Thursday, June 26, 2008

Bố Nắm Chính Trị - Con Giữ Kinh Tế - Cả Nước Xuống Hố.

Trần Nam

Ở Việt Nam, không ai lạ gì ông Nguyễn Tấn Dũng giữ chức vụ Thủ Tướng nước CHXHCNVN quyền uy chính trị một cõi. Tuy nhiên, ít ai biết về mặt kinh tế, con gái ông Nguyễn Tấn Dũng, tức Nguyễn Thanh Phượng lại là người có thể nắm giữ và ảnh hưởng đến kinh tế cả nước.

Nguyễn Thanh Phượng năm nay 29 tuổi, từng du học nước ngoài, có bằng quản trị kinh doanh (MBA) Đại học Thụy sĩ và là chủ tịch Hội Đồng Quản Trị công ty Việt Nam Holding Asset Management, một công ty đầu tư với số vốn từ 500 – 800 tỷ đồng và có khả năng vận động vốn nóng lên cả 100 triệu USD từ các nhà đầu tư nước ngoài nhờ uy tín và quan hệ; chỉ vì Nguyễn Thanh Phượng là con gái của Nguyễn Tấn Dũng. Một cô gái trẻ, tuổi đời còn non, kinh nghiệm còn mỏng mà có thể thành công về quan hệ thương trường có tính quốc tế như vậy thì hoặc là Thanh Phượng có thực tài, hoặc là chỉ vì nhờ cậy quyền uy của bố Dũng mà lên theo công thức “Bố nắm Chính trị - Con giữ Kinh tế - Cả Nước Xuống Hố”.

Câu hỏi đặt ra là ở tuổi 29, nếu Nguyễn Thanh Phượng không phải là con của Nguyễn Tấn Dũng thì liệu có ai dám đưa cho cô ấy cả trăm triệu mỹ kim để đầu tư không? Có doanh nhân nào ở Việt Nam dám bỏ tiền vào quỹ đầu tư Việt Capital Fund với số vốn 700 – 800 tỉ đồng không? Trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ hồi tháng 10 năm 2006, Phượng cho biết: ”Trong công việc, cái luôn thiếu nhất của người trẻ là kinh nghiệm. Kinh nghiệm thì cần có thời gian, đây là điều mà những người trẻ không thể nóng vội. Tôi nghĩ đánh giá thực lực của một người không nhất thiết chỉ nhìn vào tuổi đời mà phải dựa vào quá trình học tập và đặc biệt là kinh nghiệm hay những việc cụ thể mà họ đã làm. Hơn nữa, phải tiếp xúc trực tiếp thì qua đó các tố chất của họ mới có cơ hội bộc lộ. Còn việc một công ty quản lý quỹ huy động được vốn là do các nhà đầu tư tin tưởng vào thị trường, vào chiến lược, vào cách tổ chức hoạt động ..., quan trọng nhất là họ phải tin vào đội ngũ lãnh đạo công ty, trong đó trình độ, kinh nghiệm, uy tín và vai trò của mỗi thành viên đều được đặc biệt quan tâm. Tôi tin rằng tuy là thành viên lãnh đạo trẻ nhất của công ty nhưng tôi cũng có những đóng góp thiết thực vào việc thành lập, tổ chức, tuyển chọn thành viên thích hợp vào các vị trí then chốt cho VCFM, cũng như huy động vốn cho quĩ đầu tư Viet Capital Fund.”

Vậy thì kinh nghiệm của Nguyễn Thanh Phượng có được gì mà nắm trong tay một số tiền khổng lồ để đầu tư và khuynh đảo thị trường Việt Nam ? Hai năm qua thị trường chứng khoán Việt Nam đã bị lũng đoạn, thổi phồng để giới đại gia trong lãnh vực tài chánh, có quan hệ mật thiết với Đảng CSVN làm mưa làm gió thị trường chứng khoán. Họ đã nhanh chóng làm giàu bằng những thủ đoạn “phù phép”, mà trong cơ chế tài chánh minh bạch ở các nước phương Tây không cho phép. Nhờ vào những quan hệ chồng chéo và thủ đoạn “tay trong tay ngoài”, chứng khoán Việt Nam một sớm một chiều cất cánh.

Hiện nay, thị trường đã đổ, giá sàn cổ phần rớt trung bình 60% và còn có khả năng tuột dốc thê thảm, kéo theo biết bao kẻ mất trắng, dẫn đến tình trạng suy sụp và lụn bại về kinh tế. Không riêng gì giới tài chánh Việt Nam, mà cả giới đầu tư nước ngoài ham ăn xổi cũng ôm đầu máu. Tài phiệt Đại Hàn, Đài Loan đã bốc hơi cả tỷ dollars cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Hiện nay, vốn của Capital Fund còn lại bao nhiêu? bản lãnh và kinh nghiệm của Nguyễn Thanh Phượng nằm ở chổ nào thì lúc này là lúc cả nước cần biết. Hãy công bố minh bạch số tiền còn lại từ quỹ Capital Fund do Thanh Phượng quản lý. Hãy cho nhân dân Việt Nam biết rõ từ năm 2006 đến nay Thanh Phượng đã đầu tư vào lãnh vực nào? Capital Fund có trách nhiệm và góp phần làm sụp đổ chứng khoán Việt Nam không? những việc gì cụ thể như Thanh Phượng đã phát biểu trên tờ Thanh Niên? Nhân dân Việt Nam cần biết rõ là có phải Thanh Phượng thành công nhờ tài năng của chính mình hay chỉ nhờ dựa vào cái bóng của bố Nguyễn Tấn Dũng.

Về mặt đạo đức, bố Nguyễn Tấn Dũng giữ vai trò Thủ tướng thì con gái Nguyễn Thanh Phượng không thể hoạt động “độc lập” trong lãnh vực tài chánh, đầu tư chứng khoán và các lãnh vực kinh tế trọng yếu cả nước được. Cho dù không có bằng chứng để cáo buộc sự liên hệ về gia đình, ảnh hưởng chính trị và kinh tế, tuy nhiên tính minh bạch (transparency) và mâu thuẫn về quyền lợi (conflict of interests) không cho phép một đìều như vậy có thể hiện hữu. Đối với các quốc gia Phương Tây, trên căn bản luật pháp công minh và độc lập, quan hệ bố con về chính trị và kinh tế còn là vấn đề cần phải giải thích, thuyết phục trước công luận; thì trong cơ chế độc đảng như ở Việt Nam, khi đảng CS nắm giữ vai trò quyền lực, đứng trên luật pháp thì quan hệ bố nắm chính trị, con hoạt động về kinh tế là một quan hệ có tính mờ ám và mang chỉ dấu tham nhũng cao. Đìều này chưa nói đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các đối tác về tài chánh tại Việt Nam, trong đó Thanh Phượng nhờ ảnh hưởng của Nguyễn Tấn Dũng có thể qua mặt và không có đối thủ trên thương trường.

Thủ tướng Thái đã bị nhân dân Thái phản đối, bị mất uy tín, dẫn đến mất hẳn quyền lãnh đaọ cũng vì quan hệ mập mờ trong liên hệ giữa kinh tế gia đình và chính trị quốc gia. Nhờ quyền lực và ảnh hưởng của vai trò Thủ tướng Thái, ông và gia đình đã nắm giữ những công ty kinh tế mang tầm vóc quốc gia. Trong quá trình đìều hành chính trị cả nước, gia đình ông đã thừa hưởng vị thế chính trị của ông để lủng đoạn và làm giàu. Giọt nước tràn ly làm nhân dân Thái nổi giận khi ông và gia đình đã bán đi công ty tư nhân trong lãnh vực truyền thông cho giới đầu tư Tân Gia Ba. Cuộc mua bán đã không minh bạch và trốn tránh tiền thuế. Hậu quả của mối liên hệ chồng chéo chính trị và kinh tế gia đình này đã dẫn đến sự kiện ông Thủ tướng Thái và vợ con đã phải chạy trốn lưu vong khi Thái nổ ra cuộc đảo chánh.

Mối quan hệ kinh tế chồng chéo này không chỉ thể hiện ở quan hệ gia đình, huyết thống như: bố -con, vợ- chồng, anh- em trong bối cảnh đất nước nằm trong tay bộ máy lãnh đạo do đảng CSVN độc quyền. Nó phát triển và mang tầm vóc rộng ở lãnh vực quốc doanh – tư nhân trong đó các công ty quốc doanh do nhà nước đỡ đầu, mở rộng ảnh hưởng và vai trò của nó qua việc tạo ra hàng loạt các công ty kinh doanh "tư nhân" trong những lãnh vực kinh tế khác.

Những công ty quốc doanh khổng lồ như tập đoàn dầu khí Việt Nam (Vietnam Oil & Gas Corp) chuyển hướng đầu tư thêm vào ngân hàng và khách sạn, tập đoàn điện lực (Vietnam Electricity Corp) thì nhảy vào lãnh vực du lịch với số vốn 250 triệu mỹ kim, công ty tàu thủy Việt Nam (Vinashin), được ưu đãi vay 3 tỷ dollars từ ngân hàng nhà nước để đầu tư vào kinh doanh hàng hải, giao dịch chứng khoán và cả nấu rượu bia…

Khi mối quan hệ chân rết bắt đầu hình thành, độc quyền kinh tế do vai trò quốc doanh, cộng thêm ảnh hưởng và quan hệ chính trị vì là con cưng của đảng trên bình diện kinh tế. Những đứa con quốc doanh này vươn vòi bạch tuột ra để lũng đoạn nền kinh tế. Vô hình chung, một mặt trận công ty quốc doanh hình thành, với số vốn và tài sản từ quốc gia, với quan hệ chính trị vì là người của đảng và với thành phần điều hành bất tài, vô trách nhiệm; họ đã và đang phá nát nền kinh tế Việt Nam.

Nền kinh tế tại Việt Nam không mang tính cạnh tranh, công khai “lành mạnh” mà chỉ có tính quan hệ quyền lực ngầm “gia đình trị và đảng trị”. Một nền kinh tế mang bản chất “kinh tế thị trường” nhưng lại dựa vào quan hệ “quyền lực ngầm”, tay trong tay ngoài, thì về lâu dài phải dẫn đến tệ trạng phá sản, bị lũng đoạn và chi phối từ nhiều thế lực. Khi mà Lê Nam Thắng, con trai Lê Đức Thọ nắm Bộ Bưu Chính Viễn Thông, Lê Mạnh Hà, con trai Lê Đức Anh nắm sở Bưu chính - Viễn Thông Tp. Hồ chí Minh, Trương Gia Bình, con rể Võ Nguyên Giáp làm tổng giám đốc công ty FPT, Ngô Hoàng Hải con rể Nông Đức Mạnh giữ phòng tư vấn PMU18, và Nguyễn Thanh Phượng con gái Nguyễn Tấn Dũng nắm Việt Capital Fund v.v… thì bức tranh kinh tế, chính trị tại Việt Nam đã biểu lộ quá rõ.

Nói cách khác, quan hệ cha con của Thủ tướng VC Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Thanh Phượng và nhiều quan hệ khác đã giải thích rõ bản chất của cái goị là nền “kinh tế thị trường” theo định hướng “chủ nghĩa xã hội” tại Việt Nam.

Việt Nam đang trong giai đoạn thử thách, viễn ảnh sụp đổ khó tránh khỏi mà nạn nhân trực tiếp chính là nhân dân lạo động. Khi lạm phát đã qua mặt 25%, thị trường chứng khoán sụp, nhập khẩu thâm thủng, tiền mất giá và xăng dầu không còn được nhà nước có khả năng bù lỗ trong thời gian gần, Việt Nam có mời ông Chủ tịch Quỹ dự trữ Liên bang Mỹ về làm cố vấn cũng không cứu vãn kịp. Với số tiền dự trữ 20 tỷ dollars, VC Nguyễn Tấn Dũng đang kỳ vọng có thể đưa Việt Nam vượt cơn khó khăn mà không cần Quỹ tiền tệ quốc tế trợ giúp. Việt Nam như một cái thùng lủng đáy, đổ bao nhiêu cũng không vừa vì bản chất của nền kinh tế "man dại" và thiếu một cơ chế độc lập để kiểm soát. Cuộc thăm viếng tại Hoa Thịnh Đốn hôm 24/6 vừa qua có thể Dũng đang nhờ Mỹ một lời hứa hẹn nếu Việt Nam phải đưa tay mượn nợ. Còn một đối tác có thể giúp Dũng qua cơn khó khăn hiện nay nhưng rất khó thuyết phục, trừ trường hợp ông Dũng và lãnh đạo đảng CSVN phải sửa đổi cơ chế chính trị; đó là tập thể người Việt hải ngoại.

