Tuesday, January 13, 2009

Thành hoàng Làng Vực - Việt Thường


Việt Thường

Cả tên làng là Phong vực, nhưng người ta quen gọi là Làng Vực.

Hai Làng Phong vực và Đồng lương họp thành tổng Phong vực - Đến năm 1947 thì đổi tên thành xã Vạn Thắng.

Làng Vực là địa giới của huyện Cẩm Khê, qua phà Tứ Mỹ là đất của huyện Tam Nông và phía bên kia sông Hồng là các làng Quán giang, Lương Lỗ thuộc huyện Thanh Ba.

Cùng một tổng nhưng Làng vực nằm rải rác trên các đồi nhỏ dọc theo sông Hồng cho tới phà Tứ Mỹ. Còn làng Đồng Lương, trừ một xóm nhỏ nằm trên đồi gọi là xóm Đồi, tất cả trải dài theo sông Bứa - một nhánh của sông Hồng. Hàng năm, cánh đồng của làng Đồng Lương được phù sa của sông Hồng phủ cho một lớp đất màu mỡ - Cánh đồng này chung với làng Hùng-Đô. Đứng trên Gò Ngựa - quả đồi trọc của Làng Vực - nhìn xuống, sông Bứa như một giải lụa đào buộc vòng quanh cánh đồng của Đồng-Lương - Hùng-Đô.

Tổng Phong-Vực là đất bán sơn địa nên dân không thật giàu nhưng chẳng bao giờ bị chết đói. Ngay người nghèo nhất tổng, quanh năm đi ở đợ cho các nhà giàu, chí ít cũng có của riêng mình một căn nhà tranh, vách nứa; một vài sào vườn trồng trè xanh, cọ và cây sở. Phía trước nhà có vài cây cau, khóm mía để làm gậy thờ trong ngày Tết, vài bụi chuối, vài gốc đu đủ, một giàn hoa thiên lý hoặc trầu không. Còn sau nhà bao giờ cũng có vài cây xoan lấy gỗ, vài cây mít, khế và thị. Vài bụi tre, bương và hóp quanh nhà là nét chung của cả tổng. Đất vườn không đủ, người ta vào khai phá đất đồi thuộc quyền của các chủ đồn điền mà ruộng và đồi nối tiếp với xóm Đồi của làng Đồng-Lương, chạy dài cho tới chân núi Đọi Đèn, tiếp giáp với huyện Thanh-Sơn của tỉnh Sơn-La. Cho nên người nghèo cũng có, tùy theo nhân khẩu lao động, từ một đến vài mẩu sắn. Tuy là cơ ngơi phụ nhưng lại chiếm tới gần hai phần ba thời gian lao động của cả năm. Phần làm cho mình, phần làm cho chủ đồn điền bù vào công thuê đất làm rẫy hoặc nuôi rẽ trâu bò.

Trong làng, các nhà giàu thì nhà gỗ mái ngói hoặc cọ. Cột nhà bằng gỗ mít hoặc vàng tâm. Nhà nghèo cũng cột gỗ xoan hoặc vàng tâm loại nhỏ, lợp gianh và vách nứa đan nong đôi. Còn đình làng thì khỏi nói, hầu như toàn bộ cột là gỗ lim to tày ôm, mái ngói nung vảy cá, vách gỗ, vì kèo đều trạm trổ cầu kỳ.

Hầu hết ruộng của cả tổng đều chỉ làm một vụ, hoặc chiêm một mùa. Lúa tẻ là loại "bồ cu", hạt gạo xay xong đỏ gần như gạo cẩm, giã cẩn thận thì màu vẫn hồng hồng, thổi trong nồi đồng điếu hoặc nồi đất nung, cơm thơm mà đậm, nước cơm màu hồng sẫm, húp béo ngầy ngậy. Lúa nếp cho hạt tròn và mẩy như ong non. Mở nắp chõ sôi, mùi thơm bay ra tận cổng vườn. Mới ngửi vào bụng đã kêu óc ách. Rượi cất từ thứ nếp này ngon chẳng kém gì rượu đầu của vùng Từ-Sơn, Bắc-Ninh. Ngô đất bãi mỗi cây ra hai bắp, to bằng cẳng tay. Sắn trồng đất đen gò Trầm Bún, củ lớn nhất bằng bắp chân, phải hôi lửa đã nở bung ra, mùi thơm phức. Loại sắn nếp trồng đất đỏ ăn dẻo như sôi nếp. Khoai môn củ to bằng trái bưởi lớn, chấm mật hoặc nấu chè nếp, muối ăn no luôn. Nếu lại chấm mật ong nữa thì thật là ..., nghĩ mà thèm!

Khác với dưới suối, vùng này củi đốt thả cửa. Nhà giàu cho chí nhà nghèo, bếp đỏ lửa quanh năm. Cả cây gỗ thật to cháy âm ỉ trong bếp, nối tiếp nhau năm này qua năm khác. Đặc biệt là bếp nhà ai cũng có một nồi trè tươi ở cạnh bếp, trè xanh nóng uống quanh năm. Hút thuốc lào, hăm với trè tươi nóng và đậm là cái thú của nam giới, từ tuổi lên mười trở đi. Còn nữ thì luôn mồm bỏm bẻm nhai trầu. Tất cả đều "cây nhà lá vườn", hoặc lấy ở rừng. Quần áo hầu hết nhuộm nâu, hoặc lá chàm, hoặc vỏ vây sim. Cụ già nhà giàu mặc áo lụa màu mỡ gà hoặc màu gụ. Trẻ con nhà giàu mặc áo đũi màu vàng. Còn nhà nghèo thì toàn nâu xồng cả già, trẻ, nam, nữ.

Rừng ở đây khá nhiều thú như hươu, nai, lợn lòi, nhím, chồn, cáo và cả hổ, báo nữa. Cho nên trai làng cũng lập phường săn, lâu lâu lại mang lưới đi lùa bắt hươu nai v.v... Khu vực chân núi Đọi Đèn, nhiều thú đến mức cả làng Văn Khúc ở dưới chân núi đều sống bằng nghề săn bắt thú rừng. Trẻ con làng này lên năm, lên sáu đã có nỏ riêng vừa với sức tay và đã là thiện xạ, bắn trăm phát trăm trúng.

Dân tổng Phong Vực có tục hát ví những khi lao động. Giữa rừng trè hoa trăng ngan ngát, thỉnh thoảng lại ngâm nga tiếng hát ghẹo:

"Nhà hai ơi ới!
Anh kia gánh thóc đường vòng
Tuy em không gánh nhưng lòng em thương
Nhà hai ơi ới!"

Ở đây có tục "thả cỏ", nghĩa là có những gia đình một ông, hai bà mà chẳng có con trai nối nghiệp. Thế là, ông chồng lựa một ông nào đó - Trong tổng hoặc ngoài tổng - có nhiều con trai, mời đến cơm rượu rồi nhờ họ "giúp" cho một trong các bà vợ coi là mắn đẻ, một ngày một đêm. Cái ông đi "giúp" này còn được quà biếu gánh theo về tận nhà.

Đất rộng người thưa. Rừng đầy chim, thú. Sông, đầm, phai (1) ê hề là cá. Tháng giáp hạt, các gia đình gọi là nghèo tuy không có gạo mà ăn, nhưng không đến nỗi đói vì có sắn, khoai ngoài rẫy và thịt cá, thú rừng. Cho nên ngay nạn đói năm Ất Dậu, miền Bắc Việt-Nam có gần 2 triệu người chết đói, mà ở tổng Phong Vực chẳng có người nào bị chết đói. Nhiều đoàn người ở nơi khác còn bồng bế nhau chạy đến tổng Phong Vực kiếm ăn.

Người ta bảo tổng Phong Vực được như vậy là nhờ Thành hoàng linh thiêng. Nghe nói cụ Tả Ao xưa có đi qua vùng này và phán rằng đây là "đất nghịch". Chẳng thế lính thực dân Pháp khi xâm lược Việt-Nam đã phải bỏ mạng ở vùng này không ít, trong đó có cả một tên trung úy, sau được chính phủ bảo hộ cho xây mả ở ngay quả đồi gần bến vực. Kẻ cướp các nơi bị lùng bắt thường bỏ trốn về vùng này vì ngay tàn bạo như tuần phủ Cung đình Vận cũng chẳng dám liều mạng đến đây bắt cướp.

Dân tổng Phong Vực ngang ngạnh, cứng đầu như vậy nhưng trong nội tổng họ lại tuân thủ nghiêm túc những lệ và tục của làng. Đối với họ, sự thiêng liêng nhất là Thành hoàng.

Chuyện kể rằng xa xưa, có một tên tướng cướp nổi tiếng tàn bạo, ưa hiếp dâm và giết người như ngóe. Hắn đi đến đâu là máu đổ đến đấy. Hắn cướp của nhà giàu, hắn giết người nghèo; đàn bà con gái vừa mắt là hắn hiếp rồi giết luôn. Chẳng biết vì sao người ta không đặt tên hắn là hổ, báo, lang, sói hay cầy, cáo mà lại gọi là thằng Khỉ. Nghe đến cái tên Khỉ, trẻ con cả bốn huyện vùng này là Cẩm Khê, Thanh Ba, Tam Nông và Thanh Sơn đang khóc cũng phải nín bặt. Thế rồi một lần ăn cướp ở làng Văn Lang, hắn đã hiếp một cô gái mồ côi làm nghề cắt sơn và bị cô này dùng dao cắt sơn chém gần lìa đầu. Hắn bỏ chạy, qua đò Tứ Mỹ, đến giáp cầu Điêu Lương thì ngã xuống cánh đồng gần sông Cấm và chết ở đó, chưa đầy một trống canh mối đã xông lên thành mả. Đêm đêm, cùng với tiếng cú, hồn hắn gào thét đòi cơm, đòi rượu và gái. Chủ các ruộng ở đó sợ lắm đành bỏ đất hoang và gom nhau đem rượu thịt đến lễ. Chẳng bao lâu chỗ cánh đồng đó cây mọc thành rừng, cây leo bao chùm ngoài nhìn chẳng thấy gì, nhưng vào trong thì quang đãng. Người ta gọi là Rừng Cấm. Dân tứ xứ tụ về làm ăn khá giả hẳn lên. Bất kể ai mới đến nhập cư đều đem lễ cầu xin ở Rừng Cấm. Người ta cũng kiêng không gọi tiếng "Khỉ" là tên của thằng ăn cướp, mà đọc chệch đi là Khởi. Người lạ không biết, lỡ nói chữ Khỉ, không bị đánh thì cũng bị chửi và đuổi ra khỏi vùng. Đến khi vùng này được chính thức lập thành làng Phong Vực thì dân đã xin được lập đền thờ tên cướp ở rừng cấm làm Thành Hoàng của làng. Từ đó, hàng năm vào ngày 25 tháng Chạp, người ta làm lễ tế Thành hoàng Khởi. Xuất thân là ăn cướp và hiếp dâm, nên trong lễ tế Thành hoàng, dân làng cũng tổ chức đi "ăn cướp giả" và "hiếp giả". Nghĩa là người ta chỉ định trước vài tráng đinh sẽ đóng vai đi ăn cướp và nhà bị ăn cướp là nhà được chỉ định nuôi lợn tế. Cũng có cuộc "chiến đấu giả" giữa hai bên, nhưng võ khí chỉ là gậy gộc và phải đánh nhau như thật.

Chuyển kể là trong cuộc đánh nhau đó, bên ăn cướp phải cố cướp được con lợn tế để mang ra đền lễ Thành hoàng. Và, nếu như có ai đó ở hai phía, lỡ chẳng may bị đánh chết giấc, chỉ cần khiêng ra đền được Thành hoàng phù hộ là khỏe lại ngay, chẳng cần thuốc men, chữa chạy gì cả. Lợn đặt lên tế độ một lúc thì tất cả mọi nhà, mọi chỗ phải tắt hết đèn, hết lửa. Đến lúc ấy, đàn ông, đàn bà; trai gái tha hồ "hiếp" và "được hiếp". Trong đêm tế cho đến gà gáy sáng ngày hôm sau, không có sự phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Có thể là ông chánh tổng ... hiếp vợ thằng mõ và bà chánh tổng lại ... hiếp thằng mõ cũng được. Chuyện cũng kể rằng, cũng trong ngày tế Thành hoàng, nhiều đôi nam nữ bị ép duyên đã được dịp an ủi tý chút vì tuy yêu nhau không được lấy nhau, nhưng mỗi năm lại có một đêm để ăn nằm với nhau. Chính nhờ cái "tục lệ" đó mà trai gái các nơi khác cũng kéo đến rất đông vào đêm tế Thành hoàng của làng Phong vực.

Năm 1945, được sự móc nối của Việt Minh, đội Phiên (đội lính Khố xanh giải ngũ) lúc đó đang làm quản lý đồn điền cho ông đốc Lương, đem tá điền ra phá nhà cửa ở tỉnh lỵ Phú Thọ, thực hiện khẩu hiệu "tiêu thổ kháng chiến", bỗng trở thành Chủ nhiệm Tổng bộ Việt Minh của tỉnh Phú Thọ, quyền lực át cả chủ tịch tỉnh là cựu tham tá tòa sứ Phú Thọ, Nguyễn hữu Chỉnh. Năm 1947, bà vợ già mù chữ của đội Phiên được lôi ra làm chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh, được phó chủ tịch Hội giúp việc là bà Phan thị An, nguyên hiệu trưởng trường Nữ học Hoài Đức (Hà-Nội). Con cả chánh tổng Phong Vực gia nhập Việt Minh được phong đại đội trưởng trong trung đoàn Lao-Hà-Yên dưới quyền trung đoàn trưởng Lô Giang. Đồn điền của ông đốc Lương "được" đội Phiên hiến cho chính phủ Hồ chí Minh, biến thành tập đoàn sản xuất đầu tiên của nước vào năm 1947 - và trao cho ban chỉ huy du kích huyện Cẩm Khê quản lý.

Năm 1947, Pháp nhảy dù Phú Thọ. Lính Pháp thực dân chiếm đóng trên quả đồi có mả thằng trung úy thực dân Pháp ở làng Vực. Lũ cướp thực dân này đã giết một số dân của tổng, có cả cụ già, đàn bà và trẻ nít. Nhưng chúng cũng bị thương vong một số và cuối cùng phải rút bỏ.

Tổng Phong Vực bị đổi tên thành xã Vạn Thắng. Các chức sắc trong làng gần như chỉ đổi chức danh theo cách xưng hô mới: ông tiên chỉ nay là chủ nhiệm Việt Minh; ông chánh hội là chủ tịch xã; vợ ông chánh tổng là hội trưởng hội mẹ chiến sĩ, và v.v... Làng, xã tiêu điều hẳn đi vì một số thanh niên sức vóc nhất đi bộ đội hoặc đi dân công. Số thanh niên còn lại vào du kích xã bận rộn tập quân sự và "rào làng kháng chiến". Thiếu lao động nên ruộng bỏ hoang hóa, nương rẫy lơ thơ. Tiếp đến là chiến dịch tiêu diệt hết chó và gà trống. Không còn gì buồn bằng một làng mà thiếu tiếng chó sủa và gà gáy.

Cuối năm 1951, sau khi đảng cộng sản hoạt động công khai trở lại dưới cái tên đảng Lao động thì toàn xã hầu như đã có cách sinh hoạt, xưng hô mới. Tất cả đều gọi nhau là "đồng chí": đồng chí cụ, đồng chí ông, đồng chí bà, đồng chí con v.v... Nam nữ tha hồ tụ họp, đi đêm về hôm. Nhiều cô mang bầu mà cũng chẳng dám quyết là chửa với ai: đồng chí cán bộ ở trên về hay đồng chí thanh niên trong xã? Nhưng vì là thực hiện "đời sống mới" do đảng Lao động phát động, nên chẳng ai dám bình phẩm. Thanh niên "vùng lên" trả thù lại các bậc cha, ông bằng cách dựa vào phong trào xóa nạn mù chữ mà bắt các cụ già không biết chữ quốc ngữ, khi đi chợ, qua đò v... phải chui qua dây, chui qua lỗ chó chui. Bảo rằng có làm nhục như vậy các cụ mới chịu học!!! Còn các chức sắc của chính quyền thì đi tiên phong trong trang phục. Nghĩa là dù có mặc quần áo nâu, chân đi đất nhưng nhất định phải có cái xa-cốt (túi da) đeo trên vai; phải mua bằng được chiếc bút máy "oe-rơ-vơ" mang ở vùng tề ra vùng Tây chiếm đóng); đầu đội mũ cát và quấn khăn bông trắng quanh cổ như ông Hồ chí Minh.

Kể từ người ta quên luôn Thành hoàng Khởi. Ngày 25 tháng Chạp cũng như mọi ngày. Chiến tranh bằng súng đạn rồi, cần gì phải "đi ăn cướp giả" và "đánh nhau giả" nữa. Những người thích nhau lợi dụng đi họp, đi canh gác hay dân công tha hồ vào bờ vào bụi mà ôm ấp nhau, nhiều lần, nhiều ngàn trong một năm chứ đâu phải chỉ một đêm. Nữ thanh niên bắt đầu cạo răng đen, tập bắt tay như Tây nhưng theo kiểu của cách mạng là bắt cả hai tay và lắc lâu, lắc mạnh đến muốn rụng tay luôn.

Cảnh quan cho đến con người của tổng Phong Vực đang thay đổi. Các cụ già lo lắng "rồi sẽ đi đến đâu với cái đà Mới này". Trâu bò ít đi, cót thóc vơi đi, người ra đi không về ngày càng nhiều. Tối tối cán bộ thông tin xã ngồi trên chòi cao bắc loa thông báo hết chỉ thị này đến nghị quyết kia của chính phủ.

Nhưng, vẫn còn một vài gia đình hầu như chẳng có gì thay đổi. Đó là "thẽm Thảo" (2), "bố cu Cống" (3), lão ký Khui. Họ là dân ngụ cư. Nghe đâu ở quê cũ là thứ cờ bạc bịp, ăn cắp ăn mảy, đi tù về phải bỏ làng phiêu bạt đến chốn này. Thẽm Thảo người xứ Nghệ, giọng nặng như người làng Văn Lang, huyện Tam Nông ở gần Phong Vực. Mặt trâu đực, mắt rắn ráo, cao lớn, được hút rượu vào là luôn mồm khoe có ngôi mộ tam đại chôn ở chân núi Hồng Lĩnh sắp phát quận công. Bố cu Cống người Hà-đông, người chắc nịch, tóc rễ tre, giọng khào khào như đang ăn vụng bột, có nghề hoạn lợn và cờ bạc, từ xóc đĩa, tổ tôm đến chắn, mà chược, cái gì cũng rành. Nghe đâu cũng từng là phó lý ở làng cũ, chỉ vì cờ gian bạc lận mà đi tù và phiêu bạt tới vùng này. Lão ký Khui quê cũ ở Nam định, nghe nói vì nấu rượu lậu mà vào tù mất hết sản nghiệp. Lão biết một ít chữ Nho và biết một số chuyện Tàu. Những khi đi làm ngoài đồng, nam nữ thanh niên hay cho lão ăn phần thêm để lão kể các chuyện như Chiêu quân cống Hồ, Hán-Sở tranh hùng. Đạo mạo như như vậy mà không biết sao nhân dịp một đêm tế Thành hoàng, vào trước 1945, lão lại tý toáy với cô Mập, vừa ngọng vừa khùng, làm cô này chết mê và theo không lão, đẻ cho lão một thằng con trai đặt tên là Xu. Từ đó lão ký Khui được đổi tên thành ký Xu.

