánh Giá nằm trên đỉnh cao nhà thờ. Hoặc giả, tím vào bên bức vách của một căn nhà, mà trong nhà ấy trên bàn thờ có một Cây Thánh Giá thì âu lo, hoảng sợ vụt tan biến đi và thay vào đó là một niềm tin trong an bình, dù rằng đời anh chưa hề nghe biết đến từ ngữ đọc kinh hay cầu nguyện là gi! Tôi tin rằng anh ta sẽ tìm cách xin ở lại nương tựa vào Niềm Tin vừa đến ấy, hơn là, đạp đổ Cây Thánh Giá rồi lại trốn chạy quân thù trong lo âu!.

Rồi một anh cán binh Việt cộng bị thương, bị đồng đội bỏ lại trên đường mai phục để thoát chạy lấy thân. Ngoài cơn đau xé da thịt vì không được cứu chữa là sự uất hận bị bỏ rơi, anh còn lo sợ thần chết, lo sợ bị bắt và bị “nguỵ” chém giết, xẻ thịt banh da như những lời tuyên truyền nhồi sọ từ hàng ngũ cán bộ lãnh đạo trước khi đi gài mìn giết hại đồng bào. Anh đau đớn, tuyệt vọng khi lê thân vào những quãng đường, đồi, nương rẫy. Bỗng nhiên, cuộc sống như hồi sinh, dòng máu, nhịp tim lại dồn dập trong người. Một sự an bình như chưa bao giờ có đã chiếm trọn lấy cả tâm hồn và thể xác khi anh ta bò đến, và ôm được một cái chân cột. Lúc mở mắt nhìn lên. Đó chỉ là một Cây Thánh Giá thô sơ cắm trên ngôi mộ trong nghĩa trang của một xứ đạo miền quê. Anh gục đầu xuống, ôm chặt lấy và không còn muốn rời xa nữa. Bởi lẽ, dù không phải là người có đạo, chưa một lần biết cầu kinh, trái lại, còn được học tập, nuôi lờng căm thù những thành phần “tôn giáo phản động” bán nước. Kết quả, vào lúc này, anh chỉ còn duy nhất một ước mơ. Nếu có phải chết, anh xin được chết trong phút giây an bình dưới chân cây cột mà anh đang ôm trong tay. Anh không muốn chết vì lòng căm thù như đã được học tập.

Nhưng trái ngược với nhân bản tính của con người và anh cán binh kia, Hồ chí Minh và tập đoàn Việt cộng từ năm 1930, đã đem dân làm nô lệ cho ngoại bang, còn ra công sức xây dựng trên phần đất của Việt Nam một tổ chức phi nhân lấy chủ thuyết vô gia đình, vô tôn giáo vô tổ quốc làm lẽ sống. Lấy cường bạo, bất lương làm phương châm hành động. Từ đó, họ đã không ngừng gây ra muôn vàn thảm họa trên cả hai phương diện tinh thần lẫn thể chất cho dân tộc Việt.

Bên ngoài, dù được che đạy bởi lớp mỡ ngôn từ hào nhoáng, nhưng chẳng bao lâu sau ngày xuất hiện, người dân trên toàn đất nước đã nhận ra cái bản chất thật của tập đoàn lãnh đạo của nhà nước Việt cộng là bất nhân, gian dối: Chúng luôn luôn đẩy người dân vào những mâu thuẫn cục bộ từ gia đình, đến làng xóm, vào học đường, xã hội, để trục lợi, để nắm lấy quyền lực. Chúng không bao giờ muốn cho nhân dân có được cuộc sống gia đình yên vui, cơm no áo ấm. Không bao giờ muốn cho trẻ thơ được giáo dục nghiêm túc về trí dục và đức dục. Không bao giờ muốn xây dựng một xã hội có trật tự, biết tôn trọng luân thường đạo lý, tôn trọng luật pháp nhân bản. Cũng không bao giờ muốn thấy tôn giáo là điểm hẹn đến của công bằng đạo đức cho từng ngưòi từng nhà noi theo. Trái lại, chúng muốn đạp cho tan mọi ảnh hưởng gia đình. Phá cho nát niềm tin trong tôn giáo. Diệt cho hết truyền thống đạơ đức, luân lý xã hội và giải trừ tận căn nguyên nền Văn Hóa Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín là gốc sinh của dân tộc, để tất cả đều quy hướng về một nền luân lý vô đạo, phi nhân, vô luân, bất nghĩa, phi pháp của cộng sản.

Phía nội bộ, hàng hàng tủ sách vở trên thế giới đã ghi lại rằng: Đấu tranh phê bình trong sinh hoạt đảng cộng đồng nghĩa với việc học tập cách thức gian dối, cách thức hành động phi luân, bất nhân, bất nghĩa với mọi người (nguyên TBT Liên Sô, Gobachev). Thủ tướng Đức, tiến sĩ Angela Markel cũng có những công bố tương tự: “Cộng sản đồng nghĩa với gian dối, tạo ra gian dối". Nên việc rèn cán, chỉnh quân, thay máu này đã trở thành một lẽ sinh tử cho chúng. Bởi lẽ, nếu gian dối, độc ác không thành bản chất của đảng. Nếu vô luân bất nghĩa không phải là dòng máu luân lưu trong huyết quản của từ Minh, Đồng, Khu, Duẫn, Mười, Linh, Phiêu … cho đến đến những Kiệt, Khải, Cầm, Anh, Triết, Trọng, Dũng, Mạnh, Nghị Thảo Rứa …, đã không có những cuộc đấu tố đẫm máu nhân dân Việt Nam từ thời 1930 đến nay, để hơn 170,000 ngàn sinh mạng, (không kể những người chết trong chiến tranh) trong đó có rất nhiều những người đã dày công lao sinh thành, dưỡng dục, nuôi nấng, che chở, bảo vệ chúng trong cuộc chiến hàng nhiều năm trước, được đền trả bằng bản án phú, nông, địa, hào, tư sản, hoặc giả, tay sai bán nước! Đã không có những cuộc chiếm đoạt đất đai, cướp giật tài sản của các tôn giáo và đày ải các vị chân tu trong chốn lao tù. Đã không có cuộc chôn sống mấy ngàn người dân vô tội ở Huế. Đã không bịt miệng người giữa chốn gọi là công đường. Đã không có cảnh những dân oan, từng là mẹ liệt sỹ, gia đình cách cách mạng lang thang đi đòi đất đòi nhà. Và cũng không có hàng triệu người Việt Nam phải sống lưu đày nơi đất khách!

Theo đó, những sự kiện như Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý và rất nhiều những đơn vị cá nhân dân oan trải rộng trên bề diện cả nước, và nay là Đồng Chiêm, không xảy ra mới là chuyện lạ! Như thế, Đồng Chiêm, hay bất cứ tên của một địa danh nào đó, sau một đêm bất chợt, trở thành một địa điểm lưu ký sự bạo tàn của nhà cầm quyền Việt cộng thì phải được hiểu rằng: Đó không phải là địa điểm cuối. Nhưng nó chỉ là những cái tên như những mắt xích, tiếp diễn cuộc bạo hành bất lương theo chủ trương của chúng cho đến khi chúng bị tiêu diệt mà thôi.

Tuy nhiên, Đồng Chiêm hôm nay, sự việc không còn nằm trong chủ trương bạo lực trấn áp lương dân để chiếm đoạt tài sản nữa. Trái lại, chúng đã vượt qúa mức của cuộc bạo hành trong trí khôn của con người. Chúng đã chính thức chà đạp biểu tượng Niềm Tin, là Ân Sủng và Ơn Cứu Độ của người Công Giáo, không phải chỉ ở Đồng Chiêm, nhưng là toàn thể Giáo Hội Công Giáo Việt Nam! Chúng muốn thách đố một Niềm Tin chăng?

Nhớ lại, vào cuối năm 2007, phong trào cầu nguyện trong an bình để đòi Công Lý, đòi Tự Do tôn giáo cho người dân Việt Nam -- khởi đi từ Tổng giáo phận Hà Nội dưới sự coi sóc của Đức TGM Giuse Ngô quang Kiệt -- đã làm náo nức lòng người, làm rộn ràng mọi bước chân. Từ trong ra ngoài, không kể lương, không kể giáo, cũng không hề phân biệt chủng tộc, đều đổ dồn con mắt về Hà Nội để chờ đợi ngày chung thẩm của Công Lý. Ngày Tự Do. Nhân Quyền đến cho dân nước Việt Nam.

Trong khi đó, về phía nhà nước Việt cộng, sau gần mười năm hoà hoãn, đi cầu tự khắp nơi, kể cả việc chúng đến Roma để tìm chỗ tựa ngõ hầu tồn tại sau khi đế quốc đỏ tan vỡ, nay lại trở về với bản chất phi nhân bạo tàn. Ngoài thì dâng đất, dâng biển, dâng tài sản thiên nhiên của quốc gia cho Tàu cộng để cầu vinh. Bên trong thì mưu đồ áp chế, cướp đoạt tài sản của nhân dân và dùng bạo lực tiêu diệt Công Lý, bóp chết Tự Do, Nhân Quyền của con ngưòi. Kết qủa, cuộc đi đòi Công Lý không ngừng lại vì đàn áp, bạo lực của nhà nước. Trái lại, “Tuyên Ngôn Công Lý” lại hiển hiện rõ ràng trong lời công bố của TGM Hà Nội ngay giữa hội đường, trước mặt những kẻ nắm bạo quyền vào ngày 20-9-2008 tại Hà Nội: “Tự Do Tôn Giáo là cái quyền cơ bản của con người, Tự do Tôn giáo không phải là một ân huệ Xin - Cho”. Ai, và còn ai nữa đã hiên ngang vì Công Lý như thế? Công bằng mà trả lời rằng, ít nhất, trong thời gian ấy còn LM Nguyễn văn Lý cũng vì Công Lý mà ngồi tù. Luật sư Lê thị Công Nhân cũng vì đất nước vì nhân dân vì quyền làm người vì tương lai của dân tộc mà vào ngục như đi nhận một nhiệm sở mới!

Dĩ nhiên, Việt cộng biết rõ sức mạnh của toàn dân ngày nay không thuộc về chúng. Nhưng cơn mộng du bạo lực lại không thể rời xa những đôi mắt đảng, nên chúng tiến hành thêm cuộc bạo hành bắt người ở Thái Hà. Kết qủa hàng vạn vạn cành thiên tuế từ tay nhân dân đi đòi tự do tôn giáo, đi đòi Công Lý đã vươn cao trên khắp trời Hà Nội. Trong khi đó, dẫu gian ác là thế, nhà nước Việt cộng vẫn không thể tìm ra tội trạng để kết án tám anh chị em giáo dân Thái Hà. Sức mạnh của người dân chưa ngừng lại ở đó. Cả nửa triệu người đã như ngọn sóng dâng tràn tim về bên bờ sông Nhật Lệ. Tam Tòa không còn nhỏ bé, nằm chờ Xin – Cho, nhưng đã vươn mình trổi dậy với giang sơn trong cuộc trường chinh tìm Công Lý. Lúc ấy, nhiều người đã cho rằng, chẳng còn bạo lực nào có thể ngăn cản được lòng người mong tìm đến Sự Thật, tìm đến Công Lý …

Bỗng như một cơn khổ nạn. Giữa lúc người người hăm hở chờ đợi ngày cùng nhau dồn bước chân trên đường Công Lý. Một bản tin không rõ xuất xứ, không rõ chủ đích đăng tải trên Nét đã làm nghẽn hơi thở biết bao tim lòng. Làm chùn, làm chậm hàng triệu triệu đôi chân và làm bao dòng lệ vương tràn trên khoé mắt: Đó là bản tin Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt từ chức TGM Hà Nội!

Hỡi Trời ơi. Những tưởng rằng trời tan, đất lở. Toàn dân rúng dộng, giáo dân hoang mang, chính quyền hồ hởi. Họ hồ hởi vì từ mấy năm nay, có khi nào họ quên không tìm cách đẩy “Ông Công Lý” ra khỏi Hà Nội. Hơn thế ra khỏi Việt Nam càng tốt. Lý do, có khi nào kẻ thờ thần gian dối dám giáp mặt thần Công Lý?

Phía Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thì hoàn toàn giữ im lâng. Đã yên lặng trước hướng đi của hàng triệu dôi chân tìm Công Lý, đòi tự do tôn giáo cho Việt Nam, lại càng thủ kỹ trước bản tin. Các Ngài yên lặng đến nỗi tạo ra nghi ngờ trong hàng ngũ giáo dân, làm hoang mang lòng người.Và làm ly tán thêm niềm tin của giáo dân vào Hội Đồng vì những bản tin đồn cứ vùn vụt loan đi: “Nào là có nhiều vị giám mục không đồng thuận với hướng đi tìm Công Lý của Đức Cha Kiệt. Nào là các Ngài không muốn hướng đi tìm Công Lý của đức TGM Hà Nội làm ảnh hưởng đến ân huệ Xin-Cho" đã thành nếp trong Giáo phận của các Ngài. Nào là đa số các Ngài hài lòng với phương cách “đối thoại Xin Cho” để được dễ dãi trong việc xuất ngoại …. xin tiền về xây cất, mở mang, tổ chức lễ lạc cho to lớn linh đình ... hơn là cố công xây dựng đền thờ Công Lý nơi lòng ngườì nhu tinh thần của thư chung năm 1980 của HĐGMVN. Và nào là phải yên lặng để chờ nhà nước chấm điểm, ra ơn cho về Hà Nội, Sài Gòn!”

Tệ hơn thế, bản tin đồn còn mang đi những mầm mống độc hại như "một số vị trong HĐGMVN dịp Ad limina ờ Roma cũng muốn đức TGM Hà Nội từ chức”. Thêm cho bản tin đồn ấy là việc đức TGM Hà Nội đau bệnh phải đi tĩnh dưõng lại Nho Quan càng làm cho bản tin đồn có cơ sở và cho lòng người héo úa với những dòng nước mắt sầu muộn lã chã rơi! Phần Ngài, giọt nước mắt cô đơn, giọt nước mắt thương dân có lẽ chưa ngưng đọng. Từ đó, có người còn đưa tin đồn là "đức TGM Hà Nội sẽ xuất hiện trong ngày khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện, nhưng là để từ biệt hơn là trở lại với đoàn chiến"!

Nhưng mấy ai ngờ, lịch sử vẫn chỉ là những giây phút tình cờ tiếp nối nhau. Từ ngàn xưa, Đức Giêsu Kitô cũng đã trải qua khổ nạn trên thập tự gía trước khi Phục Sinh để giải thoát con ngươi. Cũng thế, hôm nay sức sống đã bừng lên. Nhà thờ lớn Hà Nội như muốn nổ tung ra vì sức ép hân hoan của hàng vạn đôi tay vỗ vào nhau. Rồi những buồng phổi đang co cụm bỗng dãn hơi thở, tràn lên tất cả mọi khuôn mặt những nét rạng rỡ, tiếng cười reo như trẻ thơ, trong lúc dòng lệ lại vội lăn trào xuống trên đôi gò má! Ôi! nước mắt. Nước mắt tại sao lại tuôn trào? Lệ mừng! Lệ Mừng ư? Rồi chẳng ai bảo ai, Bàn tay này. Ánh mắt kia, giao hòa, ôm choàng lấy nhau và trao nhau trọn vẹn một niềm tin và người ta đã khóc trong nỗi vui mừng khôn tả.