Theo con số không chính thức, năm ngoái người Việt hải ngoại đã gửi về Việt Nam gần 10 tỷ dollars, một số tiền cho không biếu không giúp nền kinh tế VN sống "kiếp tầm gửi". Lãnh đạo đảng CSVN vẫn muối mặt xin viện trợ từ Trung Quốc và chấp nhận làm thân phận chư hầu. Điều nghịch lý là số tiền Trung Quốc viện trợ chắng thấm gì so với số ngoại tệ của người Việt gửi về. Vậy mà họ vẫn cứ giữ thái độ thù nghịch với Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại.

Nếu VC Nguyễn Tấn Dũng thuyết phục được người Việt hải ngoại gửi thêm 50% số tiền so với năm ngoái, Việt Nam có thể sống sót qua cơn khủng hoảng. Nhưng nếu người Việt Hải ngoại nhận ra sức mạnh kinh tế, họ chỉ cần giãm 50% số tiền gửi về trong năm 2009, giảm chứ không cắt thì Việt Nam sẽ khốn đốn ra trò.

Trần Nam

Tuyên bố chung của CĐNVTD Úc châu về nhận đinh của HY Phạm Minh Mẫn


Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in Australia

PO Box 2115 Footscray VIC 3011
Tel: 0411 7565 552

Email:
sicmaa@satlink.com.au


CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU

TUYÊN BỐ CHUNG VỀ NHẬN ĐỊNH CỦA ĐỨCHỒNG Y PHẠM MINH MẪN

Vào đầu tháng 6 vừa qua, trên trang mạng Tiếng Vọng Gioan Baotixita có đăng tải lá thư của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn gửi cho một số vị Giám Mục tại Việt Nam, trong đó Đức Hồng Y ngụ ý rằng trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tới đây tại Sydney, lá cờ vàng ba sọc đỏ là “một sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN” và chỉ “biểu trưng một thói đời mang tính đối kháng”. Qua bức thư này, đa số đều có thể hiểu được là Đức Hồng Y không muốn trông thấy lá cờ vàng hiện diện trong ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới.

CĐNVTD Úc Châu đã thảo luận và chia sẻ với Tuyên Úy Đoàn Cộng Đồng Công Giáo VN tại Úc Châu, và đã đưa đến kết luận chung là lá thư trên chỉ phản ảnh quan điểm riêng của Đức Hồng Y chứ không phải là quan điểm của CĐ Công Giáo VN Úc Châu cũng như của Ban Tổ Chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Sydney.

CĐNVTD Úc Châu nhận định như sau:

1. Mặc dù rất tôn trọng vị trí lãnh đạo tôn giáo của Đức Hồng Y, CĐNVTD/UC hoàn toàn không đồng ý với những quan điểm của Đức Hồng Y về lá cờ vàng và sự hiện diện của cờ vàng trong ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới.

2. CĐNVTD Úc Châu và đại đa số người Việt cư ngụ tại Úc Châu đều công nhận và coi lá cờ vàng ba sọc đỏ là tượng trưng cho các giá trị nhân bản và tự do dân chủ của người Việt, và là biểu tượng chính thức của người Việt tị nạn Cộng Sản.

3. CĐNVTD Úc Châu không bao giờ chấp nhận lá cờ đỏ của Đảng Cộng Sản VN. Lá cờ này không bao giờ được coi là biểu tượng đại diện cho người Việt sinh sống tại Úc, đặc biệt là cho Giới Trẻ Công Giáo VN tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới.

4. CĐNVTD Úc Châu kêu gọi tất cả các thanh niên và đồng hương người Việt nếu đi tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney, hãy mang theo lá cờ vàng ba sọc đỏ, để lá cờ thiêng liêng, biểu tượng chung của người Việt yêu tự do chúng ta có dịp hãnh diện tung bay trong dịp lễ hội quốc tế quan trọng này.

Úc Châu, ngày 23 tháng 6 năm 2008

. CT/BCH/CĐNVTD/Úc Châu : Ông Nguyễn Thế Phong
. CT/BCH/CĐNVTD/NSW : LS Võ Trí Dũng
. PCT/BCH/CĐNVTD/VIC : Ông Nguyễn Văn Bon
. CT/BCH/CĐNVTD/Nam Úc : Ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc
. CT/BCH/CĐNVTD/Tây Úc : Ông Phạm Lê Hoàng Nam
. CT/BCH/CĐNVTD/ACT : Ông Lê Công
. CT/BCH/CĐNVTD/Wollongong : Bà Trần Hương Thủy
. CT/BCH/CĐNVTD/Bắc Úc : Ông Lê Tấn Thiện
. CT/BCH/CĐNVTD/Queensland :
BS Bùi Trọng Cường

Tuesday, June 24, 2008

Đại Hội Liên Minh Tự Do Việt Nam Hay là tập hợp những người không biết nói «yes, we cannot »

Lê Hùng Bruxelles

Nhân đọc bài viết «Tâm Tình Của Người Trong Nước » của Như Hà đăng tải trên Vietnam Exodus, nói về chuyện chuẩn tướng Lý Tòng Bá sắp tổ chức «Đại Hội Việt Nam Cộng Hoà tại Mỹ - Những tín hiệu buồn và vui », nên tôi viết bài nầy.

Thói thưòng người Việt của chúng ta, nhất là người Việt lớp tuổi «vạn sầu » muốn làm lãnh tụ cứ bám lấy cái văn hoá «ưa làm cha » kẻ khác nên trong tổ chức lắm chuyện thiếu minh bạch. Hôm nay, bên Mỹ, người lây giòng máu văn hoá đó có Bà TNS Hillary Clinton, cựu đệ nhất phu nhân một thời. Trong cuộc bầu cử sơ bộ vừa qua, vì cái máu «ưa làm cha người Mỹ » nên đi đâu bà cũng nói câu «Yes, we can». Dù cho bà đã chiếm được 18 triệu cử tri, nhưng vẫn thất bại trước đối thủ Obama, có lẽ chỉ vì bà không bao giờ lượng định sức lực mình để dám nói câu «yes, we cannot». Để dễ hiểu hơn, người viết xin lấy chuyện Đại hội Paris ngày 8/6/2008 của tổ chức Liên Minh Tự Do Việt Nam để chứng minh.

Nhớ lại năm 1945, khi giặc Cộng mới về làng, Hồ Chí Minh muốn áp đão các tổ chức chính trị lập trường quốc gia, đã lấy cái tên Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội của Quốc Dân Đảng cắt xén thành Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh, thì hôm nay cả trời Paris thiên hạ đang xầm xí về cái tên xưng của tổ chức «Liên Minh Tự Do Việt Nam», có ăn cắp cái tên «Liên Minh Việt Nam Tự Do» của Mặt Trận và Việt Tân hay không ? Ăn cắp cả tên gọi và ăn cắp cả mầu xanh nền trắng trên phướn chưng bày! Đây là chuyện hoàn toàn Thiếu Minh Bạch mà quần chúng và báo chí đang bàn cãi!. Đáng ra hai ông Lý Tòng Bá và Lại Thế Hùng không nên làm như vậy, vì việc đó chứng tỏ cho cộng đồng người Việt tại Âu Châu nghi ngờ và nhận rõ các ông là con đẻ làm cờ chạy hiệu cho Việt Tân, mà Việt Tân thì xưa nay ai lại không biết thủ thuật «ưa nắm đầu» tất cả mọi tổ chức chính trị khác. Nếu thật tổ chức LMTDVN độc lập riêng rẽ, thì có gì xấu xa để quần chúng chán ghét mà các ông phải làm nhập nhằng như vậy ? Gián tiếp hay trực tiếp, Liên Minh Tự Do VN hay Liên Minh VN Tự Do, đi lại ai cũng rõ là sản phẩm của mặt trận Hoàng Cơ Định và Đỗ Hoàng Cơ Điềm mà thôi.

Thực ra Cộng đồng chống cộng tại hải ngọai đâu thù ghét Việt Tân, nhưng chỉ ghét cái dụng ý «thiếu minh bạch» của tổ chức Việt Tân thì đúng hơn. Đó là cái chiến thuật lươn lẹo của con «tu hú» suốt ngày đêm, từ năm nầy qua tháng nọ, đi mượn «ổ quạ» để đẻ trứng và trao cho quạ nuôi con. Đi từ chủ trương thiếu minh bạch, trong tổ chức thường cố tạo ra ý thức lừa đảo nhau. Cho nên xưa nay, từ Mặt Trận đến Việt Tân, nội bộ đoàn viên và lãnh tụ thường xẩy ra chuyện chào xáo chém giết lẫn nhau là điều không lạ. Ai đời, cùng một tổ chức chính trị mà đảng viên và lãnh tụ đêm ngày lo chuyện giết nhau, không chịu ngồi phân tách kỹ chiến thuật chiến lược để bổ khuyết cho nhau. Tổ chức cứ làm bừa, làm theo kiểu «cả vú lấp miệng em» miễn sao cho có tiếng vỗ tay áp đảo quần chúng trong hội trường là đủ !.

Ngày đại hội thì rùm beng, đến khi tan cuộc thì âm thầm! Quần chúng đang đợi cả nửa tháng nay, vẫn không thấy báo chí và các diễn đàn internet đăng tải một lời. Theo thông cáo thì có nhiều chính khách Paris được mời tham dự, như thư mời ông Bùi Tín (Paris) đến tranh luận và tướng Trần Văn Trung (Paris) đến làm chủ tọa, nhưng chẳng thấy mặt mũi ai. ! Vỏn vẹn chỉ có sự hiện diện vài ba người vùng Strasbourg, nơi ông Lai Thế Hùng đang cư ngụ. Có lẽ người Việt vùng Paris đã thấy cái tên Liên Minh Tự Do Việt Nam là một sự lừa lọc thiếu minh bạch chăng ? Đó là một thất bại ê chề !

Trên bàn chủ toạ có 5 vị, 4 vị đến từ các nước khác và 1 vị đang cư ngụ tại Paris. Đó là cựu Thiếu tướng Lý Tòng Bá (Cali), cựu giáo sư Hồ Nam Trân (Thụy sĩ), cựu giáo sư Vũ Thành Hoan (Cali), cựu thẩm phán Trần Đức Lai (Mulhouse) và cựu đại tá Nguyễn Phúc Tửng (Paris). Lúc phát biểu, ông chủ tịch Lý Tòng Bá thì muốn liên kết bao trùm mọi tổ chức chính trị và những lực lượng quân dân chính VNCH để bắt Việt Cộng lui về bên kia vĩ tuyến 17. Người nghe có cảm tưởng ông tướng Bá trong cơn chiêm bao đang ngủ mớ ! Ông phó chủ tịch Vũ Thành Hoan thì lôi chuyện bài hát quốc ca «Này thanh niên ơi đứng lên đáp lời sông núi» vừa mới hát sau lễ chào cờ mà chửi, ông cũng chẳng tiếc lời nguyền rủa luôn chính quyền Ngô đình Diệm đã dùng bài hát nầy làm quốc ca. Thiên hạ thấy cũng ngồ ngộ!. Còn ông Nguyễn Phúc Tửng, người mệnh danh chủ tịch liên hội đoàn Paris,thì sợ người ta chất vần tính ấm ớ hội tề của ông hay sao mà suốt buổi chủ tọa lại ngồi nhắm mắt. Ông phó chủ tịch Trần Đức Lai thì nói chuyện đâu đâu ở bên vùng núi sông Rhin xa quá ... buồn ngủ. Chẳng ai thèm nghe !.