Bước vào chiến dịch Điện-biên-phủ, xã hầu như chỉ còn ông bà già và trẻ con. Ruộng rãy lại càng bỏ hoang hóa hoặc cấy mà chẳng được làm cỏ. Lương thực thiếu thốn, nhà giàu xưa kia nay cũng ăn toàn khoai sắn, chẳng biết hột gạo là cái gì. Tất cả thóc gạo đều "được" ủng hộ, "được" trưng thu cho chiến dịch. Tất nhiên là của nhà có thóc gạo, chứ những gia đình như thẽm Thảo, bố cu Cống hay ký Xu thì lúa gạo đâu ra mà đóng góp. Đã lười lại còn hay rượu chè, ăn nhậu, đổi lấy rượu. Tối tối lẻn đi ăn cắp khoai, sắn của dân làng về ăn. Thỉnh thoảng gánh một gánh củi cà-phê hoặc trè hoặc sơn, chặt ẩu trong các đồn điền của tập đoàn du kích huyện mang lên chợ Cát trù bán để mua rượu. Cái đồn điền của ông đốc Lương từ khi bị viên quản lý, đội Phiên, hiến cho chính phủ làm thành tập đoàn sản xuất của du kích Cẩm Khê ngày càng tàn lụi vì tất cả chỉ chia nhau ăn mà chẳng ai chịu làm. Đàn bò hơn bốn ngàn con chỉ vài năm mà còn chưa được năm chục con gầy nhom. Vì nay ủng hộ huyện, mai ủng hộ tỉnh, rồi lại khu, thế là hết. Hàng ngàn mẫu cà-phê sơn, trè chẳng ai chăm sóc, cỏ tranh, cỏ bẽm, cây sặt mọc chen thành rừng hoang. Du kích cũng có dân trong xã ngoài xã cũng có, đua nhau đốt rừng để chặt những cây cà-phê xưa kia tươi tốt như thế làm củi. Lửa, súng và cạm bẫy đến mức chim và thú cũng bạt đi hết. Đêm đêm hãn hữu lắm mới được nghe một tiếng nai tác.

Cái trò đã đói thì sinh ra lười và xấu tính, ích kỷ, đố kỵ. Khẩu hiệu "đoàn kết" đầy đường, đầy nẽo mà ngày nào cũng lanh lảnh tiếng chửi nhau, réo đến mười đời nhau lên chỉ vì mất một con gà con, một quài chuối hay khóm sắn. Thậm chí còn dọa chém hoặc châm lửa đốt nhà của nhau, tháo nước ruộng, cắt mũi trâu! Nhiều cụ già trong xã, sợ đảng và chính phủ, sợ con cháu là đoàn viên thanh niên cứu quốc, là nhi đồng tháng tám hoặc thiếu niên tiền phong, chỉ dám thì thào với nhau: "Đúng là Thành hoàng trừng phạt rồi!"

Đền thờ Thành hoàng vắng ngoe, dây leo, bìm bìm mọc chắn cả lối đi, cửa thì bị mối xông như trát bùn. Rừng Cấm biến thành chợ, rồi thành chỗ ẩn cho dân công và kho gạo trung chuyển để tiếp tế cho chiến trường Điện-biên. Nam nữ dân công các tỉnh, tận Ninh-Bình, Thanh-hóa cũng có mặt ở đây. Nghe kể chuyện về tục lệ tế Thành hoàng Khởi, họ hùa theo nói chuyện nhảm nhí, tục tĩu và thực hiện luôn cái "lệ tế" đó, chẳng cần chờ đến đêm 25 tháng Chạp. Có cặp còn liều lĩnh lôi nhau vào bệ thờ trong đền mà hành lạc. Họ kháo nhau là Thành hoàng bạt vía rồi. Các cụ già trong xã nghe vậy càng thêm rầu rĩ, chờ đêm vắng bái vọng vào đền, chẳng nhang chẳng nến vì cái đó ở vùng "Tự do"chẳng ai bán mà cũng chẳng ai dám sản xuất. Cái kiểu bao nhang xanh xanh đỏ đỏ không khéo còn bị qui tội là Việt gian vì đó là những màu trong cờ tam tài của Pháp!

Cảnh đời sống mới nửa dơi nửa chuột đó đang cố lấn át những lối sống cổ truyền thì làn sóng cải cách ruộng đất ập tới. Tất cả hoạt động sản xuất hoàn toàn ngưng trệ vì tuổi nào, giới nào cũng được đội cải cách ruộng đất chiếu cố. Các rễ (4) được đội cải cách cho ra họp ở rừng Cấm, vào ngồi trong đền Thành hoàng cho kín đáo, thì thào cùng nhau, lên danh sách những người bị qui là "có nợ máu với nhân dân"; là địa chủ, phú nông và trung nông lớp trên; cường hào, ác bá; là Việt-Nam Quốc Dân Đảng là Đại Việt; là mật tthám cho Tây luồn sâu chèo cao trong bộ máy chính quyền nhân dân.

Có Trời mới lường được là cả bộ ba thẽm Thảo, bố cu Cống và ký Xu đều trở thành rễ của đội cải cách ruộng đất. Những kẻ mà suốt mấy năm chống Pháp chẳng tham gia chút công sức nào toàn trộm cắp, rượu chè; là thứ cặn bã của xã nay bỗng nhảy một bước như kiểu các cụ ta xưa thường nói là: "Chó nhảy bàn độc".

Kết quả của cải cách ruộng đất là: vợ chồng đội Phiên chồng giữ chức chủ nhiệm tổng bộ Việt Minh tỉnh; vợ chức chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh đều bị qui địa chủ có nợ máu. Vợ bị đưa về xét xử và bắn chết ở sân đồn điền đốc Lương. Chồng tự tử trong nhà giam. Chánh tổng Phong Vực có hai con trai đi quân đội; một người là đại đội trưởng thuộc Trung đoàn Lao-Hà-Yên, hy sinh ở mặt trận Thượng Lào; một người nữa ở quân giới cũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ chuyển vũ khí. Vợ chánh tổng Phong Vực là Hội trưởng mẹ chiến sỹ trong xã, đã quyên góp và tổ chức mang bao nhiêu là áo trấn thủ ủng hộ quân đội. Hai vợ chồng đều đứng đàu sổ cả xã về góp lúa gạo cho các chiến dịch biên giới và chiến dịch Điện-biên-phủ. Một con gái đi dân công bị bom na-pan vừa mù cả hai mắt, vừa bỏng nặng; còn con dâu thứ hai bị bom cụt chân. Ấy vậy mà cả hai vợ chồng đều bị tử hình vì cái tội là cường hào, ác bá có nợ máu với nhân dân (?) và là phần tử có cảm tình với Việt-Nam Quốc Dân Đảng vì sau năm 1945 đã treo ảnh nhà ái quốc Nguyễn Thái Học ngang với ảnh Hồ chí Minh!

Toàn bộ chức sắc chính quyền xã bị đào thải, nhà cửa bị tịch thu chia cho ... người nghèo là bần cố công! Hầu hết bị đưa đi "cải tạo lao động" ở trại giam tỉnh Hà-giang hoặc Tuyên-quang.

Chính quyền mới được thành lập, chi bộ mới của đảng lao động cũng ra mắt xã. Thầy bói hô danh nổi tiếng của Hà-Nội xưa là cụ Ất chắc cũng không thể nào đoán được rằng chủ tịch xã là thẽm Thảo kiêm chi ủy viên của đảng Lao động ở xã; bí thư chi bộ kiêm trưởng công an xã, kiêm chính trị viên du kích là ký Khui, tức ký Xu; còn bố cu Cống là chi ủy viên kiêm chủ tịch Mặt Trận Liên Việt của xã và phụ trách công tác tuyên huấn luôn.

Ngôi nhà của chánh tổng Vực biến thành trụ sở Ủy ban kháng chiến hành chính xã. Bộ ba Thảo, Khui, Cống được chia ba ngôi nhà khang trang nhất xã. Hôm "lãnh đạo" mới của đảng Lao động, chính quyền và mặt trận xã ra mắt nhân dân, Thảo, Khui, Cống đều ngượng nghịu trong bộ quần áo đại cán màu vàng nhạt. Thảo và Khui còn đeo thêm cặp kính lão tịch thu của "địa chủ bị nhức mắt vì không đúng độ số nên chốc lại phải bỏ kính ra lau nước mắt. Cống cắt lại tóc kiểu nồi đất úp, vai đeo xa-cốt màu đen, một bên hông có chiếc đèn pin hiệu Hồng Kỳ của Tàu lục địa, lòng thòng dây dù, một bên đeo bao da súng lục. Nhân dân theo đội trống ếch của thiếu nhi, rước ảnh Hồ chí Minh, Mao trạch Đông, Lê-nin và Xta-lin tuần hành quanh xã hô đủ loại khẩu hiệu rồi tập hợp ở rừng Cấm. Lễ đài là tiền sảnh của ngôi đền thờ Thành hoàng, đỏ chóe các khẩu hiệu, biểu ngữ, các cờ đỏ sao vàng của Việt Minh, cờ búa liềm của Nga-xô và cờ Trung cộng. Phía trong của đền là ảnh của Lê-nin, Xta-lin, Mao trạch Đông và Hồ chí Minh.

Hoàn thành việc cải tổ bộ máy đảng, chính quyền, mặt trận và ban chỉ huy du kích và công an, xã đi vào giai đoạn đầu của kế hoạch hợp tác hóa nông nghiệp. Nghĩa là trong cải cách ruộng đất, trâu bò, nhà cửa, ruộng rẫy của những người bị qui chụp là địa chủ, cường hào, phản động v.v... đều bị tịch thu chia cho bần cố nông thì nay tất cả bị tịch thu hồi lại dưới hình thức góp vào hợp tác xã. Để cho dễ hiểu là nạp lại toàn bộ tài sản đó cho đảng Lao động (tức cộng sản) và bần cố nông lại trở lại thân phận làm công và ở đợ cho "đảng" có khác là trong danh xưng rất kêu: "Xã viên hợp tác xã"!!! Nắm bộ máy tổ chức của đảng lao động ở xã, bộ ba Thảo, Khui, Cống trở thành ban quản lý cái "đồn điền Phong Vực" (tức xã Vạn Thắng) này cho ông chủ thực sự của đồn điền đang ngự trong dinh Toàn quyền Đông dương (cũ) ở Hà -Nội; hệt như vợ chồng Đội Phiên đã từng là quản lý đồn điền cho ông đốc Lương, có phòng mạch và bịnh viện tư ở Nam Vang vậy.

Là đại diện cho đảng Lao động quản lý mọi mặt của xã, Thảo, Khui, Cống thường họp nhau vừa là ăn nhậu vừa là bày mưu tính kế làm vừa lòng cấp trên, vừa có lợi cho bản thân và gia đình. Trong một bữa rượu thịt vào lời ra, Thảo nói: "Chỉ có ba chúng mình đây với nhau, thú thật với các đồng chí là Thành hoàng làng ta thiêng thật, lậy Ngài mớ bái" Cống ngẩn người ra suy nghĩ câu nói của Thảo thì Khui đã ề à: "Đồng chí Thảo nói có lý. Chúng mình ba thằng vẫn đều đặn lén cúng Ngài tất cả mọi lần chúng mình ăn trộm trong xã thoát hiểm. Còn bọn hào lý, đàn anh trong làng thì sau 1945 chúng theo đời sống mới bỏ tế lễ Ngài luôn". Cống ngước đôi mắt có cặp chân mày cúp xuống và giọng khào khào: "Vậy là Ngài phù hộ cho chúng mình và trừng phạt bọn chúng?" Thảo và Khui cùng gật đầu.

Đêm hôm đó, đúng là kiểu "ba anh thợ da bằng Gia Cát Lượng". Thảo, Khui và Cóng có sáng kiến là vẫn bí mật thờ Thành hoàng cũ của tổng Phong Vực mà vẫn che được mắt cấp trên và nhân dân trong xã. Chúng lấy lý do Rừng Cấm với ngôi đền thờ Thành hoàng là địa điểm chỉ huy của đội cải cách ruộng đất, làm nên cuộc cách mạng nông thôn long trời lỡ đất. Cũng tại ngôi đền mà chi bộ mới của đảng lao động ra đời. Cho nên, "lãnh đạo" xã quyết định biến Rừng Cấm thành di tích cách mạng và ngôi đền thành Nhà truyền thống của xã. Thế là ngôi đền được sửa sang sạch và đẹp có phần hơn xưa. Chỉ khác ở chỗ là trên bàn thờ chỗ đặt bái vị của Thành hoàng, phía trước bài vị là bức ảnh Hồ chí Minh lồng khung nhũ vàng. Trên cao là ảnh Mác, Ăng-ghen và Lê-nin và hai bên là ảnh Mao trạch Đông và Xta-lin. Xung quanh tường là ảnh Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp và Hoàng quốc Việt. Bàn thờ lúc nào cũng có hoa tươi, nhang nến. Những lần tiếp cấp trên về, hoặc họp hành có ăn nhậu đều có một cỗ thịnh soạn để trên bàn thờ. Tất nhiên, người đứng cúi đầu trước ảnh Hồ chí Minh đâu hiểu rằng bộ ba Thảo, Khui và Cống cũng cúi đầu như họ nhưng bọn chúng thầm khấn cả Thành hoàng lẫn Hồ chí Minh.

Người biết nhiều chuyện cổ của Tàu là Khui, bảo riêng với Thảo và Cống: "Chúng ta có ngày nay là nhờ Thành hoàng phù hộ và Bác Hồ ban ơn. Khi bác Hồ trăm tuổi thì bác sẽ là đồng Thành hoàng làng ta vậy, và cũng là Thành hoàng của cả miền Bắc này nữa. Lạy Ngài và lạy bác mớ bái."

Chẳng biết có phải nhờ Thành hoàng nguyên là tên cướp và hiếp dâm phù hộ không mà cả ba Thảo, Khui và Cống đều lên như diều. Dần dà cả bộ ba đều được đều về trung ương. Thảo chuyển qua quân đội, năm 1976 đã đeo lon thiếu tướng và là ủy viên dự khuyết trung ương đảng cộng sản trong khóa 6. Thằng cu Xu ra đời nhờ lần ký Khui "hiếp" cô Mập trong đêm tế Thành hoàng, lớn lên được qua Mạc-tư-khoa học, đậu phó tiến sỹ triết học Mác-Lê, trở thành giáo sư trường Nguyễn ái Quốc. Bố cu Cống thì vượt ngưỡng, vọt lên tới bí thư ban chấp hành trung ương. Cả ba đều đặn viếng lăng Hồ chí Minh cũng như thăm Nhà truyền thống của xã Vạn Thắng, tức ngôi đền, thờ Thành hoàng của tổng Phong Vực cũ, mà mục đích chính là cầu xin Thành hoàng Khởi (Khỉ) phù hộ cho được phú quý lâu dài.

Dân trong xã quên tế lễ Thành hoàng nên ngày càng cùng cực. Đi lính chết cũng nhiều, buôn lậu, trộm cắp, bất mãn với chế độ bị đi tù cải tạo cũng nhiều. Số khác thì được qua Si-bê-ri lạnh buốt để làm nghĩa vụ hợp tác lao động.

Chuyện Trời, Đất thật là khó lường.

Việt Thường

Chú thích:

(1) Tiếng địa phương có nghĩa là "dòng suối"
(2) Có con gái đầu lòng, đệm chữ "thẽm" trước tên.
(3) Có con trai đều lòng, đệm chữ "bố cu" trước tên.
(4) Người được đội cải cách ruộng hợp tác làm việc đấu tố.

Cờ máu, hình Hồ và VAALA tại Nam California - Hải Triều



Hải Triều

California là quê hương thứ hai của gần cả triệu đồng bào Việt Nam tỵ nạn cộng sản và Nam Cali được coi là trung tâm kinh tế và truyền thông mạnh và đông đảo nhất của cộng đồng Việt Nam trên toàn thế giới. Trong dự tính chiến lược của CSVN, trung hòa hay làm tê liệt sinh hoạt chống cộng của người Việt Nam tại California là mục tiêu hoạt động của Hà Nội. Trước đây, vụ Trần Trường với cờ máu, hình Hồ ở Bolsa và vụ tờ Người Việt với cờ quốc gia trong chậu rửa chân… đã gây ra những cuộc biểu tình, phản đối rầm rộ của đồng bào tỵ nạn.

Âm vang các cuộc biểu tình vẫn còn, tại sao nhóm VAALA Nam Cali lại ngang nhiên, công khai tổ chức những buổi triển lãm có cờ máu, có tượng Hồ, có những biểu tượng lăng nhục và xuyên tạc cờ quốc gia ngay giữa thủ đô tỵ nạn? Không thể coi đây là một biến cố vô tình, mà phải coi là một chương trình hành động có chủ ý chính trị rõ rệt. Cái dù văn học, nghệ thuật quá mỏng manh, trơ trẻn, quá vô ý thức … không đủ che lấp những mưu đồ, thủ đoạn quá lộ liểu của ban tổ chức nhóm VAALA hay của cục phản gián Hà Nội (?)

Theo chúng tôi được biết, nhóm tổ chức triển lãm trong hệ thống VAALA là một tập họp những thành phần có học, có bằng cấp, có chút danh văn học nghệ thuật trong cộng đồng như Hạo Nhiên Y Sa, như Đông Xuyên Masuda, như Phạm Phú Minh, như Thu Hương Nguyên Võ, như Linda Vo, như Brian Đoàn, như Hàm Trần … mà Đông Xuyên là một trong những nhân vật quan trọng trong nhóm.

Là những người sống giữa cộng đồng, sống giữa những sinh hoạt đấu tranh, sống giữa những núi thông tin và biết nhiều hơn đồng bào bình dân về những tai họa, oan khuất của dân tộc dưới chế độ cộng sản, biết Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã và đang cắt đất dâng biển cho Hán cộng phương Bắc … Nghĩa là họ dư chất xám, dư học lực, dư bằng cấp, dư phương tiện để nhận thức lẽ sai, lẽ phải, lẽ thiện, lẽ ác; họ biết Dân Oan, Cha Nguyễn Văn Lý, Lê Thị Nhân Công tù đày, khổ nhục vì sao … Và lẽ ra vì thế họ phải biết mặt thật của CSVN hơn ai hết… Vậy thì tại sao họ chọn thái độ và hành động thiên tả, thiên cộng bằng cách triển lãm tượng Hồ, cờ máu của cộng sản giữa lòng thủ đô tỵ nạn?

Vậy thì phải gọi nhóm VAALA này là gì? Vong thân? Mấy gốc? Phản bội? Tay sai cộng sản? Người ta không chụp mũ, không dán nhãn những điều trên lên đầu nhóm chủ trương triển lãm tượng Hồ, cờ máu … mà chính thái độ, việc làm, hành động của nhóm này tự nó dán nhãn lên mặt mình!

Cơ sở VAALA được gọi tên tiếng Việt là Hội Nghệ Thuật Việt Mỹ, thành lập năm 1991 đặt trụ sở tại 1600 Broadway, Santa Ana. Trong cái đầu óc bình thường không có một miếng bằng cấp nào trong tay, người ta cũng hiểu triển lãm cờ máu, tượng Hồ là xúc phạm đồng bào, là phản bội chính danh tỵ nạn, là cúi mặt, che tai trước nỗi đau của dân tộc, của đồng bào, trước nỗi đau mất đất, mất biển … Những kiếp nạn đau thương đó tại sao những người này không màng tới mà lại phô diễn hình ảnh được coi là biểu tượng của tội ác trên đầu dân tộc Việt nam với tượng Hồ, với cờ máu?

Mầu sơn, mầu sắc trên những tượng, ảnh triển lãm của nhóm VAALA tại Nam Cali dưới cái dù nghệ thuật gian trá, phi chính trị … hoàn toàn chỉ có tác dụng giúp cho tà quyền Hà Nội khai thác về mặt chính trị, nó nói lên trình độ nhận thức chính trị mang tính phản bội chính danh tỵ nạn của nhóm chủ trương.

Không có một mầu sơn nghệ thuật nào của bất cứ ai, của cộng sản hay thân cộng, có thể che khuất tội ác và bàn tay nhuốm máu của Hồ Chí Minh và đảng CSVN trong dòng lịch sử đau thương của dân tộc Việt Nam. Nhân danh tự do và khổ hận của dân tộc và của riêng cá nhân tôi, tôi kết án quý vị bằng hai chữ “phản bội”!!!!!