Thật, chẳng còn một ngôn ngữ nào có thẻ diễn đạt nổi niềm vui mừng của người giáo dân Hà Nội khi Đức Hồng Y Roger Etchégaray, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình, đứng chủ tế thánh Lễ Tại Nhà thờ Lớn Hà Nội đã trao trả cây gây Mục Tử lại cho đức TGM Ngô Quang Kiệt và nói rằng: “Đây là cây gậy mục tử của đức TGM Hà Nội, tôi trả lại cho Ngài, tôi không muốn mang về Roma"!? Chỉ ngần ấy tiếng âm vang, Ngài đã vực “kẻ chết sống lại”, đã “tiêu diệt” muôn khổ đau khô đọng trong lòng người. Ngài làm cho mọi người bàng hoàng như thấy trời mở ra. Người người ôm choàng lấy niềm hạnh phúc của một giấc mơ tưởng chừng đã chết.

Chẳng còn một ai muốn nhớ đến tình hình sức khỏe của vị TGM ra sao, và cũng chẳng còn ai muốn nghe lại cái chữ từ chức hôm nào nữa. Tất cả đã là dĩ vãng. Không, tất cả đã là tiền kiếp. Chỉ còn lại đây, Ngài và cây gây mục tử của Ngài hiện diện với dân thành Hà Nội, và với niềm tin Công Lý và Sự Thật soi đường như ngài nhắc nhở trong thư chung vào ngày 25-11-2009.

“Không thể sống Năm Thánh trọn vẹn nếu thiếu những việc thực hành”. Và một trong ba điểm trong việc thực hành của năm thánh là: “tích cực thực thi công bình bác ái. Trong Cựu Ước, Năm Thánh buộc ta trả lại cho người khác những gì thuộc về họ như quyền sở hữu, quyền tự do"(x. Lv 25, 8-17) Điều này, Ngài không chỉ nói để hướng dẫn cho giáo dân, nhưng cũng cho các đối tác trong xã hội nữa.

Vâng! Đó là ước mơ nhân bản. Đó là niềm tin yêu, hy vọng của cuộc sống. Và nếu trên đôi cao kia còn có Cây Thánh Giá giang tay che chở cho lời Công Lý thì dưới lũng sầu, hẳn nhiên là không thiếu bóng kẻ tà ma phá phách. Theo đó, Cây Thánh Gía, trên Núi Thờ của Đồng Chiêm, dầu đã đứng trên đỉnh cao ấy hàng trăm năm, nhưng cũng khó có ngoại lệ!

Theo tin tức loan đi, vào khoảng 2 giờ sáng ngày 06-1-2010, một lực lượng hùng hậu có từ 600 đến 1000 công an sắc phục, thường phục, chó nghiệp vụ, dân quân đã kéo đến vây chặt lấy giáo xứ Đồng Chiêm và đổ quân lên chiếm cứ và đập nát Cây Thánh Gía trên Núi Thờ. Đồng thời lực lượng này cũng tấn công đánh đập nhiều giáo dân bằng lựu đạn cay, lụu đạn khói … làm máu chảy thầm áo lương dân và nước mắt chảy tràn trên cánh Đồng Chiêm!…

Khi đọc bản tin, nhiều người tưởng lầm rằng mình đang sống trong khoảng tiền bán thế kỷ 20. Và họ nhận ra ở cái nước xã hội chủ nghĩa Việt cộng cái gì cũng lạ. Xem ra không giống xã hội loài người. Không giống là bởi vì:

1. Cây Thánh Gía trên núi Thờ ở Đồng Chiêm dã giang tay đứng đó như để che chở, đem đến niềm ủi an cho những nầm mộ mồ côi, cho những ánh mắt thẫn thờ mệt mỏi trong chiều tàn, hàng trăm năm rồi. Cây Thanh Giá ấy chẳng lấn đất dành dân với ai. Hơn thế, không phải là kẻ thù của loài người mà nhà nước Việt cộng lại phải tổ chức một cuộc hành quân đêm, đến đột kích và phá sập thì không một người nào không thấy lạ.

2. Nếu bảo rằng Cây Thánh Gía đứng ở đó trái luật, thì cứ đua luật ra mà tính. Hoặc gỉa, gọi những ngưòi phạm luật ra mà trị, Phép nước nào có vị thân? Tại sao lại phải hành quân đêm? Chẳng lẽ nhà nước phải làm như thế cho phù hớp với lời ca: “Con ơn nhớ lấy lời này, cướp đêm là giặc cưóp ngày là quan!” May mắn thay, nhà nước ta thì được tiếng cả ngày lẫn đếm nhỉ?

3. Tàu cộng cướp đất, cướp biển, bát ngư dân của Việt Nam. Chúng là những tội phạm đúng nghĩa theo luật. Luật nước, luật quốc tế. Tại sao nhà nước Việt cộng lại không dám hành quân đêm đến tiêu diệt địch và giải thoát nhân dân của mình nhỉ? Đã thế, còn xây đài tưởng niệm với những bảng đề “Nghĩa trang liệt sĩ Trung quốc”. Trong khi đó biết bao nhiều chiến sĩ Việt Nam đã bỏ mình khi chiến đấu bảo vệ biên giới, chiến đấu bảo vệ vùng biển thì không thấy có được một nấm mồ yên phận. Ấy là chưa nói đến câu hỏi là: Nếu những quân bành trướng Trung quốc được xây lăng mộ trên đất Việt với danh nghĩa "Nghiã trang liệt sĩ Trung quốc” thì những cán binh Việt Nam chết trong những cuộc chiến với Trung quốc sẽ đưọc gọi là gì? “Nghĩa trang phản quốc hay nghĩa trang của những thằng … khờ dại?” Lạ! đến lạ!

Khó ai có thể trả lời được câu hỏi này. Tuy nhiên, cha ông ta đã từng nói: “gieo gió thì gặt bão”. Việt cộng đã gây ra thảm họa cho dân, chúng phải gánh lấy cái hậu qủa của cơn bão từ nhân dân.

Riêng người dân Đồng Chiêm, rõ ràng là nước mắt tràn trên mặt mẹ, cha, chảy ròng xuống trên khuôn mặt con cháu mà lại không phải là nước mắt thương đau, sầu khổ. Nhưng lại là Lệ Mừng:

- Mừng vì Thánh giá vẫn ở trong lòng ta và con cháu ta. Riêng Thánh Gía trên núi bị côn đồ hạ xuống, dân ta dựng lại lúc nào mà chả được. Đã thế, còn uy nghi vững vàng hơn!

- Mừng vì chủ chiên lại quần áo dơn sơ đến thăm dân Người như ngày nào lặn lội bùn sâu đi thăm đoàn chiên trong trời giông bão.

- Mừng vì khi thấy tất cả các vị Giám Mục ở ngoài Bắc đã ngay lập tức gời thư Hiệp Thông đến vị TGM Hà Nội, bày tỏ một ý chí thống nhất cho hướng đi tìm Công Lý và Sự Thật. Và đòi buộc nhà cầm quyền phải tôn trọng Tự Do Tôn Giáo.

- Mừng vì đây là sự Hiệp Nhất, không phải là hiệp thông.

- Mừng vì những bước chân từ Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý, nay là Đồng Chiêm và rồi, từ khắp nôi lại sẵn sàng lên đường vì Công Lý, vì Tự Do sau những ngày khổ nạn.

Thật vậy, ngày 19-6-1098, ngày 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam được tuyên phong lên hành hiển thánh là một biến cố lớn trong lịch sử của Giáo Hội Việt Nam. Ngày ấy, Giáo Hội đã xác minh lòng Trung Thanh tuyệt đối của các vị tử dạo Việt Nam với Thánh Gía của Đức Giêsu Kitô. Ngày mà chính những ngưòi còn sống, có khi còn nằm trong guồng máy lãnh đạo của nhà nước này, dù không vui vẻ gì với Biến Cố ấy, cũng phải hiểu thấu đáo rằng. Người Công Giáo có thể chết vì Niềm Tin của mình. Mà biểu tượng lớn nhất ở trong đức tin của họ chính là Thánh Gía của Đức Kitô.

Như thế, Đồng Chiêm hôm nay không còn là một sự kiện có liên quan đến tranh chấp đất đai với nhà nước. Nhưng là một Biến Cố. Hơn thế, có cơ trở thành một biến cố lớn trong dòng lịch sử của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Một khi Đồng Chiêm đã trở thành Biến Cố, không còn là một sự kiện nhỏ của địa phương nữa, thì thật khó có thể lường trươc được cái kết qủa sẽ ra sao.

· Máu sẽ tiếp tục đổ ra và liệu người Công Giáo hôm nay có nằm yên chờ chết, hay nằm ôm chặt lấy cây thánh giá và để cho nhà nước độc quyền lôi đi chà đạp nhân phẩm, chà đạp Đức Tin của họ, Hoặc gỉa, đem đi tù đày hay đưa ra pháp trường dép râu nón côí hay không?.

· Hay máu sẽ đổ và khối ngưòi anh dũng vì Đức Tin kia, cùng với mọi người kháp năm châu bốn bề đồng chuyển mình, mở ra một vận hội mới, không phải chỉ là đòi lại tự do tốn giáo. Nhưng là đem lại Công Lý, Tự Do, Nhân Quyền và Dân Chủ cho Việt Nam?.

Cuộc chuyển minh ấy sẽ ra sao và đất nước này đi về đâu? Đó là chuyện của ngày mai. Hiện tại, người ta chỉ thấy cuộc chuyển mình đã bắt đắu. Bắt đầu bằng thư Hiệp Nhất của tất cả các Giám Mục thuộc Giáo Khu Tổng Giáo Phận Hà Nội. Trong thư có những điều rất đáng ghi nhận tính Hiệp Nhất là:

“Vì thế chúng tôi xin Đức Cha đề xuất vối giới hữu trách chính quyền:

1. Xét lại luật về đất đai.
2. Cần chọn giải pháp ít tổn thất lòng người.

Trong thư cũng xác định hướng đi của người CGVN là: ”GHCGVN luôn ước mong góp phần xây dựng một đại gia đình Việt Nam, trong đó mọi thành viên cùng chung sống hòa bình và tôn trọng lần nhau.”

Điều ấy có nghĩa là, Đồng Chiêm không lẻ loi, Hà Nội không cô đơn một minh. Nhưng tất cả mọi hành động vì Đức Tin vì Công Lý thì toàn thể Giáo Hội đều chung một nhịp bước. Chính lý lẽ này đã làm sống lại một hướng đi, và khiến lòng người thêm mạnh mẽ hiên ngang. Đã biến nước mắt sầu khổ của ngưòi dân Đồng Chiêm, nước mắt đơn côi của Hà Nội, nước mắt tủi hờn của Tam Tòa, Loan Lý ... thành Lệ Mừng. Lệ Mừng reo vui trong ngày hội tìm Công Lý.

Nắng sẽ lên, Công Lý sẽ đến và người Việt Nam đang đứng trươc cơ hội, trăm năm mới có một lần, để cùng nhau nắm lấy giấy phút tình cờ ấy để tạo nên lịch sử, tạo nên một ngày hội trong Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lý cho Việt Nam.

Tháng 1 năm 2010
Bảo Giang

Góp ý về Giám mục đồng hành với đoàn chiên của mình

VietCatholic News (14 Jan 2010 17:14)
Source: http://vietcatholic.net/News/Html/75673.htm

Trong lúc giáo dân Đồng Chiêm bị nạn, các giáo xứ ở Hà nội bị đe dọa, một số linh mục bị hạch hỏi vô lý... đáng lẽ trong giờ phút hiện tại, theo cách khôn ngoan thông thường mà nói thì nên "đóng cửa bảo nhau" và không nên đưa ra ý kiến nào có thể bị hiểu lầm là gây mất tình đoàn kết và chia rẽ. Tuy nhiên vấn đề sắp được nêu ra ở đây là vấn đề hệ trọng, nếu không thẳng thắn trình bầy và góp ý để sửa sai thì nó còn mang tới thiệt hại lâu dài cho tương lai của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Do vậy chúng tôi không ngại thẳng thắn phê bình và góp ý với Ban Biên Tập Website của Hội đồng Giám mục Việt Nam trong một bài được phát lên mạng vào ngày 13.1.2010 với tựa đề: "Hội đồng Giám mục Việt Nam Lên tiếng hay Không lên Tiếng".

Chính phần mở đầu bài viết đã nói rõ là: "Trang tin điện tử của HĐGMVN nhận được nhiều thư góp ý và một thắc mắc thường được nêu lên là: tại sao HĐGM không lên tiếng? Trong bối cảnh trên và trong tinh thần hiệp thông của Năm Thánh 2010, thiết tưởng một vài suy nghĩ cần được chia sẻ để soi sáng cho nhau trong đời sống của Hội Thánh".

Như vậy không phải là Ban Biên Tập Website HĐGMVN không biết về những ý kiến và những phê bình về sự im lặng mà nhiều người đã từng thắc mắc. Tuy nhiên khi trả lời cho vấn nạn đã được nêu ở trên, tác giả bài viết nói là muốn "soi sáng" về lập trường của mình. Đọc hết bài viết thì nhiều người không thấy được soi sáng nhưng trái lại sẻ cảm thấy thất vọng vì hình như trong đó ngầm chứa một thái độ hay lối suy tư hơi có vẻ "đỉnh cao" cho mình ở trên, mà không đi sát với thực tế (haytránh né) và nhất là thiếu hẳn tinh thần mục vụ và phục vụ là hai đặc tính rất cần cho các chủ chăn mới ngày nay.

Trước đây khi chọn giám mục, Giáo hội thường coi trọng về yếu tố như đạo đức, thông minh và tài điều khiển ... trái lại ngày nay Giáo hội quan tâm nhiều hơn tới đời sống tận hiến, tinh thần phục vụ, và nhất là yếu tố người giám mục được chọn lên có biết đồng hành, yêu thương, biết đồng cảm và nâng đỡ hàng giáo sĩ và giáo dân của mình không? đó là đặc tính mục vụ. Chả thế mà khi được bổ nhiệm làm giám mục, tân giám mục phải qua Roma để tham dự lớp bồi dưỡng học biết cách là vị chủ chăn chân chính cho đoàn chiên của mình trong hoàn cảnh xã hội da diện và phức tạp ngày nay.

Đức Thánh Cha Benedictô XVI khi nghe là dân Haiti bị động đất đã gửi thư chia buồn và kêu gọi trợ giúp ngay chứ đâu cần phải phân biệt và chờ vị giám mục sở tại là người nắm rõ tình hình và giải quyết! Đó mới là người Cha có tinh thần thương yêu và đường hướng mục vụ đích thật.