Đến lượt ông chủ tọa Hồ Nam Trân trình bày bài tham luận thì thính giả mới thức giấc. Có tiếng vỗ tay và tiếng cười. Giữa hội trường trung tâm FIAP lao xao như bừng tỉnh sau 43 năm ngủ ngáy mê man kể từ ngày lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Thật vậy, khi ông giáo sư Hồ Nam Trân trình bày về «danh dự quốc thể và trách nhiệm», thì trên màn ảnh hiện lên hình cố TT Ngô Đình Diệm. Ông dẫn chứng sách báo ngoại quốc đã ca tụng Ngô Đình Diệm về đức tính đó. Mọi người đưa ra câu hỏi phải chăng đây là nhóm Cần Lao đã bắt đầu lộ diện? Và câu trả lời là đảng Cần Lao ra mặt thì chẳng sao ?. Sự thật là hơn 40 năm nay, ngoài đám quân thần Đỗ Mậu quân ủy Cần Lao phản phúc và nhóm Giao Điểm, chứ chưa ai nói đảng Cần Lao là cộng sản hay tay sai bán nước.

Chuyện tréo cẳng ngỗng là trước giờ ông giáo sư Hồ Nam Trân phát biểu thì vì lý do «đen tối» nào đó, ban tổ chức lại bắt ông Trân phải bỏ tiền túi 180 euros để có haut parleur và màn ảnh !. Chẳng nhẽ vì cái tấm hình của ông Ngô Đình Diệm mà lại bày trò để rút tiền ông chủ tọa đi ăn thịt quay hay sao?

Tóm lại, trên bàn chủ tọa mỗi người giữ một điệu nhạc, và điệu nào cũng tỏ ra là «yes, we can», nhất thiết không nhận ra rằng «yes, we cannot». Đó là điều tệ hại trong chiến thuật của một tổ chức chính trị khi ra mắt «chào hàng». Đúng như lời ông trưởng ban tổ chức kiêm Tổng Thư Ký LMTDVN, Lại Thế Hùng, đã nói rõ : «Tam nhân đồng hành, tất hữu tam sư»! Câu tuyên bố của ông Lai Thế Hùng làm cho thính giả không hiểu ông TTK đang kết tội hay đang «bơm dầu» cho 5 vị ngồi trên bàn chủ toạ ? Kết cục, thiên hạ chẳng ai hiểu tổ chức Liên Minh Tự Do Việt Nam nầy muốn gì ?

Trong phần chất vấn, người ta lại thấy ông Chu Chỉ Nam (tức Chu Vũ Hoan) một thời báo chí Paris đã nói về sự liên kết của ông ta với người em Chu Vũ Ca và Hoàng Việt Cương bên Canada, gạt gẫm dân Việt và Ba Tàu từ Đông Âu mua tên trong danh sách di dân «ma» qua Canada. Ngoài ra, hai anh em Chu Chỉ Nam và Chu Vũ Ca cũng là người đã sập bẫy được nhiều thanh niên yêu nước chân thành (Lê Hoàn Sơn, Phạm Anh Dũng, Phạm Văn Thành) để cho VC đày ải suốt 6 năm giữa rừng thiêng nước độc, may nhờ chính phủ Pháp can thiệp mới còn mạng về sống với vợ con bên Paris! Hôm nay Chu Chỉ Nam lại được LMTDVN mời làm Hội đồng Chủ tịch đứng ra đọc bài tham luận về «Dân Chủ và Tự Do». Đó cũng là chuyện «ma nớp» !

Điều cần nói thêm là há lẽ con người chính trị «muôn mặt» cuả ông Chu Vũ Hoan không biết thì giờ dành cho chất vấn là gì hay sao? Thì giờ chất vấn không có nghĩa là nói theo một đề tài do mình tưởng tượng ra, mà người đứng ra chất vấn phải dựa vào các lời của Chủ Toạ Đoàn đã «trình diễn», nêu lên những phần còn tối nghĩa, những ẫn ý nằm trong lời nói của người đã phát biểu, hầu làm sáng tỏ vấn đề. Vì vậy nên mọi chương trình các đại hội đều có ghi rõ thì giờ «phát biều» và thì giờ «chất vấn». Nếu ông Hoan muốn dùng diễn đàn LMTDVN để khoe tài văn chương của ông, thì ít ra ông cũng cho thính giả biết thế nào là Dân Chủ và thế nào là Tự Do, chứ ông nói như đứa trẻ đọc bài thì cũng là chuyện hơi ... kỳ. Dân Chủ đâu phải ai cũng làm chủ, ai cũng như ai. Tôi có cảm tưởng ông Hoan chưa hiểu nỗi khái niệm về «dân chủ» nên ông đã «tự do» lên cầm chiếc micro làm trật đường rầy cho ngày Đại Hội LMTDVN. !

Có 2 người đứng ra chất vấn và đã hiểu thế nào là chất vấn. Đó là cựu thiếu tá Phạm Văn Đức, chủ nhiệm tờ tam nguyệt san Quân Đội tại Paris, khi ông thẳng thắn thưa với ông Lý Tòng Bá về chức vụ «chuẩn tướng hay thiếu tướng». Nhưng đó là ý kiến xây dựng của một cựu quân nhân qua nhãn quan «hệ thống quân giai». Ông Phạm Văn Đức lặp đi lặp lại hơn chục lần là cố làm sáng tỏ cách xưng hô về cấp bậc trong quân đội cho mọi người biết. Ông là một người trọng sự thật và biết giá trị của sự MINH BẠCH, chứ thật ra trong hàng thính giả cũng chẳng ai quan tâm lắm về chức tước chuẩn tướng và thiếu tướng.

Người thứ hai đứng ra chất vấn mà mọi người đều ghi nhận rõ ràng về lập trường chống cộng. Đó là ông Trần Hồng Paris, cựu thuyền trưởng hàng hải miền VNCH. Ông Trần Hồng dám nêu ra sự thật về mặt «chính trị lằng nhằng» của hai ông đang ngồi trên bàn chủ toạ. Đó là ông cựu Đại tá Nguyễn Phúc Tững, người mệnh danh «thủ lãnh liên hội đoàn tại Pháp» và ông giáo sư Vũ Thành Hoan (Cali), qua chức tước phó Chủ tịch ban Thường vụ Hội Đồng Chủ tịch LMTDVN. Nếu nói thật ra đây thì càng thê thảm hơn.

Kết cuộc đại hội của LMTDVN chỉ là thủ đoạn vặt do ông Lai Thế Hùng bày ra để chưng bày trên giấy tờ tuyên truyền thiếu minh bạch mà thôi. Ông Lại Thế Hùng chắp vá bằng cách mượn tiếng kẻ khác để phỉnh gạt một số người dễ tính đàng xa. Trên phương diện hợp lực tranh đấu đối đầu với Việt Cộng, đại hội nầy chỉ làm mất đi một tiếng nói cũng là điều đáng tiếc. Điều đó ông Lại Thế Hùng cũng không nên trách, vì ông chưa nắm vững tổ chức, mà tự ví mình như viên Tổng Tư Lệnh phong tước cho một số Phó Chủ Tịch Hội Đồng có lập trường «xôi đậu», đi lại chỉ vài người đếm đầu ngón tay.

Từ ông tướng chủ tịch Nguyễn Tòng Bá đến ông Tổng Thư Ký Lại Thế Hùng và bạn hữu của ông trong tổ chức LMTDVN, - lớp người không biết thực lực của mình để nói «yes, we cannot» - , cũng là điều đưa đến sự thất bại hoàn toàn hôm nay và mai sau. Xin quý ông xem đây là ý kiến xây dựng. Tôi cám ơn.

Lê Hùng Bruxelles.


Chú thích: Theo bản thông báo của LMTDVN thì Đại Hội gồm có :

* THÀNH PHẦN CHỦ TỌA ÐOÀN: Cựu Trung Tướng Trần Văn Trung (Paris), cựu Thiếu Tướng Lý Tòng Bá (Chủ Tịch Ban Thường Vụ Hội Ðồng Chủ Tịch LMTDVN - Santa-Ana, California - HK), cựu Thẩm Phán Trần Ðức Lai (Phó Chủ Tịch Ban Thường Vụ Hội Ðồng Chủ Tịch LMTDVN – Mulhouse - Pháp), GS Vũ Thành Hoan (Phó Chủ Tịch Ban Thường Vụ Hội Ðồng Chủ Tịch LMTDVN – Santa-Ana, California - Hoa Kỳ) và GS Hồ Nam Trân (Phó Chủ Tịch Ban Thường Vụ Hội Ðồng Chủ Tịch LMTDVN – Lausanne - Thụy Sỹ).

* THÀNH PHẦN ÐIỀU HỢP ÐOÀN : GS Lai Thế Hùng (Tổng Thư Ký Ủy Ban Ðiều Hợp Trung Ương LMTDVN – Strasbourg - Pháp), nhà văn Chu Chi Nam (Thành viên Hội Ðồng Chủ Tịch/ LMTDVN – Paris), nhà văn, nhà thơ Ðỗ Bình, Chủ Tịch Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris (Thành Viên Hội Đồng Chủ Tịch/LMTDVN –Paris).


* THÀNH PHẦN THƯ KÝ ÐOÀN : ông Cao Tấn Hưng (LMTDVN/ÂC – Strasbourg, Pháp), ông Nguyễn Văn Sáu (LMTDVN/ÂC – Dusseldorf, Ðức), ông Trần Tỉnh Lê (thành viên Hội Ðồng Chủ Tịch/LMTDVN/ÂC – Munchen, Ðức) hoặc bà Lê Thanh Kham (thành viên Hội Ðồng Chủ Tịch/LMTDVN/ÂC –Nancy, Pháp).

CON BỊNH UNG THƯ KINH TẾ VN ĐANG HẤP HỐI TRONG CƠN SỐT TÍN DỤNG

Trương Minh Hòa

Đồng tiền là "huyết mạch" luân lưu một cách điều hòa trong một cơ chế lành mạnh, nên không có những cơn sốt tín dụng, là nguyên nhân kéo theo khủng hoảng kinh tế và cuối cùng là biến động chính trị, đưa đến sụp đổ một chính quyền nếu theo thể chế dân chủ, hay bạo loạn đối với một chế độ độc tài, Cộng Sản. Cũng giống như lượng máu trong cơ thể, với thành phần máu lành mạnh hay bịnh bịnh do nhiều nguyên nhân; hầu như tất cả những chứng bịnh đều được báo trước qua triệu chứng đầu tiên là máu, nên khi lâm bịnh, máu bị nóng lên, gia tăng nhiệt độ, từ 37 độ C bình thường tăng dần đến 41 hay 42 độ là có khả năng đưa đến tử vong dễ dàng. Từ những kinh nghiệm và bản chất quan trọng của máu, nên người hiểu biết chút về y học, khi có những triệu chứng bất thường trong cơ thể nhưng không bị sốt, thì không quan ngại; nhưng nếu bị sốt là nên đi đến bác sĩ để tìm ra căn bịnh. Khoa học ngày nay tiến bộ, việc thử máu rất quan trọng để tìm ra căn bịnh, nhờ vậy mà khám phá ra những chứng máu mở, tiểu đường, ung thư ....

Máu cũng như tiền, trong bất cứ một quốc gia nào, tiền tệ là thứ rất cần để giao dịch trong nước và các nước khác. Đồng tiền cũng phải có giá trị trong nước và được các nước khác công nhận để dựa vào đó mà quy định giá trị sản phẩm, dịch vụ các thứ đều phải có tiền; tại các quốc gia Tây Phương, cái gì cũng phải dựa theo đồng tiền mà định giá, ngay cả việc qui định bồi thường thiệt hại cơ thể trong các tai nạn lao động cũng phải dựa theo tiền để ấn định mỗi phần cơ thể bị thiệt hại, để các công ty bảo hiểm chi trả tương ứng và luật sư cũng biết giới hạn mà đòi tiền bồi thường cho thân chủ.

Tiền được lưu hành một cách rộng rải, bình thường trong bất cứ quốc gia nào, ngoài những yếu tố như: sản xuất, uy thế quốc gia còn có chữ TÍN là rất quan trọng, nên mới được gọi đồng tiền là "tín dụng". Sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt, nước Đức bị chia hai: miền Đông theo chế Cộng Sản, Tây theo thể chế tự do. Thời ấy, kinh tế suy sụp, đồng tiền Mark coi như thua cả giấy lộn, đến nỗi mua một con tem gởi thư cũng phải mang một bó tiền ... thế mà nhờ Hoa Kỳ viện trợ trong chương trình Marshall và dân Tây Đức có tinh thần cao, tin tưởng vào đồng tiền Mark của quốc gia minh dù đang trong cơn suy thoái, mất giá, trong khi đó có đồng Mỹ Kim song hành, thế là nhờ lòng tin nầy mà đồng Mark phục hồi, chẳng những không bị đồng Mỹ Kim áp đảo, mà dân chúng còn dựa vào đồng Mỹ Kim để quy định, nâng giá đồng Mark dần dần, sau nầy được dân Đức nói chung và thế giới TÍN nhiệm, trở thành một trong những thứ ngoại tệ giá trị trên thế giới.