Ngày xưa, cổ nhân thường kết tội những cô gái bất hạnh nghèo khổ bên lề xã hội là “thương nữ bất tri vong quốc hận” khi “giao tiếp với giặc để kiếm sống”! Thế còn ngày nay, trí thức, khoa bảng làm chi mà cũ ng “bất tri vong vong hận” hở Trời!

Hải Triều
Nhóm Nhà Văn Quân Đội
604 879 1179
(12/01/2009)


77, 06, 08 và vân vân - Duyên Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên Lãng Hà Tiến Nhất

Thiết nghĩ có nhiều bạn đọc khi xem qua tiêu đề trên sẽ không hiểu gì cả. Vâng đúng vậy, cái tiêu đề chỉ là những con số trần truồng vô nghĩa khiến không thể hiểu được người viết muốn nói gì. Nhưng nếu chúng tôi thêm vào trước các con số chữ “Hiến Chương” (Charter) thì đa số quí vị đều hiểu ra ngay, đó là các Hiến Chương 77 của Tiệp Khắc, Hiến Chương 06 của Việt Nam, và Hiến Chương 08 của Trung Quốc. Các con số đều là những niên kỷ Hiến Chương ra đời. Người viết chỉ có ý gợi tính tò mò một chút mua vui cho bạn đọc, và hơn nữa, rút ngắn cái tiêu đề lại một chút cho khỏi lòng thòng vướng bận.

Chữ Hiến-Chương (HC) trong bài viết được hiểu là một văn kiện xuất phát từ quần chúng nhân dân trong một quốc gia, nêu lên những nguyên tắc căn bản cho việc thay đổi một cơ chế hay một chế độ chính trị và điều hành đất nước làm sao cho tốt và hữu hiệu hơn trước. Hiến Chương khác với Hiến Pháp ở chỗ Hiến Pháp là bộ luật căn bản của quốc gia được quốc hội biểu quyết, còn HC lại xuất phát từ quần chúng. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc khác với định nghĩa này nên không nói đến. Theo định nghĩa trên thì từ trước đến nay đã có nhiều bản HC ra đời trên khắp thế giới. HC 88 tại Anh và HC 97 tại Belarus (Bạch Nga) là những bản HC ít gây được sự chú ý. HC 88 của một nhóm công dân Anh cổ võ thay đổi bầu cử và nhất là thay đổi Hiến Pháp Anh là một loại Hiến Pháp bất thành văn. HC 97 tại Cộng Hòa Belarus (Bạch Nga) là một bản tuyên ngôn đưa ra những nguyên tắc chỉ đạo về quyền độc lập, tự do, và dân chủ, tôn trọng nhân quyền và tình liên đới giữa mọi công dân Belarus. Ba bản HC nêu trên tiêu đề bài viết đều là những bản HC quan trọng đã thu hút rất nhiều sự chú ý của thế giới. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là cả ba đều xuất phát từ các nước xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích thay đổi chế độ CS. Điều đó chứng tỏ các nước độc tài CS đều là những chế độ không có tự do, dân chủ và nhân quyền là những khát vọng tha thiết nhất của người dân.

Bài viết này sẽ chỉ đề cập đến phần nội dung của các HC 77 và HC 08, còn chủ yếu là trình bầy về HC 06 tại Việt Nam, nội dung và bối cảnh lúc nó ra đời cùng với nhận định của người viết vì nó liên quan đến vận mệnh của đất nước và trực tiếp đến mỗi người Việt Nam chúng ta.

Các Hiến Chương 77 và 08
1. Hiến Chương 77

Tại Tiệp Khắc (Czechoslavia), sự đấu tranh để giải thể chế độ CS trong nước Tiệp xuất hiện dước nhiều hình thức, nhưng một lực lượng nổi bật nhất là một phong trào quần chúng với cái tên là Hiến Chương 77 (charter 77). Phong trào này mang tên của một văn kiện lưu hành trong dân chúng Tiệp vào đầu năm 1977. Khởi đầu nó xuất hiện như một bản Tuyên Ngôn trên một tờ báo ở Đức được ký tên bởi 243 công dân Tiệp thuộc đủ các thành phần dân chúng. Đến giữa thập niên 80 con số chữ ký lên đến 1200. HC 77 chỉ trích nhà cầm quyền CS Tiệp và đòi hỏi phải thực thi những vấn đề về nhân quyền đã ký kết, bao gồm Hiến Pháp Tiệp, luật chung kết về an ninh và hợp tác Âu Châu, các cam kết vói Liên Hiệp Quốc về các quyền chính trị, dân sự, kinh tế và văn hóa. HC 77 nhấn mạnh đây không phải là một tổ chức. Nó không có nội qui, không có cơ quan, và không tự biến thành một tổ chức chính trị đối lập. Điều qui định sau hết là nó cố gắng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Tiệp Khắc.

Trước những thách thức này, dĩ nhiên chính quyền CS Tiệp phải có phản ứng. Các nhà xuất bản lậu bản HC và nhiều tờ báo ngoại quốc đăng tải bị trừng phạt một cách thô bạo. Báo chí nhà nước mô tả bản tuyên ngôn này như là phản quốc, chống Xã hội Chủ Nghĩa, mị dân, lạm dụng quyền viết lách, và gọi những người ký tên trên bản HC là những kẻ phản bội, tôi tớ và tay sai của đế quốc, bọn chính khách phá sản, những kẻ phiêu lưu quốc tế. Và cũng tất nhiên, những người ký tên đều bị trả thù. Kẻ mất việc và con cái bị đuổi học, người bị thu bằng lái xe, cưỡng bách lưu đầy, mất quyền công dân, bị tù tội, giam cầm và trừng phạt. Ngiều người bị bắt buộc phải cộng tác vói cơ quan an ninh. Tháng 10 – 1979, Sáu nhà lãnh đạo trong nhóm hỗ trợ Hiến Chương trong đó có Váchav Havel bị đưa ra tòa và bị kết án trên 5 năm tù giam về tội lật đổ chính phủ.

Dưói chế độ CS, dân chúng Tiệp ít biết đến HC 77 bì thông tin bị bưng bít. Đa số dân chúng biết được là vì nhà cầm quyền mở các chiến dịch đàn áp. Cuối thập niên 80, khi các chế độ Đông Âu yếu dần, các thành viên của HC 77 thấy nhận thấy cơ hội đã đến và họ mạnh dạn tham gia chống đối tích cực hơn. Người ta gọi là cuộc Cách Mạng Nhung 29-12-1989 (Velvet Revolution) việc chuyển giao quyền hành êm thắm từ CS sang tay người dân Tiệp sau những cuộc biểu tình của sinh viên và dân chúng Tiệp. Không ai chối cãi HC 77 là nguồn cảm hứng và là động lực giải phóng nước Tiệp Khắc khỏi ách thống trị của CS, và đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho nhân dân Tiệp.

2. Hiến Chương 08

Ngày 10/12 là Ngày Quốc tế Nhân quyền. Vào ngày 9/12/08, bản HC 08 được công bố. Nó được ký kết bởi 303 công dân, thuộc thành phần khoa bảng trí thức Trung Quốc cùng với các luật sư, chuyên gia và các nhà hoạt động nhân quyền, những người trong chính quyền lẫn dân sự, không phải chỉ có các nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng và giới trí thức khoa bảng, mà có cả các cán bộ trung cấp và thành phần lãnh đạo ở nông thôn.

Theo HC 08 thì rất nhiều cái gọi là tiến bộ chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ có trên giấy tờ. Điều rõ ràng là ở Trung Quốc, có cả một rừng luật nhưng chỉ xài toàn luật rừng; có một hiến pháp, nhưng chế độ lại vi hiến. Đảng cầm quyền tiếp tục đeo bám vào quyền cai trị độc tài của họ, bác bỏ bất cứ đề nghị cải cách chính trị thật sự nào. Hậu quả trực tiếp là nạn tham nhũng hoành hoành, một xã hội vô luật lệ, không có sự bảo vệ thật sự cho nhân quyền, đạo đức bị đổ vỡ, xã hội bị phân chia thành nhiều thái cực, phát triển kinh tế không đồng đều, các môi trường thiên nhiên và văn hoá bị tàn phá thê thảm, thiếu thốn một hệ thống bảo vệ quyền tự do, quyền tư hữu tài sản và quyền mưu cầu hạnh phúc cho người dân. Có nhiều mâu thuẫn xã hội khác nhau ngày càng chồng chất. Sự bất mãn đang dâng lên, lòng oán giận đang thịnh hành cùng với thái độ thù địch giữa cán bộ nhà nước và người dân nhanh chóng gia tăng. Toàn bộ những hiện tượng này chứng tỏ cho thấy xã hội Trung Quốc đang hướng về một triền dốc đầy thảm khốc không kềm chế nổi. Hệ thống chính trị hiện nay đã quá lỗi thời cho nên các biện pháp cải cách quyết liệt vô cùng cần thiết.

HC 08 đòi hỏi nhà cầm quyền Trung cộng phải thực thi các quyền tự do, nhân quyền, bình đẳng, cộng hoà, dân chủ, và hiến trị cho người dân Trung Quốc. Cổ võ cho những thay đổi cơ chế hiện nay tại Trung Quốc như thiết lập một Hiến Pháp mới, phân chia các quyền lập pháp, tư pháp, và hành pháp, bầu cử trực tiếp, và dân chủ, tòa án độc lập, kiểm soát công khai công chức nhà nước, phải có sự bảo đảm nghiêm chỉnh cho nhân quyền và tôn trọng phẩm giá con người, giáo dục cải tạo lao động phải được huỷ bỏ, bầu cử các chức vụ nhà nước, bình đẳng giữa nông thôn và thành thị, tự to thành lập các hội đoàn, tự do hội họp, tự do bày tỏ tư tưởng, tự do tôn giáo, phải huỷ bỏ các môn học và kiểm tra chính trị được đề ra để nhồi sọ tư tưởng của nhà nước vào đầu các học sinh, thiết lập và bảo vệ quyền tư hữu tài sản, và đề xướng ra một hệ thống kinh tế thị trường tự do và công bằng, thiết lập một hệ thống tài chánh công cộng có trách nhiệm theo quy định dân chủ để bảo đảm cho quyền lợi của người đóng thuế được bảo vệ và hoạt động dưới các thủ tục pháp lý, thiết lập một hệ thống an sinh xã hội công bằng và thích ứng để che chở cho tất cả các công dân, cần bảo vệ môi trường thiên nhiên và khuyến khích phát triển, thiết lập Cộng Hoà Liên Bang TH gồm các cộng đồng dân chủ Trung Quốc. Và cuối cùng HC 08 đòi phải hồi phục lại uy tín cho tất cả mọi người kể cả thân nhân của họ, những người đã phải chịu đựng nhiều vết nhơ trong các chiến dịch đàn áp chính trị trong qúa khứ, hoặc những người bị gán cho là thành phần tội phạm vì tư tưởng, lời nói hoặc tín ngưỡng của họ. Nhà nước nên bồi thường cho những người này. Tất cả các tù nhân chính trị và lương tâm phải được trả tự do. Nên có một Uỷ ban Điều tra Sự thật với nhiệm vụ tìm kiếm sự thật và xác định trách nhiệm về những nỗi bất công và hành động tàn bạo trong qúa khứ, duy trì công lý, và trên những căn bản này, tìm kiếm sự hoà giải xã hội.

Sau khi HC 08 được phổ biến, Đảng cộng sản Trung Quốc trở nên hoảng hốt, bằng chứng là một trong những nhân vật ký tên vào bản HC, ông Liu Xiaobo, bị bắt giữ ngay lập tức. Các nhà hoạt động nhân quyền đã ngụ ý cho biết vào ngày 11/12/2008 rằng ông Liu Xiaobo có thể sẽ bị cầm tù rất lâu. Công an đến bao vây nhà ông Yu Jie, một người khác đã ký vào bản Hiến chương. Theo tin tức thì công an tuyên bố rằng ông Yu Jie sẽ bị truy tố về tội "có âm mưu lật đổ nhà nước". Cùng ngày với ông Liu Xiaobo có Học giả Zhang Zuhua cũng đã bị công an Trung Quốc bắt giữ. Ông Zhang Zuhua đã được thả vào ngày 9 tháng 12, còn ông Liu Xiaobo cho đến nay vẫn còn bị giam giữ.

HC 08 của Trung Hoa mới ra đời, còn quá mới mẻ nên chưa biết ảnh hưởng của nó ra sao. Nhưng xét rằng Trung Quốc là một nước lớn nên tầm ảnh hưởng của của bản HC 08 sẽ có một tác dụng không nhỏ đối với tình hình trong nước Tầu và còn vang vọng ra tới bên ngoài nữa. Một điểm nghi ngờ cần đặt thành vấn đề là HC 08 là một văn kiện được soạn thảo rất công phu và tỉ mỉ, nhưng đã không đưa ra được một phương hướng nào trong việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải đối với VN cũng như vấn đề độc lập của người Tây Tạng. Đối với người Việt chúng ta, HC 08 là của người Tầu. Người Tầu chống CS Tầu thì tốt thôi, nhưng chưa hẳn đã là điều may mắn cho dân tộc VN nếu người Tầu chống cộng vẫn theo đuổi đường lối xâm lược và bành trướng của đảng cộng sản Tầu hiện nay. Do đó người Việt chúng ta cũng cần phải thận trọng và cảnh giác trước bất cứ loại Tầu nào.

Hiến Chương 06 Việt Nam

Xin nói rõ rằng thực tế không có Hiến Chương 06 mà chỉ có Khối 8406 tại VN. Khối 8406 ra đời ngày 8 tháng 4 năm 2006 ở trong nước. Người viết tự đặt cho Khối 8406 cái tên “Hiến Chương 06” vì căn cứ trên hình thức, nội dung cũng như chủ đích của văn kiện thì nó hoàn toàn giống các HC 77 củ người Tiệp và HC 08 của người Trung Hoa. Như đã nói ở trên, trong bài này chúng tôi muốn đi sâu vào HC 06 này hơn vì nó liên quan đến đất nước và vận mệnh của Dân Tộc ta.

1. Bối Cảnh và Sự Ra Đời của Hiến Chương 06 (hayKhối 8406)

Ngày 24-11-2000, Lm Nguyễn Văn Lý chính thức bắt đầu cuộc tranh đấu đòi tự do tôn giáo của ngài tại giáo xứ Nguyệt Biều, Thừa Thiên với tấm biểu ngữ “Tự Do Tôn Giáo hay là Chết”. Nên nhớ rằng vào lúc đó, VGCS đã có chính sách mở cửa với bên ngoài và thả lỏng một chút cho các tôn giáo. Nhân cơ hội mở cửa, một số lớn hàng giáo phẩm CG từ hồng y trở xuống đến các giám mục, linh mục, nữ tu … ào ào đi ngoại quốc vắt sữa bò bổn đạo hải ngoại về để xây nhà thờ, nhà xứ và mua sắm tiện nghi. Hiện tượng này tự nó là sự phủ định sự mất tự do TG tại VN mà Lm Lý nêu lên làm chiêu bài tranh đấu. Hoặc nói khác đi là nó chứng minh VN đang có tự do tôn giáo. Đúng 2 tuần lễ sau, ngày 8-12-2008 Lm Lý gởi thơ kêu gọi Hội Đồng Giám Mục VN yêu cầu lên tiếng đòi TDTG. Lời kêu gọi của ngài bị chìm lỉm vào làn sóng người đi vắt sữa bò không một tiếng dội. Việc các tôn giáo tại VN bị tước đoạt quyền tự do hành đạo là sự thật. Việc cha Lý tranh đấu đòi TDTG là chuyện chính đáng. Nhưng hàng giáo phẩm VN (xin nhấn mạnh một số đông mà không nói toàn thể) đã chọn việc phát triển những vẻ hào nhoáng bên ngoài cho GH của mình hơn là thực thi giáo lý phục vụ Chân Lý và Công Bình xã hội của Phúc Âm. Vì thế công việc của cha Lý bị thất bại và ngài phải vào tù. Nhiều con sâu đã làm rầu nồi canh. GHCGVN đã bị tiếng xấu lây. Đây là sự thể hiện tính ích kỷ, thích phô trương và thiển cận của một số đông hàng giáo sĩ mà trong nhiều giai đoạn lịch sử của GH nó đã bộc phát ra khi gặp được cơ hội.

Tại VN muốn vận động để thay đổi một một chế độ, các đảng phái QG đều đã chứng tỏ họ bất lực và vô dụng. Chỉ có tôn giáo mới làm được chuyện đó. Biến cố 1-11-1963 đã cho Lm Nguyễn Văn Lý kinh nghiệm đó. Nhưng đáng tiếc ngài đã không gặp thời, lại còn bị chính những đồng đạo của mình phản lại. Vì thế ngài thấy cần phải thay đổi phương hướng đấu tranh. Ngày 24-8- 2005 trong khi bị quản thúc tại nhà chung TGP Huế, Lm Lý ra tuyên ngôn “làm sao để thắng sợ hãi” cổ võ quyền tự do ngôn luận. Cuối tháng 10-2005, ngài đi xa hơn nữa qua lời kêu gọi bầu cử quốc hội đa đảng và tẩy chay bầu cử QH độc đảng năm 2007. Và một tuần sau, ngài ra bản tuyên bố đòi hỏi dân chủ cho VN. Và từ đó về sau, Lm Nguyễn Văn Lý công khai kêu gọi, nêu sáng kiến và thúc đẩy các cuộc vận động chính trị làm thay đổi chế độ CS. Nên biết rằng vào thòi gian đó, đảng và nhà nước VGCS cũng đang ra công cố sức vận động để được Hoa Kỳ rút tên VN ra khỏi danh sách CPC và gia nhập WTO. Để đạt các mục tiêu quan trọng đó, VGCS bắt buộc phải làm sao cho thế giới thấy bộ mặt chế độ bớt hắc ám hơn. Chúng thả lỏng hơn một chút cho các sinh hoạt chính trị. Một cơ hội tốt cho các nhà dân chủ cuội cũng như không cuội , các tổ chức đón gió cũng như đấu tranh thật trong cũng như ngoài nước xuất hiện. Hiến Chương 06 tức Khối 8406 do Lm Nguyễn Văn Lý chủ xướng đã ra đời trong cái bối cảnh này. Khối 8406 sau đó đã khai sinh ra các đảng Vì Dân và đảng Thăng Tiến VN. Rồi sau đó nữa, hai đảng Vì Dân và Thăng Tiến VN lại kết hợp lại thành Liên Đảng Lạc Hồng. Mặt khác, cuộc bầu cử Quốc Hội VGCS năm 2007 cũng còn là một động cơ thu hút các nhà hoạt động chính trị và thúc đẩy mạnh mẽ sự xuất hiện của các đảng phái. Người ta không lạ gì khi thấy ngay tại ngoại quốc cũng mọc ra một số đảng phái hoạt động ì xèo vì nghe tin do Mỹ áp lực, VGCS sẽ phải chấp nhận bầu cử đa đảng. Cái mũi đánh hơi (đón gió) của bọn chính khứa chạy rông ở hải ngoại xem ra còn nhậy hơn khứu giác của loại chó săn rất nhiều.

(Còn tiếp kỳ sau: HC 06 nói gì và hiện tình của nó ra sao)

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Sunday, January 11, 2009

Ngăn ngừa và bẻ gãy mặt trận văn hóa ngoại vận của Việt Gian Cộng Sản (vgcs) - Nam Nhân


Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

Nếu lưu ý đến tình hình hiện nay trong nước, chúng ta thấy tập đoàn vgcs thông qua Ủy Ban người Việt ở nước ngoài, đã công khai tuyên bố về cái gọi là chính sách ngoại giao văn hóa. Nội dung chính sách đó là nhằm tác động vào Cộng Đồng (CĐ) người Việt ở hải ngoại, có nghĩa bao gồm cả những thành phần “xuất khẩu lao động” hoặc du sinh, những thành phần di dân, nhưng phải hiểu rằng cái đích chính là thành phần tỵ nạn vgcs, và chắn chắn là lực lượng quân, cán, chính VNCH (đặc biệt QLVNCH) mới là đối tượng chính yếu. Đồng thời chủ trương đó của chúng, như chúng công bố, phải biến CĐ người Việt hải ngoại thành chủ thể thực hiện “đường lối ngoại giao văn hóa” để tác động đến nhân dân và chính phủ những quốc gia có người Việt định cư.