Khi đưa ra lập luận rằng: "HĐGM lên tiếng ở một tầm mức khác, bằng cách đưa ra những định hướng mang tính chủ đạo để mỗi địa phương áp dụng định hướng ấy vào hoàn cảnh cụ thể của mình". Đây là một cách đổ thừa lạc lõng trong đó tỏ ra không có một chút gì là biết đồng cảm tới những khốn khó của giáo dân trong những trường hợp cụ thể. Khi thấy "thánh giá" bị phá, giáo dân bị đánh chảy máu, linh mục bị giam cầm vô lý... thì người chủ chăn phải lên tiếng tỏ rõ lập trường là "phá thánh giá là phạm thánh", đánh đàn bà chảy máu me là "hành động dã man không thể chấp nhận", bắt bớ và cáo gian cho linh mục quản xứ mà không theo tiến trình tòa án là "những hành vi coi thường công lý và đi ngược lại nhân quyền con người". Những việc lên tiếng theo nguyên tắc như vậy luôn luôn được coi trọng và là sự hỗ trợ tinh thần chứng tỏ tình yêu thương và tinh thần mục vụ của chủ chăn, chứ đâu đã cần xét tới sự kiện đúng sai. Việc này sẽ có tòa án và công luận phê phán.

Khi nêu lên quan điểm rằng vụ đụng độ ở Đồng Chiêm là "việc tranh chấp đất đai là vấn đề xã hội" là một sự suy luận hoàn toàn sai trái và lạc lõng! Giáo dân Đồng Chiêm bảo vệ Thánh giá của họ là một việc làm của đức tin và muốn bảo vệ di sản truyền thống tổ tiên của họ. Bài viết của Ban Biên Tập cho rằng có thể nó mang sắc thái chính trị mà không muốn "đụng" vào hay cho là chuyện ở địa phương, nên không cần quan tâm. Đó cũng là đường hướng sai trái. Nếu chỉ là vần đề địa phương tại sao Đài Phát Thanh Vatican lại lên tiếng ... và còn biết bao nhiêu cơ quan ngôn luận khác lên tiếng, ngay cả quốc Hội Ba Lan cũng đã đưa ra bàn và lên án tại Quốc hội của họ!

Dĩ nhiên HĐGMVN vẫn nên tiếp tục sứ mạng cao cả là muốn tiếp tục tìm đường hướng "cần phải xây dựng xã hội theo định hướng phát triển toàn diện. Phát triển con người toàn diện là phát triển cả về thể lý, tri thức lẫn đạo đức và tinh thần" cho xã hội Việt Nam, thế nhưng không vì thế mà xa vời với thực tế, không còn cảm thông được những đớn đau của những người tấp cổ bé miệng, mất đi tình nghĩa cha con "con ngựa đau cã tầu không ăn cỏ", mất đi tính hiệp thông mà đề tài Năm Thánh 2010 nêu rõ về sứ mạng của Giáo hội Việt Nam là: "Mầu nhiệm -- Hiệp thông -- Sứ vụ".

Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ hành sử đúng với trách nhiệm lãnh đạo và định hướng của mình, một khi nhìn nhận ra được rằng đoàn chiên của mình còn đang thiếu những nhân quyền căn bản, còn đang bị chèn ép và bị đàn áp đủ cách, còn chưa có tự do tín ngưỡng. Hội đồng không những phải nói lên lên những bất công và tệ nạn của xã hội, nhưng còn phải tích cực đồng hành với anh em linh mục và giáo dân của mình, biết dấn thân đòi hỏi cho bằng được "những nhân quyền, phẩm giá làm người và làm con cái của Chúa".

Chỉ khi nào tích cực và biết dấn thân -- không sợ cường quyền, không sợ thế lực trần gian lôi cuốn -- và lúc đó, trong khí thế được thúc đẩy bởi quyền lực thiêng liêng được trao ban từ trên xuống, "HĐGMVN lên tiếng và đưa ra những định hướng căn bản nhằm góp phần xây dựng xã hội, một xã hội vì con người và một xã hội phát triển toàn diện" thì lúc đó tiếng nói tinh thần của mình mới có chất lượng và mới thực sự được đón nhận cách nồng nhiệt.

Công Luận


Thursday, January 14, 2010

Dân Biểu Cao Quang Ánh Về Việt Nam Thúc Đẩy Đòi Hỏi Áp Dụng Nhân Quyền - Nguyễn Minh Tâm

Nguyễn Minh Tâm dịch

HOA THỊNH ĐỐN: Hôm thứ Tư tuần này,vị dân biểu gốc Việt duy nhất tại Quốc Hội Hoa Kỳ kêu gọi chính quyền cộng sản tại Hà Nội cần phải cải tiến tình trạng nhân quyền trong chuyến về thăm quê hương sinh quán của ông. Dân biểu Joseph Cao Quang Ánh đã âm thầm trở về thăm Việt Nam và đi đến những nơi hạn chế.

Dân biểu Joseph Cao là con trai của một cựu sĩ quan miền Nam, trốn chạy nạn cộng sản sang Hoa Kỳ khi ông mới được tám tuổi. Ông đã trở về thăm Việt Nam lần đầu tiên vào năm 2001, nhân chuyến đi thăm Á châu của ông vào dịp nghỉ lễ.

Dân biểu Joseph Cao trở về thăm Việt Nam lần này cùng với hai người dân biểu đồng viện. Ông là người luôn luôn đứng ra bênh vực vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên, lần này ông chấp nhận đi thăm trong âm thầm, không tiếp xúc với các thành phần chống đối chính quyền, tổ chức họp báo, hay ra thông cáo cho báo chí. Đó là một điều kiện tiên quyết ông phải đồng ý với chính quyền cộng sản để vào thăm Việt Nam.

Sau khi trở về Hoa Thịnh Đốn, Dân Biểu Cao Quang Ánh nói rằng chính quyền cộng sản không chịu cấp chiếu khán (visa) cho ông vì e ngaị rằng chuyến viếng thăm của ông sẽ gây tiếng vang nổ lớn. Dân biểu Cao Quang Ánh nói: “Họ buộc tôi phải đồng ý chấp nhận điều kiện đi vào Việt Nam một cách âm thầm, và ra đi trong yên lặng.”.

Nhưng dân biểu Joseph Cao đã nêu mối quan ngại của ông về vấn đề nhân quyền, đặc biệt là việc nhà nước bắt giam những người hoạt động tích cực trên các blog của internet. Những nhà hoạt động này đã làm cho chính quyền cộng sản phải lo sợ.

Ông Cao nói: “Tôi đã trực tiếp nêu lên những vấn đề vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, chúng tôi không nhận được lời đảm bảo nào của chính quyền liên quan đến từng vụ vi phạm.”. Tuy nhiên ông Cao cho biết khi nói chuyện với thân nhân, những người không làm việc với chính quyền, ông cảm thấy có những tia sang hy vọng ló dạng ở Việt Nam.

Ông Cao nói: “Thân nhân của tôi đều nói rằng điều kiện sinh hoạt ở đây bây giờ khá lắm. Dân chúng có thể tự do buôn bán, làm ăn, đi lễ nhà thờ, hay thờ phuợng tự do, miễn là đừng công khai nói ra những ý kiến chống đối chính quyền là được.”.

Dân biểu Cao cho biết mục đích chính của chuyến viếng thăm ba nước Việt, Miên Lào của ông kỳ này là để nghiên cứu cách nào giúp làm sạch những vũ khí đạn dược chưa nổ,do quân đội Mỹ thả xuống trên ba quốc gia, nằm rải rác ở nhiều nơi. Sau khi chiến tranh kết thúc, các loại chất nổ, vũ khí này giết hại hàng ngàn người vô tội.

Ông cho biết mỗi năm Hoa Kỳ đóng góp $3.6 triệu đô la cho nước Lào, để phá hủy những vũ khí này. Nhưng số đóng góp đó chỉ bằng một phần tư nhu cầu nước này cần phải có.

Ông Cao Quang Ánh trở thành Dân Biểu Hoa Kỳ gốc Việt đầu tiên vào năm 2008. Nguyên là một luật sư chuyên lo về di trú, ông đã thắng một dân biểu kỳ cựu thuộc đảng Dân Chủ, nhưng bị tai tiếng vì tham nhũng.

Dân biểu Joseph Cao làm dân biểu đại diện cho một khu vực có nhiều cử tri Da Đen, thuộc đảng Dân Chủ. Ông trở nên một vị dân biểu nổi tiếng vì tinh thần độc lập của ông. Người chủng sinh ngày xưa là vị dân biểu Cộng Hoà duy nhất ủng hộ cuộc vận động cải cách y tế của Tổng Thống Obama, cung cấp bảo hiểm y tế cho hàng triệu người Mỹ không có bảo hiểm sức khoẻ.

Nguyễn Minh Tâm dịch theo tài liệu của Văn Phòng Dân Biểu Joseph Cao.


Mua tàu ngầm để ... chuồn! - N Nguyen

Lời người viết: Bài phân tích dưới đây hoàn toàn dựa trên trí tưởng tượng do đó xin vui lòng đọc để giải trí cho vui chứ đừng có tin.

Trong thời gian vưa qua báo chí truyền thông liên tiếp đưa tin: VC đã ký hợp đồng mua 6 tàu ngầm Kilo với trị giá gần 2 tỷ đôla, đồng thời cũng đã đặt mua 12 chiến đấu cơ Sukhoi Su-30MK2 trị giá trên 500 triệu đô, cùng với một số lượng lớn trực thăng, tàu chiến và vũ khí các loại khác của Nga. Giới quan sát gắn liền sự kiện này của VC là nhằm củng cố lời tuyên bố về chủ quyền đối với các quần đảo ở Biển Đông.

Tàu ngầm "Kilo"
Tuy nhiên vì tương quan tiềm lực quân sự giữa VC và TC quá chênh lệch cho nên đối với TC thì số lượng vũ khí này chẳng là cái gì cả - chẳng khác chi VC đi mua súng lục để chống lại xe tăng. Vì vậy nếu nói rằng VC đặt mua 6 chiếc tàu ngầm Kilo, 12 chiến đấu cơ Sukhoi Su-30MK2 để phòng thủ chống lại bắc triều thì sợ rằng không đủ để gải ngứa người anh em TC. Do đó TC đã xem việc mua các chiến đấu cơ và tàu ngầm Kilo của VC chẳng có kí lô nào cả. Nếu thật sự TC cảm thấy bất an về việc VC đặt mua một lô vũ khí tối tân (hi-tech) này thì họ đâu có dễ gì ngồi yên như núi, và tâm vẫn cứ vững như bàn thạch. Điều này được thấy rõ qua lời tuyến bố của tướng Từ Quang Vũ của TC khi nói với báo South China Morning Post rằng việc hiện đại hoá quân sự của VC không nằm ngoài dự kiến của TC và TC không hề cảm thấy bị các nước láng giềng đe doạ.

Ngoài ra có vũ khí trong tay chưa phải là một điều kiện ắt có và đủ để có khả năng chống lại kẻ thù. Muốn đánh kẻ thù trước hết phải có tinh thần và ý chí. Tinh thần và ý chí? Tìm đâu ra hai yếu tố này khi sự ươn hèn và khiếp nhược đã chiếm trọn cái đỉnh cao trí tuệ đặc sệt của đảng mafia CSVN. Đảng mafia CSVN có thật sự muốn phòng thủ, bảo vệ giang sơn, chống lại kẻ thù khi chính chúng là thái thú của bắc triều. Chính chúng đã ký giấy phân định lại biên giới cắt đất, dâng biển, nhượng đảo cho TC; đã thẳng tay đàn áp, bắt bớ người dân khi họ bày tỏ lòng yêu nước, biểu tình chống TC trong việc chiếm lãnh Hoàng Sa và Trường Sa; đã làm ngơ như người "lạ" trước thảm cảnh ngư dân bị bắn giết, đánh đập, cướp bóc bởi những tàu "lạ" ngay trên vùng biển của VN; đã cõng rắn cắn gà nhà, rước voi về dày mã tổ trên tây nguyên và các vùng dọc theo biên giới Việt-Hoa.

Cứ cho rằng với số vũ khí đang đặt hàng sẽ giúp cho VC "tự tin" hơn trong việc phòng thủ chống lại sự lộng hành của TC. Nhưng VC thật sự có gan khai hỏa vào lực lượng của TC hay không khi họ xâm phạm lãnh thổ, sinh mạng của người dân Việt? Chúng ta đã thấy quá rõ sự ươn hèn và khiếp nhược của đảng mafia CSVN trong bao năm qua, vì quyền lợi riêng tư mà họ phải quỵ lụy, chịu nhục, thúc thủ, bị TC khống chế, nắm đầu quay như dế, sai đâu đánh đó. Còn đối với chính dân mình thì lại lừa lọc, gian manh, độc ác, tàn bạo còn tệ hơn cả loài thú. Do đó chắc chắn là CSVN sẽ không bao giờ dám hó hé chọc giận bắc triều mặc dầu bị đàn anh thượng cẳng chân hạ cẳng tay, lấn áp, chơi ép đủ điều. Được đằng chân, lấn đằng đầu, TC càng ngày càng tỏ ra trịch thượng, ngạo mạn, chơi những đòn thâm độc, … chỉ mong sao VC ra tay trước để TC có cớ xáng cho một cái bạt tai nẩy lữa (preemptive strike) không còn một cái răng húp cháo, dạy cho một bài học cuối cùng và nhớ đời (once for all).

Vậy thì VC mua vũ khí với một số tiền khá lớn để làm gì? Tại sao không lấy số tiền đó chuyển ra ngoại quốc để làm của riêng?

Chiến đấu cơ SU
Trước hết số tiền một vài tỷ đô chỉ là một con số lẽ so với cái tài sản khổng lồ lên đến hàng trăm tỷ cướp được của dân Việt, và do vơ vét tài nguyên, bán tháo giang sơn của Nước Việt. Cho nên một vài tỷ đô chẳng đáng là bao khi sánh với cái mạng sống của đảng CSVN đang trên đe (dân Việt) dưới búa (TC) như treo trên sợi chỉ mành. Chúng đang cố sống, cố tồn tại để hưởng cái tài sản kếch xù gom góp được bấy lâu nay.

Để kéo dài sự sống, về vấn đề chiến lược và đối ngoại thì đúng là VC đang mua chuộc, tìm đồng minh, tìm sự hậu thuẩn của thế giới - của các nước trong khối ASEAN, Âu Châu và quan trọng nhất là Hoa Kỳ - để đối đầu với TC. Do đó VC đã phải muối mặt cho tướng Phùng Quang Thanh sang Hoa Kỳ để mời kẻ thù đế quốc Mỹ trở lại Cam Ranh, Nguyễn Tấn Dũng sang Nga đặt mua vũ khí và hy vọng được xem như là một khách hàng có giá (value customer), Nguyễn Minh Triết xin tiếp kiến Đức Giáo Hoàng Benedict XVI để mua chuộc ảnh hưởng ngoại giao của Vatican. Đó là chưa nói đến việc kêu gào những nước có tiềm lực về quân sự cũng như kinh tế hảy mua bán, đầu tư vào VN với hy vọng rằng vì quyền lợi làm ăn tại VN mà họ sẽ sẳn sàng nhảy vào hậu thuẩn và hổ trợ cho đảng mafia CSVN một khi VN bị tấn công.