Tại Việt Nam, sau 1975, đảng và nhà nước CSVN với chính sách muốn vơ vét hết tài sản dân chúng miền Nam vào tay thiểu số cầm quyền; hành vi nầy giống như đảng cướp hung tợn, sau khi dùng vũ lực khống chế chủ nhà, trấn lột hết vàng, tiền, tài sản .... để cho dân miền Nam theo kịp đà nghèo khổ với nhân dân miền Bắc sau hơn 20 năm xây dựng" chuẩn thiên đàng Cộng Sản là xã hội chủ nghĩa" do Hồ Chí Minh mang từ Liên Sô, Trung Cộng để tròng vào cổ dân miền Bắc. Biện pháp đổi tiền được phát động nhiều đợt từ tháng 8 năm 1975 đến năm 1976, dù đổi tiền nhiều lần nhưng kết quả vẫn như cũ; vì sau khi đợt đổi tiền nầy chấm dứt, dân không dại gì lưu trữ, tín nhiệm đồng bạc có in hình Hồ Chí Minh do nhà nước in ra nữa, thế là vàng là thứ "tín dụng duy nhất" lưu hành trong cả nước, khiến đồng tiền Hồ càng mất uy tín; do đó, những đợt đổi tiền không mang lại những kết quả đảng Cộng Sản mong muốn theo nhãn quan "đầu tôm" của những kẻ ít học, tham lam, tàn ác, "giản đơn" như đặt mìn, pháo kích vào khu đông dân cư, chặt đầu, bắt cóc, khủng bố việc điều hành kinh tế quốc gia rất phức tạp, đòi hỏi người điều hành phải có một trình độ tối thiểu; nhưng bất hạnh thay, toàn đảng Cộng Sản được đào tạo để cướp của, giết người theo chủ nghĩa Marx Lenin, ngụy trang bằng "đấu tranh giai cấp, cải tạo xã hội".....

Những biện pháp "ngu si đần độn" bằng đổi tiền, là lối ăn cướp quy mô, ăn cướp có chính sách nầy coi như "tự hủy hoại uy tín" của đồng tiền nhà nước phát hành từ dạo ấy. Sau khi đế quốc Đỏ Liên Sô và toàn thể khối Cộng Sản Đông Âu sụp đổ, Việt Cộng hốt hoảng, ban hành chính sách đổi mới giả, nhằm cứu đảng trong giai đoạn "thoái trào", chứ không cứu đảng tồn tại mãi mãi như các thể chế chính trị dân chủ, thường thay đổi chính quyền sau những lần bầu cử tự do. Từ đó đồng Mỹ Kim và vàng là hai thứ "tín dụng" được cả dân lẫn cán bộ Cộng Sản mặc nhiêm coi là "bản vị" trao đổi "chủ yếu" từ chuyện việc mua bán từ căn nhà, lo hối lộ, tham nhũng .... đều được tín bằng cây vàng hay Mỹ Kim, càng ngày càng biến đồng bạc Việt Nam mất "tín nhiệm", và nhất là trong các cuộc khủng hoảng kinh tế, tiền tệ, thì đồng tiền Hồ càng bị mất giá, trở thành "trớt quớt" trong sinh hoạt xã hội:

    "Mất giá, mất giá, đại mất giá.
    Khánh tận, khánh tận, đại khánh tận"
Tiền là thứ vô cùng cần thiết, không tiền, không có trao đổi; nên tiền phải cân bằng với sản lượng quốc gia, tín nhiệm ... tiền thiếu như thiếu máu cũng dể đì đến khủng hoảng, như ở Hoa Kỳ trong thời gian gần đây, sự kiện thiếu hụt tín dụng khiến nước Mỹ lâm vào bịnh "thiếu máu" và làm tăng cơn sốt tiền tệ, ảnh hưởng đến nền kinh tế cả nước và lan rộng sang toàn cầu; biện pháp đầu tiên là nước Mỹ, thế là tổng thống George.W.Bush bèn bơm tiền hàng trăm tỷ từ ngân hàng trữ kim vào để cân bằng số tín dụng, cứu nguy cho nền kinh tế. Khi đồng Mỹ Kim dư thừa, tạo nên hiện tượng "dư máu" cũng không tốt, cũng có khả năng đưa đến khủng hoảng tín dụng khi mà tiền nhiều mà mua hàng không nhiều, gây nên lạm phát; thế là các kinh tế gia, lãnh đạo đất nước phải "xì bớt" đưa đồng Mỹ Kim sang các nước khác để cân bằng nền kinh tế ... cứ thế mà điều chỉnh, để cho nền kinh tế quốc gia bình thường. Cung cầu cân bằng và tiền tệ cũng cân bằng với sản xuất là lý tưởng mà các kinh tế gia luôn muốn đạt tới, nhằm đưa đất nước đến thịnh vượng.

Các khoa học gia phân tích máu có nhiều loại như: A, B, AB, O ... thì tiền luân lưu trong một quốc gia cũng có nhiều thứ; tuy nhiên, trong một quốc gia ổn định, dân chúng tín nhiệm đồng tiền của nước mình có giá trị, dù bên cạnh có sự lưu hành của các thứ ngoại tệ mạnh như Mỹ, Úc, Gia kim,Euro ..... đồng tiền trong nước không "đối kháng" với ngoại tệ giá trị, trái lại bổ sung cho nhau trong việc trao đổi từ trong nước đến ngoại thương. Trái lại một quốc gia không ổn định, như các nước tàn dư Cộng Sản, đồng bạc do nhà nước phát hành không dựa vào những quy tắc tiền tệ quốc tế, tức là đồng tiền do đảng và nhà nước tùy tiện in, phát hành, nên luôn ở trong tình trạng bấp bênh về giá trị; ngoài ra yếu tố rất quan trọng là: không được dân chúng TÍN NHIỆM, nên cả dân lẫn cán bộ đều dùng các thứ ngoại tệ có giá trị ổn định khác lưu hành trong nước, nhất là đồng Mỹ Kim để lưu trữ làm của, định giá mua bán, hối lộ tại Việt Nam, từ lâu, huyết mạch luân lưu trong nước lộn xộn, bất ổn từ khi mới chiếm được miền Nam 1975, chính lối điều hành kinh tế theo quan niệm kẻ cướp, quản trị theo kinh tế không tuân hành theo những quy tắc "cung cầu" mà dùng bạo lực áp đặt, đây là lối điều hành kinh tế theo "nghị quyết" với sự hỗ trợ của công an, hệ thống Ủy Ban Nhân Dân từ cấp xã đến tỉnh, đàn áp từ nhân dân đến tiền tệ.

Do đó, huyết mạch luân lưu trong nước đã mất thăng bằng ngay từ đầu, đồng tiền Hồ lưu hành với các bản vị khác như Mỹ Kim, Úc, Gia kim và càng ngày càng ngày càng hất đồng tiền Hồ ra khỏi hầu bao dự trữ của dân lẫn cán bộ. Hệ thống đảng quyền cũng "hồ hởi phấn khởi" trước uy tín của đồng Mỹ Kim được "đảm bảo" giá trị quốc tế, nên tên nào cũng cố vơ vét tiền Đô để gởi, chuyển cho các ngân hàng ngoại quốc cho chắc ăn, chớ ai dại gì xây kho thiệt lớn để chứa đồng tiền Hồ, mà giá trị càng xuống dốc thảm hại từng ngày; nếu dự trữ giấy đi cầu còn có lợi hơn nhiều. Máu có quá nhiều thứ cùng lưu hành, ép đồng tiền Hồ xuống phá giá, thế là nạn lạm phát cứ gia tăng như hỏa tiển phóng lên không gian, vô phương cứu chữa, trở thành "ung thư kinh tế". Mặt khác, sản lượng quốc gia bị giới hạn trong nông nghiệp, chủ yếu là xuất cảng gạo, cà phê .... dầu thô, và nhờ nguồn ngoại tệ từ các nhà doanh thương nước ngoài vào vừa tìm thị trường và vừa cấu kết với đảng bóc lột sức lao động của dân. Kinh tế Việt Nam giống như con bịnh ung thư, sống được là nhờ nguồn thuốc từ bên ngoài chích vào, là ngoại tệ do người Việt hải ngoại gởi về hàng năm, tăng dần, đến nay lên hàng chục tỷ Mỹ Kim; lượng tiền do công nhân lao động nước ngoài mang về; cũng phải hàng tỷ mỗi năm, khuyến khích đảng Cộng Sản càng gia tăng dịch vụ buôn bán nô lệ hiện đại hóa bằng luật di trú, lao động quốc tế, là thành tích của các "du học sinh" con đảng cháu bác học hỏi ở các nước ngoài, mang về nước "điều nghiên", lợi dụng khe hở dể biến thành luật" buôn bán nô lệ, tình dục" mang tính các liên quốc. Dù Liên Hiệp Quốc, các nước chống lại, lên án việc buôn bán nô lệ, nhưng đảng và nhà nước Việt Cộng sáng tạo, luồn lách nhờ đám du sinh trở về, qua mặt thế giới, buôn người công khai, thỉnh thoảng còn được Liên Hiệp Quốc cung cấp tiền cho kẻ bán nô lệ Việt Cộng để chống lại việc buôn bán nô lệ, quả là trái tai gai mắt và phí phạm tiền, hỗ trợ cho kẻ buôn bán nô lệ có thêm tiền để tiếp tục hành nghề.

Tình trạng khủng hoảng nhiên liệu, là nguyên nhân nằm ngoài vòng "quản lý kinh tế" của Việt Cộng, nên đảng và nhà nước không thể ban hành "nghị quyết" để bắt giá xăng xuống, ngay cả ông cố nội Công an, kể cả Hồ Chí Minh sống dậy cũng không tài nào đưa giá xăng xuống theo như ý họ. Phải nói là trong quá khứ, đảng Cộng Sản cũng đã thành công trong việc "dùng nghị quyết, công an" để điều hành kinh tế miền Bắc sau 1954, nhưng sau 1975 thì lối quản trị nầy tỏ ra "lạc hậu, lỗi thời, phản động"; người thành công dùng nghị quyết sau 1975 phải nói đến PHAN VĂN KHẢI (người dân còn gọi hắn với các tên thân thương là PHAN VĂN KHỈ), là thủ tướng "không người bầu" cũng như "đồng hồ không người lái", là người đã áp dụng thành công Nghị Quyết trong việc Diệt Chuột, từ đó Khải được đạt danh hiệu là "anh hùng diệt chuột", song hành với anh hùng đánh Tây, anh hùng chống Mỹ, anh hùng lao động, anh hùng tham nhũng, anh hùng móc ngoặc, anh hùng anh cắp của công .... khi lượng cầu "quá tải" với cung, thì việc lạm phát là điều khó tránh khỏi, dù sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Từ khủng hoảng quan hệ sản xuất sang nhiên liệu, lòng tin tác động mạnh vào tiền tệ, nên các thứ tiền hiếm qúy như Mỹ Kim càng cao giá, trái lại đồng tiền Hồ phải tuột sốc xuống "thiên đàng bãi rác" là điều phải xảy đến, hiện tượng đồng tiền Hồ tụt giá 30% và nay đang trên đà xuống nữa.

