Sunday, September 21, 2008

Cải cách thụt lùi "Lệ Làng Đầu Hàng Luật Đảng"

  • Trương Minh Hòa
Nguồn tin "giựt con mắt" từ trong nước cho biết là tên thủ tướng "không người lái", gốc du kích Nguyễn Tấn Dũng, tức là Dũng Xà Mâu, trong tháng 9 năm 2008, tỏ ra rất "tâm đắc" trong cái "tình huống hồ hởi phấn khởi" đưa ra chuyện người dân bầu trực tiếp chức vụ chủ tịch ủy ban nhân dân xã, mới nhìn qua thì đây là hình thức sinh hoạt dân chủ, vì "từ ngày có Bác và có đảng" thì cái gì cũng là "nhân dân làm mọi, nhà nước ngồi trên đầu và đảng hưởng hết". Đối với những thế hệ trẻ sau cuộc chiến Việt Nam, nhất là những người từng "sống, lao động, học tập, chiến đấu, theo gương Bác Hồ vĩ đại" suốt đời, chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ chức vụ nào được "nhân dân bầu ra trực tiếp" thì vui mừng vô cùng, vì đảng có nguyên tắc cơ bản là: "Chỉ định người lãnh đạo tất cả các chức vụ từ trung ương đến cơ sở địa phương", ngay cả trong các trại tù, các chức sắc đại diện tù, thường được ban quản giáo chỉ định, dựa theo "sơ yếu lý lịch" qua gia đình có người "tham gia cách mạng" hay là thành phần "tù xạo, tù ăn ten"; nên khi mới nghe qua thì đây được coi là một "cải cách vượt chỉ tiêu" chỉ mới xảy ra cái thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nầy.

Theo nguồn tin ấy, thì đầu tiên được áp dụng tại 4 thành phố và 6 tỉnh lỵ để làm "THÍ ĐIỂM", nhưng đây cũng chỉ là thủ đoạn vặt của những "thằng điếm" và các "THÍM ĐĨ" trong cái tổ chức đầu não siêu cướp "băng đảng Cộng Sản Việt Nam" mà thôi. Bầu ra cái chức chủ tịch ủy ban nhân dân xã, nhưng còn những chức vụ khác trong ủy ban nhân dân xã thì có bầu không?. Bản chất của đảng cướp Cộng Sản là gian manh, nên chắc chắn là ủy ban nhân dân gồm những thành viên quan trọng đều là đảng viên, thì vị chủ tịch "dân bầu trực tiếp" cũng chỉ là con rối, bù nhìn, không có quyền hành gì cả, ngoại trừ nghi lễ, dự tiệc và ký tên, thị thực những văn bản do ủy ban đưa tới; hay nói đúng hơn là" vị chủ tịch được dân bầu cử trực tiếp" chỉ là công cụ của đảng mà thôi, chứ nào có thực quyền, làm được những gì mà nhân dân giao phó qua lá phiếu?. Đảng cướp Cộng Sản được coi đầu não "xưởng làm hàng giả" nên thường bày ra nhiều sản phẩm: dân chủ cuội, phản tỉnh giả, đấu tranh dỏm, nhà dân chủ phòng lạnh, nhà trí thức cò mồi .... điển hình là cái tổ chức "xưởng gật", gồm toàn là thứ đại biểu "đảng cử dân bầu", cũng là đảng viên hay là "thân hữu" của đảng, được Mặt Trận Tổ Quốc xác nhận "sơ yếu lý lịch tốt" mới được quyền nộp đơn ứng cử, khi được nằm trong danh sách ứng cử viên, thì chắc chắc không thất cử, trái lại tỷ lệ dân chúng" tín nhiệm" rất cao, thông thường từ 90% trở lên.

"DÂN CỬ đảng đề, khỏe GIỮ CÂN.
THẾ SỰ sinh ra THỨ XỆ ngần.
ÔNG NGHỊ gật gù, lầm Y-NGỌNG.
THÍ ĐIỂM bầu cho THÍM ĐĨ lần.
GIỜ CƯƠNG dân chủ, GIƯƠNG CỜ đỏ.
ĐẶT MỖI Mác-Lê, ĐỔI MẶT cần.
MẸO VẶT mị dân, lòi MẶT VẸO.
TĂNG CƯỜNG là phiếu, đảng TƯỜNG CĂN."

Đây là sự "thụt lùi cải cách" mà thằng thủ tướng không người lái Dũng Xà Mâu đưa ra trong thời điểm đảng Cộng Sản Việt Nam đang đương đầu với những "tình huống cực kỳ khó khăn thời thượng", có khả năng đưa đến sụp đổ bất cứ lúc nào:

- Nền kinh tế toàn diện suy sụp vô phương cứu chửa, dù có cái đầu máy "kinh tế thị trường" do bọn "tư bản phản động", nhưng không thể cái cái đuôi "định hướng xã hội chủ nghĩa" nặng nề, nên tình trạng lạm phát vượt chỉ tiêu và cũng "không người lái", vật giá thì tiếp tục "leo thang máy", nạn chợ đen, chợ chui, hàng giả, dỏm lan tràn hơn cả dịch cúm gia cầm; đảng và nhà nước gồm đa số là thành phần "dốt mà làm lớn" không thể kiểm soát được thị trường do không am hiểu thế nào là "kinh tế thị trường" qua những biến động uyển chuyển.

- Dân chúng bất mãn cùng cực, dân oan, không phân biệt gia đình dân hay là "cựu Việt Cộng" càng gia tăng số lượng, công nhân đình công càng đông từ Bắc chí Nam, đòi tăng lương.

- Vụ giáo dân Thái Hà cầu nguyện đòi đất đai bị ăn cướp, bây giờ Giáo Dân Việt Nam đã có kinh nghiệm qua vụ đòi Khâm Sứ ở Hà Nội, bị hứa cuội nên cuộc cầu nguyện đòi đất càng quyết liệt ....

- Dân chúng đã biết vụ tên VẨU thủ tướng Phạm Văn Đồng ký "công hàm" dâng hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho quan thầy Trung Cộng vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, kèm theo vụ cắt hàng ngàn cây số vuông vùng biên giới Việt-Trung.

- Tên ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đã ký kết với các nước thượng nguồn trong cái Ủy Ban Sông Mekong, tạo cơ hội cho Thái Lan, Lào, Trung Cộng, tự ý xây nhiều con đập thủy điện, lmà cạn dòng ở hạ nguồn, khiến cho hơn 10 triệu dân cư miền Nam thuộc lưu vực sông Cửu Long trở nên nghèo khổ chưa từng thấy, tình trạng thất thu thủy sản, đất bị nhiễm mặn, cho nên dân chúng càng thù ghét cái đảng bán nước, hại dân, gian ác Công Sản.

Cái gọi là bầu cử ra chủ tịch ủy ban nhân dân xã, mới nghe tưởng đâu là bây giờ đảng Cộng Sản đang có chiều hướng cải cách dân chủ dần dần, bắt đầu từ cấp xã, rồi tỉnh, trung ương; chuyện nầy chắc là có một số cò mồi, thời cơ, đón gió, gián điệp nằm vùng, tổ chức chống Cộng cuội, tung ra cái tin "hồ hởi phấn khởi" và nhất là cái tên Dũng Xà Mâu, khi mới vừa được đảng đưa lên làm thủ tướng vài cuối năm 2007, thì được đám "bưng bô" nầy đội lên đầu, cho là một Gorbechov hay ít ra cũng là một Boris Yelsin Việt Nam. Nhưng mà "còn lâu" mới có chuyện đảng Cộng Sản tự nhiên trả lại quyền tự do cho dân, nếu chúng không bị dân chúng đứng lên trừng trị, lật đổ như ở Liên Sô, Đông Âu; điển hình như một nhóm ăn cướp, sau khi vào nhà, vơ vét tài sản, có đời nào bọn cướp "tự giác" mang hết của cải ăn cướp ra cảnh sát đầu thú, tình nguyện trả lại cho khổ chủ; nhưng đảng cướp chỉ bị khuất phục khi cảnh sát, nhân viên an ninh dùng vũ lực đúng mức để dẹp tan.

Tên Dùng Xà Mâu nên "điều nghiên" lịch sử Việt Nam cho kỷ, nên nhớ là đi tìm các sách sử ở các nguồn khác mới có; chứ lục lọi trong các thư viên do nhà xuất bản "Sự Thật" hay các thư viện của Trường Chính Trị Nguyễn Ái Quốc, Viện Nghiên Cứu Marx Lenin của Hoàng Minh Chính trước đây ... là không bao giờ thấy. Cái chuyện dân chủ cấp xã đã có từ lâu, từ thời phong kiến, vua cũng dành cho dân làng cái quyền "bầu cử" ra chức sắc tự trị, nên mới có câu "phép vua thua lệ làng". Thời nước ta bị thực dân Pháp cai trị có ban "Hội Tề" gồm các lão làng, điền chủ, phú hộ, người lớn tuổi có uy tín, với các chức Hương Cả, Hương Quản, Lục Bộ ... được dân bầu ra, tuy rằng quyền hành không nhiều, nhưng cũng được tự do sinh hoạt dân chủ trong làng; nhưng đối với chính quyền thực dân cấp cao, thì ban Hội Tề không thể đi ngược lại những quyết định bất công, trong tinh thần "phủ binh phủ, huyện binh huyện", nên từ đó có câu "ấm ớ hội tề". Thời quốc gia giành được phân nửa giang sơn từ vĩ tuyến 17 đến Mũi Cà Mau, chính quyền dân chủ được dân bầu từ tổng thống, nhưng vì đất nước trong tình trạng chiến tranh do đảng Cộng Sản Bắc Việt và tay sai Việt Cộng khủng bố miền Nam, nên chính quyền cấp tỉnh, quận do quân nhân đảm trách, nhưng xã thì vẫn do dân bầu, tiếp nối truyền thống "lệ làng" đã có từ thời phong kiến. Hệ thống xã tại miền Nam thay tên từ "Hội Tề" sang Hội Đồng Hương Chính và sau cùng là "Hội Đồng Xã" do dân bầu trực tiếp. Thời đệ nhị Cộng Hòa, dân cử được thực hiện qua Hội Đồng Tỉnh, là thứ "quốc hội cấp tiểu bang" bên cạnh vị tỉnh trưởng và ban tham mưu để lo cho nguyện vọng của dân; nếu sau nầy, khi tình hình ổn định, có nghĩa là Việt Cộng bị đánh bại, thì hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương đều do dân bầu, giống như các nước dân chủ với 3 hệ thống: liên bang, tiểu bang và địa phương (các hội đồng thành phố).

Thằng Dũng Xà Mâu đưa ra cải cách "thụt lùi" về sự bầu cử chức chủ tịch ủy ban nhân dân xã, chỉ là lối mị dân, nhưng hắn ló cái đuôi khi cho là ai muốn ra làm chủ tịch xã cũng phải do đảng giới thiệu và "nhất trí", như vậy, cái lối dân chủ nầy là "trớt quớt" như bầu quốc hội bù nhìn từ thời Hồ Chí Minh đến nay. Tuy nhiên, Dũng Xà Mâu cũng có lý do, vì hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương vẫn còn nặng nề, mang theo cả hệ thống cồng kềnh, nên hắn dự tính "bãi bỏ cái hội đồng nhân dân cấp huyện, quận" cũng không nằm ngoại múc đích "ăn trọn gói". Lý do là trong bất cứ thương nghiệp nào, có quá nhiều cấp "trung gian" thì làm sao thu được nhiều lợi nhuận? Hệ thống đảng và nhà nước từ trung ương, tỉnh, huyện, xã, ấp, có quá nhiều tay "trung gian", nên khi tiền hối lộ, ăn chận, cắt xén từ bên dưới, đưa qua nhiều tay, thì phải bị hao hụt. Do đó cái bước đầu là bải bỏ một cơ cấu trung gian là huyện, quận và có thể sau nầy tiến xa hơn, để cho trung ương kiểm soát và ăn trọn gói, khỏi chia chác cho cấp dưới.

Người Cộng Sản coi nhân dân là công cụ để dựng, giữ, nuôi đảng. Từ một nhóm người, biết khai thác lòng yêu nước của nhân dân qua các chiêu bài: "đánh Tây, Mỹ" và sau khi nắm quyền, tìm mọi cách vơ vét túi tiền, cướp tài sản nhân dân và chính quyền các cấp được nhân dân nuôi bằng các hình thức hối lộ, bắt nạt. Tuy nhiên, hai chữ nhân dân được dùng để đặt tên cho một số cơ cấu, tổ chức đảng, nhà nước như:

- Quân đội nhân dân (do nhân dân cung cấp nhân lực, súng đạn do Nga Tàu cung cấp, đảng lãnh đạo)
- Công An nhân Dân (là công cụ đắc lực của đảng để đàn áp nhân dân)
- Ủy Ban nhân dân xã, huyện, tỉnh (là những chức vụ không bao giờ do nhân dân bầu, mà lại có quyền cai trị nhân dân bằng luật rừng).

Nhưng tiền thì "ngân hàng nhà nước", các chức vụ cao cấp như: tổng bí thư, thủ tướng, chủ tịch nhà nước (chớ không phải là chủ tịch nhân dân).... ngay cả các chức như xã ủy, huyện ủy, tỉnh ủy ... dù là những chức vụ "lãnh đạo, ngồi trên đầu nhân dân" nhưng không được gắn liền với hai chữ "nhân dân" cả. Như vậy, thì các chức lãnh đạo từ trung ương đến địa phương trong chế độ Cộng Sản đã tự thú và tự tố cáo: đây là hệ thống cai trị bất hợp pháp, phi dân chủ, chỉ là bộ máy cai trị của một băng đảng cướp mà thôi.

Dũng Xà Mâu là người có "sáng kiến" như đây cũng là "tối kiến" trong cái "cải cách thụt lùi" đầy gian trá của một tay chơi bài ba lá vụn; khi hắn tung ra con bài tẩy, ai cũng biết, nên khó có người u mê nào nhào vô, chỉ có đám "cò mồi" chung quanh hò hét về "cải cách dân chủ đáng khen ngợi" và dần dần tiến tới "dân chủ đa nguyên" nhưng theo công thức "đảng lãnh đạo". Cái vụ làng tự trị đã có từ lâu, chắc có lẽ tên Dũng Xà Mâu là "đỉnh cao trí tệ nòi người" có mấy cái bằng đại học treo văn phòng, nhưng chưa có dịp "điều nghiên" nhiều sách hay (chứ không phải sách vở, hay sách dở) của các sử gia, nên mới đưa ra cái sáng kiến "bầu cử trực tiếp chức vụ chủ tịch ủy ban nhân dân xã".