Về vấn đề chiến thuật và đối nội thì cũng đúng là VC đang "hiện đại hóa quân đội nhân dân", nhưng cũng nhằm mục đích mị dân, tạm thời vuốt ve, xoa diu sự bất mãn, phẩn uất của người dân yêu nước chống cộng đang hừng hực lan tràn ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên mục đích thực sự, thầm kín và tối hậu của việc "hiện đại hóa" này là để bảo vệ đảng, bảo vệ cái tập đoàn đỉnh cao trí tuệ trong bộ chính trị (BCT) đang nắm quyền sinh sát của hơn 80 triệu dân Việt, để cầm chân TC, để cho gia đình của cái tập đoàn đỉnh cao có phương tiện và thì giờ chuồn ra khỏi VN khi chiến tranh xảy ra.

Chừng nào thì chiến tranh sẽ xảy ra?

Chừng nào "điều kiện chín mùi" thì VN sẽ bị "giải quyết" ngay. Đó chính là lời nói úp mở (hint) của đại sứ đặc mệnh toàn quyền TC Tôn Quốc Tường khi ông tuyên bố rằng giải pháp thiết thực hiện nay là tạm gác lại tranh chấp biển Đông, chờ điều kiện chín mùi rồi mới giải quyết. Đây cũng là kế sách xưa nay của CS, tức là khi chân tay còn yếu ớt, còn gặp khó khăn, cơ hội chưa "chín mùi" thì đeo mặt nạ giả làm cừu non, làm anh em, đồng chí, làm người hiền, đạo đức, trí thức, ... ngon ngọt kêu gọi sự hợp tác, tạm gác lại tranh chấp, hảy quên đi quá khứ, hòa hợp hòa giải. Nhưng đến khi chân tay đã cứng cáp, ưu thế đã có trong tay, cơ hội đã tới, ... thì CS sẽ để lộ rõ bộ mặt gian manh, tàn ác, tráo trở, … chúng sẽ trở mặt, lật lọng, đánh úp, thủ tiêu, cướp sạch tài sãn, giang sơn, chiếm trọn quyền hành, … một cách trơ trẽn không một chút hổ thẹn. Đây cũng chính là những bài học đắt giá và đẫm máu trải dài trong lịch sử của VN và thế giới. Bài học gần đây nhất vẫn còn sờ sờ trước mắt là con bài MTGPMN "ruột thịt" đã bị chính các đồng chí bắc bộ cho "về hưu non" ngay sau khi Miền Nam bị chiếm đóng.

Do đó đợi đến khi "điều kiện chí mùi" thì TC sẽ dạy cho VC một bài học máu xương, tương tàn bằng súng đạn. Hoặc lúc đó, nếu như dân Hán tộc đã tràn ngập toàn cõi VN qua "diễn biến hòa bình" thì bắc triều chỉ cần vẽ lại bản đồ của Trung Hoa Lục Địa bằng cách kéo dài đường biên giới xuống tận mũi Cà Mau như họ đã ngang nhiên vẽ đường biên giới lưỡi bò trên biển Đông. Nếu như thế thì TC sẽ phát động chiến tranh đánh chiếm VN mà không có một tiếng súng, không tốn một viên đạn một khi "điều kiện chín mùi"!

Bây giờ trở lại chuyện tìm cách chuồn của tập đoàn đỉnh cao BCT. Họ là những người có quyền uy tuyệt đối thì sợ gì không ra đi ngay bây giờ (nếu muốn) mà phải đợi đến khi có chiến tranh mới tìm cách chuồn? Tuy có quyền uy nhưng ra đi không phải là dễ.

Thứ nhất, lấy lý do gì để mà ra đi (một cách công khai và an toàn)? Ai chịu/dám chứa chấp cái đám mafia CSVN này (trước sự nhe nanh, gầm gừ của TC)?

Thứ hai, nếu những thành phần "nồng cốt" của tập đoàn đỉnh cao mà bỏ ra đi trong lúc này là có đảo chánh ngay (vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm), cho nên vì tham quyền cố vị nên chi họ phải mọc rễ tại Hà Nội, phải chịu nhục làm thái thú cho TC để cố bám vào cái quyền uy đang có, vì có quyền hơn có tiền - quyền tạo ra tiền chứ tiền không chắc gì mua được quyền.

Thứ ba, tuy là thái thú của TC nhưng với bản chất lật lọng, phản phúc nên những lời ăn tiếng nói, nhất cử nhất động của họ đều bị tay chân của đàn anh theo dõi, kiểm soát rất chặt chẽ, không dể gì thoát được con mắt cú vọ và vòng tay "êm ái" của người anh em bắc triều.

Vậy thì tại sao Nguyễn minh Triết, Nguyễn tấn Dũng, Nông đức Mạnh, … được đi khắp đó đây nào Mỹ, nào Tây, nào Vatican, ... mà có sao đâu?

Các nhân vật này chỉ là “phần nổi” (tip of iceberg), là những con rối được cho lên sân khấu múa may quay cuồng, ba hoa chích chòe, cù léc thiên hạ, màu mè cho vui, ... trong khi đó “phần chìm” còn lại của cái tập đoàn đỉnh cao trong BCT ở đàng sau hậu trường mới thật sự là các đạo điễn cầm cán giựt dây. Do đó các "diễn viên" thì được gởi đi trình diễn ở khắp mọi nơi còn những người đạo diễn thì ở nhà điều khiển và ra sức bảo vệ cái tập đoàn mafia trước sự bất mãn âm ỉ của lòng dân đang bùng lên càng ngày càng mạnh mẽ. Trong khi đó thì người anh em TC lại càng gia tăng sự khiêu khích, lộng hành, tác oai tác quái một cách thô bạo và trân tráo. Đúng là trên đe dưới búa, sắp chết tới nơi mà vẫn còn tham quyền cố vị.

Vậy thì chuyện gì sẽ xảy ra khi có chiến tranh?

Dĩ nhiên là cái tập đoàn đỉnh cao trong BCT không hoàn toàn trí độn, họ và gia đình sẽ cùng nhau đồng ca bản "tẩu vi thượng sách" đã được chuẩn bị cẩn thận bấy lâu nay.

Chuồn? Làm sao mà chuồn khi mà nhất cử nhất động của chúng đều bị tay chân người anh em TC kiểm soát, theo dõi sát nút?

Chúng là bọn mafia đầu trâu mặt ngựa chứ đâu phải tay vừa! Dĩ nhiên là chúng đã chuẩn bị chu đáo các kế hoạch đánh lừa hay hạ thủ những cái "đuôi" ngày đêm bám sát theo chúng để thoát ra khỏi cái cơ quan đầu não nơi "đóng đô" của BCT tức cơ quan tham mưu của ban chấp hành trung ương đảng.

Mà chuồn bằng cách nào (để ra khỏi VN)?

Bằng đường bộ qua biên giới Việt Lào Kampuchia? Chắc chắn là không được rồi, vì sẽ bị quân TC đội lốt công nhân đóng trên tây nguyên, nằm dọc theo biên giới cùng với Lào và Kampuchia, vốn xưa nay không ưa gì VC, truy lùng, thộp cổ nhổ không còn một cọng râu bác Hồ!

Bằng đường (trên mặt) biển? Dĩ nhiên là họ đâu có ngu dẫn xác ra biển Đông để cho các tàu "lạ" cho ăn đạn làm lễ tiển đưa đi chầu hà bá, làm mồi cho cá mập.

Bằng đường hàng không? Họ cũng chẳng có điên đưa thân ra làm mục tiêu tác xạ cho cái lực lượng và hỏa lực hùng hậu của không quân và các dàn hỏa tiễn địa không của TC.

Vậy thì chỉ còn một con đường duy nhất đó là chuồn đi ngầm dưới biển như chui dưới các ống cống. Trong khi trên đất liền quân đội nhân dân bị TC đánh tan tác, dân Việt bị tàn sát thì gia đình của tập đoàn các đỉnh cao trong BCT đang chen chúc nhau, chất đầy trong khoang của những chiếc tàu ngầm kilo, chuồn êm dưới lòng biển sâu hướng về phía Nam.

Nhưng TC vẫn có thể đánh chìm các chiếc tàu ngầm này mà.

Đúng, nhưng cái xác xuất bị cho đi đoàn tụ theo diện ông bà bằng đường tàu ngầm so với đường bộ, đường biển, đường hàng không thì vẫn còn thấp (an toàn) hơn nhiều. Hơn nữa tàu ngầm kilo có khả năng “tàng hình”, chạy êm, lặn sâu nên cũng khó dò ra. Trong khi đó trên đất liền, trên không và trên mặt biển người anh em TC cũng đang bận rộn “chén tạc chén thù” với các đồng chí quân đội nhân dân được trang bị một số vũ khí hiện đại, đủ khả năng cầm chân TC để cho tập đoàn mafia CSVN có thì giờ tẩu thoát ra vùng hải phận quốc tế.

Vậy là Nước Việt nát bấy, Dân Việt banh thây, quân đội (nhân dân) phanh thây, đảng sướng phây phây!

N Nguyen

Phụ chú: Đảng sướng phây phây?
Có nhiều điều cứ tưởng là trót lọt êm xuôi nhưng ...! Lại chữ "nhưng" mắc dịch, oái ăm!

Nhưng xét lại thì VC có phải là một khách hàng có giá đối với Nga không hay chỉ là một anh khách hàng nghèo nàn thuộc loại tép riêu so với cái đơn đặt hàng trị giá hàng trăm tỉ mỹ kim của ông đại gia TC. Vì vậy ngoài mặt Nga vẫn vui vẽ, săn đón, mua bán với người anh em VC nhưng biết đâu sau lưng thì các đồng chí Nga và TC đã bắt tay nhau với một sự thỏa thuận ngầm nào đó.

Xin nhớ rằng quyền lợi quốc gia là trên hết, nói một cách khác cho dầu Nga, Mỹ, Pháp, ... có được VC ôm chân, nịnh bợ, vuốt ve, hứa hẹn như thế nào đi nữa thì TC cũng vẫn là ông vua (customer is king) bề thế mà họ phải trung thành phục vụ. Rõ ràng nhất là trường hợp Yahoo, chỉ vì quyền lợi làm ăn to lớn tại TC mà họ đã từng cung cấp, một cách vô liêm sĩ (unethical), những dữ kiện, chi tiết cá nhân đưa đến việc nhiều nhà bất đồng chính kiến bị bắt giam.

Do đó trong việc mua bán tàu ngầm cho VC biết đâu Nga đã được nháy mắt, đá lông nheo để lắp đặt thêm một thiết bị đặc biệt nào đó do lời yêu cầu "nặng ký" (hoặc bằng tiền bạc hay quyền lợi kinh tế) của đồng chí TC. Có thể là, với cái thiết bị đặc biệt này (không có trong đơn đặt hàng của VC) tàu ngầm kilo sẽ phát ra những tín hiệu chỉ rỏ vị trí của mình để cho không quân, hải quân TC dễ dàng tìm đến truy kích và đánh chìm; hoặc sẽ bị điều khiển "viễn liên" (remotely controlled) và chỉ cần bấm nút là tàu ngầm sẽ bị nổ tung, tan xác, nát thây, hoặc bị tắt máy chìm lĩm cho toàn thể tập đoàn đỉnh cao BCT đi mò tôm. Có lẽ vì vậy mà TC dửng dưng, bình chân như vại trước việc VC xum xoe, hí hửng, dương dương tự đắc đi mua vũ khí của Nga.

Người ta thường nói "Tri kỷ tri bỉ trăm trận trăm thắng", vậy bây giờ đã biết rõ rồi thì liệu có thắng được ai không hay là chỉ còn chờ chết, từ chết ngắt đến chết ngũm củ tỏi.

Cáo Hồ đang nóng lòng chờ các đồng chí đó!

Cuối cùng thì Nước Việt nát bấy, Dân Việt banh thây, quân đội (nhân dân) phanh thây, còn đảng thì nát thây!

Không thể là chuyện tranh chấp và không thể không lên tiếng - Song Hà

Song Hà

Chúng tôi đọc trên trang web của Hội Đồng Giám mục Việt Nam bài viết của Ban Biên tập nhan đề:
    “HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM: LÊN TIẾNG HAY KHÔNG LÊN TIẾNG”

    Khi xảy ra vụ việc Đồng Chiêm cũng như các vụ việc Toà Khâm Sứ (Hà Nội), Tam Toà (Vinh) hay Loan Lý (Huế), Trang tin điện tử của HĐGMVN nhận được nhiều thư góp ý và một thắc mắc thường được nêu lên là: tại sao HĐGM không lên tiếng? Trong bối cảnh trên và trong tinh thần hiệp thông của Năm Thánh 2010, thiết tưởng một vài suy nghĩ cần được chia sẻ để soi sáng cho nhau trong đời sống của Hội Thánh.

    Liên quan đến từng vụ việc cụ thể tại từng địa phương, hơn ai hết, vị giám mục sở tại vừa là người có trách nhiệm chăm sóc một phần Dân Thiên Chúa tại đây (x. GM số 11) vừa là người nắm rõ tình hình và bối cảnh của vấn đề, chính ngài là người đưa ra quyết định cụ thể để giải quyết. HĐGM không lên tiếng về từng vụ việc. Nói như thế không có nghĩa là HĐGM không quan tâm gì đến đời sống của Dân Chúa tại địa phương, và hoàn toàn im lặng trước những vấn đề liên quan đến đời sống của anh chị em tín hữu. HĐGM không lên tiếng về từng vụ việc nhưng HĐGM lên tiếng ở một tầm mức khác, bằng cách đưa ra những định hướng mang tính chủ đạo để mỗi địa phương áp dụng định hướng ấy vào hoàn cảnh cụ thể của mình. Ở đây, chúng tôi muốn quy chiếu vào bài “Quan điểm của Hội đồng Giám mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay” [1] để thấy được những định hướng căn bản này.

    Trước hết, HĐGMVN lên tiếng nhằm mục đích góp phần xây dựng xã hội. Khi nhắc đến những vụ tranh chấp liên quan đến đất tôn giáo, HĐGM đặt những vụ tranh chấp này trong bối cảnh chung của toàn xã hội. Thật vậy, trong những năm gần đây, tranh chấp và khiếu kiện về đất đai là chuyện xảy ra hằng ngày trên mọi miền đất nước. Rất nhiều vụ tham nhũng liên quan đến đất đai bị phanh phui trên báo chí. Như thế, đây là vấn nạn chung của toàn xã hội chứ không của riêng giới công giáo. Có chăng vì giới công giáo là một tập thể lớn, và nhiều phương tiện truyền thông trong cũng như ngoài nước loan tin về những vụ tranh chấp đất đai liên quan đến giới công giáo, nên dễ tạo cảm tưởng chỉ có giới công giáo mới có chuyện tranh chấp đất đai. Hiểu như thế là nhìn nhận vấn đề chưa đúng với thực tế; hơn nữa có thể tạo ngộ nhận rằng đây không phải là vấn đề xã hội mà là vấn đề chính trị, dù được trình bày theo hướng bênh vực Nhà Nước hay chống lại Nhà Nước Việt Nam. Vì thế, khi HĐGM trình bày bối cảnh chung của xã hội hiện nay, các ngài cho thấy việc tranh chấp đất đai là vấn đề xã hội chứ không mang màu sắc chính trị, và khi lên tiếng về vấn đề này, các ngài muốn góp phần xây dựng xã hội cho tốt đẹp hơn.