    " Xuống, xuống, xuống nữa .... tiền Hồ, không ngừng nghỉ.
    Cho Đô La ngự trị chốn thương trường.
    Cho dân nghèo hết gạo, cả nước hết xăng.
    Cho tiền Hồ Chủ Tịch thay đồ chùi đít".
Tại các nước tự do, lạm phát là vấn đề được tất cả các chính phủ đặt ưu tiên hàng đầu; đây là vấn đề sinh tử cho bất cứ đảng phái chính trị đương quyền, nếu không thì nhiệm kỳ sau chịu khó ra ngoài làm "đối lập". Mức lạm phát thường rất khiêm nhường, khi vượt quá 4% là cả nước la ầm lên, các cơ quan truyền thông tha hồ mà bình luận, uy tín chính phủ giảm dần và chờ ngày thất cử. Nhưng tại Việt Nam, lạm phát tăng đến 30% là điều vô cùng bất thường, đó là hiện tượng sốt tiền tệ, đưa đến nhiều hậu quả khôn lường. Một điều quan trọng khác là dân chúng càng "dị ứng" với bất cứ cái gì của đảng và nhà nước đưa ra, nhất là đồng bạc mang hình Hồ Chí Minh, nên trong nước, huyết mạch đã lộn xộn từ lâu, đưa đến rối loạn "cơ năng" khác, đến nay do tác động bên ngoài, như giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước đầy, là "luật cùng tất biến", khiến cho tình hình càng tồi tệ: từ khủng hoảng nhiên liệu, nhu yếu phẩm (gạo hàng đầu), tiền tệ khiến cho con bịnh ung thư kinh tế Việt Nam càng đi dần đến sụp đổ. Những nhà đại kinh tế gia "đỉnh cao trí tuệ loài người" bèn ra sức trấn an bằng thủ đoạn lừa đảo, họ tưởng dân Việt Nam vẫn "ngoan ngoãn như Cháu Ngu Bác Hồ", cứ nhắm mắt đi theo tấn bản chỉ đường của đảng, mà "lòng phơi phới một tương lai ..... ĐEN TỐI".

Biện pháp dùng lợi nhuận cao để dân chúng đem đồng Mỹ Kim gởi các ngân hành nhà nước hoàn toàn thất bại, chẳng những dân không gởi mà còn rút tiền Đô để cất hay gởi ngân hàng ngoại quốc cho chắc ăn. Nhà nước ngu như thời "bộ lạc", lúc trao đổi bàng vỏ xò, khi vỏ xò hết là cứ ra biển lấy về làm tiền trao đổi. Ngày nay nhà nước Việt Cộng in thêm tiền Hồ để đổi lấy tiền Đô, là lối điếm đàng "đem rác đổi tiền" thì dân cũng đâu có ngu mà đổi. Những kẻ lãnh đạo còn ngu si, đần độn, phản ứng thụ động bằng lối suy nghĩ nông cạn như ếch ngồi đáy giếng: kiềm hãm giá đồng bạc Hồ với đồng Mỹ Kim, khi thấy giá Mỹ Kim tăng vài lần trong ngày; họ tưởng là dùng công an để đàn áp dân thì có thể thành công bước đầu, nhưng dùng "bạo lực" để đàn áp đồng tiền là hoàn toàn thất bại; khi tiền càng bị ép giá, dân chúng càng phản ứng ngược lại, nên hiện tượng trao đỗi Mỹ Kim trong thị trường chợ đen càng phát triển, dù đảng ra lịnh cho công an kiểm soát, ngăn cấm.

Sự kiện nầy giống như việc chơi số Đề, sau 1975 đảng cấm, nhưng giới chơi số đề, các thầu số đề vẫn "sống mạnh, sống vững chắc" giữa đám công an, các bộ từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc. Khi đồng Mỹ Kim bị ép giá đi theo "tấm bản chỉ đường của đảng" là điều vô cùng nguy hiểm như câu: "càng áp bức càng đấu tranh cao", như quả bóng bị nén hơi, đến lúc nào đó nổ tung, sức công phá mạnh; cái gương của xứ Á Căn Đình còn đây, tổng thống De La Rua ép giá đồng Mỹ Kim ngang với đồng Peso, với chủ tâm ổn định thị trường, nào ngờ cung cầu mất thăng bằng, đưa đến sụp đổ chính phủ. Nhưng sau đó thì chính phủ mới lên cầm quyền, nhờ thể chế chính trị tự do nên nước nầy vượt qua cơn suy thoái, kinh tế phục hồi.

Việt Cộng thì khác, là nước độc tài, càng áp dụng những biện pháp kinh tế theo quan điểm của kẻ thống trị, không mang lại kết quả và có tác dụng ngược lại. Đảng có thể dự trữ số ngoại tệ hơn 20 tỷ Mỹ Kim, hoặc hơn nữa, nếu tung ra thị trường, cũng không thể cứu nguy cho nền kinh tế, vì vấn đề sản xuất, cung cầu, tín nhiệm vẫn không thể "khắc phục" được. Khác với Hoa Kỳ, khủng hoảng tín dụng được chính phủ bơm tiền vào, tạo thăng bằng vì nước Mỹ chỉ dùng một thứ tiền được dân và thế giới tín nhiệm có câu: "The God we trust"; trong khi khủng hoảng tín dụng ở Việt Nam, nơi có nhiều thứ "tín dụng" khác lưu hành ngoài vàng như Mỹ Kim nếu đảng tung 20 tỷ, hay 100 tỷ (nếu có) thì số Mỹ Kim ấy tự nhiên biến mất vào túi của nhân dân một cách mau lẹ, tình trạng mất giá tiền Hồ càng tồi tệ hơn. Chưa kể đến số Mỹ Kim lưu hành "quá tải" đưa đến tình trạng vật giá leo thang thêm nữa; nhưng không bơm tiền cứu nguy cũng sụp đổ vì lượng ngoại tệ khan hiếm và tiền Hồ càng mất dần giá trị, thua cả giấy đi cầu. Bề nào cũng chết, là viễn ảnh đen tối, trước mắt, không xa của cái "bóng ma diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch nước ngoài", nay xuất hiện qua cơn sốt tín dụng. Cộng Sản không sụp đổ bằng sức mạnh quân sự; nhưng sức mạnh nhân dân và tiền giấy mới là lực lượng vô địch, từng vật ngã những nước Cộng Sản giàu, mạnh nhất trong khối, nên tàn dư Cộng Sản Trung Quốc, Việt Nam cũng phải sụp đổ bởi nhân dân bị mất hết tiền, tự động đồng lòng đứng lên khắp nơi để "giành lấy chính quyền về tay nhân dân" thì đảng Cộng Sản có công an, bộ đội, vũ khí, tàn ác cũng không thể cưỡng lại sức mạnh quần chúng, như biển, khi nổi cơn thịnh nộ, thì con thuyền nào chịu nổi, nhất là con thuyền Cộng Sản đã mụt nát từ lâu. Từ ngay bây giờ, người dân trong nước hay người Việt hải ngoại hãy có những biện pháp đối phó để không bị thiệt hại quyền lợi:

- Rút hết tiền từ ngân hành nhà nước, đổi thành tiền Đô, hay bất cứ ngoại tệ ổn định nào như Úc Kim, Gia Kim, Euro,.... mang sang ký thác tại các ngân hàng quốc tế, các nước dân chủ có chi nhánh tại Việt Nam (không nên gởi cho các ngân hàng của Trung Cộng, vì nước nầy cũng khó tránh khỏi khủng hoảng tín dụng như Việt Nam)

- Không vì tiền lời cao mà mắc lừa nhà nước, đem tiền gởi họ là coi như đem trứng gởi cho ác.

- Dân nước ngoài lỡ làm ăn, hãy mau chuyển tiền qua các ngân hàng ngoại quốc, tìm cách rút lui càng sớm càng tốt để tránh thiệt hại.

- Đi du lịch cũng nên hạn chế, chỉ khi nào cần thiết, vì tình hình kinh tế nầy, cuộc bạo loạn có khả năng xảy ra bất cứ lúc nào. Có khi đám đông cuồng nhiệt dễ gây thiệt hại đến sinh mạng, an toàn bản thân.

Con bịnh ung thư kinh tế Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ngày nay đang trong giai đoạn hấp hối trước sự hoành hành từ những tế bào, cơ cấu, nhất là não bộ cũng đã bị ung thối từ lâu. Những tác động bên ngoài qua cuộc khủng hoảng tiền tệ, thực phẩm, nhiên liệu làm gia tăng thêm sự "tắt thở" của một cơ thể bệ rạt, sống nhờ từ những nguồn tiếp tế bên ngoài. Nếu những người trong đảng Cộng Sản nhìn thấy tương lai mù mịt ấy, thì những người còn chút gì nghĩ đến quốc dân, hãy tự đứng lên dùng lối "tự giết chết" cái thây ma đảng Cộng Sản ngay, để đoái công chuộc tội và được nhân dân khoan hồng; còn chờ đến nước tới trôn mới nhảy thì e là quá muộn đấy!.

Trương Minh Hòa

Quan ngại đối với thư viết ngày 4 tháng 6 năm 2008 của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn


CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
Fax: 03 9687 9198 Email: CongDongViet@gmail.com
Website: ausviet.net

CT: Ông Nguyễn Thế Phong

VIETNAMESE COMMUNITY IN AUSTRALIA-NSW CHAPTER INC.
CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU TIỂU BANG NSW

P.O. BOX 34, BANKSTOWN NSW 1885
Tel. 02-9790 3934 - 02-9796 8035
Fax: 02-9796 3794


Kính gửi LM Nguyễn Minh Thúy
Chủ Tịch, Tuyên Úy Đoàn Việt Nam, Úc Châu
31-33 Chipala Road
Westminster, WA 6061

17 tháng 6 năm 2008

Kính thưa Cha,

Đại diện Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu, chúng tôi gửi thư này đến quý Cha để bày tỏ sự quan ngại đối với bức thư của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đề ngày 4 tháng 6 năm 2008, đăng trên website Tiếng Vọng Gioan Baotixita.

Trong những ngày vừa qua, chúng tôi đã nhận được rất nhiều phản ứng của đông đảo đồng hương, nhiều cơ quan truyền thông và hội đoàn trong Cộng Đồng Người Việt tỏ ý bất mãn đối với những điều mà ĐHY Phạm Minh Mẫn đã viết trong thư, đặc biệt là đoạn 2 và đoạn 3 của lá thư, và đã yêu cầu Cộng Đồng phải có phản ứng trước những nhận định của ĐHY về lá cờ vàng ba sọc đỏ. Nhận thấy đây là một vấn đề hết sức tế nhị nên chúng tôi muốn trình bày việc này với qúy Cha trước để tìm cách tránh những xáo trộn, đổ vỡ có thể sẽ xẩy ra.

Trong đoạn 2 của lá thư, ĐHY tỏ ý quan ngại rằng sự hiện diện của lá cờ vàng ba sọc đỏ trong Đại Hội Giới Trẻ Công Giáo Thế Giới tới đây tại Sydney sẽ là một trở ngại "gây tắc nghẽn cho con đường hiệp thông của các bạn trẻ Công Giáo Việt Nam". Trên thực tế, lá cờ vàng đã hiện diện cùng các phái đoàn Giới Trẻ Công Giáo Việt Nam hải ngoại trong tất cả các kỳ Đại Hội trước tổ chức ở các quốc gia khác mà không hề "gây tắc nghẽn hiệp thông" như ĐHY đã nhận định, ngoài việc khiến chế độ Cộng Sản Việt Nam khó chịu và bực bội. Cho dù một số thanh niên Công Giáo từ Việt Nam đến có thể cảm thấy không thoải mái, thì đây cũng là cơ hội tốt để họ hiểu thêm về nguyện vọng chính đáng của người Việt hải ngoại, trong đó có các bạn trẻ Công Giáo. Điều này không thể được gọi là “gây tắc nghẽn hiệp thông”, trái lại còn tăng thêm sự hiểu biết thông cảm giữa các bạn trẻ. Vào thời điểm gần đến ngày Đại Hội Sydney, nhận định trên của ĐHY đã tạo nhiều thắc mắc, nghi ngờ, khiến nhiều người đã cho rằng có áp lực của Cộng Sản Việt Nam ở đằng sau việc này.

Và nếu lá cờ vàng ba sọc đỏ “gây tắc nghẽn hiệp thông” như ngài đã nói, thì như vậy các phái đoàn Giới Trẻ Việt Nam Hải Ngoại sẽ mang lá cờ nào để biểu trưng cho họ trong Đại Hội? Hay ĐHY muốn tất cả các thanh niên Công Giáo Việt Nam trong nước và hải ngoại cùng đứng chung dưới lá cờ đỏ sao vàng của Cộng Sản Việt Nam? Đây là điều mà chế độ Cộng Sản Việt Nam rất mong muốn; và dĩ nhiên là điều mà tất cả Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại không chấp nhận.