Nếu thí điểm nầy thành công, thì trong tương lai, cái chủ trương "dân chủ tập trung" có thêm được nhiều tiền hơn, không còn qua tay trung gian là hệ thống huyện, quận. Như thế, thì các nước dân chủ Âu Mỹ nhìn thấy: "Việt Nam đang có cải thiện dân chủ" để họ yên tâm mang tiền vào đầu tư, cấp viện và các nhà thầu chấp nhận chi trả hối lộ cho các quan chức số tiền 15% công trình để trúng thầu; tức là các cơ quan cấp viện của các chính phủ dân chủ cứ đổ tiền vào Việt Nam và 15% vào túi những "đỉnh cao trí tệ nòi người" một cách sáng tạo, an toàn nếu bị đổ bể thì chuyển sang nơi khác, tiếp tục "phục vụ nhân dân".

Trương Minh Hòa



Thơ trả lời của Nhật Tùng gởi Bà Khúc Minh Thơ

Washington State
Ngày 20 tháng 9 năm 2008

Kính thưa quý hội đoàn, đoàn thể, quý cơ quan truyền thông, báo chí.
Quý Anh Chị Em (ACE) Lai Gia Đình Mỹ Việt thân mến,
Kính gởi bà Khúc Minh Thơ.

Thưa quý vị,

Sau khi “được” nhận email của ông Trần Ngọc Ký, đại diện cho bà Khúc Minh Thơ trả lời riêng về những câu hỏi của ông Nguyễn Kinh Luân (Phó Chủ Tịch Nội Vụ Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Fort Worth ) đã đưa ra, tôi xin gởi lời hồi đáp đến bà KMT. Vì nội dung email ấy đã không sáng tỏ những câu được hỏi mà lại xoay quanh việc bà có những nhận định về tôi cũng như thái độ của tôi đối với bà. Tôi cũng xin mạn phép gởi đến toàn thể quý vị để cùng tỏ tường bởi xét thấy rằng câu chuyện đã và đang đi đến phạm vi rộng lớn.


Thưa bà Khúc Minh Thơ,

Trước tiên tôi xin “đọc và hiểu” email đó theo khía cạnh chính ông Trần Ngọc Ký đại diện cho bà gởi lời hồi đáp đến Ông Nguyễn Kinh Luân.

Thưa bà, khi tôi đọc nội dung “ngắn gọn” của email đó, tôi thấy bà đã lạm dụng ý từ để hạ danh dự tôi, để bà tránh né và che đậy cho những việc mà cộng đồng đang đưa ra ánh sáng về bà hiện nay, kể cả 30 năm kinh nghiệm làm việc của bà trong quá khứ cho đến tận bây giờ. Nếu những người ngoài cuộc đọc những lời kết án của bà dành cho tôi lúc này hay sẽ dành cho bất cứ một anh em Lai nào - những ai đã từng gọi bà bằng “mẹ” - dám lên tiếng phản đối bà trong tương lai, người đời sẽ cho chúng tôi là "hỗn láo", "mất dạy", thậm chí là "bất hiếu" đối với bà nữa.

Bà không những đã hạ thấp danh dự tôi khi bà cho rằng tôi đang cần "người tử tế" dạy dỗ, mà tôi thấy bà đã xem thường cả ACE Lai của tôi như họ không hiểu biết về ý của bà cố tình muốn chụp mũ cho tôi? Thưa bà, Lai chúng tôi có hơn 30,000 ACE. Tuổi tác đều đã quá nửa đời người. Kỹ sư, bác sĩ, nha sĩ, luật sư, giáo sư đại học, xã hội học, thương gia, kể cả nhân viên trong guồng máy chính phủ, đều có mặt ACE Lai chúng tôi. Thậm chí có những ACE chưa bao giờ trở vào trường để lấy bằng cấp cho mình, nhưng kinh nghiệm và sự lăn lộn với đời, chúng tôi có thừa sức đánh giá về bà rất nhiều.

Nếu tôi nhớ không lầm, người gọi bà bằng "Mẹ" đầu tiên chính là Trần Ngọc Ký (ngày 22 tháng 9 năm 2007 tôi và rất nhiều ACE tôi vẫn còn gọi bà bằng cô). Sau đó, chúng tôi thấy bà là người lớn tuổi như Mẹ của chúng tôi, nên để thêm tình thân thiện, cùng với Trần Ngọc Ký, chúng tôi gọi bà bằng mẹ. Chứ không phải gọi bà bằng mẹ để rồi tất cả chúng tôi phải phục tùng theo những gì mà bà "dạy", rồi bà đứng sau dùng ACE chúng tôi như bức bình phong của bà, hay dùng ACE chúng tôi để tô điểm thêm một gương mặt mới cho bà, thưa bà! Cho nên, xin bà đừng nên dùng tiếng "Mẹ" thân thiết mà ACE Lai chúng tôi đã trân trọng dành gọi bà rồi bà xử dụng nó như chiếc "vòng kim cô" vô hình tròng vào đầu chúng tôi và lèo lái chúng tôi. Trần Ngọc Ký mời bà và ông Nam Lộc đến để làm "cố vấn" cho những việc liên quan đến "hồ sơ VN" dựa theo kinh nghiệm của hai vị. Chúng tôi đồng ý mời cố vấn giúp chúng tôi làm "chiếc cầu nối" giữa ACE chúng tôi với những người quen biết, chứ không phải mời hai vị đến để đứng sau lãnh đạo chúng tôi.

Giờ đây, khi suy ngẫm và đem những điểm nghi vấn của cộng đồng ra so sánh lại với những gì đã xảy ra trong GĐMV gần 1 năm qua, tôi nhận ra rằng bà và một hai vị "cố vấn" đã không cố vấn gì cả, mà chỉ ngồi đợi cho chúng tôi làm mọi chuyện, chỉ cần đến có mặt chụp một vài tấm hình hay video rồi dùng truyền thông đang có trong tay để mang ra “công bố”với mọi người, nhận lãnh công lao rằng mình là người làm việc đó. Một bằng chứng không xa và rõ ràng nhất là ngày 9 tháng 11 năm 2007, ngày hẹn gặp bà dân biểu Zoe Lofgren để xin ý kiến hướng dẫn cho chúng tôi cách vận động. Người làm cuộc hẹn ấy cho ACE Lai chúng tôi chính là tôi. Ông Trần Ngọc Ký sau đó đã mời bà và chị Thanh Trúc (đài Á Châu Tự Do) cùng đi. Giờ tôi lại nghe rằng chị Thanh Trúc đã nói chị là người "dắt" ACE chúng tôi vào gặp bà Zoe Lofgren!? Mới đây nhất, khi về tổng vận động cho dự luật HR 4007 tại Washington DC vào ngày 16, 17 tháng 7 năm 2008 vừa qua, anh Huy Đức và tôi đã không mời bà cùng đi, có phải chính vì lẽ đó nên bà mới nói với những ACE Lai khác rằng Huy Đức và tôi đã không xem bà ra gì không? Vì nếu chúng tôi mời bà cùng có mặt đi vận động với hai mươi mấy ACE chúng tôi và bà chụp vài tấm hình, thì giờ đây bà cũng có thể “giới thiệu” cho mọi người rằng bà "đã dắt chúng tôi vào quốc hội để vận động" phải không thưa bà?


Mặt khác, trong gần một năm qua, tất cả những hồ sơ ACE Lai qua Mỹ này đều do chính họ tự nộp đơn rồi được đi, vì trước đây họ chưa bao giờ nộp đơn... “họ còn sạch”, chứ họ không phải những người được bà "tắm rửa" (xin lặp lại đúng chữ bà đã dùng) mới được trở về quê Cha, thưa bà! Nhưng khi các ACE này được qua tới Mỹ, và nếu gia đình nào được ông Nam Lộc biết đến hoặc họ thông báo trước đến GĐMV-AFA để GĐMV thông báo cho ông Nam Lộc, thì qua sự làm việc trong USCC, ông đưa về cho GĐMV-AFA đứng ra sponsor, nhưng qua loa tuyên bố với mọi người rằng gia đình Lai mới qua đó được GĐMV đứng bảo trợ, tạo sự hiểu lầm rằng GĐMV-AFA thông qua bà Khúc Minh Thơ và nhờ chiếc cầu nối này mới đưa được những ACE Lai đó qua sau. Nhưng thực tế, thấy vậy mà không phải vậy!!!

Nhớ lại trong một năm nay, mỗi lần chúng tôi có câu hỏi về hồ sơ ACE Lai bên Việt Nam, bánh vẽ chúng tôi được bà cho ăn dài dài, ba chữ “bộ ngoại giao” nghe đến ngán ngẩm, mà chúng tôi chưa hề nghe một tên người nào trong bộ ngoại giao. Có lẽ cái “bộ ngoại giao” mà bà nói đến đó là “bí mật quốc gia” nên bà không thể tiết lộ được? Và bà nói với chúng tôi rằng bộ ngoại giao là bạn của bà. Thưa bà, năm nay bà đã ngoài bảy mươi, thì những người làm việc với bà thời ấy, tôi thiết nghĩ có lẽ họ đã quy tiên không còn trên cõi đời, có người nằm nhà dưỡng lão, thậm chí có người đã không còn trí nhớ minh mẫn nữa là đằng khác…mà bây giờ bà nói với chúng tôi, bộ ngoại giao là bạn của bà thì xin hỏi những người đó họ lột xác được hay sao!?

Tôi nghĩ rằng màn kịch bàn tiệc có người nấu sẵn dọn lên bàn, xong mình chạy đến bỏ vào thêm một đôi đũa, rồi mang khoe với thiên hạ rằng "tôi chuẩn bị mâm cỗ này" đã không còn hợp thời nữa thưa bà!!! Chỉ xin nêu ra khía cạnh nhỏ này của GĐMV để rộng đường suy xét mà thôi, thiết nghĩ tôi không cần “lạm bàn” thêm đến những chuyện “to tác” hơn mà cộng đồng đang mở lại trang sử của bà trong hơn 30 năm qua.

Còn về chuyện bà trả lời phỏng vấn với báo Thế Giới Mới, bà đã phủ nhận và cho rằng tôi bịa chuyện nói xấu bà khuyên tôi chống cộng 50/50, và cho là “Chuyện đặt điều như vậy mà cũng có người tin thì thật hết nói”. Tôi không cần phải bàn thêm về vấn đề này với bà, mà để cho những người có mặt tại hiện trường vào buổi họp trưa ngày 8 tháng 6 tại nhà Lan Nguyễn còn biết đến danh dự và liêm sĩ sẽ trả lời dùm cho tôi.


Gần một năm nay, chúng tôi đã thấy quá rõ những gì đã và đang xảy đến với GĐMV khi chúng tôi đi trên "chiếc cầu nối" này. Tôi xin mượn câu nói của bà Palin - ứng cử viên phó tổng thống Hoa Kỳ của đảng Cộng Hòa đứng liên danh với Ông McCain người mà bà không xa lạ gì - để nói với hai vị cố vấn rằng chúng tôi: "Thanks! But NO thanks! Thanks! But NO thanks to the bridge to NO WHERE!!!".


Trân trọng,

Nhật Tùng

Nguyên tổng thư ký Gia Đình Mỹ Việt Washington State


***Có mở đầu thì phải có kết thúc, ở trên tôi có nói trước rằng cái email đó tôi xét theo khía cạnh đại diện cho tiếng nói của bà. Nhưng thưa bà, sau một thời gian dài làm việc, tôi biết được khả năng của Ký không thể nào viết được những lời văn đầy "đạn bọc đường cùng dao găm" kia, và những lời lẽ ấy có phải là của bà hay không tự bà biết. Nói vậy chứ tôi biết được giọng văn ấy là của ai, thưa bà! Cho nên tôi đã cảm thấy rằng "Chủ Tịch của GĐMV-AFA cũng nên sớm gặp người tốt hơn để ‘dạy dỗ’, để không bị kẻ xấu lợi dụng cho họ “ném đá dấu tay” và ‘mượn dao giết người’, mà người đó lại chính là anh em Lai của mình". Nhân tiện, tôi biết bà cũng rất bận rộn công việc như tôi, nên bà cũng không cần phải trả lời cho tôi để khỏi phải mất thời gian của nhau và tôi cũng cám ơn bà đã đọc thư này.

P.S. Xin quý vị chuyển email này đến cho mọi người.

Người Tù Chính Trị Việt Nam: Món Nợ Của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh!

Đỗ Ngọc Uyển

Một tháng, sau khi sau khi xâm chiếm được Miền Nam Việt Nam, lũ Việt gian cộng sản, tay sai của Đệ Tam Quốc tế đã đưa một triệu quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà vào tù vô thời hạn dưới cái nguỵ danh là đưa đi “học tập cải tạo.” Đây thực chất là một sự giam cầm (imprisonment) phi pháp, một sự trả thù man rợ, một sự vi phạm nhân quyền một cách dã man của thời trung cổ, và theo luật pháp quốc tế thì đây là một tội ác chống loài người (a crime against humanity).

Hoa Kỳ công nhận những người này là tù nhân chính trị và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để họ được trả tự do và đi định cư tại Hoa Kỳ ưu tiên theo ODP (Orderly Departure Program) với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees). “…The U.S. government considers reeducation detainees to be political prisoners. In 1989, the Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former RVN soldiers and officials held in reeducation camps and allow them to immigrate to the United States… that gives priority in ODP to those who spent at least three in reeducation…” Cần phải nói thật rõ rằng những người tù chính trị này đi định cư tại Hoa Kỳ ưu tiên theo ODP (Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự) với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees) chứ không phải vì lý do nhân đạo hay theo chương trình HO (Humanitarian Operation) nào cả.