    Xây dựng xã hội tốt đẹp hơn là cùng nhau xây dựng một xã hội vì con người, một xã hội thực sự lấy dân làm gốc. Để giải quyết những vụ khiếu kiện về đất đai, cũng như bao Chính quyền khác trên toàn thế giới, Chính quyền Việt Nam phải dựa vào Luật và những Nghị định về đất đai để giải quyết. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rất nhiều người dân bất mãn về cách giải quyết của Chính quyền, đồng thời tình trạng “ăn đất” tiếp tục diễn ra dựa trên chính lề luật của Nhà Nước. Chính vì thế, câu hỏi căn bản được đặt ra là: Luật và những nghị định đó được xây dựng trên nền tảng nào? Luật lệ được đặt ra là để phục vụ con người và đời sống con người trong xã hội, sao cho ngày càng hài hoà và tốt đẹp hơn. Con người ở đây là mọi người dân chứ không chỉ là một nhóm hay một thiểu số nào đó được đặc quyền đặc lợi. Muốn xây dựng một xã hội vì con người, muốn ban hành những lề luật nhằm phục vụ con người, thì những lề luật đó phải được xây dựng trên nền tảng là những quyền căn bản của con người, những quyền căn bản được cả thế giới nhìn nhận và cả Việt Nam cũng nhìn nhận, ít là trên nguyên tắc. Chẳng nhẽ một đất nước tự hào mình dân chủ gấp trăm lần các đất nước khác, mà ngay cả những quyền căn bản nhất của con người cũng không được tôn trọng sao?

    Hiểu như thế mới thấy được tại sao HĐGM đưa ra đề nghị sửa đổi Luật về đất đai [2] và yêu cầu việc sửa đổi này cần quan tâm đến quyền sở hữu của công dân, là một trong những quyền căn bản của con người, được khẳng định trong Hiến chương Liên hiệp quốc và được Việt Nam thừa nhận. Khi đưa ra đề nghị này, HĐGM thành tâm muốn góp phần xây dựng một xã hội vì con người, vì chỉ như thế mới có thể giải quyết tận gốc việc tranh chấp và khiếu kiện đất đai đang nở rộ khắp nơi, đồng thời lành mạnh hoá đất nước bằng cách xoá bỏ cơ hội của những người lợi dụng chức quyền để đàn áp người dân và kiếm tìm tư lợi.

    Để thực sự xây dựng một xã hội vì con người, cần phải xây dựng xã hội theo định hướng phát triển toàn diện. Phát triển con người toàn diện là phát triển cả về thể lý, tri thức lẫn đạo đức và tinh thần. Phát triển xã hội toàn diện là phát triển về cả kinh tế lẫn văn hoá và tinh thần. Một đất nước tự hào về lịch sử bốn ngàn năm sẽ không dễ dàng phá huỷ những di tích có chiều dài lịch sử. Một dân tộc kiêu hãnh về bốn ngàn năm văn hiến sẽ không thể dễ dàng xoá bỏ các di tích tôn giáo và cơ sở thờ tự, vì lẽ tôn giáo đã góp phần giữ hồn của đất nước. Một xã hội với bốn ngàn năm văn hoá sẽ không chấp nhận dung túng cho cách giải quyết các vấn đề xã hội bằng sức mạnh của cơ bắp. Một loạt những khẳng định như thế được đặt ra để muốn nhấn mạnh sự phát triển toàn diện. Và cũng khi ấy mới hiểu được tại sao khi bàn đến việc tranh chấp đất đai, HĐGMVN lại nói đến những chuyện văn hoá như tránh sử dụng bạo lực trong lời nói cũng như trong hành động, việc truyền thông phải tôn trọng sự thật và phẩm giá của con người; đồng thời, cổ võ việc đối thoại chân thành [3] trong sự tương kính lẫn nhau. Bởi lẽ đó là cái làm nên nhân cách văn hoá của con người, làm nên nét văn hoá đáng kính của một dân tộc.

    Với những suy nghĩ này, có thể khẳng định HĐGMVN đã lên tiếng và sẽ còn lên tiếng, không nhằm giải quyết từng vụ việc ở mỗi địa phương, nhưng đưa ra những định hướng căn bản nhằm góp phần xây dựng xã hội, một xã hội vì con người và một xã hội phát triển toàn diện.

      Ban biên tập WHĐ
    --------------------------------
    [1] Quan điểm của Hội đồng Giám mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay
    [2] x. Quan điểm, II, 1
    [3] x. Quan điểm, II, 2 và 3 (Quan điểm), công bố ngày 27-9-2008
Đọc qua những dòng này, chúng tôi không hiểu đây là quan điểm của BBT hay của chính Hội Đồng GMVN?

Nếu chỉ là quan điểm của một nhóm người trong BBT tờ báo này thì miễn bàn, vì mỗi người có một quan điểm, cách hành động và cách biện hộ cho những hành động và thái độ của mình.

Chuyện tranh chấp đất đai, tài sản của từng giáo xứ, giáo phận … đã xảy ra quá nhiều, nhưng HĐGM im lặng không có ý kiến mà chỉ có một bản “Quan điểm của Hội đồng Giám mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay”. Thái độ này được nhiều người chú ý như một sự vô trách nhiệm của những người lãnh đạo, mà người lãnh đạo là người chịu hoàn toàn các trách nhiệm những vụ việc liên quan đến cộng đồng mình phụ trách. Ngay cả nhà nước CSVN mới đây cũng đã có quy chế về “trách nhiệm của người đứng đầu”.

Nhưng dù sao, sự “hững hờ” này còn có nhiều người tìm cách giải thích: HĐGM đang có những tư tưởng lớn và chỉ giải quyết những việc lớn, vài chuyện tranh chấp tài sản đất đai chỉ là chuyện “lặt vặt”. Dù những chuyện lặt vặt đó là cả Tòa Khâm sứ, là Tam Tòa, là cả Giáo Hoàng học viện dù đó là giáo dân bị đàn áp, là linh mục bị đánh ngay trong năm linh mục, là nhà thờ, tượng Đức Mẹ bị bao vây, bị cho đi tù. Những việc đó không liên quan đến HĐGMVN?

Bản Quan điểm nói trên được coi là “HĐGM lên tiếng ở một tầm mức khác, bằng cách đưa ra những định hướng mang tính chủ đạo để mỗi địa phương áp dụng định hướng ấy vào hoàn cảnh cụ thể của mình”. Có nghĩa là ông Bố trong gia đình chỉ lo việc lớn, còn những việc “lặt vặt” thì từng thành viên gia đình lo.

Xin kể một ví dụ như sau:

Có một gia đình sống chung với anh hàng xóm là “Trưởng số nhà” nhưng hung dữ, thường xuyên bị anh này dùng bạo lực để hà hiếp, đánh đập và cướp đoạt tài sản của mình. Nhưng vì thế yếu, với lại trong gia đình có những “quan điểm” khác nhau, người cho rằng nên “đối thoại” với anh hàng xóm đó kẻo nhỡ mình nói ra nó tẩn cho mình một trận thì nguy. Người cho rằng phải có tiếng nói của công lý, của pháp luật với anh hàng xóm xấu chơi này.

Trong khi gia đình đang tranh cãi, chưa có thống nhất cụ thể thì anh hàng xóm cứ ngang nhiên bịa ra hết “luật tổ dân phố” đến “luật số nhà” để lấn chiếm dần cơ ngơi của gia đình yếu thế, mục đích là để đến một lúc nào đó anh chàng này không còn đất sống phải “bán xới” sang chỗ khác.

Cứ thế, lần lượt từ cái mái hiên bị chiếm, đứa con ở gần kêu khóc, nhưng ông bố cứ im lặng để “đối thoại”, bà mẹ ở phòng xa hơn cũng coi như không biết gì. Mấy anh em còn nhỏ không biết kêu ai càng ngậm ngùi để mất dần phòng này đến phòng khác. Kể cả khi anh hàng xóm đến thăm ông bố, được đón tiếp vui vẻ, rồi đột nhiên chiếm luôn một chiếc giường trong phòng ông bố, hàng xóm hỏi, ông cũng chỉ trả lời qua quýt rằng tôi đang đòi lại, đang hy vọng… thế là xong.

Nhiều lần anh chị em trong nhà đã kêu đến ông bố, nhưng ông chỉ bảo: “Tao còn phải lo đại cuộc, lo cái lớn hơn là xây dựng khu phố kiểu mẫu, tổ dân phố văn hóa đoàn kết… nên không muốn nói to hoặc ầm ĩ” chỉ nói thế vì phải đặt hoàn cảnh gia đình ta vào “bối cảnh chung trong toàn ngõ phố”.

Phía anh Trưởng số nhà hung dữ, thì tuy đã chiếm được dần dần từng phòng của gia đình này, bằng biện pháp dùng “luật rừng” nhưng miệng lưỡi thì có những lời rất đẹp và hữu nghị với láng giềng xung quanh nào là “tôi quản lý” số nhà này, đây là tài sản chung… Tài sản đất đai của gia đình hàng xóm nghèo đã dần dần về tay nhà mình nhưng họ vẫn ấm ức và không phục. Hắn khó chịu lắm, muốn làm một cuộc tổng chiếm đoạt đuổi cổ gia đình kia đi nhưng chưa lường được sự thể sẽ đến đâu. Bởi hắn thừa biết rằng nếu gia đình kia biết đoàn kết, cùng lên tiếng tố cáo việc cướp đoạt của hắn trước làng xóm, thì hắn sẽ bị cả phố lên án và hắn không còn giữ được thói hung hăng của mình.

Hắn nghiên cứu, suy nghĩ và tìm cách.

Bỗng một buổi sáng sớm, lúc 2 giờ sáng, hắn đưa một đoàn những tên bặm trợn, hung dữ đến bao vây nhà kia, không phải để chiếm tài sản, mà chỉ để đập tan cái bàn thờ tổ tiên ông bà nhà đó, xé hình ảnh ông bà vứt vào sọt rác, đập tan cái lư hương, đập nát cái ban thờ. Con cái trong nhà ra giữ, kiên quyết tố cáo và đấu tranh với hắn để giữ lại, hắn đánh cho đứa thì tóe máu đầu, đứa thì giữ vỡ mặt, đứa thì đi viện, tiếng kêu khóc ầm ĩ, hàng xóm tố cáo hành động của tên Trưởng số nhà rất mạnh mẽ, đồng loạt. Nhưng ông bố thì… im lặng.

Đến khi đó, ông bố gia đình kia có nói được rằng: Đó là chuyện riêng của mỗi đứa con, còn tao là bố, là chủ nhà thì chỉ nói lên “Quan điểm” và chỉ “làm những việc to lớn” nữa không?

Có lẽ đến lúc đó, tất cả những đứa con phải kêu lên rằng: “Bố ơi, gia đình ta có còn là một gia đình nữa không? Bố có còn là ông bố trong gia đình nữa không”?

Gác qua những vụ việc trước, đến vụ việc tại Đồng Chiêm, thì người ta chờ đợi, vì sao?

Trước hết, sự việc Đồng Chiêm đâu phải là vụ tranh chấp đất đai hay tài sản như BBT trang web HĐGMVN đã nói đến?

Giáo xứ Đồng Chiêm, một xứ đạo nghèo, riêng cái tên Đồng Chiêm đã nói lên sự đói nghèo ở mảnh đất ngập lụt này. Giáo dân đàn ông ở đây phải đi làm ăn xa xôi để nuôi sống gia đình. Việc đi làm ăn xa xôi, cô đơn và nhiều vất vả đã mang về giáo xứ này nhiều căn bệnh nguy hiểm. Có lẽ không nơi nào, một giáo xứ nhỏ, lại có nhiều người nhiễm HIV như ở đây.

Ở đó không có tài sản để tranh chấp với ai, nhà nước và giáo xứ không có tranh chấp nào với Núi Thờ là nghĩa trang của giáo xứ cả hơn trăm năm nay. Ở đó cũng không có công trình quốc phòng, quân sự hay bất cứ dự án nào của quốc gia để ảnh hưởng.

Mà nghĩa trang thì có Thánh Giá, Thánh Giá cũ đã hỏng thì thay Thánh Giá mới.

Thánh giá này đã từng được dựng công khai chính quyền đều biết, nhưng đã không có ai ý kiến gì. Đến một lúc nào đó thì đưa cảnh sát, quân đội, chó nghiệp vụ đến phá bằng được theo lệnh chính quyền.

Thánh Giá là gì, ý nghĩa của Thánh giá như thế nào, chắc HĐGMVN là nơi hiểu rõ nhất và là nơi còn cần phổ biến cho giáo dân hiểu hơn nữa. Giáo dân chỉ hiểu rằng: Thánh giá là biểu tượng cao quý nhất, thiêng liêng nhất của người Kitô và Giáo hội Công giáo, nếu không có Thánh Giá, có nghĩa là Giáo hội Công giáo không còn tồn tại. Đơn giản thế thôi.

Tại sao chính quyền phải triệt phá cây Thánh Giá này một cách triệt để và quyết liệt như vậy? Câu chuyện đơn giản ở trên trả lời câu hỏi này: Thánh Giá là cái bàn thờ trong gia đình, phải triệt phá.

Đọc những lời trong bài viết trên, chúng tôi lại nhớ đến câu nói của Đại sứ Tàu tại VN Tôn Quốc Tường: “hai bên cần xuất phát từ đại cục, toàn cục và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, tạm gác lại tranh chấp, không làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường, thuận lợi của quan hệ hai nước”. Trong khi đất đai, lãnh thổ mất dần vào tay Tàu Cộng, nhân dân VN bị đánh đập ngay trên lãnh thổ của mình và mưu đồ của nhà cầm quyền Tàu Cộng với đất nước VN thì đã không còn là sự đe dọa mà đã hết sức rõ ràng. Ông Đại sứ này còn khuyên VN hãy “chờ điều kiện chín muồi” rồi giải quyết. Ai cũng biết rằng khi mà “điều kiện chín muồi” là khi toàn dân VN lấy tiếng Tàu làm quốc ngữ.

Thưa BBT trang web HĐGMVN, trong một gia đình, bàn thờ tổ tiên bị đập phá mà ông bố vẫn không lên tiếng, thì đừng nói chuyện “quan điểm” hay “đường hướng” hoặc bất cứ sự lý giải nào. Bởi mọi điều giải thích đều vô nghĩa và gia đình đó thực tế không còn tồn tại.

Ngày 14/1/2010

Song Hà
ooOoo

    QUAN ĐIỂM CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY
    LTS: Vào lúc 16g30 ngày thứ bảy, 27-9-2008, Văn phòng Thư ký của Hội đồng Giám mục Việt Nam chính thức công bố quan điểm của Hội đồng Giám mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện tại. Chúng tôi xin chia sẻ cùng bạn đọc.

    Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của người dân Việt Nam cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của chúng tôi, các Giám mục thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Giáo Hội không có chức năng làm chính trị, nhưng cũng không đứng bên lề xã hội. Do đó, là những người lãnh đạo trong Giáo Hội, chúng tôi có trách nhiệm rao giảng giáo huấn của Giáo Hội về xã hội, nhằm thăng tiến con người và đời sống xã hội cách toàn diện. Sau khi cầu nguyện và trao đổi với nhau, chúng tôi muốn bày tỏ quan điểm của mình về một số vấn đề quan trọng trong hoàn cảnh hiện nay.

    I. TÌNH HÌNH

    1. Tình trạng khiếu kiện đất đai kéo dài và chưa được giải quyết thoả đáng là vấn đề thời sự, trong đó có đất đai của các tôn giáo nói chung và Giáo hội Công giáo nói riêng, cụ thể như vụ việc Toà Khâm Sứ cũ (số 42 Nhà Chung) và Giáo xứ Thái Hà (số 178 Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội). Chắc chắn có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng ở đây chúng tôi muốn lưu ý đặc biệt đến điều này: luật về đất đai tuy đã sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng kịp đà biến chuyển trong đời sống xã hội, đặc biệt là chưa quan tâm đến quyền tư hữu chính đáng của người dân. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ càng làm cho tình hình tệ hại hơn. Thiết nghĩ không thể có một giải quyết tận gốc nếu không quan tâm đến những yếu tố này.

    2. Trong tiến trình giải quyết những tranh chấp, một số phương tiện truyền thông thay vì là nhịp cầu liên kết và cảm thông thì lại gieo rắc hoang mang và nghi kỵ. Quả thật, chưa bao giờ các phương tiện truyền thông phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng như ngày nay, nhờ đó con người được gia tăng hiểu biết và phát triển tình liên đới. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông chỉ thực sự mang lại lợi ích cho con người và cộng đồng xã hội khi phục vụ sự thật và phản ánh thực tại cách trung thực. Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lĩnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường. Chắc chắn tất cả những ai tha thiết với tiền đồ của đất nước và dân tộc, không thể không quan tâm đến tình trạng này.

    3. Cũng trong tiến trình giải quyết những xung đột nêu trên và nhiều vụ việc khác, một số người có khuynh hướng sử dụng bạo lực, và như thế, tạo thêm bất công trong xã hội. Điều này đang có chiều hướng gia tăng, không những trong các vấn đề lớn của xã hội mà ngay cả trong đời sống gia đình cũng như tại học đường. Bạo hành và bạo lực bắt nguồn từ chính tâm hồn con người, nơi đó cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối không ngừng diễn ra. Nếu không được hướng dẫn và tập luyện, con người sẽ dễ dàng chiều theo những tham vọng ích kỷ của mình, và cái ác sẽ lan tràn trong đời sống xã hội. Do đó, việc giáo dục đạo đức và huấn luyện lương tâm phải là trách nhiệm hàng đầu của toàn xã hội, và cần đến sự tham gia tích cực của người dân cũng như các tổ chức xã hội.

    II. QUAN ĐIỂM

    Đứng trước tình hình trên, chúng tôi có những đề nghị cụ thể như sau:

    1. Trước hết, nếu luật về đất đai còn nhiều bất cập thì nên sửa đổi cho hoàn chỉnh. Việc sửa đổi này cần phải quan tâm tới quyền tư hữu của người dân như Tuyên ngôn Quốc tế của Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền đã khẳng định: "Mọi người đều có quyền tư hữu cho riêng mình hay chung với người khác… và không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình cách độc đoán" (số 17). Vì thế, chúng tôi cho rằng thay vì chỉ giải quyết theo kiểu đối phó hoặc cá biệt, thì giới hữu trách phải tìm giải pháp triệt để hơn, tức là để người dân có quyền làm chủ tài sản, đất đai của họ, đồng thời người dân cũng phải ý thức trách nhiệm của mình đối với xã hội. Đòi hỏi này lại càng khẩn thiết hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nhịp sống chung của thế giới. Đây sẽ là tiền đề cho việc giải quyết tận gốc những vụ khiếu kiện về đất đai và tài sản của người dân, đồng thời góp phần tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển vững bền của đất nước.

    2. Kế đến, đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi những người làm công tác truyền thông phải tôn trọng sự thật. Trong thực tế, đã có những thông tin bị bóp méo hoặc cắt xén, như trong trường hợp tranh chấp đất đai tại Toà Khâm Sứ cũ. Vì thế, chúng tôi đề nghị những người làm công tác truyền thông đại chúng phải hết sức cẩn trọng khi đưa tin tức và hình ảnh, nhất là khi liên quan đến danh dự và uy tín của cá nhân cũng như tập thể. Nếu đã phổ biến những thông tin sai lạc thì cần phải cải chính. Chỉ khi tôn trọng sự thật, truyền thông mới thực sự hoàn thành chức năng của mình là thông tin và giáo dục nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

    3. Cuối cùng, truyền thống văn hoá và đạo đức của dân Việt vốn nhấn mạnh đến tình tương thân tương ái và sự hài hoà trong xã hội. Tuy nhiên khi giải quyết những tranh chấp gần đây, đáng tiếc là đã có những hành vi sử dụng bạo lực, làm mất đi tương quan hài hoà trong cuộc sống. Vì thế, chúng tôi tha thiết ước mong mọi người hãy chấm dứt mọi hình thức bạo lực, trong hành động cũng như trong ngôn từ. Cũng không nên nhìn những tranh chấp này theo quan điểm chính trị và hình sự. Một giải pháp thoả đáng chỉ có thể đạt được nhờ đối thoại thẳng thắn, cởi mở và chân thành, trong hoà bình và tôn trọng lẫn nhau.

    Phát xuất từ ước mong góp phần tích cực vào việc phát triển đất nước cách ổn định và vững bền, những suy nghĩ này mong được gửi đến tất cả anh chị em đồng đạo cũng như mọi người thành tâm thiện chí. Chúng tôi xác tín rằng khi tất cả chúng ta cùng nhau xây dựng đất nước trên nền tảng công bằng, sự thật và tình yêu, thì quê hương Việt Nam sẽ ngày càng giàu đẹp, mang lại hạnh phúc ấm no cho mọi người, và góp phần kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn.

    Làm tại Toà Giám mục Xuân Lộc, ngày 25.09.2008

    TM. HĐGM Việt Nam
    Chủ tịch

    Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
    http://hdgmvietnam.org/News.aspx?Type=3&Act=Detail&ID=215&CateID=116

„Hãy thả tên đại gian manh trộm cướp Barabba!“ - Lm Đinh Xuân Minh

    Cảnh tượng Đồng Chiêm:
    „Hãy thả tên đại gian manh trộm cướp Barabba!“
    (Gioan 18, 40)
Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh (Đức Quốc)

Đoạn kinh thánh nói trên, nói về giai đoạn, khi Đức Giêsu bị điệu ra trước Vua tổng Trấn Philatô. Philatô hỏi Ngài về nguyên nhân, tại sao dân Do Thái lại muốn nộp Ngài.

Khi Philatô hạch hỏi Người xong, thì Philatô „không tìm ra tội trạng nào nơi ông ấy“ (Gioan 18, 38). Philatô trả Đức Giêsu về cho dân Do Thái. Trong dịp Lễ Vượt qua, có tục lệ là ban ân xá cho phạm nhân. Philatô nghĩ, chắc người Do Thái sẽ xin thả Giêsu, vì Ngài chẳng có tội tình gì, sau nữa, là đỡ mất mặt các vị Trưởng tế Do Thái, những nhà thông thái đạo đức theo trường phái Pharisêu.

Nhưng hỗi ơi! Dân Do Thái không muốn như Philatô nghĩ. Họ muốn Philatô trả tự do cho Barabba. Mà Barabba là một tên trộm cướp khát máu có tiếng.

Philatô ra ngoài và nói với họ: “này, ta dẫn ông ấy cho các người, để các người biết là ta không tìm ra tội trạng nào nơi ông ấy” (Gioan 19, 4). Khi dân Do Thái thấy Đức Giêsu liền hô to: “Đóng đinh nó! Hãy đóng đinh nó vào thập giá!” (Gioan 19, 6) Philatô nói với họ: “Thì các người hãy đem ông ấy mà đi mà đóng đinh! Vì ta đây, ta không tìm ra tội trạng nào nơi ông ấy cả.” (Gioan 19, 6-7).

Tổng cộng ba lần, Philatô tìm cách giãi bầy cho họ hiểu là Đức Giêsu vô tội. Mọi cố gắng đều uổng công vô ích. Dân Do Thái vẫn một mặt khăn khăn muốn kết án tử hình ngài. Đóng đinh trên thập giá là hình thức trừng phạt tủi nhục nặng nhất. Và Đức Giêsu, Đấng cứu độ, đấng nhân lành dường bao, đã phải chịu đóng đinh vì quân dữ. Thay vào đó, thì tên cường hào ác bá Barabba được tha bổng.

Đất nước Việt Nam chúng ta hiện nay, dưới sự cai trị dã man, với những luật pháp man rợ của cái gọi là nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa, cũng giống tương tự vậy: Những người tốt lành, những người can đảm đấu tranh cho sự thật cho lẽ phải, những chiến sĩ dân chủ hòa bình làm chứng cho sự thật, bảo vệ cho sự thật, những người ao ước tranh đấu cho tự do công bằng bác ái, xả thân vì nhân phẩm con người..., thì chính những người này bị giam tù, bị hành hung sách nhiễu. Tù đày giam cầm, bắt bớ khủng bố v.v. đây là những hình thức gián tiếp đóng đinh.

Còn những bọ côn đồ, những thành phần xã hội đen, thì được tập đoàn tay sai Hán Cộng Hà Nội dung túng và nuôi dưỡng. Thật đúng! Chế độ tập đoàn tay sai Hà Nội là hiện thân của băng đảng cướp ngày. Họ không đại diện cho tổ quốc. Chớ lầm tưởng chính quyền hay tổ quốc với băng đảng cướp Cộng sản. Hai tổ chức hoàn toàn khác biệt. Một bên là đại diện chính quyền, do dân bầu ra trong tự do thật sự, với sự cạnh tranh lành mạnh của các đảng phái. Một bên là tổ chức, kết bè kết phái, cùng một mục đích,: phá rối làng xóm, ăn gian nói tục, ăn cướp, ăn giật đối với người lương thiện.

Tập đoàn tay sai Hán Cộng chẳng bao giờ, và cũng sẽ không bao giờ đại diện cho nhân dân được. Vì thế, tập đoàn tay sai Cộng sản Hà Nội, không là tổ quốc của chúng ta. Chớ đánh lận con đen! Xây dựng tổ quốc, nhưng không xây dựng bảo vệ tập đoàn ma qủy ma cô Cộng Sản Việt Nam!

Chế độ bạo quyền Hán Ngụy Việt Nam hiện nay có giống như xưa, người Do Thái xin thả Barabba không!? Qủa thật! Những người công chính, những người tốt lành can dảm lên tiếng đòi hỏi Công chính và Hòa bình, đều bị bắt giam bỏ tù. Còn những kẻ gian manh trộm cướp, những thành phần lưu manh, bọn côn đồ, bọn cớm, thì được thả lỏng. Kẻ ác, thì nhởn nhơ ngoài xã hội, tha hồ tung hoành phá phách, tha hồ cướp giật. Còn những anh hùng chiến sĩ đấu tranh cho tự do nhân phẩm con người với lòng thiện tâm, thì bị giam tù.

Những cảnh tượng xẩy ra tại giáo xứ Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý, Chùa Bát Nhã, và mới đây, nhất là tại giáo xứ Đồng chiêm, thuộc xã An Phú, Huyện Mỹ Đức (Hà Nội), cũng đã nói lên những cách thức hành xử vốn quen thói của một băng đảng cướp. Chúng ta hình dung ra cảnh tượng kết qủa hành xử của một đảng cướp.

Nào là chúng huy động gần 500 tay sai của bọn cướp, đêm đến công kích. Thế mà, bọn đầu xỏ ở Ủy ban xã An Phú, lại cho rằng: “đã tổ chức tháo gỡ công trình xây dựng trái phép này, theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật!”

Hãy nhìn kìa! Bọn cuớp tháo gỡ “công trình theo đúng trình tự” (Sic!). Chỉ có thành phần gian manh trộm cướp mới đi phá đêm, để che mắt thiên hạ. Trùm băng đảng là ai? Đó chính là những anh chị nằm trong cái gọi là Ủy ban Nhân Dân xã An Phú, và Huyện Mỹ Đức. Và đầu trùm băng đảng cũng nằm tại lăng Ba Đình Hà Nội. Muốn chiến thắng Mảng Xà thì phải đập đầu nó?

Cây thánh giá trên đồi cao, là biểu tượng niềm tin của người Thiên Chúa Giáo, tại giáo xứ Đồng Chiêm. Thánh giá chiếm đất ai? Thánh giá được đúc kết bởi hai thanh bằng xi măng, đâu phải là một “công trình xây dựng” gì to lớn?! Thế còn những công trình thật sự to lớn của bọn anh chị tướng cướp, thì cái gọi là nhà nước Xã Hội chủ Nghĩa Việt Nam, có những biện pháp gì? Dĩ nhiên, kẻ cướp sẽ bao che cho kẻ cướp với nhau mà thôi!

Nhìn những đống đất đổ trên những con đường vào xứ Đồng Chiêm, người ta liên tưởng như biến động chiến tranh đang xẩy ra tại xứ Đồng Chiêm. Mà đúng vậy! Công an Việt Cộng ngăn chận mọi người đến giáo xứ Đồng Chiêm, vì họ nói: “ở Đồng Chiêm có bạo loạn.” (Nguồn: CTV Chuacuuthe.com; An Hòa). Nhưng, chúng tôi tin vào lòng quyết thắng của mọi tín hữu. Đường đi khó, không khó vì ngại núi e sông, mà khó vì lòng người mà thôi. Xá gì vài ụ mô đất do tay sai tập đoàn Cộng sản gian xảo ngăn cản!?

Giáo dân xứ Đồng Chiêm, nói riêng, và mọi ngưòi dân trong nước nói chung, không phải là đang bị tập đoàn tay sai Hán Cộng hô to: “đóng đinh nó!”? Phá tan Thánh giá, là thái độ hành xử như là đóng đinh Chúa. Những vết thương giáo dân xứ Đồng Chiêm đang gánh chịu là những dấu đóng đinh của Chúa, như xưa chính thánh Phaolô ca ngợi những vết thương của mình. “Tôi mang nơi thân mình tôi những vết hằn của Đức Kytô” (Galathơ 6, 17). (Vết hằn là dấu chỉ chính thực, ngài là tông đồ đích thực).

Kể từ khi Thiên Chúa chịu đóng đinh, chúng ta có hình ảnh khác về Thiên Chúa. Sức mạnh của Ngài chính là sự bất động. Đức Giêsu chịu để đóng đinh trên cây thập giá và tên trộm cướp gian manh được thả lỏng: Tình yêu thương giết/chết đi; Và thay vào đó là bạo lực gian manh của kẻ cướp. Chúng tha hồ tung hoành, tha hồ tự do phá phách cướp bóc. Nhưng, những thành phần này, ngày hôm nay, còn gọi là phường vô phước. Vì họ đã công khai chính thức chối bỏ ơn tha thứ của Chúa.