Trong đoạn 3, khi nói về biểu tượng của một lá cờ, ngài cho rằng “có lúc lá cờ chỉ biểu trưng một thói đời mang tính đối kháng”! Theo nội dung (context) của lá thư, nhận định đó là một sỉ nhục đối với Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại, từ hơn 30 năm nay đã cố gắng hết sức để tranh đấu giữ vững lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ của dân tộc Việt Nam, là biểu tượng của tự do dân chủ, và cũng là biểu tượng của người Việt tỵ nạn. Cuộc tranh đấu hiện nay chống chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam dành lại tự do dân chủ cho đất nước là bổn phận, là nhiệm vụ thiêng liêng của người Việt yêu nước ở hải ngoại cũng như trong quốc nội. Lá cờ vàng mà chúng ta hằng tôn trọng không thể bị nhục mạ, bị coi như "một thói đời mang tính đối kháng" như ĐHY đã nói.

Trong cuộc chiến chống chế độ độc tài cộng sản dành lại độc lập, tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam hiện nay, lá cờ vàng ba sọc đỏ là một vấn đề hết sức quan trọng và nhậy cảm. Nhiều năm qua, Cộng Sản Việt Nam đã cố gắng gây áp lực với một số quốc gia có người Việt tỵ nạn sinh sống, yêu cầu họ không chấp nhận lá cờ biểu tượng của người Việt tỵ nạn này. Một số cơ quan chính quyền, trường học đã xử dụng cờ đỏ sao vàng là cờ của Cộng Sản Việt Nam như biểu trưng cho người Việt, và đã gây phẫn nộ trong cộng đồng người Việt. Nhưng sau khi được giải thích đa số những cơ quan trách nhiệm đã tỏ ý hối tiếc vì họ không hiểu rõ vấn đề, và đã đưa lá cờ vàng ba sọc đỏ vào thay thế. Gần đây một số tiểu bang tại Hoa Kỳ và Canada đã công nhận cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ của cộng đồng người Việt. Nay vị lãnh đạo cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam mà lại có những nhận định tiêu cực về lá cờ vàng ba sọc đỏ như vậy, không khỏi gây ra bất mãn, chống đối đưa đến những chia rẽ trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại cũng như ngay trong nội bộ Cộng Đồng Công Giáo. Trên nhiều diễn đàn ngôn luận đã có những bài viết bình luận về sự việc này, hầu hết đều không đồng ý với lá thư của ĐHY. Chắc chắn trong thời gian tới đây, đồng hương sẽ đòi hỏi CĐNVTD tại Úc Châu phải chính thức lên tiếng.

Chúng tôi được biết rằng ĐHY Phạm Minh Mẫn sẽ sang Sydney tham dự Đại Hội Giới Trẻ Công Giáo Thế Giới vào tháng Bảy sắp tới đây. Chắc chắn rằng Cộng Sản Việt Nam sẽ không bỏ qua cơ hội quý báu này để khai thác lá thư, gây xáo trộn, đào sâu chia rẽ giữa người không Công Giáo với người Công Giáo và ngay cả giữa người Công Giáo với nhau. Sự phẫn nộ của đồng hương có thể dẫn đến những hình thức phản ứng mạnh mẽ như biểu tình phản đối, rất tai hại cho danh tiếng của ĐHY cũng như tạo ra hố sâu chia rẽ khó bề hàn gắn trong cộng đồng người Việt tại Úc Châu. Chính vì mối lo ngại này mà chúng tôi muốn trình bày việc này với quý Cha để xin quý Cha suy nghĩ, ngõ hầu có những hướng dẫn và ngăn ngừa trước khi những việc không hay có thể xảy ra.

Ban Chấp hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu sẵn sàng hỗ trợ Cộng Đồng Công Giáo trong việc đón tiếp các bạn trẻ Việt Nam từ khắp nơi trên thế giới đến Sydney tham dự Đại Hội Giới Trẻ Công Giáo Thế Giới. Trong tinh thần đó chúng tôi tha thiết kính xin quý Cha cố gắng cùng chúng tôi tìm mọi biện pháp để tránh những xáo trộn có thể xảy ra, có ảnh hưởng không tốt cho các bạn trẻ Việt Nam và lễ hội quan trọng này.

Rất mong nhận được sớm phúc đáp của quý Cha ngõ hầu Ban Chấp Hành CĐNVTD có đủ dữ kiện để sửa soạn bày tỏ lập trường chính thức khi công chúng đòi hỏi. Trong khi chờ đợi, Ban Chấp Hành chúng tôi rất sẵn sàng gặp gỡ quý Cha để thảo luận về vấn đề này.

Trân trọng,

TM/ BCH/CĐNVTD/LBUC
Nguyễn Thế Phong
Chủ Tịch

TM/ BCH/CĐNVTD/NSW
Võ Trí Dũng
Chủ Tịch

Đồng kính gửi:
ĐÔ Nguyễn Minh Tâm
Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam, Nam Úc
29 South Terraces
Pooraka, SA 5059

LM Nguyễn Khoa Toàn
Tuyên Úy Trưởng Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam, Sydney

92 The River Road
Revesby, NSW 2212

LM Chu Văn Chi
Tuyên Úy Đặc Trách Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới
Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam, Sydney
92 The River Road
Revesby, NSW 2212

Saturday, June 21, 2008

VIỄN ẢNH “VẼ ĐƯỜNG CHO HƯƠU CHẠY ”

Thanh Hà,

Với tư cách là giáo dân Công Giáo tỵ nạn CS thuộc Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc Châu, chúng tôi thật bàng hoàng và tủi nhục khi đọc nội dung lá “thư ngỏ” viết bởi Hồng Y Gioan B. Phạm Minh Mẫn TGP SàiGòn gởi đến Giám Mục Giuse Vũ Văn Thiên đặc trách Mục Vụ Giới Trẻ, Giám Mục Phaolô Bùi văn Đọc đặc trách Giáo Lý Đức Tin và Giám Mục Giuse Đặng Đức Ngân cai quản Giáo Phận Lạng Sơn là những vị Giám Mục sẽ đi tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới vào tháng 7 năm 2008 tổ chức tại thành phố Sydney, Úc Châu. Nội dung chính bày tỏ sự lo ngại về hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ và đưa ra những “biện luận” trong mục tiêu nhằm ngăn ngừa trường hợp hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ hiện diện tại Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Úc Châu. Trước nội dung nghiêm trọng ấy, là giáo dân Công Giáo tỵ nạn CS, chúng tôi không thể làm ngơ.

“Thư ngỏ” viết ngày 4/6/2008 công bố vào ngày thứ Sáu 6/6/2008 được gửi đến các địa chỉ điện thư một cách RỘNG RÃI cho Dân Chúa và Đồng Bào Việt Nam ở khắp nơi. Hai ngày sau đó, phải chăng gặp sự phản ứng mạnh mẽ qua các bài viết đóng góp ý kiến xác đáng từ các vị thức giả khắp nơi, lá thư ngỏ ấy đã “biến mất” trên trang mạng http://www.conggiaovietnam.net/ trong tiểu mục LỜI CHỦ CHĂN!

Hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng và là căn cước tỵ nạn của những người Việt tỵ nạn CS khắp nơi trên toàn thế giới, không bao giờ chấp nhận sống dưới chế độ độc tài toàn trị CS đã phải liều thân bỏ nước ra đi tìm sự sống trong sự chết kể từ sau ngày Quốc Hận 30/4/1975.

Trong những ngày qua, với bản tính dè dặt thường lệ, chúng tôi tự tìm hiểu:

1. Vì sao Hồng Y Phạm Minh Mẫn, vị lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đứng hàng thứ nhì sau Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng, đã tự nguyện thay mặt chế độ Việt gian csVN ngang nhiên đả phá hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ?? Nhận thấy lời kêu gọi của Hồng Y Phạm Minh Mẫn rất nguy hiểm vì có tầm ảnh hưởng lớn rộng đối với các Giáo Sĩ và Giáo Dân Công Giáo còn kém ý thức hoặc còn mơ hồ về lịch sử cờ vàng ba sọc đỏ để có thể phân biệt rõ đâu là biểu tượng đích thực và nguyên thủy của quốc gia đất nước VN.

2. Vì sao Hồng Y Phạm Minh Mẫn và một số Giám Mục, tu sĩ, được chế độ CS cho phép thường xuyên xuất hiện tại những Cộng Đồng Người Việt tỵ nạn CS tại Hải Ngoại qua những chuyến đi gọi là “mục vụ”? Mặc dầu trên thực tế, chúng tôi nhận thấy những người Công Giáo tỵ nạn CS tại Hải Ngoại không có nhu cầu “mục vụ” đòi hỏi Giáo Hội Công Giáo Việt Nam phải có bổn phận giúp đỡ.

Nhằm minh chứng, căn cứ vào Danh Sách Ban Thường Vụ và Đặc Trách các Ủy Ban của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhiệm kỳ 2007-2010, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đặc trách về Uỷ Ban Di Dân.

Trong chức vụ này, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã hình thành ba Ban Mục vụ Di Dân: Di dân nội địa, Di dân người nước ngoài tại VN, Di dân Hải Ngoại.

Trong một lá thư Hồng Y Phạm Minh Mẫn gửi LM Nguyễn Thanh Liêm là Chủ Tịch Liên Đoàn Công Giáo VN tại Hoa Kỳ khi đề cập về Mục Vụ Di Dân, xin trích dẫn ở đoạn 1 như sau, viết theo chữ nghiêng:

Đối với người Công Giáo VN tại Hải Ngoại, Giáo Hội tại VN có bổn phận:

    • Giúp họ duy trì và củng cố sự hiệp thông với đời sống Giáo Hội tại VN;

    • Giúp họ bảo tồn những giá trị tinh thần và đạo đức trong truyền thống văn hoá của dân tộc mình.

    “……Trong Ban MV Di Dân hải ngoại có nhiệm vụ liên hệ với các cộng đoàn CGVN hải ngoại, nhằm nắm bắt tình hình và nhu cầu mục vụ, rồi cùng nhau xem xét coi cần và có thể làm những gì để đáp ứng nhu cầu của CGVN hải ngoại, đặc biệt trong 2 nhiệm vụ đã nêu trên…”

Phải chăng những lời đưa đẩy của Hồng Y Phạm Minh Mẫn đặc trách về Muc Vụ Di Dân là những giải pháp đề nghị có tác dụng “hữu hiệu” giúp cho chế độ Việt gian csVN theo Nghị Quyết 36 nương nhờ vào Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nhằm chính thức thò tay ra kiểm soát giáo dân Hải Ngoại…. hay nói theo kiểu ví von là “vẽ đường cho hươu chạy” trước tiên là bằng cách dị ứng lá cờ vàng ba sọc đỏ để khỏi làm tắc nghẽn con đường “hiệp thông” hay nói cho đúng nghĩa hơn là con đường “hòa hợp hòa giải”!!

Tóm lại:

Là những người Quốc Gia tỵ nạn CS tại Hải Ngoại, chúng tôi luôn ý thức đề cao cảnh giác và tẩy chay trước những lời đề nghị, kêu gọi với nội dung đầu độc, lợi dụng tôn giáo làm công cụ tuyên truyền ….. có lợi cho CS.

Là những bậc phụ huynh của thế hệ các em sinh ra và trưởng thành tại Hải Ngoại, chúng tôi luôn hướng dẫn những thế hệ tiếp nối. Thế hệ thanh thiếu niên tại Hải Ngoại đều ý thức, thấu hiểu rõ về nguồn gốc tỵ nạn CS của bậc cha ông mình và lịch sử lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng chính đáng nhất của Dân Tộc Việt.

Là những người Việt tỵ nạn CS trong đại gia đình Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu sẽ cùng với các thanh thiếu niên trẻ tham dự đông đảo ngày WYD2008, những lá cờ vàng ba sọc đỏ CHÍNH NGHĨA sẽ tung bay chào đón Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI sang thành phố Sydney Úc Châu tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008.
Úc Châu 2008

Thanh Hà

Một Lá Cờ Biểu Tượng Cho Điều Gì ?

Nguyễn An Quý

Một Lá Cờ Biểu Tượng Cho Điều Gì ?