Hoa Kỳ coi việc đưa những người tù chính trị này sang định cư tị nạn tại Mỹ là trả một món nợ của quốc gia Hoa Kỳ đối với đồng minh trong thời chiến. Những người này bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến… “…Resettling this group will be a step toward closing out this nation’s debt to its Indochinese wartime allies. “These people have been detained because of their closed association with us during the war,” said Robert Funseth, the senior deputy assistant secretary of state for refugee affairs, who spent most of this decade negotiating their resettlement...” Hoa Kỳ đã phải điều đình với cộng sản trong 8 năm - từ năm 1982 tới năm 1989 - mới đạt được kết quả để cho những người tù chính trị này đi định cư tại Mỹ… Hoa Kỳ coi sự điều đình đạt được kết quả trên đây là một cố gắng phi thường của phía Hoa Kỳ. Kết quả đó đã giúp cho Hoa Kỳ có được những giấc ngủ yên hàng đêm. “…The negotiation started in 1982 and culminated in July 1989 when the two countries signed a treaty which provides for the immigration of the former reeducation detainees… This campaign is a wonderful endeavor on the U.S part. This has helped us American sleep better at night…” Chúng ta - những cựu tù nhân chính trị và cựu đồng minh của Hoa Kỳ trong cuộc chiến - ghi nhận trách nhiệm lương tâm và đạo đức của Hoa Kỳ trong cố gắng phi thường (wonderful endeavor) của Hoa Kỳ để đưa chúng ta sang định cư tại Mỹ.

Trong khi chính người Mỹ đã cố gắng phi thường (wonderful endeavor on the U.S. part) trong suốt 8 năm với 25 cuộc họp với cộng sản để đưa những người tù chính trị, những cựu đồng minh thân thiết của Hoa Kỳ, sang định cư tại Mỹ là để trả một món nợ của quốc gia (a nation’s debt) đối với đồng minh đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến, và kết quả đó đã giúp cho Hoa Kỳ có những giấc ngủ yên hàng đêm (This has helped us American sleep better at night) thì bà Khúc minh Thơ, chủ tịch Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị đã vơ vào, tự nhận và được một số người ca tụng là “ân nhân!” của hàng trăm ngàn người tù chính trị và gia đình người tù, bởi vì nhờ bà này “vận đông” nên mới có cái gọi là chương trình HO (humanitarian Operation) để đưa những người tù chính trị và gia đình họ sang định cư tại Mỹ. Và, để chính thức hoá cái “công ơn” này, bà Khúc Minh Thơ đã đứng ra tổ chức “Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam” tại Dallas, Texas trong 3 ngày đầu tháng 10/08 để tập họp tất cả cựu tù nhân chính trị trên khắp các tiểu bang Hoa Kỳ và trên thế giới đến Dallas để nghe bà và những người chịu ơn bà “ca tụng cái công ơn to lớn của bà?” đối với những người tù chính trị và gia đinh họ. Đây là một việc làm bất chính, đánh tráo một sự kiện lịch sử.

Tập thể những người tù chính trị, những anh hùng của thời đại – như lời tuyên dương của đại tướng John Vessey và tổng thống Ronald Reagan - đừng để cho những kẻ thời cơ chủ nghĩa lợi dụng danh nghĩa của mình cho những âm mưu bất chính, Anh hùng, người línhdanh dự, là trách nhiệm, là hy sinh vì tổ quốc, là ngẩng cao đầuchấp nhận; không cầu xin, không than vãn, không thân trách phận, không cần ai thương sót. Làm trai được sinh ra trong thời loạn là phùng thời. Không đi ăn xin tình cảm như một người nào đó đã viết một câu nguyên văn như sau: “Tôi dám khẳng định rằng “Nếu không có sự vận động của chị Khúc Minh Thơ với Quốc Hội, Chính quyền và Chính giới Mỹ, xin can thiệp trả tự do cho tù nhân chính trị tại Việt Nam” thì anh em chúng tôi chắc chắn đã phải bỏ xác trong các trại tù cải tạo từ lâu rồi!”

Những lời ủ ê trên đây chỉ là tâm sự của một cá nhân riêng lẻ. Tuyệt đại đa số anh em ở trong nhà tù cộng sản chẳng ai biết bà Khúc Minh Thơ là ai cả. Anh em vẫn hiên ngang, tuyệt đối tin tưởng ở chính nghĩa Quốc Gia và giữ vững hào khí của người lính như những câu thơ sau đây được trích từ bài thơ Vạn Vạn Lý của nhà thơ Cung Trầm Tưởng được viết ra vào năm 1977 tại một trại tù ở vùng Hoàng Liên Sơn:

Đau thương là vinh dự
Chân đi hất hồng trần
Anh hùng phải gian chuân
Hy sinh là tất yếu
Ngựa phi giòn nước kiệu
Vỗ vỗ rơi tàn thuốc
Phà khói vào mông lung
Hư vô đẹp não nùng
Nụ hôn đời khốc liệt
Cõi sầu ta tinh khiết
Thép quắc vầng trán cao
Phong sương dệt chiến bào
Lấy máu xe làm chỉ
Đã đi trăm hùng vĩ
Xông pha lắm đoạn trường
Về làm đá hoa cương
Gửi đời sau tạc tượng

Khi Tổng Thống Ronald Reagan cử Đại Tướng John Vessey - người chiến hữu thân thiết của QLVNCH - cựu Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ đã chiến đấu sát cánh (side by side) với QLVNCH – sang Việt Nam điều đình trả tự do cho những người tù chính trị để cùng với gia đình sang định cư tại Mỹ thì phải hiểu rằng Tổng Thống Reagan đã gửi đi một thông điệp nhắn tới những người tù chính trị rằng: “Hoa Kỳ sẽ không bỏ rơi những đồng minh thân thiết của Hoa Kỳ.” Và những anh em tù chính trị, những chiến binh QLVNCH đang sa cơ trong nhà tù cộng sản đã hiểu được cái ý đó trong thông điệp của Tổng Thống Reagan.

Đại Tướng John Vessey là người bạn chiến đấu, là đồng minh thân thiết của QLVNCH; chính ông đã nhiều lần hãnh diện gắn các huy chương chiến đấu cao quý của Quân Lực Hoa Kỳ trên ngực áo các chiến binh anh hùng của QLVNCH. Bỏ ra ngoài những thủ đoạn chính trị, những người lính Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà khi cùng chiến đấu bên nhau trên cùng một trận tuyến, họ không thể bỏ nhau được, vì bỏ rơi nhau là hèn, là phản bội mà đã là lính thì không thể hèn không thể phản bội được, ngoại trừ những trường hợp bất khả kháng, ngoài ý muốn.

Chính là vì những thủ đoạn của phe chính trị mà những người lính Hoa Kỳ đã phải bỏ rơi người lính Việt Nam Cộng Hoà trong khi đang cùng nhau chiến đấu trên cùng một trận tuyến. Đại Tướng William Westmoreland nguyên Tư Lệnh Lực Lưọng Hoa Kỳ chiến đấu tại Việt Nam và Chủ Tịch Uỷ Ban Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ - trong một bài diễn văn đọc tại một buổi lễ kỷ niệm ngày Quân Lực 19/6 tai New Orleans, Lousiana – đã có một lời xin lỗi nguyên văn như sau: “On behalf of the US Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Việt Nam Armed Foces for abandoning you guy.” (Nhân danh Quân Lực Hoa Kỳ, tôi gửi lời xin lỗi các cựu chiến binh QLVNCH vì đã bỏ rơi các bạn.) Không một lời xin lỗi nào có thể chân tình hơn. Không ai bắt Đaị Tướng Westmoreland phải xin lỗi người cựu chiến binh QLVNCH, nhưng chính là cái tình đồng minh, tình đồng đội, tinh chiến hữu cao cả đã bắt Đại Tướng phải xin lỗi.

Bảo rằng nhờ có bà khúc Minh Thơ “vận động” nên mới có cái gọi là chương trình HO (Humanitarian Operation/Chiến Dich Nhân Đạo) là một sự lộng ngôn. HO không phải là hai chữ viết tắt của chương trình “Humanitarian Operation” giả tưởng nào cả mà chỉ là sự suy diễn từ các con số thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng sản cấp sổ thông hành (passport) và trao cho phía Hoa Kỳ phỏng vấn để đi định cư tị nạn tại Hoa Kỳ. Ví dụ như các danh sách đầu tiên mang các số: H.01, H.02, H.03…gồm có hai phần: phần chữ là H và phần các con số hàng đơn vị là 01, 02, 03…và khi đến các con số hàng chục thì không còn số không (zero) nữa mà trở thành các con số H.10, H.11, H.12…Sau đây là lời kể lại của một người đi tìm hiểu cái danh xưng HO: “…I asked an ODP staffer in Saigon about the “HO” designation in about 1995. He told me that it was never an official U.S. designation, but rather a term used exclusively by Vietnamese. He was not clear weather it was created by Vietnamese counterparts or by the applicants themselves…” (…Vào khoảng năm 1995 tôi đã hỏi một nhân viên tham mưu của ODP tại Saigon về cái danh xưng “HO”. Ông ta nói với tôi rằng đó chưa bao giờ là một cái tên chính thức của Hoa Kỳ nhưng đó là thuật ngữ chỉ được dùng trong những người Việt Nam với nhau, Ông ta cũng không rõ cái thuật ngữ đó được chế ra (created) bởi những người đối nhiệm phía VN hay bởi những người lập đơn...)

Trong các văn kiện chính thức của Hoa Kỳ không bao giờ thấy ghi nhận có cái gọi là chương trình HO (HO Program) nào cả. Trong tờ sự kiện (Fact sheet) của Phòng Dân Số - Tỵ Nạn và Định Cư (Bureau of Population, Refugee and Migration) thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ được phổ biến ngày 16 tháng 1 năm 2004, tại tiểu mục Orderly Departure Program (Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự) có một đoạn viết nguyên văn như sau: “More than 89,700 Amerasian children and accompanying family member have been admitted to the United States since 1988 in a special ODP subprogram, along with some 167,000 former re-education camp detainees and their immediate family members under another special program begun in 1989…” ( Hơn 89,700 trẻ em lai Mỹ-Việt cùng với gia đình đã được chấp nhận vào Hoa Kỳ từ năm 1988 theo một chương trình phụ của ODP, cùng vớí 67,000 người cựu “tù cải tạo” và thân nhân trực hệ theo một chương trình đặc biệt bắt đầu từ năm 1989). Như vậy, phải hiểu rằng những người tù chính trị sang định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ theo một chương trình đặc biệt (a special program) nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program ) chứ không phải theo chương trình HO giả tưởng nào đó do bà Khúc Minh Thơ vận động.

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày 30-4-1975, phóng viên Nguyễn Khanh của RFA đã phỏng vấn ông Robert Funseth, người đã bỏ ra 8 năm để điều đình với công sản để đưa hơn 300,000 tù nhân chính trị và gia đình sang định cư tại Mỹ, Nguyễn Khanh đã hỏi một câu và được ông Funseth đã trả lời như sau:

- Nguyễn Khanh: họ (những người tù chính trị) có liên hệ với ông không?

- Robert Funseth: nhiều lắm. Trong những năm qua, tôi cảm động, nghẹn ngào vì cảm tình họ dành cho tôi. Tôi nói với mọi người là công này không phải chỉ mình tôi, mà còn liên quan đến nhiều người khác nữa, từ những người tham dự đàm phán cho tới những người thực hiện chương trình giúp định cư.

Ông Robert Funseth là một nhà ngoại giao lịch sự, nhất là đối với đàn bà. Ông đã tặng bà Khúc Minh Thơ – mà chồng là đại tá Nguyễn Bê đã bị cộng sản giam cầm 13 năm - cây bút mà ông đã ký bản thoả ước với Việt cộng. Tai sao ông Funseth không đả động gì đến “công ơn” của bà Khúc Minh Thơ trong vụ này mà chỉ nói đến công lao của người khác?

Trên Website Lê Dinh có bài viết của ông Nguyễn Lý Tưởng với tiêu đề là GỌI NHAU - Viết nhân Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam sẽ tổ chức tại Dallas từ 3 - 5/10/2008; tại tiểu mục 2 có đoạn viết nguyên văn như sau:

“2. Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam ra đời:

Tháng 8/1977, chị Khúc Minh Thơ thành lập Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tại Virginia và bắt đầu hoạt động.

Mục tiêu của hội: (1) Tranh đấu đòi trả tự do cho tù nhân
(2) Trình bày cho thế giới biết Việt Nam là một nhà tù lớn nhất thế giới
(3) Giúp những gia đình cựu tù nhân đoàn tụ

Đọc cái mục tiêu thứ (3) trên đây thì phải hiểu rằng Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị của bà Khúc Minh Thơ chỉ “vận động” để giúp các cựu tù nhân chính trị đã được thả ra, đi đoàn tụ với gia đình tại Mỹ như trường hợp đại tá Nguyễn Bê được sang đoàn tự với bà Khúc Minh Thơ chứ không phải “vận đông” cho những người tù được thả ra để cùng với gia đình đi định cư tại Mỹ theo “Chương Trình HO” như bà Khúc Minh Thơ và một số người thường rao giảng. Không thể có cách hiểu nào khác hơn.

Những sự kiện trình bày trên đây đã chứng minh rằng không có cái gọi là Chương Trình HO nào cả. Bà Khúc Minh thơ không thể “vận đông” cho một cái mà nó không hiện hữu. Đây là vấn đề chính danh. Người Mỹ đôi khi cũng bắt chước người Việt Nam dùng hai chữ HO; nhưng đối với họ thì HO chỉ là một cái “popular term” để chỉ một người “tù cải tạo” chứ không phải là một cái “official term” để chỉ một chương trình chính thức nào cả.

Đọc trên một diễn đàn điện tử thấy có người con của một người tù chính trị đã gửi tặng bà Khúc Minh Thơ một số tiền (khoảng 10,000) để giúp bà này tổ chức “Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam,” và cũng để cám ơn bà bởi vì nhờ có bà “vận động” nên mới có Chương Trình HO, và cháu mới được theo cha cháu sang Mỹ học hành để có tương lai tốt đẹp như ngày nay, và nếu không có bà thì chắc chắn là cháu đã phải đi bán vé số ở Việt Nam…Thật tội nghiệp cho đầu óc của cháu này đã bị nhiễm độc bởi cái “Huyền Thoại Khúc Minh Thơ,” và vài chục năm sau, nó có thể trở thành cái “Thần Thoại Khúc Minh Thơ.” Và các con, cháu, chắt, chít... sau này của những người tù chính trị cũng phải đời đời nhớ ơn bà Khúc Minh Thơ!