Lộ trình của chúng về chủ trương lưu manh và thâm hiểm nói trên là:

1. Chinh phục người Việt, đặc biệt là người Việt tỵ nạn vgcs, bằng con đường văn hóa truyền thông, nghệ thuật, du lịch v.v… ;

2. Sau khi đã thành công bước một nói trên của lộ trình, chúng sẽ tác động vào để khiến người Việt ở hải ngoại (gồm những người không phải là tỵ nạn vgcs) sẽ tác động trở lại vào những người có nguồn gốc tỵ nạn vgcs, cũng như nhân dân và chính phủ nước sở tại, tất nhiên cũng bằng biện pháp thông tin, văn hóa, nghệ thuật và du lịch.

Phương pháp thực hiện chủ trương của chúng sẽ là, dựa vào tụi nằm vùng, các tổ chức đảng phái ma trơi phở bò, để mơ hồ hóa thành phần người Việt ở hải ngoại không là tỵ nạn vgcs. Chúng sẽ dựa chủ yếu vào số người Việt cư trú tại liên bang Nga, các nước Đông Âu cũ, Tàu cộng, Đại Hàn, Đài Loan và một số nước khác ở Trung Đông, Phi Châu hoặc Châu Mỹ La Tinh làm lực lượng trung hòa quan điểm kiên quyết chống vgcs, và quan điểm vì xây dựng đất nước VN và chống sự xâm lược của tụi Tàu cộng để dễ dàng chấp nhận việc quên quá khứ xoá bỏ hận thù, tiến tới hòa giải, hòa hợp (HGHH) với vgcs, để xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng trước đã.

Việc làm này sẽ mở ra một cuộc tranh luận không ngưng nghỉ, giữa những người coi vgcs là kẻ thù nguy hiểm nhất trong giai đoạn hiện nay, là nguồn gốc mọi thụt lùi về kinh tế, giáo dục, về sự băng hoại của sinh hoạt xã hội v.v… trong nhân dân và đất nước VN. Và vgcs cũng là nguồn gốc làm cho lực lượng quốc phòng của VN bị suy yếu hoặc bị vô hiệu hóa, bởi vì cái lực lượng quân sự của VN hiện nay, chừng nào còn nằm trong tay độc quyền quản lý và xử dụng của tập đoàn vgcs, thì mục tiêu của nó không phải là bảo vệ Tổ Quốc và Nhân Dân VN, mà là bảo vệ mọi đặc quyền, đặc lợi, trong đó cũng là bảo vệ quan điểm và đường lối chính trị của tập đoàn vgcs. Mà chúng ta đã biết rằng không phải chỉ thời kỳ Hồ chí Minh (HCM) còn sống, mà tất cả các thế hệ cầm quyền của vgcs cho đến nay là bè lũ Nông Đức Manh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Phú Trọng, vẫn là bè lũ trực tiếp bán đất, bán biển, bán tài nguyên, bán lao động v.v… cho Tàu cộng và các tập đoàn tài phiệt khác trên toàn thế giới.

Câu tuyên bố vừa qua của Nông Đức Mạnh với tư cách tên lãnh đạo cao cấp số một của tập đoàn vgcs hiện nay rằng: “Quân đội phải trung với đảng, hiếu với dân, khó khăn nào cũng vượt qua, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, nhắc nhở chúng ta phải hiểu rằng, ngụy quân vgcs (có nghĩa lực lượng vũ trang kể cả công an (CA), cảnh sát, cho đến dân quân tự vệ) chỉ có nhiệm vụ duy nhất là bảo vệ tập đoàn vgcs, chống lại các thế lực dù là nhân dân VN trong và ngoài nước, kể cả quốc tế và nhân dân yêu chuộng hòa bình công lý trên toàn thế giới, nếu có một lời nói hay hành động nhỏ nhất chống lại đường lối bán nước giết dân của tập đoàn vgcs.

Nếu hiểu như vậy (với những bằng chứng cụ thể đã diễn ra trong quá trình lịch sử) thì chúng ta mới thấy được:

1. Sự nguy hiểm của luận điệu quên quá khứ, xóa bỏ hận thù tiến tới HGHH với tập đoàn vgcs. Là một hình thức nửa nạc, nửa mỡ của lập luận trên, mà canh tân hoặc cùng chung sức với vgcs giải quyết những khó khăn về kinh tế, văn hóa, giáo dục, củng cố quốc phòng và v.v…

2. Phải nhận thức thật rõ rằng ưu tiên hàng đầu để có thể phác họa những lộ trình đi tới tự do, nhân bản, thịnh vượng, văn minh, củng cố và phát triển truyền thống dân tộc v.v… Chỉ có thể đặt ra để trao đổi thảo luận (chứ chưa nói đến việc thực thi), thì tất yếu phải thanh trừ mọi hệ thống cai trị từ cơ sở tới trung ương do tập đoàn vgcs và tay sai nắm giữ;

3. Chừng nào tập đoàn vgcs còn độc quyền, quản lý và xử dụng lực lượng chuyên chính (tức lực lực vũ trang và bán vũ trang; cảnh sát, CA, quan thuế (hải quan) v.v…) thì cho dù tập đoàn vgcs có đổi tên nước thành VNCH; có đổi quốc kỳ thành cờ Vàng ba sọc đỏ; có xóa bỏ điều 4 hiến pháp 92; có cho phép thành lập một số tổ chức đảng phái nào đó, dù là ở trong nước hay ở nước ngoài trở về thì cũng chỉ là “các chú cuội: Cuội lớn, cuội nhỏ”, (và thằng Bờm dù có cái quạt mo hay có nắm xôi, mà thôi).

Cho nên, chúng ta đặt mục tiêu là dân chủ tự do đa nguyên thật sự, chứ không phải là cái bánh vẽ to đùng, tô các màu sắc như kiểu tranh của Renoir.

Theo thiển nghĩ của Nam Nhân tôi, qua những tài liệu có được trong tay thì thấy rằng:

Bước thứ nhất: vgcs tiếp tục xử dụng tụi nằm vùng, các đảng phái chính trị ma trơi tại hải ngoại, để làm rối loạn thông tin, hầu tạo ra những cuộc tranh luận vô bổ về những vấn đề chưa cần thiết.

Thí dụ: về học thuật, về lịch sử cổ xưa, về các chuyện bát nháo mà không tập trung vào việc tranh đấu trực diện với bọn vgcs trên mặt trận thông tin, văn hóa, nghệ thuật. .. Cho nên, trong lĩnh vực này chúng ta cần thiết tiếp tục vạch mặt tập đoàn Ali Baba Nguyễn Chí Thiện; vạch trần những ngòi bút bất lương, thỏa hiệp với vgcs; vạch mặt những kẻ xử dụng phương tiện truyền thông, thông tin để truyền bá những tiếng nói đấu tranh cuội ở trong nước, mà nhân sự do vgcs tuyển chọn và huấn luyện (chính tự bọn họ tố giác lẫn nhau). Cũng như không nên phổ biến mà không bình luận bài của những tên như Nguyễn Trung, trong ban cố vấn của việt gian Nguyễn Tấn Dũng; bài của Tô Duy Hợp, một trí nô của vgcs bàn về mô hình kinh tế ở VN; những chuyện chửi bới, bươi móc nhau của phe nhóm dân chủ cuội ở trong nước, một bên là cha con Nguyễn Thanh Giang, Trần Khải Thanh Thủy, một bên là Hoàng Tiến, Nguyễn Khắc Toàn, Đỗ Nam Hải. Cũng như không nên đưa ra những nhận xét nửa úp nửa mở về sự thay đổi những vấn đề tép riêu mà lờ đi những vấn đề quan trọng, như kiểu bài viết của Blogger Tô Hải (kẻ nhận vơ bài hát Sơn Nữ Ca, mà thực ra tác giả thực sự là Trần Hoàn cũng có bút danh Tô Hải) trên VNExodus. Nếu chúng ta chỉ giới thiệu bài vở mà không phân tích đúng sai thì chúng ta chỉ là công cụ chuyển tiếp những ý đồ của vgcs vào đầu óc của người Việt ở hải ngoại, và như thế có thể kết luận là chúng ta đã vô tình hoặc cố ý tự nguyện làm công cụ cho bộ máy truyên truyền của vgcs.

Việc quan trọng hiện nay là vạch mặt cái gọi là “đảng Dân chủ 21” do tên Trần Khuê (một tên chưa học hết bậc trung học, tự phong là giáo sư; hắn cũng là tác giả chủ nghĩa HCM, thánh Hồ…) làm tổng thư ký. Những tay sai của Trần Khuê ở hải ngoại là: Bs. Nguyễn Xuân Ngải và Ls. Nguyễn Tường Bá.

Đảng Dân Chủ 21, qua bản đóng góp ý kiến về kinh tế, cũng như tuyên bố đầu năm 2009, hiện rõ nguyên hình là công cụ đắc lực của tập đoàn vgcs nhằm đoàn ngũ hóa những người Việt cả trong và ngoài nước, hoặc còn đôi chút nghi kỵ vgcs (ở trong nước và ngoài nước), hoặc không dám hiện nguyên hình là tay sai của vgcs nằm vùng thì sẽ gia nhập đảng dân chủ 21, một thứ ga quá cảnh (chuyển tiếp) để trở thành tà lọt chính trị, góp phần lừa bịp nhân dân VN trong và ngoài nước, nhất là đối với nhân dân thế giới yêu chuộng tự do và công lý.

Nếu chúng ta không thường xuyên vạch mặt những hoạt động của đảng dân chủ 21, lũ xung kích của vgcs qua chủ trương của nghị quyết 36 nhằm tập hợp lực lượng những người thiếu thông tin về bản chất việt-gian của tập đoàn vgcs VN, dù là người Việt tỵ nạn hay là người dân các nước có người Việt tỵ nạn vgcs định cư sẽ bị nhiễu thông tin, mơ hồ thông tin. Như thế thì chúng ta đã bị cô lập, còn kẻ địch từ tập đoàn vgcs thâu thập được lực lượng cho dù cái lực lượng đó muốn đứng trung gian. Trong cuộc tranh đấu giữa chính nghĩa và phi nghĩa, khi những người ở giữa thì trong thực tế họ đã có chiều hướng ngả về phía phi nghĩa. Cho nên cuộc đấu tranh nhằm lôi kéo thành phần trung gian ngả sang phía chính nghĩa là hết sức quan trọng.

Bước thứ hai: Chúng tôi nghĩ rằng bọn vgcs đang thực hiện một việc nữa, đó là chúng quyết tâm bằng mọi biện pháp tổ chức học tập tấm gương “đạo đức” của tên đại việt gian Hồ chí Minh, trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Như thế cũng có nghĩa là, như đường lối “ngoại giao văn hóa”, chúng sẽ xử dụng người Việt ở hải ngoại thành chủ thể nhằm đánh bóng, tô son trát phấn cho tên đại việt gian HCM.

Hiện nay chúng ta đã biết, phần tài liệu chúng dựa vào cuốn “Đỉnh cao chói lọi” của văn nô vgcs Dương Thu Hương. Để phổ biến cuốn sách này đến bạn đọc, chúng xử dụng các trang Web mà do chúng giàn dựng ra và đã nắm được.

Thí dụ: Web DCV.online (do Vũ Thư Hiên đẻ ra ở Đông Âu, nay đã bén rễ, nẩy mầm tại Hoa kỳ). Đã hết sức nhanh nhẩu giới thiệu cuốn “Đỉnh cao chói lọi”. Đồng thời một số các trang Web khác, điển hình là Ánh Dương của Đỗ thị Thuấn đã phổ biến những bài viết, những sách, những phát biểu của đặc công đỏ Bùi Tín, Vũ Thư Hiên. Và đến nay là những bài viết của Trần Viết Đại Hưng. Bổ xung cho chủ trương chạy tội bán nước giết dân của đại việt-gian HCM, rằng hắn đã bị mất quyền lực vào tay nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, phối hợp nhịp nhàng với nội dung và mục đích của cuốn “Đỉnh cao chói lọi”. Nhóm thi tặc Nguyễn Chí Thiện cũng đồng lõa như vậy, như tên trần Nhu một chí hữu thân cận của Gs. Nguyễn văn Canh, một tên giới thiệu với CĐ người Việt tại hải ngoại về Ali Baba NCT, đã thổi phồng, dựng đứng thế lực và tội ác của Lê Đức Thọ, có đăng trên Web VNExodus.

Còn một điều nữa, chúng ta cũng biết rằng trong nội dung của cái gọi là chính sách ngoại giao văn hóa, giống hệt như trọng tâm của việc thực hiện nghị quyết 36 của vgcs, chúng đang nhắm vào tầng lớp thanh thiếu niên, hậu duệ của những người Việt tỵ nạn vgcs, trong đó có việc nhúng tay vào tổ chức học tiếng Việt, xây dựng các thư viện, cung cấp sách báo từ trong nước với nội dung tuyên truyền có lợi cho tập đoàn vgcs, nhằm nhuộm đỏ đầu óc non trẻ của thế hệ hậu duệ người Việt tỵ nạn vgcs chưa có kinh nghiệm hiểu biết về vgcs, cũng như những tội ác của bọn vgcs đã và đang gây ra cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Chúng cũng khuyến khích việc đầu tư tiền của vào các cơ quan truyền thông. Tên việt-gian Nguyễn Tấn Dũng đã ký công văn ngày 8 Jan 2009, cho phép cái gọi là “đài tiếng nói VN và đài truyền hình VN” được thành lập cơ quan thường trú tại Mỹ.

Và một vấn đề nữa Nam Nhân tôi xin đề nghị là từ nay, chúng ta có thể nên thêm vào nội dung sinh hoạt của các room PalTalk, hệ thống các Diễn Đàn, các trang Web diện tử và truyền thanh, cũng như tha thiết kêu gọi những ngòi bút gốc quân cán chính QLVNCH hãy đóng góp những bài viết về hai đề tài dưới đây cho các thảo luận qua những phương tiện truyền thông, thông tin nói trên:

1. Tội ác của vgcs đối với bản thân, với gia đình mình, với Tổ Quốc VN, hoặc đối với bất kể người dân VN nào khác, do là nạn nhận trực tiếp, hay trực tiếp chứng kiến hay nghe kể lại.

2. Hãy viết về những chiến công của VNCH và chính quyền VNCH trong các lĩnh vực xây dựng kinh tế, tổ chức, xã hội, giáo dục đào tạo, xây dựng quốc phòng …. ,chống xâm lược Nga sô, Tàu cộng và bè lũ tay sai vgcs, bằng những truyện ký, hồi ký, để cho mọi lứa tuổi dễ đọc và nhận thức được tính chất chính nghĩa và tinh thần anh dũng yêu nước của quân dân VNCH. Chúng ta viết theo hình thứ kể chuyện hơn là đi vào cách chuyên môn, giúp cho mọi tầng lớp, mọi trình độ hiểu được dễ dàng.

Cuối cùng một việc cũng rất là quan trọng nhằm chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của bộ máy tuyên truyền của tập đoàn vgcs và các đảng phái có xu hướng Maxit trên toàn thế giới đã đổi trắng thay đen các sự kiện lịch sử đương đại của VN, chúng ta mong rằng những học giả, những sử gia, những dịch giả hãy xử dụng được thành thạo ngoại ngữ của mình vào việc phiên dịch, phỏng dịch, phóng tác bằng ngôn ngữ nước mình cư trú những tài liệu, chuyện ký, hồi ký có tác dụng vạch mặt bản chất việt-gian bán nước, giết dân của tập đoàn CSVN từ HCM cho đến nay, nhằm giải độc những huyền thoại do chúng ngụy tạo ra. Đấy chính là phản ứng hữu hiệu nhất vào chủ trương ngoại giao văn hóa, biện pháp xung kích của nghị quyết 36 của vgcs. Lúc này, chúng ta cũng cần thực hiện cái gọi là ngoại giao văn hóa mà đối tượng là CĐ người Việt ở hải ngoại, gồm cả hậu duệ của chúng ta cũng như các thành phần khác kể cả nhân dân nơi chúng ta cư trú, để từ đó họ lại biến thành chủ thể chính sách ngoại giao văn hóa vào nhân dân VN trong và ngoài nước, vào nhân dân thế giới, vào các chính phủ của họ.

Nếu tất cả chúng ta đồng loạt cùng một hướng thực hiện những điều nêu trên, thì chắc chắn chúng ta sẽ phá vỡ được kế hoạch ngoại giao văn hóa của vgcs. Đó là một kế hoạch xung kích để thực thi nghị quyết 36, nhằm biến cộng đồng người Việt tỵ nạn vgcs thành tài sản của bọn vgcs trong nước.

Anh quốc ngày 10 tháng 1 năm 2009-01-10
Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)


PHONG TRÀO ĐÒI DÂN CHỦ & TRANH ĐẤU BẤT BẠO ĐỘNG - Đinh Lâm Thanh


Đinh Lâm Thanh


Chung quanh những câu hỏi/đáp về cá nhân tác giả cũng như nội dung cuốn truyện trong một chương trình ra mắt sách tại Paris, tôi ghi nhận được hai câu thật nỗi bật và giá trị do những người tham dự đưa ra: Thực chất phong trào dân chủ trong nước như thế nào và chủ trương tranh đấu bất bạo động đối với chế độ cộng sản. Nhưng rất tiếc, hai câu nầy có lẽ đi ra ngoài chương trình, do đó tác giả buổi ra mắt sách đã trả lời ngắn gọn trong vài giây lát, chưa đáp ứng đầy đủ nội dung câu hỏi. Tôi thấy đây là những vấn đề quan trọng và xin phép trở lại với bài viết nầy, hy vọng đóng góp thêm một tiếng nói nho nhỏ trong chương trình tranh đấu hiện nay.

Ý kiến thứ nhất, việc tranh đấu cho dân quyền, tự do dân chủ trong nước ảnh hưởng thế nào đối với người Việt hải ngoại. Câu hỏi đưa ra cũng là những thắc mắc mà nhiều người muốn tìm hiểu, nhưng tất cả đều ngại ngùng khi đề cập đến, vì đây một câu hỏi rất tế nhị có thể làm cho nhiều người hiểu lầm và nhất là những kẻ chuyên nghề đánh phá sẽ có cơ hội chụp mũ.

Ý kiến thứ hai, chủ trương tranh đấu bất bạo động đối với cộng sản. Tôi nghĩ rằng đây là vấn đề quan trọng đối với một số bạn trẻ, là những người nặng lòng với đất nước, nhưng vì một lý do nào đó họ đã dấn thân trong một môi trường mà chiều hướng có lợi cho tập đoàn cộng sản Việt Nam hiện nay.