Đó là câu mà Đức Hồng y Gioanbaotixita Phạm Minh Mẫn đã viết trong bức thư ngỏ gởi Đức Cha chủ tịch Uỷ Ban Giám mục Đặc trách Mục vụ giới trẻ, Đức Cha chủ tịch Ủy Ban Giám mục đặc trách về giáo lý đức tin và Đức Giám mục Lạng sơn. Câu hỏi này nằm ở mục đánh số 3 theo thứ tự của bức Thư ngỏ dài 2 trang gồm có 6 mục. Thư đề Tháng kính Thánh tâm Chúa Giêsu, ngày 4 năm 2008. Bức thư được phổ biến công khai trên trang mạng http://www.Conggiaovietnam.net và tôi cũng đã nhận được bức thư này vào ngày 6 tháng 6 năm 2008 do http://www.conggiaovietnam@gmail.com gởi vào hộp thư của tôi. Người gởi có cái tên rất là kêu: tiengvonggioanbaotixita với email như trên. Tôi kể đầu đuôi câu chuyện của bức thư hơi dài một chút, với mục đích để xác minh rằng, Đức Hồng y có ý muốn phổ biến cho mọi người Việt tỵ nạn khắp nơi trên thế giới, (chứ không phải chỉ gởi cho ba vị Giám mục trên). Chủ đích là Hồng y muốn được mọi người am tường về vấn đề mà ngài đã đưa ra, cũng như để nhắc nhở các bạn trẻ Việt Nam khắp nơi trên thế giới thấy được rằng lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là nguyên nhân làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ Việt Nam, cũng như để mọi gia đình có con em chuẩn bị lên đường tham dự ngày giới trẻ tại Úc, hay những ai cùng với con em đi tham dự thì liệu đó mà lo cho ổn.

Để có sự công minh chính đại, tôi xin ghi lại nguyên văn 3 mục trong thư ngỏ; 1, 2, và 3
(người viết chỉ lưu ý 3 mục này thôi) được ghi chữ nghiêng như sau:

    1. Đức Hồng y G. Pell mới biên thư tha thiết mời cá nhân tôi đến Sydney dự WYD 2008. Thấy không từ chối đuợc, tôi phải cắt bớt chuyến đi công tác mục vụ di dân của tôi và những ngày nghỉ để đáp lời mời của Ngài. Sau khi suy nghĩ mình phải làm gì đem lại lợi ích thiêng liêng cho các bạn trẻ VN từ nhiều châu lục quy tụ về một chỗ để cùng gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau, để làm chứng cho niềm tin của mình, tôi muốn chia sẻ vài ý nghĩ với quý Đức Cha sẽ có mặt trong WYD. Mục đích là cùng nhau giúp cho các bạn trẻ,- là sức sống của Giáo Hội, của đất nước-, khai thông con đường hiệp thông với Chúa là Cha trên trời, hiệp thông với nhau là con một Cha, là anh em một nhà. Một sự hiệp thông phong phú hóa, tăng lực cho sức sống trẻ của các bạn.

    2. WYD ba lần trước ở Pháp, Đức, Canađa, đều có một sự kiện mà một số bạn trẻ ở một số nơi coi như một sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN. Sự cố đó là lá cờ vàng ba sọc đỏ đã được dương lên trong lúc các bạn trẻ VN từ nhiều châu lục quy tụ lại để cử hành phụng vụ hoặc sinh hoạt chung.

    3. Một lá cờ biểu tượng cho điều gì?

    Có lúc lá cờ được coi là biểu tượng cho một đất nước, lúc khác được coi là biểu ttưng một ch ủnghĩa, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc gia…Có lúc chỉ biểu trưng một hhói đời mang tính đối kháng. Giám muụ của tôi, cách đây hơn 30 năm, cách đây 30 năm, lúc còn sinh thời, đã để lại cho các tín hữu và cho bản thân tôi bài học lịch sử này: người mẹ VN, lúc mặc áo vàng( cờ vàng) lúc mặc áo đỏ( cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc áo rách, vẫn là người mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục con dân VN, vẫn là người mẹ đã để lại cho dân tộc VN một di sản vô giá. Di sản đó là truyền thống văn hóa của dân tộc VN, một nền văn hóa khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức.
    (Hết trích).
Qua nội dung 3 tiết mục của thư ngỏ vừa nêu trên đây, người viết xin được lạm bàn chút đỉnh. Đây là bức thư gởi 3 vị Giám mục tại Việt Nam, chắc các vị này sẽ được nhà nước cộng sản Việt Nam cho đi dự Ngày Giới trẻ thế giới năm 2008 tại Úc. Như vậy, việc suy nghĩ về ”sự cố lá cờ vàng ba sọc đỏ”(sic) mà ngài Hồng y đã rất lo lắng sợ sẽ được dương cao tại WYD 2008 có giá trị gì không, khi Hồng y gởi đến ba vị Giám mục này? Ba vị Giám mục này có quyền để quyết định được vấn đề cấm dương cao ngọn cờ vàng ba sọc đỏ tại WYD 2008 không? Qua đó người viết nghĩ, nó chỉ có tác dụng để chứng minh với Bắc Bộ phủ rằng, ngài Hồng y đã có công lớn trong việc vận động triệt hạ lá cờ mà tập thể người Việt tỵ nạn nói riêng và toàn dân Việt Nam nói chung, vốn trân quý xưa nay. Đây là điểm son mà chắc chắn ngài Hồng y sẽ được Bắc Bộ phủ ghi vào Sổ Vàng của đảng để ban huân chương cao quý của đảng nay mai.

Lá cờ vàng ba sọc đỏ có làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ Việt Nam không? Không hiểu ngài Hồng y đã căn cứ vào đâu để kết tội cho các Ban Tổ chức ngày Giới trẻ trước đây như ở Pháp, ở Đức, ở Canada đã cho dương lên ngọn cờ vàng để làm tắc nghẽn sự hiệp thông của các bạn trẻ Việt Nam ? Xin các bạn trẻ trả lời cho Hồng y biết sự hư thực ra sao?

Xin thưa với ngài Hồng y. Với Đức tin của người Kitô hữu, tôi tin chắc, tất cả các bạn trẻ Việt Nam trên thế giới quy tụ về tại Sydney năm nay, kể cả các bạn trẻ Công giáo taị Việt Nam đến tham dự (xin miễn kể những người trẻ thuộc đảng viên đảng công sản Việt Nam, có thể đám Quốc doanh sẽ lập phái đoàn đi tham dự). Tất cả các bạn trẻ Việt nam này, chắc chắn sẽ không bị di ứng, khi đứng chung dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, nên xin ngài đừng vội kết tội lá cờ này đã làm tắc nghẽn sự hiêp thông mà tội nghiệp. Ngài Hồng y có bằng cớ nào để chứng tỏ toàn dân Việt Nam sung sướng đứng dưới bóng cờ đỏ của đảng cộng sản Việt Nam không? Toàn dân Việt Nam đã quá đau khổ bởi sự áp đặt ngọn cờ máu, cờ tay sai của Đệ Tam Quốc tế cộng sản vào đất nước Việt Nam, chẳng lẽ Hồng y không biết sao? Ngài không thấy ngày đêm dân oan khiếu kiện khắp nơi và ngay tại Sài Gòn đó sao? Hay là ngài bận lo chuyện mục vụ di dân, lo tính toán chuyện dẹp bỏ cờ vàng ba sọc đỏ, mà quên mất nỗi đau của người dân trong nước?

Một lá cờ biểu tượng cho điều gì?

Xin thưa với Hồng y: Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là Quốc Kỳ Việt Nam có trước khi ông Hồ lên chóp Ba đình trương ra ngọn cờ máu. Các đảng phái Quốc gia lúc bấy giờ đã tá hoả tam tinh, khi thấy cờ máu này xuất hiện tại Ba Đình. Từ lâu, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đã trở thành hồn thiêng sông núi của Dân tộc Việt Nam, nên mọi người dân từ thuở thiếu thời đã biết tôn trọng lá cờ này. Môn công dân giáo dục ở miền Nam trước đây, đã dạy học sinh, hễ khi đi ngang qua nơi đang cử hành lễ chào cờ, thì phải đứng lại ở thế nghiêm trang, cất mũ nón, hướng về Quốc kỳ là lá Cờ vàng ba sọc đỏ mà Hồng y đang mong muốn dẹp bỏ đây. Tôi muốn nói đến giá trị thiêng liêng của ngọn cờ vàng. Mặc dù hôm nay, trên trường Quốc tế, ngọn cờ này không còn là Quốc kỳ Việt Nam nữa. Nhưng đây là ngọn cờ biểu tượng cho hồn thiêng sông núi của những người Việt Quốc gia không cộng sản, vì cớ gì Hồng y lại đem ra pha trò diễu cợt khi viết vào thư ngỏ một cách vô trách nhiệm, tôi nói vô trách nhiệm vì ngài Hồng y đã lôi vị Giám mục quá cố nào đó, đã lôi luôn cả các tín hữu vào phe Hồng y để pha trò đùa cợt: “Giám mục của tôi, cách đây hơn 3o năm, lúc còn sinh thời, đã để lại cho các tín hữu và cho bản thân tôi bài học lịch sử này: người mẹ VN, lúc mặc áo vàng(cờ vàng), lúc mặc áo đỏ( cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc áo rách…” (nguyên văn). Hồng y có cảm thấy sung sướng khi người mẹ Việt Nam đang mặc áo rách không? Hồng y cứ thử hỏi những bà mẹ chiến sĩ đã từng nuôi Việt cộng dưới hầm trong nhà của các mẹ ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu long, hôm nay họ có thích mặc áo đỏ, áo rách không? Đó là những bà mẹ dân oan đang đi khiếu kiện tại Sài Gòn đấy.

Một lá cờ biểu tượng cho điều gì?

Xin thưa với Hồng y: Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng cho nhân bản, biểu tượng cho một nền tự do chân chính, biểu tượng cho công lý, cho nhân quyền và cho phẩm giá của con người. Quân Dân miền Nam đã anh dũng chiến đấu và đã chết dưới ngọn cờ này để bảo vệ lý tưởng tự do.

Năm 1954, theo ngọn cờ nhân bản này mà cả triệu người miền Bắc đã bỏ hết mọi sự, để vào miền Nam dưới bóng cờ này. Ngày nay hơn 3 triệu người Việt sống khắp nơi trên thế giới, nhất là tại các nước đông người Việt tỵ nạn, đồng bào Việt Nam nhờ bóng cờ vàng ba sọc đỏ này, mà họ gọi đuợc nhau khi cần thiết. Tại đất nước Hoa Kỳ, nhiều thành phố, nhiều Tiểu bang, Cộng đồng người Việt Nam đã tốn bao công sức để vận động Chính quyền các nơi công nhận ngọn cờ nhân bản này. Người Việt Nam trên thế giới, hễ đi đến đâu, thấy có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, thì họ sung sướng quy tụ lại, niềm tin cậy và quý mến nhau là ở chỗ này đây. Trong các lần ngày Giới trẻ Thế giới trước đây, các bạn trẻ Việt nam khắp nơi đều sung sướng và hãnh diện quy tụ với nhau dưới bóng cờ vàng. Đức Giáo Hoàng Phaolô II trước đây cũng như vị Giáo Hoàng đương kim, hễ thấy ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ thì các Ngài đều vẫy tay chào: Việt nam. Việt nam. Bản thân người viết rất ngạc nhiên về lời phán của Hồng y Mẫn cho rằng, lá cờ vàng ba sọc đỏ đã làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ Việt nam. Đây là ý tưởng không trong sáng chút nào hết, nếu không nhầm thì mục đích chỉ nhắm chuẩn bị kế hoạch dẹp bỏ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ theo Nghị quyết 36, để khi ngài Hồng y xuất hiện tại các Cộng đoàn mà ngài sẽ đến làm công tác gọi là mục vụ di dân, khỏi phải lo sợ khi bóng cờ nhân bản này xuất hiện. Được biết Hồng y Phạm Minh Mẫn đã được HĐGMVN giao cho công tác mục vụ di dân như lời ngài Hồng y đã khoe với Cha Nguyễn Thanh Liêm, Chủ tịch LĐCGVN Hoa Kỳ, trong một bức thư gởi cho Cha Liêm cũng vào tháng 6 năm 2008 này. Tôi đã có bức thư này đang nằm trong hộp thư của tôi, nên cũng xin được mách một chút về ngài Hồng y đã quá cẩn thận lo xa, khi than phiền với Cha Liêm trong thư gởi Cha Liêm như sau: “Tôi có đến thăm VP Immigration and Refugee của HĐGM Hoa Kỳ tại Washington DC. Lúc bấy giờ Cha McGuire, tiền nhiệm cha Chính OP, và tôi có hỏi một câu: “Người CGVN đã định cư từ lâu ở Hoa Kỳ, sao họ vẫn là Refugee?”.