Có ông nhà văn Nguyễn Hữu Của đã viết một bài được đăng trên trang báo điện tử Ánh Dương có tựa đề là: “LIỀU THUỐC HỒI SINH” có một đoạn nguyên văn như sau: “H.O liều thuốc hồi sinh cho người “Cựu Tù Nhân Cải Tạo”,…Nói đến H.O chúng ta không thể không nhắc đến người đàn bà có tâm hồn vĩ đại, vị ân nhân của các gia đình Cựu Tù Nhân được ra đi định cư tại Hoa Kỳ, người đã góp phần mang liều thuốc hồi sinh đến cho từng gia đình “Người Tù Cải Tao”. Người đó chính là Bà Khúc Minh Thơ, một tên tuổi đã hằn sâu vào ký ức của mỗi Cựu Tù Cải Tạo trong hơn ba mươi năm qua.” Trong suốt “bài văn” dài gần 10 trang của ông Nguyễn Hữu Của, toàn là những lời ca tụng cái “Công Đức To Lớn!” của bà Khúc Minh Thơ đối với hơn 300,000 người tù chính trị và gia đình. Đọc xong “bài văn” dài của nhà văn Nguyễn Hữu Của, người tù chính trị, người lính chúng tôi bất giác cảm thấy khó ở. Sự kiện tù chính trị là một sự kiện mang tính lịch sử, phải trình bày một cách trung thực, không phải là chuyện tung hô nhau một cách cường điệu, quá chớn, vô căn cứ…

Vân động cho hàng trăm ngàn người tù chính trị ra khỏi nhà tù cộng sản để cùng với thân nhân gồm hơn 300,000 người sang định cư tại Mỹ là một vận động ngoại giao và chính trị rộng lớn, lâu dài ở tầm mức quốc gia và ở cả tầm mức quốc tế với sự tham dự của tổ chức UNHCR của Liên Hiệp Quốc.. Bà Khúc Minh Thơ không có tư cách gì để làm công việc này. Chỉ có chính phủ Hoa Kỳ mới có thể làm được. Và Hoa Kỳ đã làm việc này chính là để trả món nợ quốc gia “a nation’s debt” đối với những ngưới tù chính trị, những đồng minh thân thiết của họ trong cuộc chiến. Và chỉ khi nào làm xong được việc này thì người Mỹ mới có thể ngủ yên được. This has helped us American sleep better at night.”

Đại Tướng John Vessey và Tổng Thống Ronald Reagan đã tuyên dương những người tù chính trị Việt Nam là những Anh Hùng, và khi người Mỹ vận động để những người Anh Hùng này sang tỵ nạn tại Hoa Kỳ, người Mỹ cũng không bao giờ tự nhận họ là ân nhân của những Anh Hùng mà chỉ coi là đã trả xong môt món nợ của quốc gia (a nation’s debt) đối với đồng minh thân thiết của ho. Bà Khúc Minh Thơ không có tư cách gì để tự nhận là “ân nhân” của những Anh Hùng và bà Thơ cũng không có tư cách gì để đứng ra tổ chức “Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam” tai Dallas. Đây là một sự tiếm danh. Bà Khúc Minh Thơ và các ông/bà nhà văn nhà báo đã ca tụng cái công ơn bá vơ của bà Thơ hãy trả lại sự thật cho lịch sử. Đánh tráo một sự kiện lịch sử là có tội đối với lịch sử.

Đỗ Ngọc Uyển
Tháng 9/2008
Morgan Hill, California

Tài liệu tham khảo

- http://www.ofc.berkeley.edu/~sdenney/Vietnam-Reeducation-camps-1982
- http://lib.washington.edu/SouthEastAsia/vsg/elist_2000/query%20HO.html
- http://alatehelp.com.asp
- http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=950D3D7103DF936Ạ753CIA96F948260&scc=&spon=... (The New York times, October15, 1989 – THE NATION; The next wave From Vietnam: A New Disability by Mydans)
- http://www.optionaljournal.com/best/?id=110010372 (The Wall Street Journal, Monday, July 23, 2007 – Best of the Web Today by James Tananto)
- U.S. DEPARTMENT of STATE – Fact Sheet – Bureau of Population, Refugees and Migration – Washington DC – January 16, 2004

Không Thể Mị Dân Lâu Hơn Nữa

  • Thuỷ-Triều
Trong thời đại Mao Trạch Đông ở Hoa Lục đã có hàng triệu người dân Trung Quốc bị chết vì đói. Trong thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN mang bản chất Trung Cộng sẽ có rất nhiều người Trung Quốc thuộc tầng lớp tân tư sản đủ loại bị chết vì phá sản. Các tập đoàn cầm quyền đảng Trung Cộng ở các cấp đã có thể bưng bít thông tin về những cuộc biểu tình nổi dậy của người nông dân Trung Quốc đòi lại ruộng đất nhà cửa và quyền được sống, nhưng họ đã không thể che giấu được những tin tức về thị trường lao động khi các chủ nhân ngoại quốc đã rút vốn đóng cửa nhà máy xí nghiệp gia công sản xuất làm cho hàng triệu công nhân Trung Quốc không có việc làm; cũng như những tin tức về thị trường chứng khoán ở Hoa Lục bắt buộc phải công khai số liệu mỗi ngày vì có sự tham gia của các nhà đầu tư ngoại quốc.

Khi Trung Quốc bị bắt buộc phải tự công khai như thế đã giúp cho người ta thấy rõ toàn cảnh của những giao dịch thị trường chứng khoán Thượng Hải đang ở trạng thái tuột dốc; một số lượng phỏng chừng 67 ngàn công ty nội địa Trung Quốc đã đang lâm cảnh khánh tận và chắc chắn những công ty ngoại quốc hiện ở tại Hoa Lục đang vội vã tìm đường rút lui; cả hai khu vực tài chánh ngân hàng và kinh doanh địa ốc của Trung Quốc đang chịu đựng tổn thất rất nặng. Các nhà quan sát và phân tích tình hình chính trị và kinh tế Trung Quốc đã chỉ ra rõ tình trạng trống rổng ở đàng sau những hình ảnh quyền lực của đảng Trung Cộng. Các tập đoàn cầm quyền đảng Trung Cộng ở các cấp đang không thể nào tiếp tục che giấu sự thật và lừa dối nhân dân Trung Quốc lâu hơn nữa, bởi vì nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN mang bản chất Trung Cộng mà họ đang xây dựng thực sự đang bị khủng hoảng rất trầm trọng.

Ở trong nước Trung Quốc không có cái gì là thật và giản dị. Có rất nhiều đồ vật hoặc sự việc ở bên ngoài trông có vẻ rất đẹp rất hay nhưng ở bên trong lại trống không hoặc giả mạo. Một trường hợp điển hình được nhắc lại ở đây là Buổi Lễ Khai Mạc Thế Vận Hội Bắc Kinh Mùa Hè 2008 vừa qua. Buổi Lễ Khai Mạc đã được hơn 80 yếu nhân lãnh đạo ngoại quốc tới tham dự, họ đã làm như vậy chỉ để giữ lấy cái thể diện của chính phủ của họ. Thế Vận Hội Bắc Kinh như một bửa đại tiệc linh đình để tập đoàn cầm quyền trung ương đảng Trung Cộng nhân danh người dân Trung Quốc ở Hoa Lục mà thiết đãi quan khách quốc tế với lòng kiêu hãnh tự hào Hán tộc quật cường. Bửa đại tiệc thế vận hội đã tàn, các quan khách quốc tế đã ra về từ lâu và họ đã mau quên đi cái tính khoa trương thái quá của những người tổ chức; tuy nhiên, cái dư vị đắng cay của bửa đại tiệc quá xa xỉ tốn kém kia vẫn còn nguyên trong miệng trong lưỡi của người dân Trung Quốc cho tới hôm nay.

Sau cái xa xỉ hào nhoáng của cái buổi lễ khai mạc quá tốn kém xem như những màn biểu diễn nghệ thuật ở những phim trường rộng lớn, chỉ một vài ngày sau là sự thật bị che giấu lại được phơi bày ra cho cả thế giới đều biết. Quang cảnh pháo bông màu sắc rực rỡ ở khắp nơi trong thành phố Bắc Kinh là do máy điện toán tạo ra trước đó, rồi lại đem phát ra ở những màn ảnh đại vĩ tuyến để làm hoa mắt khán giả ở trong buổi lễ và khán giả ở các màn ảnh truyền hình khắp thế giới; em gái nhỏ xinh xắn dễ thương đứng trên sân khấu chỉ hát nhép; năm mươi sáu em thiếu niên nam nữ mặc trang phục dân tộc thiểu số khác nhau ở Trung Quốc để mô tả cuộc sống chung hoà bình và hài hoà chủng tộc ở trong Hoa Lục, thì tất cả các em lại toàn là Hán tộc.

Một cách mỉa mai, sự thật cũng tương tự như vậy đối với sự lai căng của nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN mang bản chất Trung Cộng. Kể từ năm 1978 tập đoàn cầm quyền trung ương đảng Trung Cộng đã cho áp dụng chính sách "cải cách và cởi mở" của Đặng Tiểu Bình để xây dựng một nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN mang bản chất Trung Cộng, thì nền kinh tế Hoa Lục đã phát triển với một tốc độ nhanh phá kỷ lục trước những con mắt quan sát của một thế giới tăng dần mức báo động vì cái nền kinh tế lai căng càng ngày càng tăng nhiệt độ của nó.
Có một số học giả nổi tiếng đã ước tính rằng sự tăng trưởng của nền kinh tế Hoa Lục sẽ tiếp tục lớn mạnh cho tới năm 2020. Vì vậy đã có nhiều người vội vàng đồng ý các quan điểm và nhận định của họ với một giá trị tiêu biểu chỉ ở bề mặt, nhưng thực tế ở trong Hoa Lục ngược lại không một cái gì có được một giá trị thật. Vì cái lý lẽ đó mà nền kinh tế Hoa Lục đang cần phải được xem xét lại giá trị thực sự của nó dưới mọi khía cạnh được phơi bày minh bạch.

Một cách cụ thể là chỉ số của thị trường chứng khoán Thượng Hải đã giảm mạnh từ 6124 điểm trong tháng 10 năm 2007 xuống 2154 điểm vào ngày 8 tháng 9 năm 2008. Nói cách khác là chỉ số chứng khoán đã giảm 64.8 phần trăm.

Có chừng 100 triệu người Trung Quốc hiện nay đang bị trói chặt vào cái thị trường chứng khoán và họ đang phải chịu đựng cái nỗi lo sợ thua lỗ nặng nề. Sự thua lỗ nặng nề cho đến nỗi những người Trung Quốc rất giàu cũng cảm thấy những ước muốn của họ hiện nay bị dập tắt rất phũ phàng.

Thị trường chứng khoán "phong vũ biểu" của Trung Quốc đang trải qua nhiều cái "tụt xuống liên tiếp" cho thấy rằng nền kinh tế Hoa Lục đang phải đối diện với rất nhiều khó khăn. Năm ngoái các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp đã cho liệt kê những công ty Trung Quốc trong Hoa Lục để chứng tỏ sức tăng trưởng mạnh và thu lợi cao; tuy nhiên, trong năm nay họ đang phải đương đầu với những khiếm hụt nặng nề dẫn tới phá sản, hoặc là ngược lại họ sẽ nhận được tiếp sức cứu nguy khi họ phải trở thành công cụ của chính phủ Trung Cộng để luân chuyển lượng tiền Nhân Dân Tệ do chính phủ cho in thêm nhiều tiền và phát hành xoay vòng trong Hoa Lục. Nếu như vậy thì mức lạm phát ở Hoa Lục càng ngày càng tăng cao hơn.

Căn cứ vào chính số liệu thống kê trong các báo cáo kinh tế của chính phủ Trung Cộng cho thấy trong sáu tháng đầu năm 2008 ở trong Hoa Lục đã có "độ chừng" 67 ngàn công ty kinh doanh cỡ nhỏ và cỡ trung đã đóng cửa vì khánh kiệt và đã khiến cho "độ chừng" 20 triệu người dân Hoa Lục phải bị thất nghiệp. Tại sao số liệu thống kê của chính phủ mà lại có tính cách "độ chừng"? Các số liệu thống kê của những chính phủ cộng sản độc tài đã có cái truyền thống giả tạo gian dối. Dĩ nhiên những người quan sát và phân tích tình hình Hoa Lục đều nhận định rằng "cái con số thật" phải dễ sợ lắm.

Cái kích thước rộng lớn của sự sụp đổ này trong tiến trình xây dựng một nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN mang bản chất Trung Cộng đã tự nó bộc lộ rõ những vấn đề nghiêm trọng đã bị cố ý bỏ qua để đẩy nhanh mức độ phát triển kinh tế Hoa Lục mà giờ đây những vấn đề này quay trở lại hàng đầu trực diện với các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp. Sau khi hàng loạt các xí nghiệp gia công sản xuất và các công ty kinh doanh cỡ nhỏ và cỡ trung đã phá sản, chắc chắn một hệ quả sụp đổ dây chuyền sẽ tiếp tục nhanh chóng va chạm tới những công ty cỡ lớn ở trong Hoa Lục.

Các yếu tố định giá lại đồng Nhân Dân Tệ, sự tăng giá của nguyên vật liệu, chi phí lao động tăng cao hơn, xuất cảng giảm sút hơn trước, người di dân từ nông thôn ra thành thị làm công ăn lương thấp không có nhiều như trước và thiếu hụt năng lượng sản xuất đang khiến cho lợi nhuận của các công ty bị giảm nhiều. Hơn nữa, các công ty của người Trung Quốc ở Hoa Lục sẽ gặp khó khăn hơn trong việc huy động vốn và những món tiền vay để kinh doanh sẽ có lãi suất cao hơn cũng sẽ đẩy các công ty này tới bên bờ vực thẳm.

Có một thí dụ cụ thể là ở Vùng Đồng Bằng Sông Dương Tử, khu vực kỷ nghệ gần Thượng Hải và Quảng Đông, đã từng có rất nhiều xí nghiệp gia công sản xuất đủ loại hàng hoá tiêu dùng cho cả thế giới, hiện nay hầu như tất cả các xí nghiệp này đều đóng cửa ngưng hoạt động, và đã chạm mức phá sản, bởi vì rất nhiều công ty ngoại quốc đã rút lui và rất nhiều công ty Hoa Lục đã khánh tận.