Xem ra, có thể cho rằng bạo lực thành công. Nhưng không! Chiến thắng vẫn là tình yêu. Và tình yêu đây là biểu tượng Thánh giá. Nhưng Thánh giá này đã bị bọn cướp phá tan. Thánh giá Chúa đã chiến thắng tự gian tà. Chiến thắng Thánh giá Chúa biểu tượng ơn cứu rỗi. Ngài là vị cứu tinh nhân loại. Nếu bạo quyền Việt Cộng phá tan biểu tượng ơn Cứu độ, thì làm sao họ hằng mong ơn cứu độ đến với họ?! Chính những vị đấu tranh cho Công Lý Hòa Bình, chính họ sẽ là những vị cứu tinh cho tố quốc dân tộc.

Đêm Chúa Hài Nhi giáng thế, (06/01/2010) khai sinh “thế giới bình an cho người Thiện tâm”. (Luca 1, 21). Đúng ngày này, Việt Cộng, những thành phần dã tâm, tuyên chiến chống lại sự bình an, qua việc họ phá tan biểu tượng Bình an, -Thánh giá-, nơi nghĩa trang của hài nhi vô tội. Trận đấu giữa Thiện và Ác bắt đầu khai mào. Thiên Chúa luôn ở cùng người có lòng thiện ngay. Và tu viện Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội, tại 34 Nhà Chung, Hoàn Kiếm, cũng biểu dương, biều tượng và đại diện lòng ngưỡng mộ Thánh Giá của Chúa, cho mọi Kytô hữu, trong nước, cũng như hải ngoại. Chắc chắn, chúng ta, những người thiện tâm thiện chí, sẽ thắng độc tài gian tà, gian ác Cộng Sản Việt Nam!

Thiên Chúa không đùa vui với quyền thế. Bạo quyền Cộng sản vởn vơ quyền lực để đàn áp dân chúng đồng bào. Trong quyền năng cao trọng của Thiên Chúa, con người hưởng quyền tự do tuyệt đối.

Thống trị không phải là mục đích, song sự đau khổ. Tuyên dương Thánh giá không phải là bào chữa, cổ võ cho sự đau khổ. Nhưng, vì sự chịu đựng đau khổ, chúng ta rèn luyện nhân đức. Và đến nay, nhân đức: “chịu mọi sự xỉ nhục bằng lòng” đã chín chắn. Người Kytô hữu không mừng sự hung tàn dã man, song mừng lễ khải hoàn chiến thắng vượt lên trên những gì đem đến cảnh chết chóc: Hận thù, ghen tị, dối trá gian manh, bất công, mạ lỵ, bạo lực, gian ác ...vân vân. Ai ai cũng mong muốn sống trong cảnh hòa thuận, trong sự công chính, hòa bình và trong tình thương yêu tha thức, trong tình bác ái.

Nhưng, chính khi bạo quyền Cộng sản phá tan nát Thánh giá tại giáo xứ Đồng Chiêm, là chính lúc họ đánh thức tỉnh mọi người Thiên Chúa Giáo phải quyết tâm hăng say hơn nữa, bảo vệ ơn cứu độ. Chính lúc khi bạo quyền Cộng sản phá những biểu tượng tôn thờ, thì họ biểu lộ thật đậm rõ nét của kẻ bạo Chúa vô thần khát máu.

Ai ngước nhìn đến Thánh giá, sẽ được cứu rỗi. Trong khi đó, thì bọn cướp gian manh phá hủy ơn cứu độ này.

Muốn đất nước thanh bình, muốn đồng bào chúng ta sống trong tình bác ái thương yêu đùm bọc lẫn nhau, nếu đồng bào dân tộc muốn được an cư lập nghiệp, thì phải nhốt tên trộm cướp khát máu Barabba này lại: Chế độ côn đồ Việt Cộng là hiện thân của tên bạo Chúa Barabba. Muốn vậy, phải thay thế chế độ gian manh Cộng sản đương thời, thiếp lập một chính phủ tự do dân chủ đa nguyên, phi Cộng sản.

Hỡi toàn dân! Hãy lắng nghe, và đồng tâm cận lực xây dựng một thể chế dân chủ nhân bản, phi công sản. Đừng sợ! Hãy tin tưởng và trông cậy vào Thiên Chúa! Và đừng nghỉ, mệt mỏi dấn thân cho Công bằng và sự thật!

Cầu chúc đồng bào, ông bà và anh chị em chiến thắng bạo tàn gian ác! Thiên Chúa luôn hằng ở cùng anh chị em.

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh
(Đức Quốc: thứ năm, ngày14/01/2010)


Wednesday, January 13, 2010

Cao Quang Ánh và ván bài Việt - Mỹ - Nguyễn Duy Thành

Nguyễn Duy Thành

Không nhẹ nhàng êm ái như chuyến hải du của Trung Tá Lê Bá Hùng, mà lần viếng thăm Việt Nam của Dân Biểu Cao Quang Ánh đã tạo ra một phản ứng dữ dội trên diễn đàn truyền thông, bênh vực có, chống đối cũng nhiều, và tỏ thái độ khách quan cũng không thiếu. Vậy, người Việt Nam nói chung, đặc biệt người tỵ nạn Cộng sản nói riêng nên có cách nhìn như thế nào và hành động ra sao? Để gìn giữ được lý tưởng Cộng hòa, đồng thời khuyến khích lớp người trang lứa như Cao Quang Ánh, Lê Bá Hùng và còn nhiều bạn trẻ nữa sẽ tiếp tục thành danh trong xã hội tự do dân chủ, để chính họ nhận được sự bảo trợ ưu ái của quốc gia sở tại, mà đem thể chế Cộng hòa thay cho chế độ Cộng sản đang độc quyền tại quê nhà.

Điều này thật khó với 30 năm về trước. Nhưng hôm nay đây, thế sự quốc gia đã khác tất cả như con tạo xoay vần. Vận hội mới đã đến với Việt Nam mà luồng sinh lực để dân chủ hóa quốc gia, không ai khác chính là tuổi trẻ ở quốc nội Việt Nam, kết hợp cùng lớp trẻ đang tham quân nhiếp chính trong dòng sinh hoạt chính trị tại Hoa Kỳ, và một số quốc gia tự do trên thế giới.

Để am tường và triệt hiểu về vấn đề trên thì nên có cái nhìn khái quát về chặng đường 35 năm qua, nhất là công cuộc đấu tranh. Luận về vấn đề này thì không có khái niệm nào ngắn gọn hơn, sâu sắc hơn và ý nghĩa bằng lời của Người đã có công soạn thảo, và thành lập nên Chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa! Đó là:

"... Các lý thuyết đưa ra làm lý thuyết tranh đấu để chống lại chủ nghĩa Cộng sản đã có nhiều. Và hiện nay vẫn còn có người đang đi tìm một lý thuyết khác nữa với tác dụng nói trên. Giá trị tư tưởng các lý thuyết rất khác nhau nhưng tất cả đều bất lực trong vai trò mong mỏi: Giúp cho chủ trương Quốc gia chiến thắng chủ trương Cộng sản. Chẳng những thế, tất cả các lý thuyết đều mang đến một kết quả bất ngờ và trái ngược. Mỗi lý thuyết có một số người tin tưởng, nhất quyết trung thành với lý thuyết của nhóm mình và thành thật hay miễn cưỡng bảo vệ lý thuyết đó. Thành ra khối người theo quốc gia chia năm xẻ bảy làm cho sung lực chống lại kẻ địch còn yếu hơn là lúc không có lý thuyết.

Thật là không có gì làm cho người Cộng sản sướng bằng tình trạng đó, và họ chỉ ước mong khối Quốc gia tạo ra thêm nhiều lý thuyết tương tự.. .. .."

Đó chính là lời của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã viết trong: Chính Đề Việt Nam, khi ông nhận xét chung về tình hình chính trị của Miền Nam Việt Nam, để rồi đưa ra sách lược chống cộng. Tuy Cố vấn Ngô Đình Nhu đã hóa người thiên cổ, nhưng nếu đem suy nghĩ của ông từ 50 năm trước để nhận xét về hiện trạng của cộng đồng đấu tranh cho tự do dân chủ, dù ở quốc nội hay hải ngoại thì có lẽ không khác xa gì mấy! Tuy nhiên, do một số đặc tính khách quan trong đời sống và địa lý của người tỵ nạn gặp phải, cũng như sự quản thúc đàn áp mà các nhóm đấu tranh tại quốc nội phải chịu, tất cả sự khó khăn này đã dẫn đến tình trạng không thống nhất trong quan niệm hay khuynh hướng, và đưa tới sự không đồng bộ trong đấu tranh.

Nhưng các khiếm khuyết đó không có nghĩa là sự bế tắc vĩnh viễn mà người đấu tranh không thể không khai thông được! Vì vậy, kiếm tìm một sinh lộ tự do cho công cuộc dân chủ hóa quốc gia, thì trước tiên người đấu tranh phải nhìn xa trông rộng, phải thông đạt cả lý lẫn tình, và có khi phải tách rời những lý thuyết hay đường hướng xưa cũ để tìm một phương hướng đấu tranh mới, nhằm phù hợp với bình diện chính trị quốc tế đang tác động vào cuộc diện chính trị Việt Nam.

Trong tinh thần đó, dựa trên nguyên trạng của tình hình chính trị Việt Nam, xin gởi đến công luận phần phân tích và bình luận. Từ đây, bạn đọc sẽ có một nhận định khách quan về vai trò của tuổi trẻ nói chung, hay nói riêng qua các chuyến công cán Việt du của giới chức Hoa Kỳ, trong đó có sự tham dự của các nhân vật như Cao quang Ánh- Lê Bá Hùng, và tin rằng trong tương lai sẽ còn nhiều người nữa! Và liệu rằng họ có vai trò và khả năng gì để đóng góp cho công cuộc dân chủ hóa thể chế chính trị, cũng như kiến quốc Việt Nam???

1. Hiện Tình Giới Cầm Quyền Hà Nội Và Mối Bang Giao Theo Thế Chân Vạc: Việt-Mỹ-Trung

Rất khách quan để nhận định rằng, chưa bao giờ giới đương quyền Hà Nội gặp phải những khó khăn không giải quyết được như hiện nay, mà nguyên nhân sâu xa dẫn dắt đến tình trạng này là mối quan hệ không tương quan trên nhiều mặt, giữa hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam. Hiện nay nhà cầm quyền Hà Nội đã nhận ra sự bị lấn át, hiếp đáp, và tình trạng sợ hãi cúi đầu lệ thuộc chính là ngòi nổ sẽ làm tan rã chế độ, cũng như sự an toàn tính mạng và tài sản của giới lãnh đạo, mà sự bùng nổ đó có thể khởi phát bất cứ lúc nào từ phía bất mãn của người dân. Do đó:

Về Đối Nội: Giới đương quyền cố gắng đưa ra những sắc luật nghiêm ngặt nhằm ngăn cấm sự tiếp cận, hạn chế sự trao đổi những thông tin bất lợi cho chế độ, đồng thời tăng cường những biện pháp răn đe, cô lập các nhà bất đồng chính kiến, cũng như thẳng tay cưỡng đoạt tịch thu những tài sản của các tôn giáo, nơi mà nhà cầm quyền Hà Nội cho là địa điểm kết tụ đông người, khó bề kiểm soát. Tất cả những sắc luật đó có vẻ tạo ra sự yên tâm cho giới lãnh đạo, nhưng thực chất chỉ khiến cho người dân bất bình hơn vì nhận ra sự ngày càng độc đoán của chế độ.

Về Đối Ngoại: Nhà cầm quyền Hà Nội cũng đã nắm vững được nguyên tắc chính trị, bằng cách khai thác mâu thuẫn quốc tế để tìm cơ hội sống còn cho chế độ, mà lẽ ra việc đối ngoại bang giao này nên tiến hành từ trước năm 2000. Vì thế, các nỗ lực vận động hiện nay dường như đã quá trễ trong mục đích kéo dài thể chế!

Có nhiều lập luận cho rằng, giới cầm quyền Hà Nội đang ở vào thời kỳ đầu vị trí Chủ tịch khối Asia, từ cương vị này Hà Nội có thể vận động các quốc gia cùng khu vực nhằm tạo nên thế liên hoàn để chống lại sự bành trướng của Trung Cộng, nhất là khu vực Biển Đảo. Lập luận này nghe qua rất hữu lý nhưng hoàn toàn không có một chỉ dấu hữu lực nào! Bởi rằng, thử xem từng quốc gia trong khối này! Liệu nước nào có quân đội nhiều nhất, mạnh nhất, kinh nghiệm chiến tranh nhiều nhất hơn Việt Nam? Vậy cái lý thông thường mà ai cũng có thể hiểu là: Mạnh mẽ và thiện chiến như Việt Nam mà không dám đánh Trung Cộng, thì tại sao họ phải giúp ..? Hay luận một cách khác cho thực tế hơn là địa hình các quốc gia này chẳng kề sát gì với Trung Cộng, nên họ không dại gì xen vào chuyện nội bộ Việt Nam để ảnh hưởng đến quan hệ song phương giữa quốc gia của họ và Trung Cộng. Cho nên chỉ số khả tin hy vọng về khối Asia hoàn toàn không có! Nếu có, thì cũng không thấy động lực nào mạnh nhất để bắt buộc Trung Cộng ngồi vào bàn đàm phán đa phương, một giải pháp mà nước mạnh này đã nhiều lần gởi tín hiệu từ chối về vấn đề tranh chấp Biển Đông.
Song hành với ngoại giao trong khu vực, giới lãnh đạo Hà Nội cũng đã tất bật đi đông về tây để xã giao và mua vũ khí. Nhưng cho dẫu đem về bao nhiêu máy bay trực thăng của Pháp, hay tàu ngầm tối tân của Nga, nhưng liệu giới cầm quyền Hà Nội có dám ra lệnh cho Quân đội ấn nút hay bóp cò để chống lại Trung Cộng khi có biến động chiến tranh?

Để có cái nhìn tổng thể cho hàng loạt sự kiện mang tính giao tế nói trên. Có thể mạnh dạn đưa ra kết luận rằng. Giới lãnh đạo Hà Nội tuy có nắm rõ hình thái biến chuyển của chính trị thế giới, để vận hành đường lối, chủ trương sao cho thích hợp với cục diện hiện tình! Nhưng họ đã không nắm rõ được cái nguyên tắc gần như bất di trong Ngoại giao. Là khi một quốc gia có sung lực về kinh tế, tài nguyên, và hùng mạnh về quân lực thì công cán ngoại giao bao giờ cũng được đẩy mạnh và kết quả mỹ mãn, và thường thì các quốc gia này đều có một thể chế tự do dân chủ. Ví dụ như Nhật Bản, Nam Hàn hay Đài Loan. Nhưng các nét căn bản nói trên đối với Việt Nam không có một nền tảng nào!. Do đó, hàng loạt chuyến đi ngoại giao vừa rồi của các nguyên thủ Việt Nam là đi theo kiểu Nguyễn Minh Triết đã nói, là đi cho mình cũng ngang hàng với người ta, hay hiểu nôm na theo theo câu nói của anh lái xe đò là đi cho lỗ dầu lỗ xăng. Vì thật sự, nếu ông Triết được Tây Ban Nha mời qua viếng thăm, vậy thì tại sao ông ta bị quốc gia chủ nhà này chất vấn về vấn đề nhân quyền???. Cho nên việc xin đi thăm hay được mời thăm hoàn toàn khác nhau cho bối cảnh túng thì biến của nội bộ đảng CSVN hiện nay!