Vậy xin nêu ra hai vấn đề:

1. Hoàn cảnh, tổ chức và hoạt động của các cơ cấu đòi dân chủ trong nước.

Phải khẳng định rằng người Việt hải ngoại hoan nghênh và khâm phục các tổ chức tranh đấu trong nước, đã bất chấp tình trạng theo dõi, kiểm soát, hăm dọa của công an mà mạnh dạn lên tiếng tranh đấu đòi tự do nhân quyền cho đất nước và dân tộc. Các vị lãnh đạo đã can đảm kêu gọi dân chúng đứng lên chống lại bạo quyền cộng sản ngay trong nước, đó là một hành động tối cần thiết để mở màn cho một cuộc giải thể chế độ cộng sản, mà chúng tôi ở hải ngoại, đã mơ ước từ trên ba chục năm nay. Thật vậy, dù hoàn cảnh khó khăn nhưng các nhà tranh đấu vẫn dấn thân ra mặt, chấp nhận đe dọa của kẽm gai, súng đạn và nhà tù để làm đầu tàu cho các phong trào đồng loạt nỗi dậy chống đối cộng sản. Nhiều vị đã lên tiếng phản kháng ngay trong phiên xử và can đảm chấp nhận tù đày từ năm nầy qua năm khác. Một điều quan trọng hơn nữa là nhiều nhà tranh đấu đã từ chối xuất ngoại khi tập đoàn cộng sản đề nghị cho ra xứ ngoài, mục đích chúng muốn tống khứ những người nầy ra đi hầu tránh hậu họa cũng như đở tốn cơm nuôi tù. Những trường hợp phi thường nầy nhắc nhở cộng đồng hải ngoại phải suy nghĩ, vì có những nhà tranh đấu khác thì xoay xở bằng mọi cách, trả bằng mọi giá để được ra nước ngoài, rồi ồn ào trên các diễn đàn, đại diện cho nhóm nầy đoàn thể kia và hướng dẫn cộng đồng người tỵ nạn chống cộng ! (*) Tôi không phản đối việc làm của các vị nầy nhưng xét cho cùng, những nhà tranh đấu nên ở lại Việt Nam để đóng góp công sức mình với các nhà lãnh đạo đấu tranh khác thì có lẽ tuyệt vời hơn. Khi một người nào được cộng sản cấp chiếu khán ra đi thì phải có lý do qua tính toán và mưu đồ thâm độc của chúng. Có thể những nhà tranh đấu nầy không thấy chiến thuật dùng người của tập đoàn cộng sản, nhưng đối với tôi, khi cộng sản thả con tép thì chúng đã nghĩ đến việc bắt con tôm ! Có người cho tôi chống cộng mù quán, nhìn đâu cũng thấy cộng sản ! Nhưng các bài học lịch sử đã chứng minh, ngay thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa với an ninh quân đội, tình báo, cảnh sát, CIA, hệ thống Phượng Hoàng…mà chúng còn ngồi đầy dẫy ngay trong phủ Tổng Thống huống gì bây giờ ở tại các xứ tự do nầy. Người bắt tay cổ võ chưa hẳn là kẻ cùng chiến tuyến nên phải đắn đo, dò xét, phân tích để có thể may ra khám phá được phần nào chân tướng kẻ đối diện. Đối với người Việt hải ngoại, ngoài thành phần đã bị cộng đồng vạch mặt chỉ tên còn biết bao nhiêu người đang âm thầm hoạt động cho cộng sản trong bóng tối. Vậy cũng không có gì ngạc nhiên khi vài thành phần hôm nay chống cộng ráo riết nhưng một dịp nào đó cái đuôi đỏ sẽ lòi ra khi bị quan thầy bỏ vỏ, xử dụng làm vật tế thần hay tự chúng ăn chia không đều, tranh dành qưyền lợi và vạch áo tố giác lẫn nhau …

Người Việt hải ngoại tin rằng những nhà tranh đấu trong nước dù trong môi trường hỏa mù của cộng sản nhưng quý vị cũng có những nhận xét và đánh giá đúng mức người cộng tác, thì đề nghị nên loại những người tranh đấu cuội ra khỏi tổ chức ngay từ lúc đầu và đừng lầm lẫn rơi vào bẫy khi gởi chúng ra ngoài với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Trở lại vấn đề trong nước, cộng sản là một tập đoàn khát máu và mưu mô xảo quyệt, chúng không từ bỏ bất cứ một thủ đoạn nào để bóp chết các tổ chức chống đối ngay từ trong trứng nước. Ngoài ra chúng còn khai sinh các tổ chức tranh đấu cò mồi và cấy người vào các hoạt động mà chúng nghi ngờ để theo dõi, báo cáo về trung ương tất cả các hoạt động chống đối. Hơn nữa, chúng còn dùng phương tiện vật chất mua chuộc và tạo uy tín cá nhân để một ngày nào đó sẽ nắm quyền lãnh đạo các hoạt động tranh đấu và lật ngược thế cờ. Đây chính là những điểm bất lợi và nguy hiểm cho các tổ chức trong nước. Với một màn lưới công an chìm dày dặt được cài sẵn từ trong dòng họ, gia đình, hàng xóm, sở làm, công xưởng thì những hoạt động dù nhỏ nhặt cũng không lọt qua tai mắt của chúng. Người hải ngoại rất thông cảm hoàn cảnh của các nhà tranh đấu tại nội địa đồng thời chia sẻ nỗi khó khăn và nguy hiểm của những người trong nước, nhưng không vì thế mà bỏ cuộc, nếu vì sự tồn vong của đất nước và ấn no hạnh phúc của toàn dân, tôi tin chắc rằng những nhà tranh đấu xem nhẹ bản thân và bổng lộc tầm thường. Xin các nhà tranh đấu, nhất là những vị tu hành, những nhà trí thức hãy ‘gìn vàng giữ ngọc’ bảo vệ mồ hôi nước mắt mà quý vị đã hiến dâng cho tổ quốc, xin một lòng son sắt vì non sông và toàn dân đang mong đợi ở quý vị.

Hôm nay, nhiều phong trào đoàn thể trong nước đã xuất hiện chống lại ngụy quyền cộng sản, dẫn đầu là thành phần trẻ, sinh viên học sinh với những truyền đơn chuyền tay và rải trong khuôn viên các trường đại học từ Nam ra Bắc. Tiếp đến những cuộc xuống đường chống Tàu cộng xâm chiếm lãnh thổ, được bí mật tổ chức, nhưng tiếc thay công an đã khám phá, chận đứng và giải tán bằng vũ lực. Nhưng tất cả hình ảnh nầy đã chứng minh sự nhận thức và lòng yêu nước của tuổi trẻ trước mưu đồ thanh toán đất nước ta của Tàu cộng. Giới thanh niên lao động thuộc thành phần công nhân viên nhà nước và tư nhân cũng đã đứng lên đòi quyền làm người và quyền sống cũng như đòi đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm và thu hồi các phần đất phần biển đã dâng cho Tàu cộng. Thành phần trẻ sinh viên học sinh, các dân oan và giáo dân cần nơi nương tựa, cần người chỉ huy…quý vị không thể làm ngơ để cho họ xuống đường đơn phương mà hãy kề vai sát cánh để tạo sức mạnh. Thành phần trẻ, sinh viên công nhân viên và nhất là các cụ bà cụ ông thuộc tất cả các đạo giáo là một lực lượng hùng hậu có thể chức, có lòng thành, dám hy sinh gian khổ và ngay chính bản thân của họ là một sức mạnh để đạp đổ chế độ cộng sản. Bây giờ có thể gọi là thời cơ đã đến, thiên thời thuận tiện với áp lực quốc tế cũng như nền kinh tế Việt Nam sụp đổ, địa lợi với việc Tàu cộng ngang nhiên xâm chiếm nước ta và nhân hòa là hàng triệu người như một sẵn sàng đứng dậy giải thể chế độ. Kẻ thù phải đánh đổ là đảng cộng sản, một tập đoàn ngu muội chỉ biết dùng súng đạn để kềm kẹp và cước bóc, chính chúng đã phá nát gia tài đất nước và đưa dân tộc Việt Nam đến chỗ diệt vong qua cái ‘phồn vinh giả tạo’ và ‘văn hóa đỏ’ của chúng.

Có thể kết luận, tranh đấu muốn thành công cần phải có ba điều : Chủ trương và đường lối phải rõ ràng để làm nền tảng cho việc dấn thân đồng thời có thể thu phục được nhân tâm. Chỉ đạo và huấn luyện để khỏi sơ hở lầm đường trước thủ đoạn hỏa mù của địch. Dựa vào sức mạnh của đoàn thể cũng như quần chúng để khỏi cô đơn lạc lõng trước họng súng quân thù. Hội đủ ba yếu tố thì việc tranh đấu khó bị đối phương đè bẹp và sẽ chóng đi đến thành công. Vậy các phong trào tranh đấu tại Việt Nam hiện giờ phải nhận lấy vai trò đầu tàu của mình để dấn thân lãnh đạo các tổ chức, đoàn thể, phe nhóm đang bộc phát từ dân chúng. Các cuộc biểu tình của giới trẻ sinh viên học sinh chống Tàu cộng xâm chiếm lãnh thổ, những cuộc xuống đường của dân oan và giáo dân đang tranh đấu yêu cầu tập đoàn cộng sản trả lại đất đai nhà cửa cũng như nhiều cuộc đình công của công nhân viên đòi quyền sống và quyền lợi lao động đang cần sự có mặt của những nhà lãnh đạo cũng như các đoàn thể. Đây chính là cơ hội đừng để vuột tầm tay, tất cả chúng ta hãy can đảm, thà chấp nhận hy sinh một lần để dành lấy thắng lợi còn hơn kéo dài tranh đấu trong âm thầm và bất bạo động từ năm nầy qua năm khác. Cuộc tranh đấu nào không đau thương, không mất mát và không đổ máu, nhưng một người nằm xuống thì sẽ có hàng trăm, hàng ngàn người đứng dậy. Mồ hôi, nước mắt và xương máu của những người tranh đấu sẽ là động lực đẩy toàn dân đứng dậy xuống đường đồng loạt để dứt điểm chế độ cộng sản.

2. Phải tranh đấu bất bạo động với cộng sản !

Tôi không biết có người nghĩ gì khi đề nghị rằng phải tranh đấu bất bạo động với chế độ cộng sản ! Vậy tôi đặt lại câu hỏi, cuộc tranh đấu đòi tự do dân chủ từ trong nước ra đến hải ngoại đã mang tính cách bạo động dưới hình thức nào và vào thời điểm nào ? Tôi chỉ thấy từ anh chị em công nhân đòi quyền sống, sinh viên học sinh chống Tàu cộng thì biểu tình chui, biểu tình chạy. Dân oan và giáo dân đòi đất thì biểu tình ngồi, cầu nguyện với biểu ngữ từ ngày nầy qua ngày khác, chịu mưa chịu nắng để mặc cho công an đánh đập bắt bớ và lùa vào các trại giam, nhà đá…Chưa một người nào dùng dao gậy, súng đạn, chất nổ để gây náo loạn, kích động quần chúng. Mà ví dụ, nếu muốn bạo động thực sự thì một tất sắt cũng không có trong khi tất cả đoàn biểu tình đều nằm gọn trong vòng vây của hàng trăm hàng ngàn công an chìm nổi với súng đạn và xe tăng ! Như vậy bạo động ở đâu mà chủ trương của một nhóm người Việt hải ngoại lúc nào cũng kêu gọi phải bất bạo động ! Hãy xác định rõ ràng, những cuộc biểu tình trong nước có phải là hình thức tranh đấu ‘bạo động’ không ?

Nếu kêu gọi người Việt hải ngoại tranh đấu bất bạo động thì thật đáng buồn cười. Ngoài nầy người biểu tình tranh đấu đâu có thể mang gậy gộc cuốc xẻng xuống đường thách đố với ai ? Khả năng và thế lực đâu để thuyết phục dân địa phương cũng như mua chuộc thành phần biểu tình chuyên nghiệp xuống đường lật xe đốt nhà và chống lại cảnh sát ? Quá lắm thì chỉ có cầm cờ, trưng biểu ngữ và đi theo lộ trình đã được phép và di chuyển trong vòng trật tự dưới sự bảo vệ của chính quyền. Hoặc có lúc xin phép tập trung trước sứ quán cộng sản để phản đối, vạch trần tội ác của chúng vào các dịp 30.4, ngày Nhân Quyền, Tết Nguyên Đán hay lúc đám đầu sỏ cộng sản ra nước ngoài ăn mày kinh tế. Từ xưa đến nay chưa bao giờ xảy ra trường hợp bạo động ngoại trừ đặc biệt có lần trước sứ quán Việt cộng tại Paris, một Việt kiều lái xe ủi vào sào huyện của bọn chúng cách đây vài năm.

Như vậy từ trong nước ra đế hải ngoại chưa xảy ra chuyện bạo động, nhưng nhóm người nầy cứ mãi kêu gào tranh đấu với cộng sản phải bất bạo động với mục đích gì ? Có thể nhóm người nầy thi hành chỉ thị của quan thầy hay tự nguyện lập công cho một mưu đồ chính trị ?

Đối với cộng sản phải khẳng định rằng, không thể nói chuyện phải trái, nhân đạo hay quyền lợi dân tộc vì chúng là một tập đoàn ù lì cố bám vào cái nhản hiệu cộng sản hay xã hội chủ nghĩa để vinh thân phì gia suốt đời. Chỉ có những tên đầu sỏ nắm quyền sanh sát của đảng thì được quyền luân phiên thay thế nhau ngồi trên đầu trên cổ thiên hạ. Chúng không bao giờ mở rộng cửa, hiệp thương hay chấp nhận đa nguyên đa đang như nhiều người lầm tưởng rồi nhẹ dạ lập bè lập đảng để ủng hộ chương trình hòa giải hòa hợp với chúng. Chúng không bao giờ chia phần cho ai cũng như chấp nhận thể chế đa đảng và tổ chức bầu cử tự do. Một khi bầu cử tự do dưới sự giám sát của quốc tế, ví dụ, dù có đắc cử đi nữa chúng cũng ngồi được vài ba năm tối đa rồi phải bầu lại. Điều nầy nằm ngoài âm mưu của đảng cộng sản là phải nắm quyền lực suốt đời suốt kiếp, từ ông cha xuống đến con cháu. Tại sao chúng phải tạo ra trò bịp hòa giải hòa hợp, vì chúng chỉ chấp nhận một đám cò mồi nào đó làm bù nhìn hưởng lộc để cho chúng tiếp tục độc đảng độc quyền nắm đầu dân Việt. Nhưng đừng mơ ước viễn vông, một khi chúng ngồi vững rồi thì những tên cò mồi không chết bờ chết bụi thì cũng còn độc nhất cái quần lót để tháo chạy. Gương trước mắt từ tên Trần Trưồng trước đây vài năm đến sư đỏ Làng Mai mới xảy ra chừng hơn tuần nay !

Như vậy nhóm kêu gọi "tranh đấu bất bạo động" với cộng sản thì có nghĩa là "tranh đấu van xin". Một khi gọi là van xin thì nhóm nầy đã tôn thờ cộng sản lên làm thầy, làm lãnh tụ, làm vua rồi quỳ ọp dưới bệ rồng để ăn mày ân huệ. Xin nhớ rằng tranh đấu giữa chúng ta và cộng sản không thể đồng hóa với những việc tranh đấu giữa chủ hãng với nhân viên, giữa tớ với chủ nhà để xin lên lương, xin cơm ăn, xin nhà ở … mà tranh đấu để giải thể chế độ của chúng. Như vậy việc tranh đấu của toàn dân tộc Việt Nam với cộng sản phải là một mất một còn chứ không thể lập lờ kêu gọi van xin ân huệ đồng thời vẫn một lòng tôn sùng quan thầy cộng sản. Một bài học trước mắt, Tây Tạng đã đổi chiến lược không còn đi theo con đường bất bạo động của Đức Đạt Lai Lạt Ma mà đã chuyển hướng sang tranh đấu bạo động với Tàu đỏ.

Tóm lại, đối với cộng sản Việt Nam không thể nói chuyện tử tế, không thể thương lượng, không thể van xin mà phải nhất quyết chống đối đến cùng bằng mọi phương tiện. Nói chuyện phải quấy với cộng sản thì thà nói chuyện với đầu gối còn thích thú hơn, và nếu van xin với cộng sản thì chẳng khác gì sấp mình dưới bệ rồng loài quỷ để xin được kết nạp làm tôi tớ hầu kiếm miếng cơm manh áo !

Vậy các bạn trẻ hải ngoại, với tấm lòng nhiệt huyết và trái tim tình người, muốn đem khả năng ra phụng sự đất nước và dân tộc nhưng đã đi nhầm con đường, các bạn trẻ hãy nghĩ lại, chưa muộn đâu !

Đinh Lâm Thanh
Paris, 29.12.2008


Friday, January 9, 2009

VẪN PHẢI NÓI VỀ NG. CHÍ THIỆN, NG.NGỌC BÍCH VÀ TÔN THẤT SƠN - Đặng Văn Nhâm

Đặng Văn Nhâm
    ”VÔ DANH” KHÔNG PHẢI LÀ ” VÔ CHỦ”, AI MUỐN CƯỚP ĐOẠT CŨNG ĐƯỢC!
Nếu quí vị thường theo dõi các diễn đàn trong thời gian gần đây chắc đều biết vụ tên cán bộ CS ma cô nhà thổ Ng. Chí Thiện đã cướp đoạt trắng trợn tập thơ Vô Đề của tác giả Vô danh, sang Mỹ với âm mưu thực thi nghị quyết 36 , đã bị một số đông văn nhân, thi sĩ , ký giả hải ngoại nổi lên phân tách và là lật tẩy hắn.

Nếu quả thật Ng. Chí Thiện là người ngay, thì ”cây ngay không sợ chết đứng bao giờ” cứ nghiêm trang chững chạc biện minh cho mình. Ngược lại, khi vừa bị chạm nọc, tên CS gian tế nằm vùng này liền bị mất tự chủ, thanh minh lung tung, dẫn chứng bừa bãi, lý luận mâu thuẫn , tiền hậu bất nhất với vẻ lúng túng , vụng về như ”chó ăn vụng bột” và trổ giọng CS hang Pắc Pó, nói năng thô lỗ của loài răng đen mã tấu, cục súc cả với phụ nữ. Thế là hắn đã tự đánh rơi mặt nạ. Tuy vậy, hắn vẫn còn dùng thêm một lũ đười ươi gồm cả đực lẫn cái như: Tôn Thất Sơn, Ng. Phước Đáng, Dân miền Tây, Trần Thế Danh, Chau Phan Khoi, cái Vàng ĐThị Thuấn, con Lê Minh Ngọc ... chuyên bịa chuyện hoang đường hạ cấp, chửi bậy cắn càn, để mong che chắn cho chủ.

Theo nhận xét của nhiều vị thức giả trên các diễn đàn, đáng lẽ bọn đười ươi kể trên phải biết đây chỉ là một cuộc tranh luận có tính văn học trong phạm vi ”nghi vấn tác phẩm và tác giả”. Vậy dư luận chia ra 2 khuynh hướng đối chọi để tìm ra ánh sáng của sự thật cũng là điều tự nhiên và dễ hiểu. Lúc bấy giờ dư luận quần chúng vô can, đứng ngoài cuộc để nghiêm xét rồi (nếu cần sẽ) nói lên tiếng nói của phán quan vô tư là tốt nhất.

Trong tinh thần tranh luận công khai rất hiếm hoi ấy của giới tao nhân mặc khách đáng lẽ bọn đười ươi ngu dốt có tên kể trên không nên tham dự, vì thiếu trình độ văn hóa và không có tư cách, nhất là không nắm vững vấn đề then chốt của cuộc đối thoại. Chúng sẽ làm ô uế cuộc tranh luận và sẽ phá thối để hướng cuộc tranh luận này đi lạc vào chiều hướng khác. Huống chi cuộc tranh luận này còn có tên Ng. Chí Thiện đã đứng ra tự nhận là ”tác giả” (!) Nhưng , kể từ khi bị lột mặt nạ ”ăn cắp thi phẩm Vô Đề”, tên CS gian tế này bị đuối lý hoàn toàn, hết đường chối cãi, đành khoanh tròn, nín khe, nằm trong ổ rơm, để nghe nỗi nhục âm thầm gặm nhấm trong tim!

Chẳng những thế, hắn còn làm thinh ra vẻ cao ngạo ta đây là bậc ”cao sĩ thi hào” (sic!) không thèm tranh luận với phường ”hạ sĩ văn đạo” ở hải ngoại làm gì cho mất thời giờ (sic!). Hắn cứ nằm im bịt mõm, bịt tai, che mắt, để yên cho bọn Khuyển, Mã đối đáp bằng những trò bá đạo, hạ cấp nhất của giống cán bộ trong hang Pắc Pó !