Trong cùng thời gian này rất nhiều người dân ở Mỹ đang chịu đựng cơn khủng hoảng tín dụng địa ốc và có thể còn kéo dài tới năm 2010; cũng như nạn thất nghiệp đang tăng lên trên mức ấn định an toàn 4 phần trăm ở trong toàn nước Mỹ, cho nên sức tiêu thụ của họ đang giảm sút rất rõ. Tương tự như vậy, nhu cầu tiêu thụ hàng hoá gia dụng ở Liên Âu và các nước khác trên toàn thế giới đang giảm mạnh và sức tiêu thụ chậm chạp ở Mỹ, ở Liên Âu và các nước khác đang trực tiếp ảnh hưởng mạnh tới các doanh nghiệp xuất cảng của Trung Quốc.

Trong khi khu vực xí nghiệp gia công chế xuất để xuất cảng đang bị trì trệ hoặc ngưng sản xuất và chạm mức khánh tận thì khu vực kinh doanh địa ốc của người Trung Quốc tại Hoa Lục cũng đang bị chựng lại. Cái bong bóng địa ốc ở Hoa Lục từ bấy lâu nay đã được bơm quá nhanh và quá căng cứng đang có nguy cơ nổ tung nếu không kịp thời cho xả bớt hơi để nó có thể xẹp xuống an toàn. Trung Quốc là một nước theo chế độ cộng sản dưới sự toàn trị độc tài của độc đảng Trung Cộng cho nên toàn bộ đất đai đều là tài sản của nhà nước, hay nói đúng hơn là tài sản do độc đảng Trung Cộng chiếm hữu và có toàn quyền sử dụng. Các tập đoàn cầm quyền đảng Trung Cộng ở các cấp ngang nhiên trở thành những địa chủ ở các địa phương trong Hoa Lục. Họ là những sở hữu chủ đất đai ở các địa phương và họ đã bán hết những lô đất đã được qui hoạch phát triển đô thị hoá với những giá tiền rất cao cho những nhà thầu phát triển địa ốc, những nhà thầu phát triển địa ốc này cũng là những đảng viên Trung Cộng đã lột xác để tư nhân hoá các công ty địa ốc của họ. Các tập đoàn cầm quyền đảng Trung Cộng các cấp ở địa phương đã cho phép những nhà thầu phát triển địa ốc này trả tiền mua đất tới 80 phần trăm của tổng trị giá lô đất bằng những món tiền vay ngân hàng. Với một qui mô nhỏ hơn, có một số người dân thường ở Hoa Lục cũng có đủ tiêu chuẩn vay tiền ngân hàng để mua căn nhà của họ. Đó là trình bày sơ lược về thị trường địa ốc ở Hoa Lục, nhưng dưới sự chỉ đạo gian xảo tráo trở của các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp thì cái thị trường địa ốc ở Hoa Lục rất phức tạp.

Với số tiền 500 tỉ mỹ kim là lợi tức thu được trong kinh doanh xuất khẩu, các tập đoàn cầm quyền đảng Trung Cộng đã cộng chung với các món tiền vay ngân hàng độ chừng là 100 tỉ mỹ kim để đầu tư vào các công ty hợp doanh với các nhà thầu phát triển địa ốc Hoa Lục. Chủ trương và cách thức kinh doanh địa ốc kiểu này đã làm phát sinh một cuộc "đổ xô đi tìm vàng" trong khu vực kinh doanh địa ốc ở Hoa Lục và nó đã đẩy những cái giá tiền nhà đất lên tận mây xanh; chỉ mới một hai năm qua mà giá tiền nhà đất tại Hoa Lục đã tiếp tục tăng cao hơn năm sáu lần.

Trong hai thập niên vừa qua ở Hoa Lục cái kỷ nghệ xây dựng cao ốc của người Trung Quốc dưới sự chỉ đạo của độc đảng cầm quyền Trung Cộng đã điên cuồng, mê loạn trong việc xây cất rất nhiều chung cư nhiều tầng và rất nhiều toà nhà chọc trời ở khắp nơi. Trong rất nhiều năm đã qua hầu như đa số những toà nhà chung cư này chưa có người ở và những toà nhà chọc trời này chưa có dùng cho việc gì. Cũng như cả cái làng thế vận hội rộng lớn kia cũng đang bỏ trống một cách rất lãng phí, nhưng những sở hữu chủ của nó không cần biết tới. Vì họ là những nhà thầu phát triển địa ốc người Hoa Lục, mà họ cũng chính là những đảng viên Trung Cộng và tài sản của họ được tính bằng giá trị địa ốc. Được biết là họ đã chiếm hơn phân nửa số người trở thành tiêu biểu cho một giai cấp mới là Đại Tư Sản Đỏ của Hoa Lục.

Trong quá khứ không lâu tất cả bọn họ đã rất mạnh dạn trong việc tận dụng quyền lực của các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các địa phương khác nhau để chiếm hữu ruộng đất nhà cửa và những phương tiện khác của người nông dân Trung Quốc yếu thế. Họ đã luôn luôn sử dụng bạo lực của bọn công an cảnh sát ở địa phương để trấn áp tàn bạo sự phản kháng của người nông dân Trung Quốc. Kết quả của bạo lực cướp giựt đó là ruộng đất của một số đông nông dân Trung Quốc đã nằm trong tay của một số ít đảng viên Trung Cộng có thế lực đảng trị và có rất nhiều tiền mỹ kim. Một thực tế rất rõ ràng là ở Hoa Lục đã có hơn phân nửa tổng số các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng tại địa phương có được những thu nhập lợi tức rất cao từ thị trường kinh doanh địa ốc.

Ngoài cái tệ nạn chiếm hữu ruộng đất và nhà cửa của người nông dân, người dân Trung Quốc ở tỉnh thành cũng phải cam chịu khổ nạn giải toả khu vực dân cư. Cái hình ảnh những chiếc xe ủi ngã sập nhà cửa của người dân hầu như được trông thấy ở khắp nơi trong Hoa Lục. Cái hệ quả thảm thương của cơn bệnh mê loạn xây dựng lên nhà nhiều tầng chọc trời và làm giàu một cách điên cuồng đúng theo chủ trương vô nhân đạo của tập đoàn cầm quyền trung ương đảng Trung Cộng là đã có hàng triệu triệu người dân Trung Quốc trở thành vô gia cư. Đời sống của đa số người dân lao động ở các tỉnh thành càng cực khổ nhiều hơn khi giá tiền nhà cứ tiếp tục tăng cao mà họ thì chỉ kiếm được những đồng lương quá thấp.

Hiện nay cái thị trường địa ốc ở Hoa Lục đang giống như một cái bong bóng bị bơm hơi quá căng cứng để sẵn sàng nổ tung. Những tài sản địa ốc có tính cách cướp giựt để nhanh chóng tăng giá cao, để thu lợi nhiều đang bị ứ động kéo dài ngoài sự dự đoán. Theo nhận định và kết luận của một bản nghiên cứu hiện tình thị trường địa ốc Hoa Lục thì một giải pháp giảm giá 50 phần trăm của toàn bộ địa ốc Hoa Lục mới may ra cái bong bóng được xả bớt hơi để đạt mức an toàn. Cũng tương tự như cái thị trường chứng khoán ở Hoa Lục, cái thị trường địa ốc ở Hoa Lục đang phải đương đầu với một sự giảm sút rõ ràng không thể tránh khỏi. Hai cái thị trường đang bệnh hoạn này của nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN mang bản chất Trung Cộng thay phiên nhau gây ảnh hưởng xấu lên các ngân hàng ở Hoa Lục và tất nhiên là dẫn tới một cơn khủng hoảng toàn bộ kinh tế của chế độ Trung Cộng.

Cũng còn có một số vấn đề quan trọng khác nữa đã xảy ra ở trong Hoa Lục và trực tiếp gây ảnh hưởng xấu lên nền kinh tế đã bệnh hoạn của Trung Cộng:

Trong năm 2008 Hoa Lục đã chịu đựng mọi thứ thiên tai, từ những trận bão tuyết rất lớn cho tới trận động đất ở Tứ Xuyên, từ những cơn mưa đá và mưa giông kéo dài nhiều ngày cho tới những cơn lũ lụt, đã khiến cho rất nhiều bộ phận của nền kinh tế Hoa Lục bị tổn hại rất nặng. Chi phí dành cho công việc tái thiết chỉ riêng cho khu vực Tứ Xuyên thôi cũng đã lên đến 140 tỉ mỹ kim.

Chỉ trong vòng 30 năm ra hết sức để xây dựng phát triển nhanh ở Hoa Lục cũng đã gây ra biết bao thiệt hại nặng nề cho thiên nhiên và tình trạng môi sinh ở Hoa Lục đã trở nên rất xấu. Sự ô nhiễm đủ loại do đã không có kế hoạch xử lý hoàn toàn các nguồn ô nhiễm ngay từ ban đầu cho nên bầu không khí và các nguồn nước tiêu dùng trong sinh hoạt của người dân Hoa Lục đã có những mức độ nguy hiểm rất cao.

Các tập đoàn cầm quyền đảng Trung Cộng ở các cấp chắc chắn phải chịu trách nhiệm và sẽ phải trả một cái giá rất đắc cho việc dọn dẹp làm sạch môi trường sinh sống của nhân dân Trung Quốc mà họ đã gián tiếp gây ô nhiễm qua các chính sách phát triển không cân đối của họ. Hơn nữa họ cũng phải bị bắt buộc cộng tác với nhiều quốc gia khác trong khu vực trong công tác bảo vệ môi trường chung; họ không thể bạo ngược ngang nhiên xây cất nhiều cái đập ngăn nước ở trên vùng thượng lưu của một con sông chảy qua nhiều quốc gia khác khiến cho đảo lộn các hệ sinh thái ở các vùng hạ lưu.

Như trước đây chúng tôi đã có nêu ra những hậu quả xấu của Thế Vận Hội Bắc Kinh Mùa Hè 2008, quả thật Thế Vận Hội Bắc Kinh không chỉ là một sự lãng phí tiền bạc và công sức lao động của nhân dân Trung Quốc mà nó còn làm cho nền kinh tế vốn đã bệnh hoạn nóng sốt quá độ càng bệnh nặng thêm. Căn cứ vào những báo cáo chính thức thì tập đoàn cầm quyền đảng Trung Cộng đã tiêu xài hơn 40 tỉ mỹ kim chỉ riêng phần xây dựng hạ tầng cơ sở của làng thế vận. Thế Vận Hội Bắc Kinh đã đi vào lịch sữ thế vận hội như là một thế vận hội tốn kém nhất. Thế Vận Hội Sydney nước Úc đã tốn tiền của nhân dân Úc là 1.5 tỉ mỹ kim. Thế Vận Hội Los Angeles nước Mỹ đã tốn tiền của nhân dân Mỹ là 500 triệu mỹ kim. Còn Thế Vận Hội Bắc Kinh ở Hoa Lục đã tốn tiền của nhân dân Trung Quốc tới 43 tỉ mỹ kim! Đây là cái dư vị cay đắng mà nhân dân Trung Quốc, đa số vẫn còn nghèo đói, phải ngậm nguyên trong miệng sau khi bửa đại tiệc thế vận hội của tập đoàn cầm quyền Trung Cộng đã tàn.

Nếu nghe theo guồng máy tuyên truyền của Trung Cộng thì Thế Vận Hội Bắc Kinh Mùa Hè 2008 đã là một thành công quá rực rỡ, thí dụ như các lực sĩ thế vận của Trung Quốc đã chiếm số huy chương vàng nhiều nhất. Tuy nhiên, trên phương diện kinh tế thương mại thì rõ ràng nó là một sự thất bại ê chề. Bởi vì các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp đã áp dụng các biện pháp an ninh quá gay gắt cho nên chỉ có 400 ngàn du khách ngoại quốc tới xem Thế Vận Hội Bắc Kinh trong tháng Tám vừa qua. Những người tổ chức thế vận hội đã mong ước là hai triệu du khách ngoại quốc, chứ không phải con số quá khiêm nhường như thế.

Con số phần trăm du khách đã thuê phòng khách sạn đã chứng minh được sự thất bại vừa nêu trên. Trong thời gian có thế vận hội diễn ra, ở những khách sạn bốn-sao chỉ có khoảng 50 phần trăm phòng ngủ đã được du khách thuê; ở những khách sạn năm-sao thì có khoảng 70 phần trăm phòng ngủ đã được du khách thuê; còn lại khách sạn loại bình dân thì chỉ có 30 tới 40 phần trăm tổng số phòng đã được du khách thuê. Thật là mỉa mai khi những con số phần trăm này lại cho thấy rõ số lượng du khách ngoại quốc thuê phòng khách sạn ở thành phố Bắc Kinh lại giảm xuống 20 phần trăm so với cùng kỳ trong năm 2007. Sự vắng khách thưởng ngoạn các cuộc tranh tài của lực sĩ ở Thế Vận Hội Bắc Kinh đã được nhận thấy rõ ràng qua các hình ảnh của rất nhiều dãy ghế ngồi bỏ trống ở các khán đài.

Tình trạng vắng khách như vậy cũng đã xảy ra ở nhiều cửa hàng kinh doanh nhiều loại khác nhau trong thời gian có thế vận hội diễn ra tại Bắc Kinh. Thí dụ như các cửa hàng ăn uống hạng sang và hạng trung bình tại thành phố Bắc Kinh đã dự tính là phải có rất đông thực khách tới thưởng thức các món ăn độc đáo của họ, nhưng thực tế chỉ có hai phần ba của tổng số thực khách dự trù đã tới các tiệm ăn này. Như vậy, sau khi Thế Vận Hội Bắc Kinh đã bế mạc và tổng kết kinh doanh gồm đủ các loại đã cho biết rõ là một sự thất bại và buôn bán lỗ lã nặng nề.

Trong nhiều năm trước khi khai mạc Thế Vận Hội Bắc Kinh 2008, có nhiều chuyên gia về ngành du lịch của Trung Cộng đã dự tính và tiên đoán là có khoảng hai triệu du khách ngoại quốc đổ xô tới thành phố Bắc Kinh trong thời gian có thế vận hội diễn ra và sau đó còn tiếp tục đi tham quan du lịch ở các nơi khác ở trong Hoa Lục. Thực tế đã cho thấy chỉ có độ chừng bốn trăm ngàn du khách đã tới thành phố Bắc Kinh. Hơn nữa, cái sự cố không hay của hai du khách người Mỹ, một bị đâm chết và một bị thương rất nặng trong lúc đang được hướng dẫn đi tham quan di tích lịch sử Trung Quốc, đã khiến cho rất nhiều du khách ngoại quốc đã lỡ tới Bắc Kinh rồi sau đó họ không còn thích đi đâu nữa. Như vậy Thế Vận Hội Bắc Kinh 2008 đã thất bại nặng nề khi không đạt được những kỳ vọng của một sự cố quyến rũ du lịch quốc tế.