Như vậy chứng tỏ rằng để bảo vệ quốc gia thì chí người sẽ quan trọng hơn vũ khí! Điểm dựa căn bản này giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng đã đánh mất từ lâu. Trong cuộc chiến ý thức hệ trước đây, họ từng rêu rao về sức mạnh tạo nên chiến thắng là nhờ chiến tranh nhân dân. Nhưng cách đây gần 2 năm, ý thức và tinh thần dân tộc này đã bị chính giới đương quyền đàn áp dập tắt, mà nạn nhân không ai lạ chính là Nhà báo Điếu Cày bị giam tù, cùng một số người treo giăng khẩu hiệu chống Trung Cộng tại Hà Nội bị kết án vừa qua. Gần đây giới cầm quyền cố gắng dùng những phương pháp tuyên vận, mang vẽ chiêu hiền đãi sĩ qua các hình thức như Đại Hội Việt Kiều, hay Hội Thảo Quốc Tế Biển Đông, mà nhiều người cho rằng đó là Hội Nghị Diên Hồng. Nhưng trớ trêu thay! Người ta đã quên đi những bài học lịch sử vỡ lòng. Là ngày xưa các Vua hiền Thần trung hiệu triệu được quần hùng chống lại ngoại xâm, là vì các đấng tiền nhân này yêu nước. Nhưng ngày nay 15 ông vua trong bộ chính trị đang bán nước, thì ai mà tin tưởng đường hướng của họ!

Vậy điểm tựa duy nhất còn lại của đảng cộng sản Việt Nam là ở hơn 3 triệu đảng viên, nhưng thế yếu này rất dễ dàng nhận ra như bài toán 2 với 2 là 4. Bởi, những đảng viên được xem là lão thành kỳ cựu tuyệt đối trung với đảng, hiếu với dân thì bây giờ họ đang xấp xỉ vào độ tuổi 60-70, ai ở thành phố thì Bia với Rượu đã làm họ quên đi cách thức tác xạ của khẩu AK là thế nào? Còn ai ở nông thôn thì không đủ sức để đuổi gà cho vợ! Vậy, chỉ còn số lượng đảng viên kết nạp sau năm 1975, nhưng cái cương khí bám thắt lưng địch mà đánh , liệu có ở những thành phần này không? Khi mà đời sống của họ đang cao sang trong dinh thự, và sự thu nhập lợi tức hằng ngày quá dễ dãi qua hành động tham ô hối mại, thì liệu họ có chịu đặt chữ đảng lên trên tính mạng cao sang thực thụ của họ?

Dựa trên thực tế để phân tích từ nội bộ đến ngoại cảnh của tình hình chính trị Việt Nam. Có thể nhận định: Là phía đảng cộng sản Việt Nam đang lâm vào tình trạng rất khó để kéo dài chế độ, nếu họ ngoan cố không tìm đường hướng để dân chủ hóa. Nhưng bao giờ cũng vậy, dù một nguyên thủ quốc gia nào cạn trí đến đâu! Thì họ vẫn tìm cho mình một lối thoát thân vừa an toàn tính mạng, vừa bảo đảm tài sản có khi là danh dự, trường hợp các lãnh đạo Việt Nam cũng không ngoại trừ! Bởi xu hướng chính trị thế giới, nhất là mối quan hệ theo thế chân Vạc: Việt-Trung-Mỹ đang đặt giới cầm quyền Hà Nội vào sự chọn lựa cho chính bản thân của họ. Là chọn một số phận vĩnh viễn đen tối như các nhà cộng sản độc tài của Đông  trước đây, hay một sự êm dịu im lặng vĩnh cửu như Musharraf của Pakistan??? Và ai là người vận động họ đi vào con đường thoát hiểm này? Hay, giới lãnh đạo Việt Nam chấp nhận đánh ván bài sinh tử mà từ lâu họ biết rằng ván bài này sẽ kết thúc ngai vị của họ?

2. Tìm Đường Thoát Chết Trong: VÁN BÀI ĐỊNH CHẾ!

Vấn đề quan trọng mà giới cầm quyền Việt Nam đang thất thế và lo ngại nhất, chính là chuyện Biển Đảo. Vì lãnh đạo Hà Nội thừa hiểu rằng, đây là điểm sơ hở của giới lãnh đạo rất dễ tạo cơ hội để các thành phần đấu tranh đứng lên, Nếu lực lượng nhỏ thì họ có thể đàn áp được, nhưng khi cuộc đấu tranh giữ nước bùng nổ lớn thì chế độ sẽ sụp đổ, và tính mạng của họ sẽ không an toàn dưới bất cứ một dạng đấu tranh nào, kể cả đảo chánh từ quân đội.

Vì biết thế, nên lãnh đạo Hà Nội đã nhiều lần dùng kế Hoãn Binh bằng cách hứa hẹn với công chúng là lập trình hồ sơ giải quyết theo công ước quốc tế, hay đàm phán song phương với Trung Cộng. .vv..vv..Nhưng tất cả đều là lý thuyết mộng mỵ mơ hồ. Lâu nay đã có nhiều phương pháp đưa ra công luận truyền thông, về vấn đề Biển- Đảo là giải quyết theo công ước Quốc tế. Mọi giải pháp nghe rất hữu lý hợp tình theo nguyên tắc. Nhưng rất tiếc, không ai đặt ra câu hỏi rằng:

- Liên Hiệp quốc là ai? Nếu Liên Hiệp Quốc mạnh hơn Hoa Kỳ và Trung Cộng, và làm việc hữu lực đúng chức năng của tổ chức này, thì tại sao Trung Cộng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974??? Và CSVN xé bỏ Hiệp Định Paris năm 1973 để cưỡng chiếm Miền Nam năm 1975???

Hai sự kiện quan trọng này không liên quan đến vấn đề quốc tế sao?

Sự trả lời cho các câu hỏi nói trên tự nó sẽ đả phá các sách lược hoãn binh của Hà Nội, cũng như mọi lý thuyết khác. Nêu ra vài sự kiện trên nghe rất thất vọng, nhưng cốt là để giới đương quyền Hà Nội chớ nên kỳ vọng hão huyền! Để nhanh chóng đi tìm một giải pháp thiết thực hơn, nhằm bảo vệ lãnh hải cũng như chủ quyền độc lập của quốc gia, mà giải pháp đó không phải là không có nếu họ không tham quyền cố vị độc đảng.

Cũng từ vấn đề Biển-Đảo là thế yếu của CSVN để suy ra, thì có nhiều lập luận trình bày rằng. Hoa Kỳ trở lại Châu Á để cân bằng lực lượng với Trung Cộng tại Biển Đông. Nói như thế thì các vị lãnh đạo Hà Nội vuốt râu ngồi nhậu được rồi, vì đã có Mỹ làm thuê! Nhưng trong chiến lược quân sự và chính trị thì làm gì mà có chuyện ăn mày gặp chiếu rách hay Mèo mù gặp Cá rán! Cho nên, đúng nghĩa để hiểu của hai chữ cân bằng, là mỗi khi chính phủ Hoa Kỳ đã ra lệnh cho Chiến hạm tuần tiểu thường xuyên, mà ít ra ngư dân Việt Nam yên tâm lao động trên ngư trường khi có tàu Trung Cộng. Nhưng không, vài ba chiến hạm cập bến Đà Nẵng- Sài Gòn, đặc biệt là chuyến thăm của Trung Tá Lê Bá Hùng. Tất cả đều đó cũng không ngoài việc người Mỹ vừa chọc thèm, vừa nhắc nhở giới lãnh đạo Việt Nam về một sự cần thiết mà họ cần phải có! Và dĩ nhiên, hơn ai hết giới lãnh đạo Việt Nam tự hiểu rõ là họ bày ra hàng loạt trò ngoại giao mang tính dương đông kích tây, để đánh lạc hướng các nhà quan sát Trung Cộng. Nhưng điểm chính diện ngoại giao tối cần thiết là nhắm vào Hoa Kỳ. Vì giới quốc phòng Việt Nam rất hiểu nước Mỹ tuy kinh tế đang xuống dốc, nhưng Mỹ đang có 2 thứ đồ chơi mà Trung Cộng phải khiếp sợ,! Đó là lực lượng Không quân và Hải Quân mà vài chục năm sau Trung Cộng mới sánh kịp.

Nhưng cộng sản Việt Nam làm cách nào để có 2 thứ đồ chơi này mà họ đều biết rằng, đây là 2 con bài mà Hoa Kỳ cũng muốn họ nên bắt cho bằng được???

Đây là lúc các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ sẵn sàng trải Chiếu hoa mời giới cầm quyền Hà Nội cùng chơi: Ván Bài Định Chế, mà điều kiện cuộc chơi là: Hà Nội bắt bài thì sống, không bắt thì chết!. Vậy để xem vốn liếng của 2 bên như thế nào? Hơn thua, được mất về ai? Hãy cùng nhau phân tích, mà trước hết:

Phía Việt Nam: Dựa trên thực tế như đã phân tích ở trên, về khả năng để bảo vệ đảng cộng sản Việt Nam, tức guồng máy chế độ chứ không nói đến tầm mức bảo vệ quốc gia thì quá yếu, ngoài hình thức đàn áp. Nhưng giới lãnh đạo Hà Nội đầy đủ kinh nghiệm để thông hiểu rằng, đàn áp là mẹ đẻ sinh ra bạo động, và bạo động thì phần thắng bao giờ cũng thuộc về người đấu tranh, nhất là mục đích các cuộc đấu tranh giữ nước, từ đó chế độ sẽ bị cô lập và tan rã. Nói như vậy thì lãnh đạo Việt Nam không có vốn liếng hay tài cán gì, để ngoại giao với một chính phủ luôn luôn đặt quyền lợi của Hoa Kỳ lên trên hết!

Phía Hoa Kỳ: Không cần quan hệ mật thiết với Việt Nam, nhưng họ vẫn đủ mọi sức mạnh để tìm nguồn lợi tại Biển Đông. Nhưng điểm cần quan tâm mà truyền thông đang tranh luận. Là liệu Hoa Kỳ chấp nhận bán những vũ khí sát thương, hay hỗ trợ chiến cụ hạng nặng cho Việt Nam để bảo vệ lãnh hải, theo như yêu cầu cấp thiết của lãnh đạo Hà Nội nhằm giải quyết trong tình trạng cùng đường bí lối? Để thấy điểm này thì thử hỏi xem 3000 nhân mạng của Hoa Kỳ chết trong Tòa Tháp Đôi vì ai? Binladen buổi đầu do ai đào tạo ra, có phải là Mỹ không???

Hay, chính phủ Mỹ đang nhức đầu với Iran, mà nguyên nhân sơ khai bắt đầu từ chương trình nguyên tử hòa bình, có phải do Mỹ giúp đỡ không???

Các bài học xương máu đó các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ đã quên sao, mà nay lại giúp vũ khí cho cộng sản Việt Nam, một đàn em suốt ngày hoan hô Trung Cộng vạn tuế, điều đó khác nào giúp Cọp thêm cánh cho chính đối thủ của Hoa Kỳ.

Như thế, sự chênh lệch vốn liếng của cuộc chơi quá lớn!

Nhưng, thế giới cũng từng công nhận bản chất chính trị của Hoa Kỳ là sòng phẳng, thì trong trường hợp này cũng vậy đối với giới lãnh đạo Hà Nội. Là họ không cần ký thác, bán đất bán biển cho Hoa Kỳ như đã từng làm trước đây với Trung Cộng, mà Hà Nội muốn bắt 2 con bài nói trên, tức là nhận được sự bảo trợ của Hoa Kỳï thì trước tiên phải chấp nhận một điều kiện là: Dân chủ hóa thể chế chính trị để đi đến đa nguyên đa đảng, hay giải thể đảng cộng sản Việt Nam

Nếu lãnh đạo Việt Nam không chấp nhận và tiếp tục thần phục rồi mất nước vào tay Trung Cộng, phong trào đấu tranh giữ nước nổi lên, chế độ sụp đổ thì tính mạng giới cầm quyền sẽ ra sao? Hoặc có khi cơ hội thoát hiểm đang mở ra nhưng không thích uống rượu mời mà phải uống rượu phạt mà lãnh đạo Hà Nội phải đối diện trong hoàn cảnh cô thế này! Và rõ ràng nếu chấp nhận điều kiện đó thì giới lãnh đạo sẽ được an thân, trong sự sắp xếp như đã từng xảy ra tại Pakistan với trường hợp Tổng Thống Pervez Musharraf. Đây là bài học lớn nhất cho lãnh đạo đương quyền Việt Nam, vì nếu không có sự thỏa thuận sắp đặt của Hoa Kỳ thì Musharraf không tan xương nát thịt, bởi hận thù giáo phái và đối thủ chính trị sao?

Và dĩ nhiên một chính phủ dân cử sẽ hình thành, mà các yếu nhân lãnh đạo quốc gia Việt Nam sẽ không thiếu dũng khí như Nguyễn Cao Kỳ, hay tham nhũng độc tài như Nguyễn Tấn Dũng. Mà với kinh nghiệm qua sự tham chiến của Hoa Kỳ trong cuộc chiến ý thức hệ trước đây, thì việc tìm sự đồng thuận trên cùng một hệ ý thức sẽ là điều căn bản, để Hoa Kỳ giúp đỡ xây dựng một Việt Nam theo thể chế tự do dân chủ. Và cũng từ mô hình kiểu mẫu này, Hoa Kỳ dễ dàng thuyết phục 2 quốc gia cứng đầu là Bắc Hàn và Miến Điện. Từ đó tạo ra thế vòng cung ngay trước mặt Trung Cộng trong chiến lược lâu dài của siêu cường này tại Châu Á-Thái Bình Dương.

- Lịch Sử Tái Diễn???

Tất cả phần phân tích và bình luận mà bạn vừa đọc xong, chỉ là suy luận từ thực tế của tình hình chính trị Việt Nam để cấu tạo nên bài viết. Nhưng xét cho cùng, mọi diễn biến của mỗi quốc gia cũng được các nhà hoạch định chính sách, bắt đầu từ hiện thực để cấu trúc nên chiến lược và chủ trương. Tuy nhiên, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập tránh nạn Hán Hóa từ phương Bắc, thì giải pháp nào tiết kiệm được xương máu và nhanh nhất để giải thể chế độ cộng sản Việt Nam. Nếu hữu lực thì là điều nên nghĩ tới!

Kính chúc bạn đọc năm 2010 đầy niềm tin và hy vọng.

Nguyễn Duy Thành