Thế là cuối cùng cuộc tranh luận này đã đánh dấu một thành công lớn lao, vẻ vang, của khối cầm bút quốc gia chân chính hải ngoại , một lúc cả trên 2 phương diện: chính trị và văn học. Nhân đây, thiết tưởng tôi còn phải dạy thêm cho tên CS nằm vùng Ng. Chí Thiện và dịch giả giáo sư ”Chicken soup” Nguyễn Ngọc Bích, thủ phạm và đồng lõa đạo thi của tác giả Vô Danh (xin bạn đọc đặc biệt chú ý: 2 chữ Vô Danh này tôi viết hoa hẳn hoi. Vì chính nó , tự bản thể vốn là một danh từ riêng, một tên riêng, hay bút hiệu của tác giả mà vì ý thích hay vì hoàn cảnh đã phải chọn (như: Thiền Đăng, Từ quyên, Hành Thiện v.v...). Như vậy không một ai có quyền xóa nó đi, rồi thay tên mình vào đấy, để tự nhận làm tác giả và soán đoạt vô quyền luôn tác phẩm của người vắng mặt!

Hành động này chẳng những có tội với lương tâm mà còn có tội cả trước pháp luật các nước văn minh Âu- Mỹ. Nơi đây, ngày 5.1.09, tôi phát biểu công khai trên mặt các diễn đàn quan điểm của tôi về vấn đề soán đoạt tên ”VÔ DANH” của thi phẩm VÔ ĐỀ nghiêm chỉnh như thế đấy. Tôi kêu gọi lương tâm và sự hiểu biết tối thiểu nhất của 2 người là: Ng. Ngọc Bích và Ng. Chí Thiện.

Đối với Ng. Chí Thiện, vì bản thân hắn đã là một tên cán bộ CS, thì đã đành rồi. Nhưng còn Ng. Ngọc Bích? Thực ra, anh chàng này mới chạy theo CS trong thời gian sau này với hy vọng sẽ được hưởng chút cơm thừa canh cặn do bọn CS thí cho!

Vì tình bằng hữu chi giao từ xưa đến nay cùng với sự quen biết lâu dài từ ở VN với tất cả anh em nhà họ Nguyễn Ngọc gồm: Chác, Phách, Linh, Bích, Nhạ, Hồ ... tôi khuyên N. N. Bích nên sớm tỉnh ngộ, và hiểu cho rõ rằng 2 chữ ”VÔ DANH”, gốc Hán-Việt không có nghĩa là: ”của rơi ngoài phố, ai nhặt được nấy xài”!

Theo Tầm Nguyên tự điển và Khang Hi tự điển thì chữ VÔ có nghĩa: không, DANH có nghĩa: tên. Nghĩa chung VÔ DANH là: không có tiếng tăm. Không ai biết đến tên tuổi. Thí dụ: chiến sĩ vô danh, nhà văn vô danh. Như vậy, NN Bích phải hiểu là người ”chiến sĩ vô danh” và ”nhà văn vô danh” vốn là 2 người quả nhiên có thật, tức là những người đã hiện hữu, nhưng không nổi danh và trong dân chúng không mấy ai biết đến tên tuổi của họ mà thôi. Chớ không có nghĩa như anh và tên đạo thi cán ngáo Ng.Chí Thiện đã tri tình , cố ý hiểu lầm, cho rằng thi phẩm Vô Đề ấy là một vật VÔ CHỦ hay còn gọi là ”của chùa” (sic!), rồi hè nhau nhào vô cướp đoạt tác quyền và tự nhận là tác giả. Thiết tưởng NN Bích và Ng. Chí Thiện nên chịu khó nghiền ngẫm thêm cho vỡ nghĩa khác nhau giữa 2 chữ: VÔ DANH và VÔ CHỦ, để khỏi trở nên những tên ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp tài sản trí tuệ của người khác.

Hành động gian ác bất lương theo đuôi Ng. Chí Thiện như thế lương tâm con người của NN Bích để đâu?

Năm nay, tuổi đời đã chồng chất cao nghệu với mái tóc bạc phơ, cộng thêm thành tích ”Việt Gian”( mượn từ này của CS) đã có từ thuở cha ông, thì ngày nay dù NN Bích có cố gắng lập công muộn màng với Bác và Đảng thì cũng chỉ uổng công toi mà thôi Bích ạ! Miếng đỉnh chung xương xẩu không bù lại được sự ô danh xú tiết, và sự nhục nhã mỗi khi mở mắt ra đường gặp phải đồng bào. NN Bích hãy xem gương Mặt Trận DTGPMN và bọn Giặc Thầy Chùa trong khối giáo hội PGVNTN thì đủ rõ. Bọn trọc gian ác, ” đồng sàng dị mộng”, hoạt động hai mang từ năm 1945 đến năm 1975 đã lập không biết bao nhiêu chiến công lớn lao cho CS và toa rập giết không biết bao nhiêu đồng bào vô tội 2 miền Trung và Nam mà cuối cùng vẫn ra rìa như thường! Tấm gương to tày liếp trước mắt như thế sao Bích không chịu soi mà lại theo đuôi tên cán Ngáo Ng. Chí Thiện với tí hy vọng mong manh mai sau sẽ được hít chút bã mía mà bọn đồ tể CSVG bán nước hại dân ban cho. Lúc xưa giao du với NN Bích tôi cứ ngỡ Bích là kẻ sĩ có chút khí tiết, liêm sỉ. Ai ngờ càng ngày tôi thấy Bích càng lún chân sâu xuống vũng bùn nhơ, lăng xăng chạy quanh đó đây, hết điếu đóm cho bọn Việt Tân lại chạy bàn hầu bọn anh em nhà tụi Ng. Đan Quế- Nguyễn Quốc Quân, lũ chính trị đơm đó, cò mồi, rồi lại đến bọn Bùi Tín, Vũ Thư Hiên và Hoàng Minh Chính, Ng. Chí Thiện ... Trong thời gian cầm cờ chạy hiệu và rũ đuôi lân như vậy, ai cũng thấy bên cạnh NN Bích lúc nào vẫn kè kè một người đàn bà đã già mà tham vọng chính trị còn ngút trời xanh. Nàng cứ bỏ chồng ở nhà nằm chèo queo một mình ngâm thơ ”ngồi buồn gãi háng ...” của cụ Trần Văn Hương, để trừ bữa. Còn nàng thì phấn son lòe loẹt, cặp kè bên chàng, mong chàng kiếm được chút danh vọng để nàng hưởng chút thơm lây!

Chứng kiến cảnh lạc đường vừa bi thảm lại khôi hài của NN Bích, bỗng nhiên tôi cảm thấy thương hại cho người bạn NN Bích, nên muốn bắt chước mấy anh trọc lưu manh , tay bắt quyết, miệng đọc thần chú: ”án ma ni bát rị hồng, án ma ni bát rị hồng, ới vong linh tên Ng. Ngọc Bích hồn thiêng của nhà ngươi ở đâu thì về nhập cốt, xa lánh tên cán ngáo N. Chí Thiện, để khỏi lây nhục đến giòng dõi tổ tiên ... bớ vong linh Ng. Ngọc Bích hãy nghe ta mà mau mau lai tỉnh...Cộng sản nó chỉ dụ khị nhà người thôi chớ không cho liếm láp gì đâu!... Rị sất sá.Rị sất sá... Nam mô Bồ Tát ma la hát...Ta bà ha...ha.. Con gái vô , bà già ra... ha ha...!Chết rồi cũng ra ma...ha...ha...! ”

TÊN CỐT ĐỘT TÔN THẤT SƠN KÉO THÊM ĐỒNG MINH NHẬP CUỘC!

Bây giờ trở lại vấn đề đấu tranh dành lại tác quyền thi phẩm Vô Đề cho tác giả chân chính của nó, đồng thời vạch mặt chỉ tên bọn gian phi đạo tặc văn chương , chữ nghĩa, anh em chúng ta, những người quốc gia cầm bút lương thiện, hãy vững tin nơi công lý và pháp luật HK và công tâm của nhân loại. Là những người cầm bút đóng vai ”sen đầm” công tâm, công đạo và công lý, chẳng lẽ nào chúng ta lại phải rụt rè trước hành vi bất lương của phường đạo tặc tép riu này hay sao?!

Cho đến ngày nay, sự thật đã cho chúng ta thấy tên CS nằm vùng ma cô nhà thổ Ng. Chí Thiện đã ”á khẩu” và chui vào hang ổ nuốt nhục nằm yên rồi. Bọn Khuyển Ưng, Khuyển Phệ cũng đã khoanh tròn trong mấy ổ rơm rồi. Duy chỉ còn bọn đười ươi, ngu đần, vô liêm sỉ, tay sai của Ng. Chí Thiện là tên cốt đột Tôn Thất Sơn hãy còn tiếp tục ọ ẹ chọc ghẹo thiên hạ để nghe thiên hạ tứ phương tám hướng túa lên lôi ông bà cha mẹ và cả giòng họ nội ngoại nhà nó ra mà chửi rủa thậm tệ.

Trong trường hợp này, với tư cách cầm đầu một lũ đươi ươi, tự vỗ ngực xưng danh là ”NGƯỜI TỬ TẾ” (SIC!) ủng hộ viên của Ng. Chí Thiện, đáng lẽ Tôn Thất Sơn nên nghiên cứu, sưu tầm những dữ kiện chính xác nhất, mới mẻ nhất , và tìm cách lý luận thật đanh thép để đánh bại mọi luận cứ của đối phương, hầu dành lại phần thắng lợi tinh thần cho đầu đảng nằm vùng của mình đang bị khốn đốn nhục nhã. Như thế mới đáng hãnh diện làm tên trùm gia nô bưng bô cho chủ. Ai dè, nó lại dại dột đi mó dái ngựa hoang, hết người nọ đến người kia, để đến nỗi bị ngựa đá mặt mày xưng bầm khắp nơi vẫn chưa yên !

1.- Thoạt tiên, khi TTS giở trò thông thái dổm, bày đặt chia 2 phe tranh luận thành 2 hạng người: TỬ TẾ và KHÔNG TỬ TẾ. Vì thấy chó ghẻ TTS vừa ngu muội lại còn hợm hĩnh, láo lếu, dám chơi trèo cả lên đầu, lên cổ những bậc thầy của cả giòng dõi nhà hắn mà phân loại người ta theo hiện tượng (phénomène). Đây là một điều mà ngay những bậc thánh tổ ngàn đời nhà TTS mà còn không ai dám làm. Thế mà hắn cứ ngỡ là hay ho lắm. Nên hắn còn lấy làm HÃNH DIỆN VÔ CÙNG tự gắn lên ngực của mình danh hiệu người ”TỬ TẾ”. Rồi hắn lại còn đem cái danh hiệu dổm ấy ban phát tứ tung cho bọn đười ươi và cả lũ Khuyển Ưng , Khuyển Phệ... Lẫn thằng ma cô trùm nhà thổ Ng. Chí Thiện cũng được làm người ... tử tế luôn!

Phải chứng kiến cái trò khỉ ấy trước mắt, tôi ngứa ngáy không chịu được , nên bắt buộc phải dạy cho cả lũ người ”TỬ TẾ” chúng nó, đặc biệt là tên Tôn Thất Sơn, biết rằng trên nguyên tắc, phân loại như thế là sai hoàn toàn. Vì từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, tôi chưa từng thấy một ai dám căn cứ trên hiện tượng ( phénomène) phù du để phân loại, chia hạng con người bao giờ. Vấn đề này nó thuộc về bản thể (noumène) biết chưa?

Tôi tưởng rằng đó là một bài học quí giá mà tôi đã dạy miễn phí cho TT Sơn, thì hắn nên kính cẩn thu nhận lấy mà suy nghĩ thêm, cho thật đáo lý cận nhân tình, rồi tu tâm dưỡng tánh cho nên người TỬ TẾ TỪ BẢN THỂ!

Bị chửi rủa tàn tệ và khinh miệt đến cùng cực như vậy, Tôn Thất Sơn đã không thể nào há mồm ra biện minh được một câu nào cho việc mình làm và giải nghĩa tại sao hắn đã chia 2 hạng người TỬ TẾ và KHÔNG TỬ TẾ. Chúng ta chưa biết lý do biện minh của hắn đúng hay sai, nhưng như vậy, ít ra hắn cũng chứng tỏ được cho bàn dân thiên hạ thấy rằng dù sao hắn cũng đã có một giây phút ngắn ngủi suy tư , trăn trở về điều nó viết cho công chúng đọc. Đó là điều đáng được tha thứ! Nếu hắn dốt thì các bậc trưởng thượng sẽ thương hại mà sẵn lòng dạy dỗ, dìu dắt hắn từ từ cho nên người TỬ TẾ thứ... THIỆT!

Nhưng thật không ngờ. Quả nhiên tên TT Sơn này đã ngu đến mức kém xa cả loài súc vật. Há mõm ra là sủa , không cần suy nghĩ trong tích tắc. Đã thế, hắn lại còn mang thêm một tật bẩm sinh, hay chứng bệnh gia truyền do giòng dõi gia tộc lưu truyền là: ngoan cố và ù lì một cách cực kỳ vô liêm sỉ. Thiên hạ chửi bới tàn tệ mà hắn vẫn cứ nhơn nhơn chìa bản mặt ngu dốt của một thằng bác sĩ đỡ đẻ lên các diễn đàn đặt điều ăn không nói có. Cái chứng ngoan cố, ù lì và ” nhẹ không ưa, ưa nặng” của Tôn Thất Sơn cũng vốn là bản chất bẩm sinh của một số loài vật như trâu, bò nhất là giống lừa ngu đần!

Xin mời quí vị độc giả hãy xem bức thư dưới đây của tên Tôn Thất Sơn mới gửi cho một người trong giòng họ nhà nó tên Vĩnh Đồng.Tôi không biết ông Vĩnh Đồng này là ai, và cũng không biết ông này đã nghĩ thế nào về những điều nó tả oán trong thư, mà ngay câu đầu nó đã khẳng định ”Tôi có cùng suy nghĩ như Anh”, để chứng tỏ ông Vĩnh Đồng nào đó vốn là kẻ ”đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu” của nó trong vụ này. Tôi nói: ”đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu” đó là tôi muốn nói văn hoa theo các đấng tao nhân mặc khách. Người Tàu còn gọi là ” văn ngôn” tức loại văn chương cung đình. Hay có thể nói lối ” bạch thoại” theo kiểu dân gian Trung Quốc là :” ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Nghĩa là: Trâu tìm trâu, Ngựa tìm ngựa, Hoặc học lóm, bắt chước nói theo kiểu Tây tà thì: ”Qui ressemble s’assemble” và cắt nghĩa đùi ra tiếng Việt Nam là:” Bọn đồng loại hợp nhau”!... Vậy, nếu mai đây quả thật ông Đồng cùng hợp với bà Cốt... Đột Tôn Thất Sơn để song đôi hòa tấu trên các diễn đàn càng tốt, càng thêm vui nhộn trong mấy ngày đầu năm. Chẳng sao!

Đây, nguyên văn thư của tên Tôn Thất Sơn đã gửi cho ông Vĩnh Đồng:

Thưa Anh Vĩnh Đồng,

1. Cám ơn lời khuyên của Anh. Tôi có cùng suy nghĩ như Anh.

2. Nhìn qua nhan đề bài viết về TTS của Đặng văn Nhâm ,tôi biết anh ta thù hận TTS thấu xương. Tôi ít khi đọc văn chương rổn rảng của anh ta, thường thường khi thấy tên ông ta trong hộp thư, tôi xóa , vì nội dung toàn nổ sãng như các ông Kim Âu, Thúy Đặng, văn phong và nội dung tào lao qúa.

Ông Nhâm này hận thù TTS tràn hông vìTTS nêu ra cái ''thành tích'' đón thủ tướng VC khi y sang Đan Mạch xin ăn.Ông ĐVN chối tội bằng cách nói lãng sang Nga "nghiên kíu" về Stalin. Một cái bằng trung học phổ thông còn chưa có mà đòi ''nghiên kíu'' là chuyện lọa, mần răng tin được.

Tôi đang đọc quyển sách do BS Brian L.Weiss, GS khoa tâm thần Yale, tên ''du hành qua các vùng tâm thức'', tôi suy ra ông đại văn hào nhớn này kiếp trước rất hung hãn và xấu nết và chắc còn nhiều kiếp nữa ông ta mới học được kinh nghiệm làm răng trở thành người tử tế.

3. Nhân đây, tôi cúi đầu qùy lạy xin qúy Vị TÔN THẤT trong giòng họ NGUYEN PHUOC hãy tha tội cho Tôn-thất Sơn này, vì đã nói lên lời công đạo hay sự thật, màvài thành viên trên NET hận thù vìTTS, thiếu sư.kiểm soát cái Sân SI của mình, bèn mang giòng họ TTS ra mắng chưởi cho hả, vìkhông còn cách nào hơn . Riêng TTS thì không chấp kẻ Sân Si, vì họ sẽ trả cái nghiệp không ở kiếp này thìkiếp saụ Hơn nữa, những mắng chưởi của họ, TTS này đâu có đọc nên được tự động hoàn trả cho các tác giả.

Tôn-thất Sơn
[trích thư đến đây là hết]

TÔN THẤT SƠN MỘT THẰNG BON CHEN, KÈN CỰA ĐÊ TIỆN NHẤT!

Kính thưa quí vị độc giả, để mọi người nắm bắt dễ dàng vấn đề Tôn Thất Sơn đã nêu ra trên đây, tôi xin phân tách từng đoạn mà hắn đã đánh dấu sẵn từ 1 đến 3.

1. Trước hết đoạn 1 chẳng có gì đáng nói, ngoại trừ câu TT Sơn ngầm báo cho biết đằng sau lưng, nó hiện đã có sẵn một ”đồng minh tư tưởng”: ”Tôi có cùng suy nghĩ như Anh”. Tốt lắm, tôi đang chờ xem bọn này sẽ ọ ẹ thêm những gì đây.

2. Đoạn 2, tên TT Sơn nêu lên mấy điểm chính sau đây:

a. Đặng Văn Nhâm thù hận TT Sơn thấu xương: Nếu tên TT Sơn cho rằng tôi đã thù hận hắn thấu xương, yêu cầu ông Vĩnh Đồng nào đó hãy bảo nó chứng minh nguyên nhân tương xứng. Chỉ cần một chứng minh hữu lý duy nhất cũng đủ. Tên cốt đột TT Sơn đã làm gì tôi, đến nỗi tôi phải thù hận nó thấu xương ?!

Trong con mắt tôi tên cốt đột này không đáng 1 xu. Vả chăng TT Sơn ở một nơi còn tôi đây ở một nẻo. Ra đường chạm trán nhau, nó không nhận ra tôi , và tôi không nhận ra nó là thằng chó chết ruồi bu nào thì thù hận cái nỗi gì?

Mới đây bỗng dưng nó hứng sảng tự vẽ bùa lấy mà đeo, nhận là người TỬ TẾ ra mặt bênh quàng xiên tên ma cô nhà thổ Ng. Chí Thiện, tôi mới ngứa mồm dạy cho nó một bài học triết lý sơ đẳng về hiện tượng ( phénomène) và bản thể ( noumène) để cho nó sáng mắt ra. Ông cố dạy chắt, sư tổ dạy đệ tử sao lại dám bảo là thù hận thấu xương. Đồ nghịch tử phản phúc!

b. Văn chương của ĐVN rổn rảng ... văn phong và nội dung tào lao quá: Văn chương rổn rảng là cái gì vậy? Có chất đồng chất thép chăng. Tốt chớ sao lại chê? Còn ”Văn phong và nội dung tào lao quá” là sao? Hãy dẫn chứng một câu xem nào!

Tên cốt đột TT Sơn này quả đúng là đồng hương và đồng loại ọ ẹ với thằng Trần Kiêm Đoàn tiến sĩ dổm, và tên ”giặc thầy chùa thoát y” (hoàn tục), pháp danh Thích Từ Mẫn, tục danh là Ng. Thắng Tiết. Cả 2 tên này đều là đệ tử , đệ tử cuồng tín của cặp Nhất Hạnh/ Cao Ngọc Phượng. Vì cùng nói giọng ọ ẹ như nhau, nên viết lách giống hệt nhau. Tên Trần Kiêm Đoàn thì chê văn phong của ĐVN thô nhám. Còn tên giặc trọc Ng. Thắng Tiết bịp bợm sống đói khát kinh niên ở Đà Nẵng trước năm 1975 lại cho rằng văn phong của ĐVN là ... ”kém”! ( Sic!)