Hơn nữa, trong thời gian có thế vận hội đang diễn ra là giá xăng dầu tăng cao và khách hàng tiêu thụ ở trên khắp thế giới đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của lạm phát trong nước của họ. Ở nước Mỹ đã xảy ra cơn khủng hoảng tín dụng địa ốc và nó thực sự khiến cho người dân Mỹ phải tính toán cẩn thận nhiều hơn khi tiêu tiền. Có rất nhiều người dân Mỹ cuối cùng đã quyết định không đi du lịch Bắc Kinh để xem Thế Vận Hội Mùa Hè 2008 như đã dự tính trước đó, vì giờ đây họ đã bắt đầu biết tiết kiệm nhiều hơn. Cũng tương tự như vậy, có rất nhiều người dân Trung Quốc ở các thành phố khác nhau trong Hoa Lục đã không đi xem Thế Vận Hội Bắc Kinh. Họ đã ở lại nhà để xem những cuộc tranh tài thế vận hội trên màn ảnh truyền hình.

Những người quan sát và phân tích tình hình ở Hoa Lục đã chỉ ra một dữ kiện mà chính nó đã làm cho ngành du lịch của Trung Quốc bị thất bại thê thảm trong thời gian có thế vận hội. Đó là vào đầu tháng Tư năm 2008 tập đoàn cầm quyền trung ương đảng Trung Cộng đã đột ngột cho áp dụng các biện pháp an ninh rất gay gắt và kiểm soát việc cấp chiếu khán nhập cảnh vào Hoa Lục thật chặt chẽ. Một cách quá vô lý đến độ rất kỳ quặc, ngớ ngẩn là trong thời gian nhiều tháng trước ngày lễ khai mạc thế vận hội thì giới cầm quyền Trung Cộng đã yêu cầu tất cả du khách ngoại quốc phải xuất trình bằng chứng là họ có sẵn sàng nơi tạm trú hoặc tờ biên lai xác nhận đã đặt thuê trước phòng khách sạn, và nhất là cái vé máy bay khứ hồi phải trở về quốc gia gốc của họ chứ không phải một nước nào khác; nếu họ có đạt được những yêu cầu đó thì họ mới được cấp chiếu khán nhập cảnh vào Hoa Lục để xem thế vận hội. Cái biện pháp kỳ cục này đã khiến cho rất nhiều du khách ngoại quốc cảm thấy rằng giới cầm quyền Trung Cộng không được thân thiện và không tạo sự dễ dàng, thuận tiện cho du khách tới Bắc Kinh.

Cũng có những nguồn tin nội bộ của ban tổ chức thế vận hội là họ dự trù tới 80 phần trăm của tổng số vé là dành cho khán giả nội địa ở Hoa Lục, và đây cũng là một hình thức biểu lộ tinh thần ham chuộng thể thao, đồng thời nâng cao lòng tự hào dân tộc của người dân Trung Quốc. Tuy nhiên, thực tế của đại đa số nhân dân Trung Quốc đã phũ phàng không đáp ứng lại sự mong muốn của tập đoàn cầm quyền Trung Cộng khi họ không mua vé đi xem các cuộc tranh tài của các lực sĩ thế vận. Một cách rất giản dị và không tốn kém quá nhiều trong thời buổi sinh sống khó khăn là họ chỉ việc ở lại nhà mà cũng xem được thế vận hội trực tiếp truyền hình.

Nhân dân Trung Quốc đã tiếp tục phản kháng chống lại các tập đoàn cầm quyền Trung Cộng ở các cấp bằng nhiều hình thức, và một hình ảnh phản kháng tiêu biểu nhất là ngay trong buổi lễ khai mạc thế vận hội, trước hàng triệu cặp mắt của những khán giả đang ngồi trên khán đài và những khán giả đang ngồi xem trước màn ảnh truyền hình trên khắp thế giới, lá cờ máu trung cộng đã bị treo ngược-the red blood chinese communist flag was put upside down. Có thể lá cờ máu trung cộng này đã từng bị nhân dân Trung Quốc ở Hoa Lục treo ngược nó nhiều lần ở nhiều nơi rồi, nhưng vì các tập đoàn cầm quyền đảng Trung Cộng ở các cấp đã che giấu sự thật bưng bít thông tin, cho nên nó đã tìm được một cơ hội trăm năm mới có một lần là thế vận hội ở Bắc Kinh, để một lần nữa nó bị treo ngược là quá đủ ý nghĩa cho tất cả những lần đã xảy ra về trước và những lần nữa sẽ xuất hiện trong tương lai khi nhân dân Trung Quốc đòi lại các quyền làm người của họ mà các tập đoàn cầm quyền đảng Trung Cộng ở các cấp đã lường gạt họ rồi cướp mất đi từ năm 1949 cho tới nay.

Để kết luận, chúng ta hãy xét qua tổng quát tình hình kinh tế thế giới hiện nay: nền kinh tế Mỹ đang bước vào giai đoạn suy thoái, cái cỗ máy kinh tế ở toàn Liên Âu đang chạy chậm tại chỗ, và ở Nhật Bản thì chỉ số tăng trưởng đang trở thành số âm; đó là những hình ảnh trung thực chỉ rõ cho chúng ta thấy tình hình kinh tế thế giới đang lâm vào cảnh suy thoái trầm trọng có lẽ còn tệ hại hơn cả Thời Kỳ Suy Thoái trước Đệ Nhị Thế Chiến. Riêng nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN mang bản chất Trung Cộng trong giai đoạn cuối cùng của tiến trình hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thị trường thế giới, nền kinh tế lai căng này không thể nào tránh khỏi bị cuốn hút mạnh vào tâm điểm của trận cuồng phong suy thoái kinh tế toàn cầu. Ở Hoa Lục trong thời đại Mao Trạch Đông đã có hàng triệu người dân Trung Quốc bị chết vì đói. Giờ đây ở Hoa Lục trong thời kỳ kinh tế thị trường có định hướng XHCN mang bản chất Trung Cộng sẽ có rất nhiều công dân Trung Quốc thuộc giai cấp Tư Sản Mới sẽ chết vì phá sản.

Thuỷ-Triều
20/09/2008


Saturday, September 20, 2008

Ba “khúc ruột (già) ngàn dặm” suýt bị đem luộc chấm mắm tôm!


Bìa CD ghi các bài hát của nhạc sĩ Tô Hải mà ông in riêng để tặng ba người em từ nước ngoài về thăm và đã bị công an CSVN tịch thu. (Hình: Blog Tô Hải)


LTS.- Ông Tô Hải, 81 tuổi, nhạc sĩ nổi tiếng từ thời “tiền chiến” với bài “Nụ Cười Sơn Cước” đã từng đứng trong hàng ngũ cộng sản và được CSVN tặng nhiều huy chương. Về già, ông viết blog, bày tỏ ý kiến về những vấn đề vốn thuộc loại “nghịch nhĩ” chính quyền.

Tháng 12 năm 2007, ông Tô Hải chống gậy đi biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ. Kể từ đó, Tô Hải bị “đánh dấu”.

Bài viết dưới đây là câu chuyện Tô Hải kể lại việc ba người em của ông từ nước ngoài về Việt Nam thăm ông đã bị công an CSVN sách nhiễu như thế nào do có liên quan tới ông ...

Số là, sau 33 năm “lẩn tránh” ông anh cả, một mình bỏ nhà ra đi cứu nước, chiến đấu liên tục suốt 43 năm dưới cờ đỏ sao vàng (tớ trừ đi 20 năm từ ngày về hưu kẻo mang tiếng là. .. công thần), mãi tới nay, ba đứa em gái ruột tớ mới về gặp ông anh “Việt Cộng cỡ bự” xem sao!?

(Vì chúng nó lầm tưởng tớ là ông Tô Hải trùng tên tớ - làm Vụ Phó Vụ Nghệ Thuật mà chẳng có một miligram nào nghệ thuật - thời Cách Mạng Văn Hóa đã từng lãnh đạo Ðoàn Xiếc VN sang Tầu đi biểu tình hò hét phá phách cùng bọn Hồng Vệ Binh và tuyên bố với khắp thế giới là “Vinh dự được làm 'tiểu tướng' của Mao Chủ Tịch”).

Tội cho tớ và cho gia đình tớ ở “phía bên kia”! Thành kiến và nỗi “sợ” tớ kéo dài cho mãi tới khi thằng cháu, con đứa em thứ tư về “thử” Việt Nam thời mở cửa và kinh doanh thành đạt cùng cái công ty Bắc Việt của nó, đóng tại 23 Láng Hạ, Hà Nội và 116 Nguyễn Trãi-Sài Gòn... Tiếp đó là mẹ nó, cũng trở về thăm dò và điều tra ra rằng ông anh cả không phải là “tiểu tướng của Mao Chủ Tịch” mà chỉ là “tiểu tốt của cái đẹp vô sản” thôi!

Thế là chúng nó rủ nhau cả ba về gặp tớ cùng một lượt ... Thật ra phải gọi chúng nó là. .. “ba cụ em” mới đúng! Vì Tô Ngọc Bích đã 79 tuổi (ngồi xe lăn khi lên máy bay), Tô Tuyết Nga 75 và út ít Tô Ánh Tuyết đã ... 68!

Ấy vậy mà, sáng 6 tháng 9 vừa qua, trong chuyến bay về Hoa Kỳ hồi 6 giờ sáng, ba cụ Việt kiều yêu nước thật sự đã bị một “lũ 5 tên”, không mặc quân phục, không đeo biển hiệu, gọi từng cụ vào phòng riêng để khám toàn bộ hành lý, nắn từng cái cạp quần, cái xú chiêng, xi lip suốt 2 tiếng đồng hồ!

Tất cả đều phải khai lý lịch từ cha, mẹ, chồng, con, anh em, con cháu, làm gì? Ðến Việt Nam với mục đích gì?

Cuối cùng, bọn chúng chỉ tịch thu được ... toàn bộ tác phẩm của ông “anh cách mạng' được nhà nước tặng giải và xuất bản, giới thiệu rộng rãi trên đài TNVN, trên tivi trung ương và Sài Gòn! Tất cả đều do tớ bỏ tiền túi chuyển từ băng video, cassette qua CD với bản thảo chép tay tặng ba cụ em có chữ ký làm kỷ niệm để chúng nó về khoe với mọi “khúc ruột” khác là ông anh chúng cũng “được” viết tình ca như “Nụ Cười Sơn Cước” và cũng biết viết cả giao hưởng - hợp xướng 4 chương như “Tiếng Hát Biên Thùy”.

Cái thời bọn tớ “còn được coi trọng”, làm gì đã có CD, VCD, DVD? Tất cả chỉ là những băng được các cán bộ biên tập sau khi phát thanh, phát hình, in tặng cho một bản làm kỷ niệm, chứ làm gì có trung tâm nào thèm in CD, VCD cho bọn nhạc sĩ cổ hủ, lạc hậu bọn tớ như đối với các siêu “ca-nhạc sĩ không cần đồ rê mi” ngày nay!

Muốn giữ làm kỷ niệm đều phải chuyển sang CD vì thời nay ai còn giữ ba cái máy nghe băng cối, băng cát xét!

Vậy mà họ cứ tịch thu, tuyên bố là ... “hàng lậu” vì không có ... dán tem!? Em tớ, thuộc luật về xuất bản Việt Nam hơn cả bè lũ 5 tên này đã thuyết trình hết hơi với chúng nó rằng đây không phải là xuất bản phẩm mà chỉ là băng của các đài nhà nước được anh tôi chuyển sang cho mỗi đứa hai đĩa CD kèm theo bản thảo hẳn hoi, ba người đều được đề tặng công khai. Chẳng buôn bán gì mà lậu với chẳng lị! Còn việc khai lý lịch tại sao chỉ áp dụng với chị em tôi, tại sao đưa hết thẻ nhớ của máy ảnh chúng tôi vào máy tính trong khi những người khác thì không? ...

Bọn này chỉ ú ớ đánh trống lảng sang chuyện khác như “hỏi thăm sức khỏe nhạc sĩ Tô Hải”?

Biết lý sự mãi với “bọn trương tuần thời hiện đại” này chẳng có lợi gì nên cả ba cụ đều phải khai tuốt, với ý đồ: “Chẳng bao giờ quay lại đây để chúng mày có thể trù dập, bỏ tù hay vu vạ 'mang ma túy, súng lục để khủng bố, khủng mẹ' ai ai đó nữa!”

Có thể sau khi đọc những cái tên, chức vụ “bác học nguyên tử, giáo sư, tướng ngụy”, có tên tuổi và cao cấp hơn cả Nguyễn Cao Kỳ, trong bản khai mà ba em tớ đành cắn răng ký cho xong kẻo lỡ chuyến bay, cấp trên của bọn năm tên này sẽ chửi rằng chúng thiệt là ngu vì đã để cho ba nhân vật quan trọng này “thoát”, không giữ lại làm con tin vì có thể trao đổi khối thứ với chính phủ Hoa Kỳ. Cũng có thể chúng được khen vì đã biết thêm “quan hệ phức tạp' của lão già Tô Hải này để mà có “biện pháp” khi cần ...

Riêng với tớ, nếu các friend nào chưa đọc, hãy click vào entry “Khai lý lịch thật thà” trên highlighted post để thấy rằng đã từ lâu rồi tớ chẳng sợ gì cái trò trù ếm vì lý lịch... “toàn gia theo... địch” cả!

Ðiều làm tớ ăn không ngon, ngủ không yên chính là hai vấn đề sau:

1/ Có phải hành động trên là nhằm vào chính tớ, lão blogger già nhất nước hay “cầm đèn chạy sau ô tô”, chuyên kể những chuyện mà người ta đang muốn quên đi để... âm thầm sửa chữa? Nói trắng ra là: Tớ hay tố khổ về những sai lầm của thời quá khứ mà chính tớ “vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm”! Toàn là những sai lầm của “Ðảng ngày xưa”. Tuy nhiên “có ai đó” lại cho là... những gì tớ viết ... có hại cho Ðảng ngày nay chăng?!

Nhất là từ cái ngày tớ dám chống gậy đi biểu tình ... (hụt) lên án bọn Tầu xâm lược Hoàng Sa-Trường Sa, rồi lại còn phát biểu trên blog những “ý kiến trái chiều với đường lối ngoại giao 16 chữ vàng” của Ðảng ... nên người ta lo sợ tớ chuyển tài liệu “phản động”, có hại cho nhà nước XHCN ... và họ “hành” ba cụ em tớ đặc cách như thế!?

Nếu đúng vậy thì họ quá ư ngu, đại ngu, chí ngu, cực ngu vì nếu có những “tài liệu phản động” đó, tớ dại gì mà cho ba em tớ mang qua cửa khẩu Tân Sơn Nhất! Thời đại vi tính này, chỉ vài ba thao tác trên computer, trình độ cà mèng về vi tính như tớ, cũng có thể phổ biến cả một cuốn “Trần Dần Thơ”, “Thời của thánh thần”, hoặc gần đây “Ði tìm cái Tôi đã mất” (một luận văn lên án “văn nghệ vô sản” chưa từng có) của Nguyễn Khải ra khắp thế giới dễ ợt!

Ngay khi nhận được tin chẳng hay ho gì này, qua điện thoại và email của ba cụ em họ Tô (tớ không thể ra tiễn vì sức yếu, chân què), tớ đã vội gửi ngay, gửi tất cả những gì bị tịch thu bằng MP3 đã có sẵn trong CPU cho chúng nó qua email, chỉ có điều không thể ký tên và đề vài câu “Thân yêu tặng em ... của tôi, kỷ niệm ngày gặp mặt sau 62 năm xa cách”... mà thôi!

2/ Ðã từ lâu tớ luôn nghi ngờ có một “xã hội đen chính trị” luôn tìm mọi cách làm ngược với những gì mà nhà nước ra tuyên bố, Ðảng ra nghị quyết. Này nhé:

- Về kinh tế thì chúng dùng tiền của các tập đoan nhà nước tung vào kinh doanh những thứ chẳng dính líu gì đến biển hiệu của chúng cả. Chỉ riêng chuyện cổ phần hóa chúng cố tình dây dưa và đánh giá tài sản rẻ hơn bèo để chia chác nhau những “đầu (cổ) phần sư tử”... Còn việc kê khai tài sản, dù quốc hội, báo chí nhắc đi nhắc lại cả trăm lần, bọn tư bản đỏ vẫn cứ lờ tịt mà chẳng ai dám động tới cái lông chân. Lâu đài, nhà đất, tài khoản của con cháu gửi ở trong và ngoài nước, xe cộ, máy bay, ... từ nguồn thu nhập nào mà chúng có? Chẳng ai dám sờ tới . Còn hàng vạn chứng cớ sờ sờ ra đấy mà có đứa nào phải dựa cột như ở bên Tầu đâu? Tớ dốt đặc về món kinh tế nên chỉ kể ra một vài thắc mắc lâu ngày, qua những gì các ban thanh tra, báo chí và cả quốc hội đã nêu ra. Thế thôi!

3/ Về xã hội thì ... do chẳng mấy khi tớ “hạ sơn”, trừ lúc đi bệnh viện nhưng chỉ đứng từ ban công quan sát cái khu Miếu Nổi của tớ đã thấy là: Mỗi năm một xuống cấp. Ðĩ điếm, ăn cắp, giựt dọc, ma túy, côn đồ, đâm chém, giết người, tự tử ... diễn ra rất vô tư trên hai bờ kênh Nhiêu Lộc! Cậu Ninh, công an khu vực thú thật với tớ: “Không thể dẹp nổi! Có một mình cháu, Bó tay!” Gần đây, chính quyền đã cho chặt bỏ hết những hàng cây rất đẹp trồng hai bên bờ vì... quá um tùm và dễ đồng lõa với ... tiêu cực!

4/ Về văn hóa tư tưởng thì ... ôi thôi! Không ai ngăn nổi các thứ văn hóa nghệ thuật nhổ toẹt vào đường lối dân tộc và hiện đại đúng đắn với bất cứ một thể chế nào trên thế giới này nữa. Phải chăng chính cái “xã hội đen chính trị” này đang khuyến khích và cho phép các thứ làm bẩn tâm hồn con em chúng ta bằng những triết lý sống, phong cách sống mất gốc, lai căng, qua những “sáng tác” mà người xem, người nghe có văn hóa đều phải đỏ mặt. Ðiển hình nhất là các vụ âm nhạc ăn cắp lại được “bao che” bằng những tuyên bố của một vị thiếu tướng, chủ tịch Hội Ðồng Nghệ Thuật rằng thì là: “Chuyện này chính quyền không có ý kiến, chuyên môn không có ý kiến!” Ðiển hình hơn nữa đối với bản thân tớ là: Ngăn chặn các tác phẩm cách mạng nổi tiếng một thời, đã được phổ biến một thời, được tặng thưởng một thời lại, không được phép đưa ra nước ngoài! Vậy thì ai cố tình dìm chết bọn “văn nghệ sỹ cách mạng” cũ? Ai cho phép các thứ rác rưởi văn nghệ được phép tung vào tận phòng ngủ chúng ta lẫn ra cả nước ngoài những thứ bậy bạ, lai căng, ăn cắp đến nỗi báo chí phải chỉ mặt đặt tên? Việt kiều có lương tâm phải kêu lên vì xấu hổ với những nội dung vô luân, phong cách bắt chước đến dị hợm của một số sao, siêu sao mang chuông đi đấm ... vào tai nước người. Ai cấm cản? Ai cho phép? Nếu không phải là bọn “tuần đinh văn nghệ của bọn xã hội đen chính trị”?

Bài này đã quá dài nhưng tớ vẫn cảm thấy chưa nói hết được nỗi lo lắng bức xúc của tớ trước tình hình đất nước đang ở trong tình trạng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, trên nói một đằng, dưới làm một nẻo. Những “lời vàng, ý ngọc” như “Tôn trọng ý kiến trái chiều”, “Quên quá khứ, Xóa bỏ hận thù, Hướng tới tương lai” của các chú lãnh đạo cao nhất nước, chúng nó đang rắp tâm làm ngược lại. Chẳng lẽ các chú lại ra lệnh cho chúng nó là: “Việc tao, tao nói, việc chúng mày, chúng mày cứ làm” hay sao? Tớ không dám tin vào điều bất hạnh này.

Có luật sư nào mách tớ cách làm đơn kiện ai đó được không? Liệu có nhà báo nào còn thương yêu bọn tớ, có friend nào dám đưa chuyện này lên báo không? Còn tớ, từ ngày làm blogger, văn phong không còn phù hợp với báo chí nhà nước như cái thời tớ đã từng là cộng tác viên thường xuyên “ăn lương tháng, đứng mục tuần” của “Sài Gòn Giải Phóng”, cái thời từng bê giải nhất về báo chí của Hội Nhạc Sỹ Việt Nam dưới những bút hiệu Kính Viễn Vọng, Tô Hải Anh, T.H... đã chỉ còn là. .. quá khứ không bao giờ trở lại.

Tô Hải

Quay lưng lại với toàn dân, Việt cộng để mất chủ quyền Quốc Gia


Lý Đại Nguyên

Sinh Viên Các Trường Đại Học Hà Nội phát động cuộc biểu tình vào ngày 14-09-2008, nhằm chống lại việc Trung Cộng tiếm nhận chủ quyền ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nằm trên thềm lục địa Việt Nam, vốn thuộc chủ quyền của quốc gia Việt Nam từ xưa. Đến khi Việt Nam bị chia đôi. Theo Hiệp Định Geneve lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới thì miền Bắc thuộc Cộng Sản, miền Nam thuộc Quốc Gia. Nên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên công pháp quốc tế, trong thực tế lịch sử hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam và do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa quản trị.

Chỉ đến ngày 04-09-1958, Mao Trạch Đông chủ tịch Trung Cộng công bố quyết định về hải phận 12 hải lý của họ là: “Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là 12 hải lý. Điều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa - tức Hoàng Sa của VN - quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa – tức Trường Sa của VN – và các đảo khác thuộc Trung Quốc” trích từ báo TDNL số 59.

Chỉ 10 ngày sau, 14-09-1958, đảng và nhà nước Việt Cộng Miền Bắc, đứng đầu là Hồ Chí Minh, lén lút giấu Dân Chúng và Quốc Hội (dù đó chỉ là thứ quốc hội bù nhìn) đã ra lệnh cho Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gởi công hàm cho Chu Ân Lai thủ tướng Trung Cộng, rằng: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc”. Như thế Hồ Chí Minh và Việt Cộng đã biết rõ bản công bố của Trung Cộng có ý đồ thôn tính 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Tổ Quốc Việt Nam, mà trong khi đó đang thuộc quyền quản trị hợp pháp của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Nhất là giữa lúc cuộc xung đột Nga, Hoa đang nổ lớn.

Năm 1956, Khrushchev tổng bí thư cộng sản Liên Xô chủ trương “xét lại”, hạ bệ thần tượng Stalin. Mao Trạch Đông “chống xét lại”, trên danh nghĩa họ Mao tự đặt mình vào vị thế “cầm lái” Quốc Tế Cộng Sản. Nhưng trong thực tế là phục hồi tinh thần Đế Quốc Đại Hán Bành Trướng, Phong trào Cộng Sản Quốc Tế đã thực sự tan vỡ. Ranh ma như Hồ Chí Minh hẳn phải biết, chẳng làm gì còn cái thứ “tình đồng chí Cộng Sản Quốc Tế” nữa, mà chỉ còn quyền lợi quốc gia và vị thế cầm quyền của các lãnh tụ mà thôi. Tại sao họ Hồ laị mau mắn công nhận quyền lợi đế quốc của Trungcộng như thế? Vì theo quán tính nô lệ các đàn anh cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh đã quay lưng lại với toàn dân, dù trong thời kháng chiến chống Pháp, họ Hồ đã lừa mị được dân chúng hy sinh cho kháng chiến, nhưng khi có chính quyền một nửa nước. Hồ Chí Minh và Việt Cộng đã phạm nhiều tội ác như: Cải cách ruộng đất. Tịch thu tài sản của các giáo hội, bắt tu sĩ hoàn tục. Hủy bỏ chế độ Tư Hữu, thành lập chế độ Công Hữu Xã Hội Chủ Nghĩa. Quốc hữu hóa công nghiệp, thương nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp, áp dụng chế độ chấm công, Nông Dân trở thành Nông Nô, Công Nhân trở thành Công Nô.

Giao thương hoàn toàn thuộc quốc doanh. Lưu đầy nhân viên chế độ cũ. Thẳng tay đàn áp những văn nghệ sĩ, trí thức và tu sĩ. Khủng bố toàn dân bằng chủ trương “kiểm soát bao tử”. Dù mất hết mọi thứ quyền, và đói khổ triền miên, nhưng lại buộc toàn dân miền Bắc vẫn phải biết ơn Bác và Đảng. Chính vì vậy, Hồ Chính Minh và Việt Cộng không dám tin vào dân, để quay về củng cố vị thế Quốc Gia Dân Tộc, hòa bình với miền Nam, tránh cảnh bị Nga, Tầu xâu xé. Mà lại chọn giải pháp lôi kéo cả Nga lẫn Tầu vào cuộc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam. Bởi thế, họ Hồ và Việt Cộng mới nhanh nhẩu cúi đầu dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng.

Ngày nay, trước sự lộng hành và đe dọa của Trung Cộng, đáng lẽ Việt Cộng phải dựa vào sức dân để chống với mưu đồ bành trướng của Trung Cộng. Như Trung Cộng thường để cho dân chúng biểu tình chống lại áp lực của Mỹ, hay phản đối Nhật khi cần. Đàng này Việt Cộng thẳng tay đàn áp phong trào sinh viên lên án bành trướng Trung Cộng, bắt giam những người đòi Dân Chủ để thỏa hiệp chui với Trung Cộng. Sau khi Trung Cộng tung tin: “Càn quét Việt Nam trong vòng 31 ngày”. Liền đó, hôm 09-09-08, tại Hà Nội, Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam – PetroVietnam – và Tập Đoàn Trung Hoa Chiêu Thương Cục – China Merchants Group - của Trung Cộng đã ký một bàn ghi nhớ hợp tác chiến lược. “Tạo cơ sở quan trọng để 2 bên hợp tác tìm cơ hội đầu tư chung trong các lãnh vực cùng quan tâm và phát huy thế mạnh mỗi bên”.

Điều nổi bật nhất trong bản ghi nhớ này là: “Từ đầu năm 2009, hai bên sẽ ký tiếp các dự án hợp tác trong lãnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí trên lãnh thổ Việt Nam”. Trong cuộc họp báo ngày 12-09-08, Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ John Negroponte tuyên bố rằng: “Mọi tranh chấp trên biển Đông phải được giải quyết bằng đường lối hòa bình dựa theo Công Ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc”. Ông cũng nhấn mạnh rằng: “Các công ty Mỹ có đầy đủ quyền hạn để tham gia hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam”. Xem thế, giữa Mỹ với Tầu đã có sự ăn ý với nhau về việc Hoa Kỳ Hòa Bình Nhập Nội Toàn Diện Việt Nam, mà Trung Cộng chỉ còn là nước đối tác kinh tế với Việt Nam, và được chia một phần dầu khí. Chủ quyền Việt Nam Việt Cộng đã để mất trắng, Hà Nội chỉ còn là công cụ cho ngoại bang.

Nếu giới cầm quyền Hà Nội còn nhất điểm lương tâm, còn chút đỉnh tự ái dân tộc thì nên nghiêm chỉnh đáp ứng Tuyên Cáo Các Yêu Sách của Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, do Hòa Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo công bố:

1- Nhà cầm quyền Hà Nội cần có văn thư chính thức gửi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc phủ nhận Công Hàm ngày 14-09-1958 của ông Phạm Văn Đồng, đồng thời minh định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa…

2- Trả tự do tức khắc cho những cá nhân, đặc biệt là thanh niên, sinh viên bị bắt giữ trong mấy ngày qua…

3- Tôn trọng và bảo đảm cho nhân dân tự do biểu tỏ và biểu tình theo điều 69 trên Hiến Phháp…

4- Loại bỏ điều 4 Hiến Pháp tạo điều kiện cho sự tham gia cứu quốc của toàn dân.