Ngay sau đó tôi đã cho cả 2 thằng ấy được nếm một bài học vô cùng hay ho thú vị về loại văn thô nhám và văn phong kém của tôi. Bút lực và trình độ uyên bác của mấy bài ấy đã khóa mõm luôn 2 tên Trần Kiêm Đoàn và Ng. Thắng Tiết (pháp danh Từ Mẫn )! Bây giờ lại đến lượt tên cốt đột TT Sơn tiểu nhân, óc chứa toàn cứt đái ...

c. Thấy tên xóa ngay, vì nội dung nổ sảng như Kim Âu, Thúy Đặng ... : Đấy rõ ràng tên TT Sơn đã tỏ ra ngu còn hơn cả giống lừa, nhẹ không ưa, chỉ ưa nặng. Bỗng dưng nó lại giở trò hạ cấp, khi không khèo quẹt thêm 2 người khác vào làm gì, khiến cho người ta lại có dịp đào ông bới cha nhà nó lên. Giống chó dại còn có mùa, còn thằng TT Sơn , mang giòng họ Tôn Thất sao lại dại quanh năm như vậy ? Hay là nó vừa ăn phải lá Han của 2 con đàn bà bịnh đàng dưới là Cái Vàng ĐT Thuấn và Lê Minh Ngọc?

- ”vì TTS nêu ra cái'' thành tích '' đón thủ tướng VC khi y sang Đan Mạch xin ăn.Ông ĐVN chối tội bằng cách nói lãng sang Nga ''nghiên kíu'' về Stalin. Một cái bằng trung học phổ thông còn chưa có mà đòi '' nghiên kíu '' là chuyện lọa, mần răng tin được”...

Chỉ nội một câu ngắn ngủi trên đây của tên TT Sơn, nó đã thừa chứng minh cho toàn thể độc giả đồng bào thân thương trên các diễn đàn hải ngoại nhận ra chân tướng và tâm địa hèn mạt vô cùng khốn nạn của tên này rồi. Tuy nhiên tôi vẫn cần phải phân tách rành mạch để quí vị tường lãm cái dã tâm trong sự móc ngoặc việc nọ vào việc kia của nó.

A. ”... đón thủ tướng VC khi y sang Đan Mạch khi y sang Đan Mạch xin ăn.Ông ĐVN chối tội bằng cách nói lãng sang Nga ''nghiên kíu'' về Stalin. Một cái bằng trung học phổ thông còn chưa có mà đòi "nghiên kíu" là chuyện lọa, mần răng tin được”...

Tên cốt đột TT Sơn tự xưng là bác sĩ mà lại viết một câu bịa đặt khơi khơi, đầy tính cách bới lông tìm vết, ghen tuông, đố kỵ nhỏ nhen, hạ cấp thực là vô cùng tủi nhục cho cả giòng họ nhà Tôn Thất của nó. Tên Cốt Đột TTS vu cho tôi đã đón tiếp Võ Văn Kiệt. Chuyện này Tôn Thất Sơn là thằng có chút học thức mà ngu còn hơn con bò cái. Nó nghe lóm, chẳng biết đầu cuối gì hết mà vẫn cứ bô bô sủa dai ...

Đây, Tôn Thất Sơn hãy vểnh tai lên mà nghe cho kỹ chuyện ấy đã cũ xì đến ngót 30 năm rồi. Chuyện này đã xảy ra vào khoảng năm 1998-99, nhân dịp tôi ra mắt sách ở San José, quyển ”CUỘC ĐỜI TÌNH ÁI, CHÁNH TRỊ CỦA STALIN” mà tôi đã tường thuật như sau: ... Lần ra mắt ở San José, đài phát thanh Quê Hương đã phát thanh rầm rộ từ sáng tới chiều, cứ 15 phút lại lập lại một lần lời kêu gọi của mụ Đoan Trang , yêu cầu đồng bào nên kéo nhau đến quán cà phê ”Les Amis”, nơi tôi phát hành sách, để đả đảo tên Đặng Văn Nhâm tay sai CS ở Đan Mạch đã tiếp rước Phạm Văn Đồng để bàn về việc lập tòa đại sứ VC tại các nước Bắc Âu ... Chiều hôm đó đồng bào chống Cộng đã bỏ cả làm ăn, lũ lượt kéo nhau đến quán ”Les Amis” vây kín vòng trong vòng ngoài, tràn ngập cà mấy bãi đậu xe, và đứng tràn cả ra 2 bên lề.

Một vài người bạn khuyên tôi nên hủy bỏ cuộc ra mắt sách cho rồi. Tôi không nghe. Hai vợ chồng tôi vẫn ung dung khiêng mấy thùng sách đến chỗ họp mặt.

Khi thấy mặt tôi, đồng bào chống Cộng hô đả đảo tưng bừng. Vợ chồng tôi vẫn bình tĩnh, ung dung vào hội trường. Thiên hạ kéo nhau chen chúc ùa vào phòng chật như nêm, ồn ào như chợ vỡ. Sau khi bày hết sách lên bàn rồi, cầm Micro trên tay, tôi dõng dạc nói to, mời tất cả đồng bào hãy vào hết trong phòng để nghe tôi tường trình vắn tắt mọi sự thật.

Tôi lấy danh dự và mạng sống của cả 2 vợ chồng tôi bảo đảm sự thật đó. Nếu người nào khám phá ra điều gì tôi nói sai hay không có bằng chứng cụ thể, lập tức tôi sẽ tự xử tại chỗ. Tôi là người tôn trọng danh dự như mạng sống của mình.

Nói xong tôi cầm con dao Poignard của nhà binh đưa lên cho mọi người thấy và nói tiếp: ”Tôi sẽ dùng con dao này để làm HARA KIRI, tự sát ngay trước mặt mọi người !”.

Nhưng tôi còn nói thêm: ”Dù sao đây là một nước tự do, dân chủ hàng đầu thế giới. Hơn thế dân tộc Mỹ còn rất tôn trọng sự công bằng. Vậy sự công bằng trong vụ này là gì ? Phần tôi nếu gian dối, tôi chấp nhận tự xử ngay tức khắc, tại chỗ. Khỏi di lụy cho ai hết! Vậy, ngược lại, còn những ai trong đám đông này đã cáo gian tôi thì sẽ chấp nhận tội gì? Ai đó đã tố cáo tôi hãy nói đi, hãy can đảm bước chân lên đây cầm Micro này tố cáo tôi đi!”....

Lập tức cả đám đông dầy đặc đứng chết cứng bất động. Từ trên bục cao nhìn xuống tận dưới cuối phòng, tôi nghe bầu không khí im phăng phắc, đến nỗi tôi còn nghe rõ từng tiếng thở phì phào. Rồi lần lần đám đông dãn dần ra ngoài. Không khí trở lại bình thường với sự thân mật bất ngờ. Lúc đó chỉ có một vài người lịch sự hỏi tôi về đầu cuối chuyện ông Phạm Văn Đồng đã đến gặp tôi để bàn về việc thành lập tòa đại sứ CS ở Bắc Âu. Nhân dịp tôi mới ôn tồn giải thích cho mọi người biết rằng, việc thủ tướng Phạm Văn Đồng đến Đan Mạch là việc bang giao giữa 2 nước. Thủ tướng Đan Mạch có bổn phận tiếp đón ở dinh quốc khách theo nghi lễ ngoại giao, chớ không phải việc của tôi. Việc trao đổi đại sứ giữa 2 nước là việc song phương giữa 2 quốc gia giao hảo, trên cấp bộ trưởng chính phủ. Điều này không ăn thua gì đến tôi ...!

Chuyện bang giao quốc tế thông thường như thvậy, tôi nghĩ bất cứ ai chỉ cần trình độ trung học phổ thông cũng đều biết rõ. Vậy mà không ngờ tên cốt đột TTS tự xưng là bác sĩ lại mù tịt ! Hành vi ghép án gán tội vô cớ cho tôi một cách trắng trợn chẳng những đã chứng tỏ tên chó đẻ TTS là giống súc vật dơ bẩn, thối tha mà còn vấy bẩn lây cho cả tổ tiên giòng họ Tôn Thất của nhà nó nữa. Dĩ nhiên trong đó có cả anh Vĩnh Đồng nào đó là người đã vô phúc được tên chó đẻ TTS bỗng nhiên lôi ra làm nhân chứng ”đồng quan điểm” với nó !

B. Viết nhảm nhí như trên vẫn chưa thấy đủ tủi nhục cho cả một giòng họ tổ tiên cho đến các đời con cháu, chắt , chít ....về sau, tên TT Sơn còn cố bịa đặt một cách vô cùng dại dột hơn nữa là gán thêm cho tôi sự sợ hãi cách rất trẻ con là: ”... Ông ĐVN chối tội bằng cách nói lãng sang Nga '"nghiên kíu" về Stalin.”

* CHÚ Ý: - Kính thưa qúi vị độc giả đồng bào tị nạn thân thương,thực tình tôi không ngờ thằng CHÓ ĐẺ TÔN THẤT SƠN này ngu muội quá sức tưởng tượng qúi vị ạ! Không biết bố mẹ nó hay con vợ nó đã cho nó ăn toàn thứ ” tiết canh ” của đàn bà hay sao mà nó ngu muội đến mức bửa đầu nó ra mà nhét lời giáo huấn vào cũng không được nữa. Nó tỏ ra vênh vang với cái nghề bác sĩ đỡ đẻ ở VN mà vẫn không biết việc tôi đón tiếp Phạm Văn Đồng tại Đan Mạch không thể xảy ra. Nếu đã xảy ra như lời tên chó ghẻ ấy nói, thì vai vế chính thống và địa vị hợp pháp của tôi trong đảng CS và trong chánh quyền XHCN phải cao hơn và quan trọng hơn cả Phạm Văn Đồng chứ!

TÔI ĐÃ ĐƯỢC MỘT NHÂN VẬT THUỘC HÀNG LÃNH ĐẠO CAO CẤP NHẤT CỦA ĐẢNG CS, THỦ TƯỚNG CỦA MỘT CHÍNH PHỦ ĐƯƠNG QUYỀN, VƯỢT VẠN DẶM TRÙNG DƯƠNG ĐẾN TẬN NƠI TÔI CƯ NGỤ ĐỂ THĂM VIẾNG VÀ THỈNH Ý TÔI VỀ BANG GIAO ĐỐI NGOẠI. Như vậy, tất nhiên tôi đúng là một GIA CÁT KHỔNG MINH của thời hiện đại rồi còn gì nữa. Trong trường hợp ấy thử hỏi:” ĐÓ LÀ TỘI GÌ ĐỂ TÔI PHẢI CHỐI? CHẲNG LẼ TÔI CÒN PHẢI SỢ CON CHÓ GHẺ TÔN THẤT SƠN NÊN PHẢI NÓI LẢNG SANG NGA?..”.

C. Tôn Thất Sơn Nên nhớ: Việc tôi đi Nga Sô và đến vài tiểu quốc chư hầu thuộc cựu Liên Bang Sô Viết như Ukraine, Georgia, và đã đến tận nơi sinh quán của Stalin...Chuyến đi lâu dài cả mấy tháng trời để sưu tầm tài liệu về nhân vật ” mặt trời chúa tể của Đông Phương Hồng”. Tất cả hình ảnh chuyến du hành đầy màu sắc mới lạ hiện tôi còn giữ đầy đủ. Khi trở về , sau một thời gian tôi đã hoàn tất và phát hành quyển sách ĐẶC BIỆT nghiên cứu VỀ ” CUỘC ĐỜI TÌNH ÁI VÀ CHÍNH TRỊ CỦA SATALIN”. Quyển sách này rất có giá trị cho những ai muốn biết tường tận về các thủ đoạn gian ác bất nhân của bọn CS quốc tế. Sách đọc say mê đến mức không thua chuyện kiếm hiệp Kim Dung. Vì thế chỉ trong 1 tuần lễ đã bán sạch cả ngàn quyển! Hiện nay quyển sách giá trị độc đáo loại ” bestseller” này đã hết nhẵn trên thị trường. Nhưng tôi vẫn còn lưu trữ vài quyển trong tủ sách gia đình, dự tính mai kia, khi nào rảnh rỗi sẽ tái bản thêm lần nữa. Thế mà tên chó ghẻ Tôn Thất Sơn đã dám hạ bút viết một câu đầy ắp vẻ ngu si hằn học, ganh tị, đố kỵ của một tên thất phu hèn hạ nguyên văn như sau:” Một cái bằng trung học phổ thông còn chưa có mà đòi '' nghiên kíu '' là chuyện lọa, mần răng tin được?”

Kính thưa qui vị độc giả và đồng bào tị nạn thân thương, từ xưa đến nay tôi không bao giờ dám đem phơi cái ” tôi” rất đáng ghét của mình ra trước mắt thiên hạ. Nhưng vì thằng chó ghẻ Tôn Thất Sơn này nó quá ngu đần và cực kỳ ti tiện đến nỗi ganh ghét với cả ánh sáng của mặt trời. Đó là hiện tượng của một thứ bệnh tâm thần đã nặng đến độ bất trị và nó đã trở thành một kẻ bất tri kỳ lý, bất tri kỳ sự. Hình hài nó vẫn còn là một thằng người song bộ óc của nó đã thành não tủy của một giống súc vật vô tri giác mất rồi.

Bây giờ là năm 2009, và sau hơn 33 năm tị nạn ở Đan Mạch, tôi đã từng được Viện Ngữ Học Đông Phương thuộc Viện Đại Học København ký quyết định bổ nhiệm vào chức phụ giáo (undervisningassistant) và giám khảo (Eksaminator) môn Việt Ngữ cho sinh viên đại học và hậu đại học từ năm 1978. Ngoài ra tôi còn được Bộ Giáo Dục Đan Quốc cấp giấy phép dạy Pháp Văn và Hội Họa. Mặt khác, từ năm 1987, tôi đã được nha Ngoại Kiều thuộc bộ Tư Pháp tuyển dụng làm Thông Dịch viên cho nha giám đốc Cảnh Sát Hoàng Gia, các tòa án, bộ Nội vụ, bộ Hội Nhập và phòng di trú thuộc tòa Đô Chánh thủ đô København v.v.... Đến nay tuy tôi đã về hưu, nhưng vẫn còn được lưu dụng như thường. Không kể thời gian từ 1953 tối 1975, tôi đã làm giáo sư trung học và làm chủ báo, với nhiều chức vụ lãnh đạo ngành báo chí ở miền Nam VN. Với quá trình nghề nghiệp không tì vết, và vững chắc, bền bỉ như trên, cùng với các hoạt động đấu tranh chính trị dài dặc đến ngót 60 năm, và đã trải qua ít lắm 4 triều đại, từ Pháp thuộc, đệ nhất CH, đến thời quân nhân cầm quyền, nền đệ nhị CH, rồi nay là thời lưu vong tị nạn CS , tôi không sai lầm mảy may, không chút tai tiếng xấu, tôi rất hãnh diện với riêng mình.

Trong quá trình hoạt động chính trị và nghề nghiệp lâu dài ấy, tôi đã kết giao thân mật và kết nghĩa đệ huynh với một số người, thuộc đủ mọi hạng từ cầm quyền chóp bu trong nước đến những anh em chiến binh, lao động, nông dân nghèo khổ xác xơ , dưới đáy bực thang thấp nhất trong xã hội. Những người kể trên thuộc đủ mọi khuynh hướng chánh trị dị biệt, chưa kể đến kẻ thù CS. Vì vậy tôi thường xuyên phải dấn thân trước nhiều lằn đạn vô tình của cả bạn lẫn thù để hoàn tất nghĩa vụ của mình,song không bao giờ để bạn biến thành thù!

Trong số các nhân vật lãnh đạo cao cấp của quốc gia, nay kẻ còn người mất, hiện tôi còn giữ trong ký ức rất nhiều điều bí mật. Nhưng đó là những chuyện thuộc loại ” sống để bụng chết mang theo”. Tôi không thể phụ lòng thệ ước ai, dù là chỉ kể lại với vợ con!

Những ai đã đọc hết bộ HTCTMN của tôi, gồm 3 quyển, dày trên 2000 trang, sau khi gấp sách lại, nếu chịu khó suy nghĩ thêm về những gì bí ẩn nằm sau mỗi sự việc, tất không khỏi ngạc nhiên đặt ra cho mình rất nhiều câu hỏi cần giải đáp. Lúc đó người đọc sẽ bàng hoàng chợt tỉnh ngộ ra và tự nghĩ: ”Người tác giả này, độc nhất vô nhị, làm sao đã biết được quá nhiều việc tuyệt mật thuộc loại quân cơ trọng sự với đầy đủ mọi chi tiết nhỏ nhặt như chính người trong cuộc?”

Vậy mà thằng Tôn Thất Sơn vô liêm sỉ, tay sai của tên ma cô nhà thổ Ng Chí Thiện đạo thi, đã dám ọ ẹ viết một câu đầy giọng kèn cựa tị hiềm :” Một cái bằng trung học phổ thông còn chưa có mà đòi '' nghiên kíu '' là chuyện lọa, mần răng tin được?”

Viết ngu như thế rõ ràng tên cốt đột Tôn Thất Sơn này đã không biết rằng ngay từ năm 1953 , tôi đã là Hội viên của Hội Nghiên Cứu Đông Dương (có người còn gọi là Hội Khảo cổ Đông Dương) [ Société des Études Indochinoises] . Trụ sở hội nằm trong khuôn viên ngôi nhà Xưa ( Viện Bảo Tàng ) và trực thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ ( École d’Extrême Orient ). Sau năm 1975, ra hải ngoại tị nạn tôi còn trở nên hội viên Hội Nhà Văn Chiến Đấu Pháp ( Société des Écrivains Combattants Francais), vốn là một hội nhà văn danh tiếng và uy tín rất lớn của Pháp đã thành lập từ sau đệ nhị thế chiến. Trong số hội viên hầu hết đều là những nhân vật lừng danh thế giới trong 2 kỳ thế chiến như: Cựu Thủ tướng Anh Churchill ( hội viên danh dự ), cựu TT Pháp De Gaulle ( hội viên danh dự), cựu TT Mitterand, cựu TT J. Chirac, cùng với nhiều bậc danh tướng Pháp từng tham chiến ở Đông Dương như : De Lattre de Tassigny, Leclerc, các văn hào bất tử như André Malraux v.v ...và v.v... Nhiều lắm không sao kể siết!

Tóm lại, dù cho tên TT Sơn có ngu đến mức như con bò cái thì nó cũng phải hiểu rằng khi tôi đã được gia nhập những hội văn hóa lớn lao uy tín trên thế giới như thế, hiển nhiên tôi cần phải chứng minh được trình độ học vấn cỡ nào. Tối thiểu tôi cũng phải đáng bực thầy của tên cốt đột TT Sơn, bác sĩ mà viết một bài còn phải chia ra làm 3 phần : Nhập đề, Thân bài và Kết luận!

Đến đây, nhân tiện tôi mạn phép quí vị độc giả thân thương hỏi riêng tên Cốt Đột Tôn Thất Sơn một câu này: ”Thưa ông bác sĩ tài cao học rộng, xin ông vui lòng cho bà con cô bác biết, nếu ai đó muốn viết một quyên sách thuộc loại nghiên cứu, sưu tầm thì người ấy cần phải chưng ra mảnh bằng gì mới được phép hả ông? Có phải là cái bằng ”BÁC SĨ CHỒN LÙI” như của ông vẫn khoe khoang không?”

TÔN THẤT SƠN , THẰNG CON ĐẠI BẤT HIẾU!

3. ”Nhân đây, tôi cúi đầu qùy lạy xin qúy Vị TÔN THẤT trong giòng họ NGUYEN PHUOC hãy tha tội cho Tôn-thất Sơn này, vì đã nói lên lời công đạo hay sự thật, màvài thành viên trên NET hận thù vìTTS, thiếu sư.kiểm soát cái Sân SI của mình, bèn mang giòng họ TTS ra mắng chưởi cho hả, vì không còn cách nào hơn...”