Kết luận, Tuyên Cáo viết:

“Lịch sử Việt Nam qua bao đời từng khẳng định như chân lý rằng: Dựa vào sức mạnh toàn dân làm nòng cốt để giữ nước. Kẻ nào cứ nay chạy theo nước này, mai chạy theo nước khác cầu viện để bảo vệ quyền bính riêng tư của một nhóm người, thì hậu quả sẽ là mất nước và biến mình thành công cụ cho ngoại nhân mà thôi”.

Sống ở thời đại toàn cầu hóa hiện nay, không có nghĩa là mỗi nước phải tự đánh mất chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc của mình, mà phải kịp thời dân chủ hóa chế độ, tạo điều kiện cho mỗi người tự phát huy quyền tự do, lực tự chủ và khả năng sáng tạo, nhằm phát triển nội lực dân tộc, để quốc gia đủ sức mạnh và điều kiện chủ động bang giao với các nước khác. Nhất là cần đứng trong Thế Liên Minh Dân Chủ Thế Giới, để tác động hữu hiệu vào tiến trình toàn cầu hóa.

Lý Đại Nguyên


Lý Tống, Anh Hùng Rải Truyền Đơn

Kim Âu

Việc Lý Tống biệt dạng cả tháng trời rồi từ Nam Hàn gọi điện thoại về báo cho một số thân hữu về cái gọi là “Ðiệp vụ Phạm Hữu“ kèm theo một bản tường trình (báo công) đuợc tung lên diễn đàn khiến những bậc thức gỉa chán ngán lắc đầu trước cái trò bịp bợm lộ liễu, qua ngôn từ nhố nhăng, và vài hình ảnh vớ vẩn mà bất cứ một kẻ nhàn du nào cũng có thể chụp được. Ðọc qua20cái gọi là bản tường trình (Tường trình cho ai? Ai cần biết mà tường trình?), người ta chỉ thấy toàn là những kế hoạch dự định thực hiện với ngôn từ khoa trương hết cỡ (nhưng “trăm voi chẳng được bát nước sáo”) để nói về một vụ mướn phi cơ taxi để rải truyền đơn loanh quanh Seoul không thành và theo lời của Lý ta tự kể cho thấy phi cơ phải đáp khẩn cấp xuống phi trường (nhưng có đáp khẩn cấp hay đáp tà tà cũng không thay đổi được kết quả).

Rời Seoul, Lý Tống bay về Washington D.C. tại đây Lý Tống được ông Bùi Dương Liêm phỏng vấn đưa lên truyền hình. Kết qủa của màn xuất hiện đó chẳng thuyết phục được ai chịu móc túi bố thí vì đứa trẻ lên năm cũng không tin những gì đương sự phát biểu.

Lý Tống trở về San Jose trong sự ghẻ lạnh của mọi người.Vì trong thời gian Lý Tống còn ở D.C, tại San Jose một chuyện xảy ra khá bất ngờ.

Do khó chịu trước những trò bịp bợm, ăn mày, móc túi cộng đồng lâu nay của Lý Tống và bọn gian nhân hiệp đảng với Lý Tống. Một ông Chủ tịch cộng đồng tại San Bruno? Ông Charlie Lý đã gửi thư hỏi Lãnh sự quán Nam Hàn ở San Francisco về những sự việc nằm trong “bản tường trình” đầy những chuyện khóac lác của Lý Tống do đồng bọn phát tán trên mạng.

Mấy ngày sau ông Charlie nhận được lá thư trả lời của ông Lãnh sự Nam Hàn cho biết, ông ta đã gọi về địa phương để tìm hiểu nhưng không hề có trường hợp nào như Lý Tống kể.

Ðể giải thế bí, Lý Tống vội chộp lấy một bài viết diễu cợt anh ta đăng trên báo Mercury News San Jose xem như một bằng chứng để củng cố vai trò “ANH HÙNG RẢI TRUYỀN ÐƠN” của mình.

Tiếp theo, Lý Tống tìm gặp lãnh sự Nam Hàn để cật vấn với hy vọng lời đe dọa đây là một “defamation case” sẽ làm cho ông lãnh sự Nam Hàn rút lại ý kiến của ông ta.

Lý Tống quen chơi trò hủi là hù dọa, làm tiền nên quên rằng ông lãnh sự này đâu có ganh ghét, đố kỵ gì với Tống để phải nói xấu Tống. Ông ta chỉ lập lại những gì ông ta đã được địa phương nơi Lý Tống xem như sân khấu của tuồng cải lương “Ðiệp Vụ Phạm Hữu” trả lời. Sự thật chỉ có thế, ông ta không thể nào làm khác hơn.

Rốt cuộc hành vi áp lực của Lý Tống chỉ có tác dụng làm xấu người Việt Nam trước một dân tộc khác. Trong sự việc nêu trên, người đi tìm cách kiểm chứng nguồn tin và vị lãnh sự nhiệt tình đáp ứng yêu cầu của một ngoạị nhân là những người lương thiện. Nếu Lý Tống là người lương thiện, có chút lòng tự trọng dân tộc tối thiểu thì không việc gì phải nhảy nhổm để dở trò ăn vạ. Chuyện đâu còn đó. Chẳng phải đến giờ phút này Lý Tống vẫn đang nổ lạch tạch khi đưa ra những điều kiện bất khả thi về một chuyến đi tìm hiểu sự thật hay sao?

Nhưng Lý Tống đi Nam Hàn hay không đi, chuyện đó không có gì quan trọng nữa.....

Trước đây người quốc gia chúng ta hay chế diễu bọn cộng sản về một cái xã hội “ra ngõ gặp anh hùng”. Thời đánh Pháp thì có “anh hùng kéo pháo, anh hùng lấp lỗ châu mai”. Sau ngày chia đôi đất nước thì ở miền Bắc sinh ra loạn anh hùng, anh hùng lao động, anh hùng lực lượng nhân dân vũ trang, anh hùng làm phân bón (nôm na là làm bèo hoa dâu, gánh cứt cũng anh hùng).

Những tưởng một khi đã biết cười vào “cái trò phong anh hùng vớ vẩn” đấy là người ta biết được ý nghĩa cao cả của mấy chữ “anh hùng, anh thư” (quý vị thử đếm xem qua mấy nghìn năm lịch sử dân tộc ta có được bao nhiêu anh hùng, anh thư?) để dùng cho đúng giá trị của ngôn ngữ, nhưng thật không ngờ, ngày nay ở hải ngoại mấy chữ “anh hùng, anh thư” cũng đi vào tình trạng lạm phát đến mức khủng hoảng.

Trở lại cái gọi là “mission impossible” “Ðiệp Vụ Phạm Hữu” của Lý Tống vừa qua, xét về thực chất đó chỉ là một tuồng cải lương “bổn cũ soạn lại”. Theo trình tự diễn tiến, vào tuồng là trò rải truyền đơn để gây sự kiện, sau đó đến nhiệm vụ của những cái loa dương thanh là phải mở hết công suất ca tụng việc rải truyền đơn đó có tác dụng hơn cả bom nguyên tử khiến Bắc Bộ Phủ rung chuyển và cái hố xí hai ngăn ở Ba Ðình chứa cái « thây ma chết thối của hồ già » sắp xụp đến nơi. Và cuối cùng chắc chắn phải đến màn tổ chức quyên góp, móc túi đồng bào để thu tiền bỏ bị. ......

Thực ra việc Lý Tống rải truyền đơn đó chỉ là "trò gãi đít Việt Cộng" chẳng có mảy may tác dụng nếu không muốn nói chỉ tạo điều kiện cho bọn cộng sản áp chế những tổ chức đấu tranh và đồng bào quốc nội.

Quý vị nào mê cuồng cái trò hề của Lý Tống nên nhớ ngày chia đôi đất nước 20 – 7 - 1954 đến năm 1975, hàng trăm nghìn tấn truyền đơn các loại với nội dung sâu sắc đã phủ trắng Trường Sơn, đã rải thảm trên các nông trường, công trường quốc doanh từ Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình.Truyền đơn rải từ phi cơ, truyền đơn rải bằng hải thuyền, bằng bè cao su. Không chỉ có truyền đơn mà còn cả radio, qùa cáp đủ loại. Không chỉ truyền đơn, qùa cáp mà tiếp sức còn cả mấy đài phát thanh như Tự Do, Gươm Thiêng Ái Quốc với những chương trình phục vụ chính sách tâm công hết sức thuyết phục nhưng cũng chưa thể là chất xúc tác để tạo thành một cuộc nổi dậy toàn diện.

Thời điểm đó, chúng ta còn cả một thể chế Việt Nam Cộng Hoà vững chắc với đầy đủ cơ sở và điều kiện để tiếp đón, đãi ngộ những người cộng sản phản tỉnh nhưng kết qủa ... là dân tộc Việt Nam có một cộng đồng hải ngoaị tỵ nạn cộng sản rải rác khắp năm châu. Vì đâu? Chúng tôi tin rằng ai cũng thừa hiểu.

Thực tế của lịch sử đã dạy cho chúng ta bài học rõ ràng như vậy thì thử hỏi vài chục ngàn hay cho thêm đến vài trăm ngàn truyền đơn bằng hai đầu ngón tay của Lý Tống với nội dung bá láp, bá xàm thì có tác dụng gì?

Thật ra sau chuyến đi Nam Hàn vừa rồi nếu đương sự biết im đi, đừng bày trò tường trình và thông báo thì mọi chuyện cũng lắng xuống nhưng với một con người tham lam tới mức nhìn thấy tiền trong túi người khác cứ tưởng là tiền của mình bị mất đi, hoang tưởng tới độ tự ôm hết các nhân vật siêu nhân, quái nhân, dị nhân trong những phim, truyện gỉa tưởng vào mình như Lý Tống thì đâu chịu nằm yên khi phần quan trọng CÓ TÍNH CHÂT SINH TỬ nhất của kế hoạch là việc làm tiền bằng cách quyên góp bị hỏng ngay từ trong trứng nước.

Bởi thế Lý Tống đăng đàn dở giọng côn đồ, cãi chầy, cãi cối, thách thức, “yes no” với những điều kiện bất khả thi để dẫn đến một kết cuộc huề vốn. Theo chúng tôi tất cả mọi người nên công nhận một sự thật là: Lý Tống đã có đi Nam Hàn.

Sau đó từng quý vị tự trả lời những câu hỏi sau đây, quý vị sẽ tìm thấy kết luận thỏa đáng.
Lý Tống đi Nam Hàn để làm gì? Làm như thế nào? Kết quả ra sao?.Việc đi Nam Hàn như vậy có đáng được gọi là “mission impossible” hay không?

Khi đọc cái gọi là bản tường trình của Lý Tống từ Nam Hàn, quý vị nên gạt bỏ hết những ngôn từ khoa trương, những kế hoạch hoang tưởng (những lá bài mặt không có thật), để rút ra cốt lõi của sự việc đối chiếu với thực tế quý vị sẽ thấy rõ diễn biến sự việc như sau: Một công dân Hoa Kỳ gốc Việt tên tự xưng là Lý Tống mua vé phi cơ sang Nam Hàn để rải truyền đơn ở Seoul.(việc rải truyền đơn ở một quốc gia như Nam Hàn không phải là một hành động phạm pháp). Ở Seoul được mấy ngày, sau đó anh ta có bay đến Ðài Bắc và rải bớt một nửa truyền đơn mang theo. Kết qủa được anh ta tường trình là thấy một số công nhân vệ sinh đang quét số truyền đơn (đương nhiên họ xem mớ truyền đơn đó chỉ là là rác rưởi).

Sau đó anh công dân Hoa Kỳ gốc Việt trở lại Seoul, thay vì làm việc có hiệu qủa hơn bằng cách cuốc bộ phát tận tay khách bộ hành, hay thuê taxi để rải truyền đơn vào ngày Hố Cẩm Ðào đến Seoul, anh ta lại đi tìm mướn một chiếc phi cơ nhỏ để làm công việc đấy. Kết qủa “xôi hỏng bỏng không” chẳng ra cái tích sự gì.

Sự việc chỉ có thế. Ðó là thực chất của cái gọi là “Mission impossible” của Lý Tống! (TẨY XẤT)

Với bản chất của Lý Tống, anh ta có thể tự kể lể, “thêm mắm, dặm muối và các loại gia vị, hưong liệu” gì thì kệ anh ta hơi đâu cãi làm chi cho mệt.

Hãy để anh ta độc quyền mấy chữ “ANH HÙNG RẢI TRUYỀN ÐƠN”.

Tính cho đến thời điểm này Lý Tống đã « bốn lần » lên đường thực hiện (mission impossible !!!? RẢI TRUYỀN ÐƠN).

Việc rải THỨ TRUYỀN ÐƠN BÁ LÁP của Lý Tống tác dụng thế nào lên đối phương, quý vị cao nhân nào am tường hãy giải thích cho diễn đàn cùng mở mang kiến thức. Biết đâu??!!...

Bởi theo Lý Tống tuyên bố??!!! (lại tuyên bố) chuyến cuối cùng anh hề Lý Tống sẽ đi “Mút Cu”. Hiện nay anh hùng Lý Tống đang giận dỗi vì nhiều người không tin Ðiệp Vụ Phạm Hữu tức Mission Impossible tại Nam Hàn đã làm cho Kim chủ tịch đột quỵ. Không còn ai đứng ra hô hào tổ chức gây quỹ, quyên góp cho Lý Tống nên quyết định rửa tay, không xách ba lô đi“Mút Cu” nữa. Như vậy há chẳng phải uổng phí tài năng của một danh hề lắm sao??!!

Rốt lại chuyện anh hùng Lý Tống ANH HÙNG RẢI TRUYỀN ÐƠN thực chất chỉ là chuyện anh hề. Thiết tưởng câu chuyện “anh hùng Lý Tống” nên được trả về đúng vị trí của nó.

Bởi tự cổ chí kim trên khắp hoàn vũ chẳng có ai đi rải truyền đơn mà thành danh ngoại trừ hai người:

Một là “Lý Tống” trở thành “ANH HÙNG RẢI TRUYỀN ÐƠN” và hai là “Nguyễn Quốc Quân”, đảng viên cỡ lớn của Việt Tân nhờ vào việc rải truyền đơn hụt mà trở thành “NHÀ DÂN CHỦ”.

Kim Âu