Những người nhẹ dạ và giàu lòng bác ái vị tha, khi đọc câu ọ ẹ trên đây của tên cốt đột TT Sơn , chắc không khỏi mủi lòng tha thứ cho nó. Nhưng đối với tên tiểu nhân hạ đẳng vô liêm sỉ này, nó chỉ đóng kịch, bày tuồng cải lương đấy thôi. Nó viết:” ” Nhân đây, tôi cúi đầu qùy lạy xin qúy Vị TÔN THẤT trong giòng họ NGUYEN PHUOC hãy tha tội cho Tôn-thất Sơn này...”. Chỉ cần một đoạn ngắn này, nếu tôi là bậc trưởng thượng của giòng họ Nguyễn Phước... và đang làm vua thì tôi sẽ réo ba quân:” Bây đâu lôi cộ thằng ni ra phạp tràng chẻm đầu bêu ngoài chợ Đông Ba cho ta!”

Tại sao? Tội gì dữ vậy?

Xin thưa, đó là tội khi quân, dối chúa. Vì các bậc thánh nhân đã dạy: ” bất hiếu hữu tam.Trong đó có tội làm nhục tông môn, ngu mà cứ đi chọc thiên hạ cho hết kẻ nó đến người kia lôi cả giòng họ tổ tiên lên các diễn đàn công luận mà chửi nhục nhã ê chề ...nhưng vẫn không chịu câm mõm chó lại !”

Chưa đủ! Khi nó biết thiên hạ đã lôi cả giòng họ tổ tiên nhà nó ra chửi rủa thậm tệ, thay vì trước tiên và trên hết , chính nó phải ăn chay nằm đất sám hối, tịnh khẩu đủ 365 ngày rồi lập bàn thờ cúng tế vong linh cha mẹ nó về chứng giám. Trước vong linh cha mẹ nó, tên TT Sơn một lần nữa phải quỳ lạy, và tự nguyện từ nay sấp sau sẽ không chọc ghẹo ai nữa, để cha mẹ nó không còn bị ai réo chửi, dưới địa ngục không yên.

Trong khi tên TT Sơn đã không đếm xỉa gì đến những kẻ đã mang nặng đẻ đau ra nó,thì nó lại đòi qùi lậy những tên cha căng chú kiết trong cùng giòng họ Nguyễn Phước cùa nó song không nuôi nó được một bữa cơm nào, và không hề dạy nó một lời nào, để xin tha tội. Đám bà con giòng họ này lấy quyền gì mà bắt tội nó? Như vậy , rõ ràng thằng này đúng là tên đại bất hiếu và xuẩn động đã nhắm trật đối tượng phải quì lạy.

Ngay trong khi hắn đang viết mấy chữ:” Nhân đây, tôi cúi đầu qùy lạy xin qúy Vị TÔN THẤT trong giòng họ NGUYEN PHUOC hãy tha tội cho Tôn-thất Sơn này...” thì nội dung bài nó viết đã cố tình khều móc tôi vào cùng với anh Vĩnh Đồng nào đó một cách quá sức ngu đần để tôi lại bất đắc dĩ phải chửi cho thêm một lần nữa!

Vậy, hiển nhiên là ngoài miệng nó xin quì lậy tha tội cho nó, nhưng trong hành động nó vẫn tiếp tục chọc thiên hạ để cho cả giòng họ nhà nó bị nghe chửi luôn.

Để kết thúc bài này, tôi thành thật xin gửi đến qúi vị già trẻ lớn bé thuộc giòng họ Nguyễn Phước vì vạn bất đắc dĩ tôi phải đề cập đến qúi vị vô can ngoại cuộc, khi nói đến tên TT Sơn. Chính nó là kẻ đã ẩn núp trong cái vỏ ” hoàng tộc” (sic!) để sanh sự và làm nhục cho danh giá hoàng tộc, chớ không phải ai khác ! Qúi vị hãy lấy công tâm sáng suốt xét xem tôi nói có đúng không ?!

Đặng Văn Nhâm


Linh mục Nguyễn Văn Lý tiếp tục đấu tranh trong lao tù - Nhóm Phóng viên FNA


Nhóm Phóng viên FNA

(Bản tin ngày 06-01-2009)

Sáng ngày 02-01-2009, một người cháu gọi linh mục Nguyễn Văn Lý bằng chú ruột là anh Nguyễn Công Hoàng đã từ Quảng Biên ra trại K1, xã Ba Sao, huyện Kim Bảng, thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để thăm vị tù nhân lương tâm linh mục. Anh đến trại lúc 6g30 và nộp giấy tờ, nhưng phải đợi tới 8g45 mới thấy cán bộ trại dẫn chú mình ra.

Trong chiếc áo tù sọc dưa (bắt buộc mặc), linh mục Lý trông khỏe mạnh và tươi tỉnh như mọi lần. Trước hết, cha cho biết cách đây vài tuần, đã có hai linh mục thuộc Tổng giáo phận Huế ra thăm (lần thứ hai kể từ tháng 03-2007). Đó là linh mục quản lý Nhà chung và linh mục Trần Văn Quý, quản xứ Trường An (hay Phường Đúc) kiêm thành viên Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên và Hội đồng nhân dân thành phố Huế. Đại diện cho tòa Tổng giám mục Huế, hai vị này đã đem quà (tiền mặt, sách nguyện) của Đức Tổng giám mục Nguyễn Như Thể. Tiền thì trại cho nhận (nhưng phải ký gởi) còn sách nguyện thì cán bộ giữ lại (y như số phận cuốn sách nguyện mà gia đình đã gởi cách đây gần hai năm).

Tiếp đến, trước mặt công an trại giam, linh mục Lý cho anh Hoàng biết từ lâu nay, thỉnh thoảng cán bộ từ trung ương có đến “làm việc” với cha, và cha đã lợi dụng những dịp đó để đấu tranh với họ. Linh mục đấu tranh về 3 điểm chính: Quyền tự do ngôn luận, quyền sống của thai nhi, quyền tư hữu đất đai tài sản của nhân dân. Về quyền tự do ngôn luận, linh mục lập luận (với cán bộ trung ương): Karl Marx, vào thế kỷ 19, đã từng xử dụng quyền này để phê phán -thậm chí đòi tiêu diệt- chế độ tư bản bên Anh, nơi ông đang sống, mà chẳng bị hề hấn gì. Nhóm Nguyễn Ái Quốc, cũng thế kỷ 19, ra báo tại Paris để chống lại chính quyền thực dân Pháp mà vẫn bình yên. Các nhà nho Việt Nam có tư tưởng tiến bộ đầu thế kỷ 20 đã được nhà cầm quyền thuộc địa Pháp để cho tự do mở Đông Kinh Nghĩa Thục. Tại sao nhà cầm quyền CSVN nay lại không cho nhân dân lên tiếng? Về quyền sống của thai nhi, linh mục Lý lập luận: Tại sao vì muốn cho các em bé đã sinh ra được điều kiện sinh sống học hành mà lại giết những em bé đang còn trong bụng mẹ? Việc sát nhi ghê tởm này, cả chồng lẫn vợ cùng cán bộ y tế khắp Việt Nam đang đồng lòng thực hiện một cách bình thản, dựa theo quy định cấm nhân viên nhà nước có đứa con thứ ba và theo chủ trương tự do phá thai của nhà cầm quyền CS. Tội ác ngút trời này đang kéo tai họa xuống cho nhân dân Việt Nam mà trước hết cho các thủ phạm. Linh mục Lý cũng cho biết trong đợt tù 2001-2005 (vẫn tại trại giam này), cán bộ đã có hai lần mời cha thuyết trình về vấn đề kế hoạch hóa gia đình cho họ, nam riêng nữ riêng, mỗi lần hai giờ. (Chú thích: ngay sau 1975, linh mục Lý là chuyên gia giảng dạy về phương pháp ngừa thai tự nhiên tại Tổng giáo phận Huế). Về quyền sở hữu đất đai tài sản của nhân dân, cha Lý cho biết mình đã tranh đấu chuyện này từ đợt tù trước. Lúc ấy, cha đã yêu cầu nhà cầm quyền trả lại tiểu chủng viện Hoan Thiện, trường trung học Thiên Hựu, trường Bình Linh và nhiều cơ sở khác cho Giáo phận Huế. Trung ương hứa trả. Nhưng khi ra tù, linh mục thấy đó chỉ là lời nói dối gạt. Nay thì linh mục tiếp tục đấu tranh (trong những lần làm việc với cán bộ trung ương) cho quyền sở hữu đất đai của dân oan và của các tôn giáo.

Linh mục Lý còn cho biết hôm tháng 3-2008, tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội đã có cho người đến thăm linh mục. Nghe thông báo, linh mục liền đưa ra hai điều kiện: phải để tôi giải thích cho tòa đại sứ vì sao tôi phải mang áo tù này, hai là không được chụp hình quay phim. Trại chấp nhận. Gặp phái đoàn, trước hết cha Lý dành ra nửa giờ đồng hồ để giải thích chuyện mặc áo tù (hơi dài như thế vì bắt buộc phải qua thông dịch viên). Linh mục nói: Trong thế giới văn minh hiện giờ, có các Công ước quốc tế nhân quyền. Mỗi nước soạn luật pháp riêng nhưng một khi đã ký vào Công ước thì phải lấy đó quy tắc cao nhất. Tại sao Việt Nam đã gia nhập hai Công ước nhân quyền 1966 mà còn làm ngược lại? Cha Lý giải thích (cho tòa đại sứ): Nhà cầm quyền CS bắt tôi ở tù và bắt tôi mặc áo tù này chính vì tôi đã thúc đẩy Việt Nam thực thi Công ước quốc tế. Họ cho tôi sai nên bắt tôi. Cho nên tôi là tù nhân lương tâm chứ không phải là tội phạm hình sự …

Hai chú cháu nói chuyện khoảng một tiếng thì cán bộ trại loan báo hết giờ. Thế nhưng linh mục Lý vẫn chủ động ngồi lại thêm nửa giờ nữa (như các lần trước) và bắt đầu hỏi thăm thân nhân, bằng hữu xa gần. Linh mục xin gởi lời cám ơn đồng bào và các tổ chức nhân quyền quốc nội lẫn hải ngoại cũng như của quốc tế đã luôn quan tâm đến mình. Về bản thân, linh mục cho biết mình vẫn bị biệt giam trong một khu vực riêng, không được có sách nguyện để đọc kinh hằng ngày, bị tước mọi giấy bút và sách vở (ngoại trừ báo chí của nhà nước mà gia đình gởi). Mỗi ngày, linh mục chỉ ăn sáng và tối, nhịn bữa trưa để cầu nguyện cho quê hương và Giáo hội, nhất là cho Thái Hà. Trước khi tiễn biệt, linh mục Lý đọc cho anh Hoàng nghe bài thơ nhỏ sau đây:
    Tự do ngôn luận cho dân!
    Độc tài độc đảng phải cần bỏ đi.
    Trục xuất sát hại thai nhi,
    Vô thần duy vật, tội ghi mãi hoài.
    Cửa nhà cơ sở đất đai,
    Của dân, của đạo trả ngay tức thì !
Nhóm Phóng viên FNA tường trình từ Huế lúc 16g40 ngày 06-01-2009



Vạch mặt dân chủ CUỘI - Liệt Vũ

  • Nguyễn Tiến Trung người lính trong Trung đoàn Gia Định và nhà lãnh tụ Tập hợp Thanh Niên Dân chủ
Liệt Vũ
December 31, 2008

Trong thời gian vừa qua, Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ (THTNDC) đã cho phổ biến trên mạng điện tử thtndc.org của tập hợp này một bản "thông báo và tuyên bố quan điểm của THTNDC về tình trạng anh Nguyễn Tiến Trung (NTT) trong Trung đoàn Gia Định".

Có thể nói rằng bản tuyên bố và quan điểm này được tung ra trong khoảng thời gian này nhằm hai mục đích:

- Mục đích nổi, biểu kiến là: Sau một thời gian im ắng, tạo cơ hội cho NTT được tái xuất giang hồ, với hình ảnh một thanh niên trí thức hiên ngang, quả cảm; cùng lúc với sự lên tiếng của Trần Anh Kim, Nguyễn Thanh Giang …

- Mục đích chìm, đích thực là: cạo sửa lịch sử, đặc biệt là huyền thoại tư tưởng HCM.

Thật vậy, bản thông cáo cho biết rằng với lý do là một đảng viên đảng Dân Chủ Việt Nam (DCVN) và vì "những lời thề của Quân đội Nhân Dân Việt Nam (QĐNDVN) đang đi ngược lại tư tưởng HCM", NTT nhất quyết "không chấp nhận đọc 10 lời thề của quân đội" CSVN, dù rằng "Ban Chỉ huy đe doạ nếu anh T từ chối 2 lần nữa, thì anh sẽ bị truy tố, cũng như có các biện pháp cứng rắn đối với anh" .

Thoáng nghe thì những chi tiết này thật quá hùng hồn để chứng tỏ NTT là một thanh niên trí thức, vô cùng dũng cảm và can đảm, một mình dám ngang nhiên đứng lên chống lại cả một tập thể quân đội của đảng CSVN. NTT sẵn sàng chấp nhận gian khổ, tù đầy, sẵn sàng từ bỏ tương lai vật chất phú quý vinh hoa vì lý tưởng dân chủ tự do (chỉ còn ít tháng nữa là NTT hết hạn nghĩa vụ quân sự, sẽ trở lại cuộc đời khoa bảng, lương cao, bổng lớn). Đúng là hình ảnh của một "nhà đấu tranh dân chủ" trẻ tuổi đáng quý trọng. Thế nhưng nghĩ cho kỹ thì điều này cực kỳ vô lý, không thể xẩy ra ở bất cứ nước tự do dân chủ nào, chứ đừng nói là một nước độc tài đảng trị như VN. Vì người lính không thể chống lại không đọc lời thề trung thành của quân đội mà không bị bỏ tù hay là phải chịu những biện pháp chế tài luật định.

Ngoài ra, đọc kỹ lời tường thuật về việc tuyển chọn NTT đi nghĩa vụ thì lại càng thấy là ngây ngô. Đoạn văn như thế này: "Người của quân đội đã đến thâm nhập để xác định tư cách xem có để cho anh T đi bộ đội hay không. Họ gồm có đại diện của Quân khu 7, đại diện của Trung đoàn Gia Định, của Quận đội Tân Bình, Phường đội, Bí thư Đảng uỷ Phường".

Từ xưa đến nay, nước nào cũng thế, chỉ cần ra một thông báo, hoặc tống đạt một giấy báo nhập ngũ là quá đủ cho người phải đi quân dịch. Gọi một người nhập ngũ, mà gửi một lô người từ đại diện quân khu xuống tới phường đội, tới tận nhà để xem người đó có đủ tư cách đi bộ đội hay không thì quả là điều lạ. Lạ đến bất thường.

Phải chăng đây là một phương cách gián tiếp đề cao vai trò lãnh tụ của NTT? Nếu thế thì thật là một cách đề cao ngu xuẩn, vì dù ngay ở trong một nước tự do dân chủ Tây phương, lãnh tụ chính trị nếu có bị trình diện nhập ngũ cũng chỉ được đối xử như bất cứ một người dân thường nào, chứ không phải là cử một phái đoàn viên chức tới tận nhà làm việc.

Phải chăng loan tin môt đoàn nhân vật quyền chức đến tận nhà NTT xem xét là để cốt nói rằng nhà nước đã thay đổi, nới lỏng chính trị cho nên cư xử đặc biệt với một lãnh tụ trẻ tuổi là NTT? Quảng cáo về sự cởi mở của nhà nước như vậy thì thật là hết ý, không có lời nào để nói nữa.

Lại nữa, thông cáo còn cho biết NTT không đọc 10 lời thề của quân đội CSVN vì "những lời thề QĐNDVN đang đi ngược lại tư tưởng HCM " - "HCM người lãnh tụ của đảng CSVN, cũng đã từng trao lá cờ có chữ trung với nước, hiếu với dân cho QĐNDVN ".

Khi viết câu "trung với nước, hiếu với dân" như trên, thì THTNDC đang đồng loã, toa rập với CSVN để bóp méo sự thật lịch sử. Tại sao lại nói là toa rập bóp méo lịch sử? Tại vì, ngoài THTNDC thì trên bản tin "trung với nước, hiếu với dân" đăng ngày 13/8/2007 trên mạng điện tử Đảng Uỷ Bộ của Đảng Bộ Khoa Học và Công Nghệ của đảng CSVN người ta cũng đọc được những giòng sau này "… ngày nay, theo tư tưởng đạo đức HCM, thì trung là phải trung với nước, hiếu là phải hiếu với dân …".

Nhưng, trên website báo Đồng Nai cũng của CSVN đã lại viết khác: "ngày 22 tháng 12 năm 1964, nhân dịp kỷ niệm quân đội ta tròn 20 tuổi, chủ tịch HCM đã đến thăm và khen ngợi: Quân đội ta trung với đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội…".

Lời viết này trên trang điện tử báo Đồng Nai là trích đúng lời Hồ chí Minh trong các tài liệu thời Việt nam dân chủ cộng hoà. Sự trung thực của tờ báo này vô tình làm lộ ra cái gian sửa đổi lịch sử của bộ máy tuyên truyền hiện nay của đảng CSVN.

Tại sao ngày nay CSVN phải sửa đổi câu nói của HCM từ "trung với đảng" thành "trung với nước"? Điều này không có chi là khó hiểu. Chẳng qua đó là để xoá đi cái thực chất Hồ chí Minh là một tay cuồng tín, coi đảng hơn nước. Để mà tô vẽ tu sửa lại "tư tưởng và đạo đức bác Hồ". Để mà cả nhóm lãnh đạo CS biến thái cũng như những tay chân khoác áo đối lập có thể có một tụ điểm tập hợp là tư tưởng và đạo đức bác Hồ, tiếp tục giữ quyền lực và a tòng với tài phiệt thế giới khai thác đất nước .

Tư tưởng và đạo đức HCM như thế nào, thì đã được chứng mính bởi những dữ kiện lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại. Tư tưởng thì không có gì, và chính Hồ chí Minh đã nói cho nhà báo Pháp Jean Lacouture là ông cần viết gì vể tư tưởng cả, vì đã có Mao trạch Đông viết hết cả rồi. Và cho tới nay thì bộ tuyên truyền của đảng cũng không nói rõ được tư tưởng Hồ ra sao. Đạo đức Hồ chí Minh cũng không chút gì là cao cả, khi những chi tiết đời sống của Hồ bị tiết lộ sau ngày Liên sô sụp đổ và văn khố đảng CS Liên sô bị mở ra. Ngoài ra khi giới lãnh đạo CSVN hoảng loạn tìm kế thoát hiểm vì mất chỗ dựa này thì đã có những kẻ mang chuyện Hồ ra kể để tỏ dấu thành thực khai báo, phản tỉnh. Vì thế người ta biết cuộc tình của Hồ với Nguyễn Thị Minh Khai, vợ của một đồng chí. Cách đối xử bạc nghĩa nhẫn tâm với các người từng chung chăn gối để bảo vệ huyền thoại "bác" cao cả hy sinh không lấy vợ. Việc chỉ điểm và bán cho thực dân nhà ái quốc Phan Bội Châu để lấy tiền dựng đảng, mà ngày nay Dương Thu Hương đang nỗ lực bào chữa v.v… và v.v…

THTNDC là như thế đó !

Vậy mà ngày nay tại hải ngoại một số đảng phái và báo chí, truyền thông vẫn nói đến và đề cao THTNDC và NTT như là một tổ chức đấu tranh cho dân chủ tại Việt nam. Với bản thông cáo này, THTNDC tự lột mặt nạ đấu tranh và cũng đồng thời chỉ ra bản chất thời cơ của những nhóm, những phe đảng muốn có chân cùng THTNDC trong sân khấu chính trị mà CS biến thái Hà nội đang dàn dựng.

Liệt Vũ
December 31, 2008