Cùng một thời điểm: Hồng y Mẫn vừa lên án Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ làm tắc nghẽn con đường hiệp thông và vừa nêu thắc mắc tại sao cứ duy trì chữ tỵ nạn hoài vậy? Đây không phải là chuyện đạo đức bình thường của một vị Hồng y đâu. Điều này lại được đặt vấn đề với vị Chủ tịch LĐCGVN Hoa Kỳ. Khi đặt vấn đề này với Cha Liêm, thử hỏi Cha Liêm có quyền xóa bỏ chữ tỵ nạn của người Việt Nam lưu vong được không? Cho nên vấn đề đặt ra, người viết nghĩ cũng tương đương với việc nêu Cờ Vàng làm tắc nghẽn hiệp thông với ba vị Giám mục tại Việt Nam . Xét cho cùng, trong tháng 6 năm 2008, Hồng y Phạm Minh Mẫn chắc chắn sẽ được ghi vào sổ vàng của Bắc Bộ phủ đến 2 lần, ngon không? Đây có phải là việc thực hiện Nghị quyết 36 không, xin để mọi người thẩm định ?

“Người CGVN đã định cư từ lâu ở Hoa kỳ, sao họ vẫn là Refugee ?

Xin thưa với Hồng y
, Chữ Tỵ nạn cộng sản, nói gọn là tỵ nạn, đó là căn cước của chúng tôi, là căn cước của những người bỏ nước ra đi, của những người đã nhất quyết không sống chung với cộng sản, là căn cước của những người bất hợp tác với chế độ cộng sản. Người tỵ nạn khác với những cán bộ cộng sản mà Bắc Bộ phủ đã tung ra hải ngoại để quậy phá cộng đồng người Việt tỵ nạn. Chữ tỵ nạn, tự nó có một giá trị tinh thần lớn lao, tự nó đã liên kết những người Việt nam chạy trốn cộng sản đang ở hải ngoại, những người Việt nam không thân cộng sản lại với nhau, chứ không phải có một giá trị về mặt vật chất. Những ai ở hải ngoại mà tiếp tay cho cộng sản thì cái tinh thần tỵ nạn cộng sản tự nó biến mất. Cùng với danh nghĩa tỵ nạn là ngọn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, không môt thế lực nào xóa bỏ nổi đâu. Nỗi trăn trở của Hồng y là muốn xóa bỏ chữ tỵ nạn để gọi chúng tôi là dân tha phương cầu thực hay sao?

Tôi muốn dẫn chứng một chút về bức thư của Hồng y Phạm Minh Mẫn gởi cho Cha Nguyễn Thanh Liêm tại Hoa Kỳ, về chuyện Hồng y đã trăn trở vấn đề có liên quan đến chuyện ty nạn, vì tôi tự nghĩ, từ chuyện Tỵ nạn đến Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ mà Hồng y đã nêu ra cùng thời điểm. Hai bức thư nêu hai vấn đề khác nhau, tuy hai mà một, nên xin được kết hợp vào bài này để có thêm một chút cho rộng đường dư luận về ngài Hồng y Phạm Minh Mẫn.

Xét cho cùng thì đây không phải là chuyện đơn giản hay bình thường, đây là sự kiện đáng cho mọi người Việt Nam tỵ nạn cần suy gẫm về ngài Hồng y.

Viết đến đây, người viết không quên chuyện Quốc nội. Khi Linh mục Nguyễn Văn Lý bị toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế bịt miệng trong phiên xử án ngày 30-3-2007. Vài chức sắc của Giáo hội Công giáo Việt Nam cùng phụ hoạ với nhà nước cộng sản Việt Nam cho rằng Linh mục Nguyễn Văn Lý “làm chính trị”, ngài Hồng y thì cho rằng, vì ở xa, nên không hiểu hết được “ý nghĩa thâm sâu trong đời sống nghịch lý” của Linh mục Nguyễn Văn Lý. Cả thế giới đều biết giá trị cuộc đấu tranh bất bạo động của Cha Lý là đòi Tự do Tôn giáo, Tự do Dân chủ và Nhân quyền cho Việt Nam. Thế nhưng Hồng y lại cho vì ở xa nên không hiểu được ý nghĩa thâm sâu trong đời sống nghịch lý. Cha Lý sống nghịch lý vì đã dám đương đầu chống cộng sản? Đối lại, sao ngài Hồng y ở bên kia bờ đại dương lại dám quả quyết rằng, những ngày Giới trẻ thế giới trước đây ở Pháp, ở Đức, ở Cananda vì có ngọn cờ vàng nên đã làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ Việt Nam. Ai biết, xin mách giúp ?

Đây có phải là ý nghĩa thâm sâu của những hành tung chính trị (đề bài của TS Sao Việt) không?

Seattle, ngày 19 tháng 6 năm 2008.
Tưởng Nhớ ngày Đức Giáo Hoàng GioanPhalo II Phong Thánh cho 117 vị Tử Đạo Việt Nam vừa tròn 20 năm.
Một giáo dân tầm thường
Nguyễn An Quý

Hồng y Mẫn hợp thông với Chúa hay hợp thông với cờ đỏ sao vàng ?

Phạm Thăng Long

Những phẫn uất khác nhau về bức thư ngỏ viết về Đại Hội Trẻ WYD 2008 tai Úc của HY Phạm Minh Mẫn

Những ai đọc qua bức thư của Đức Hồng Y (DHY) Phạm Minh Mẫn gửi cho ban tổ chức Ngày Giới Trẻ Thế Giới (World Youth Day 2008, viết tắt WYD) sẽ được tổ chức tại Sydney vào tháng 7-2008 bày tỏ quan ngại rằng vấn đề cờ vàng sẽ làm “tắt nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN”, cho dù ít thông minh chậm hiểu đến mấy đi chăng nữa cũng đều thấy một điều gì không ổn trong cách lập luận của ĐHY Mẫn. Riêng đối với giáo dân thì họ lại thấy điều đó bất ổn hơn nữa bởi vì một vị chủ chăn với chức vụ Đức Hồng Y nếu mà không sống được những điều mình giảng dậy cho con chiên thì làm sao vị đó có thể hiệp thông được với con chiên, chứ đừng nói chi mơ tưởng đến chuyện hiệp thông với Chúa!

Thật vậy, trong bức thư ĐHY Mẫn có viết: “WYD ba lần trước ở Pháp, Đức, Canada, đều có một sự kiện mà một số bạn trẻ ở một số nơi coi như một sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN. Sự cố đó là lá cờ vàng ba sọc đỏ đã được dương lên trong lúc các bạn trẻ VN từ nhiều châu lục quy tụ lại để cử hành phụng vụ hoặc sinh hoạt chung”.

Đứng trên quan điểm đạo, sự hợp thông mà thánh kinh nói đến là sự hợp thông giữa tâm linh con người và Chuá chứ không phải là sự hợp thông vật chất mang tính chất màu cờ sắc áo với Chúa. Thêm vào đó khi nói đến hợp thông có nghiã là đề cập đến sự kết hợp, và như thế sẽ không có sự phân biệt về màu cờ sắc áo. Do đó nếu ai bảo là lá cờ vàng làm tắc nghẽn sự hợp thông thì chả khác chi nói Chúa kỳ thị. Một sự quỷ biện làm tổn hại ý nghĩa hợp thông thiêng liêng và như thế gián tiếp làm ô danh Chúa .

Nếu muốn lý luận thì người ta chỉ có thể đưa ra hai lập luận: không lá cờ nào làm tắc nghẽn hiệp thông hoặc là lá cờ nào cũng làm tắc nghẽn hiệp thông. Nếu một lá cờ (cờ vàng) có thể làm tắc nghẽn hiệp thông, thì như thế có nghiã là mọi lá cờ khác trong đó có cả cờ đỏ cũng sẽ làm tắc nghẽn hiệp thông. Qua cái lối lý luận mang tính chất quỷ biện cho rằng chỉ có mỗi cờ vàng làm tắc nghẽn hiệp thông ĐHY Mẫn đã để lộ cho giáo dân thấy cái tâm kỳ thị, phân biệt đối xử của ĐHY đi ngược lại tinh thần hiệp thông và và đạo đức của một vị Hồng Y. ĐHY Mẫn đang hành xử không khác chi một Pharisi trong thánh kinh.

Trong lá thư ĐHY Mẫn lại còn ngạo mạn sỉ nhục chính nghĩa Việt Nam Cộng Hoà khi viết về lá cờ: "Một lá cờ biểu tượng cho điều gì? Có lúc lá cờ được coi là biểu tượng cho một đất nước, lúc khác được coi là biểu trưng một chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc gia. Có lúc chỉ biểu trưng một thói đời mang tính đối kháng?"

Ôi! Còn ngôn từ nào nhục mạ thậm tệ màu cờ vang ba sọc cho bằng những chữ “một thói đời mang tính đối kháng”. Khi nói câu trên ĐHY chắc đã quên mất công ơn của hàng trăm ngàn chiến binh VNCH đã bỏ thây ngoài chiến trường để bảo vệ cho ĐHY được yên ổn tu hành hầu mai sau cứu rỗi đời. Nào ai ngờ được, ngày hôm nay súng sính trong chiếc áo hồng y đỏ mùi danh vọng ĐHY Mẫn lại trở mặt đâm sau lưng giáo dân chiến sĩ VNCH.

Nào đã hết, ĐHY Mẫn lại còn mỉa mai tính chất đối kháng của lá cờ. Đối kháng chống lại những cái xấu, những dối trá độc ác của CSVN là những điều tốt nên khuyến khích cớ sao ĐHY lại mmỉa mai nó? ĐHY Mẫn có biết chăng là trọn cuộc đời của Chúa chỉ làm có mỗi một việc duy nhất là đối kháng chống lại những Pharisis hay chăng?

Thêm vào đó, trong lá thư ĐHY Mẫn lại còn đem dẫn chứng lịch sử thế giới để ngụy biện cho việc làm của mình: đời sống cũng như tinh thần hiệp thông trong Giáo Hội Công Giáo chưa bao giờ được xây trên nền tảng một chủ nghĩa trần thế, hay một thói đời mang tính đối kháng.

Tôi không biết ĐHY lấy câu trên từ thánh kinh nào? Nếu qủa thật Chúa mà nói câu “một thói đời” đầy ngạo mạn thì chắc là loài người đã bỏ Chúa từ khuya rồi! Các giáo dân có đau lòng và xấu hổ chăng khi thấy ngày hôm nay hành động kiêu ngạo của Pharisi Mẫn nào khác chi một con dao đồ tể đâm thẳng vào trái tim từ ái kết hợp của Chúa!

Điều buồn cười hơn nữa là qua câu nói này người ta lại càng thấy rõ hơn bản chất Pharisi trong con người ĐHY Mẫn: trong khi Ngài nói một đằng: “đời sống cũng như tinh thần hiệp thông trong Giáo Hội Công Giáo chưa bao giờ được xây trên nền tảng một chủ nghĩa trần thế” , thì Ngài lại làm một nẻo, thể hiện tinh thần hiệp thông theo cung cách rất trần thế của một một con người sống rất ư là trần thế. Thật vậy, chỉ có những người trần thế làm chính trị mới phân biệt màu cờ sắc áo, và Pharisi Mẫn đang lạm dụng những ngôn từ Thiên Chúa để làm chính trị gây chia rẽ trong giáo dân và làm ô uế Thánh Kinh.

Qua lá thư gửi cho ban tổ chức Ngày Giới Trẻ Thế Giới, ĐHY Phạm Minh Mẫn đã xác định lập trường chính trị nép dưới chiếc áo hồng y của mình cho giáo dân thấy là ĐHY Mẫn đã chọn con đường hợp thông với cờ đỏ sao vàng. Một con đường rộng thênh thang danh vọng đỏ màu máu dân tộc đang mở rộng vòng tay đón “nhà im lặng đạo đức giả” mang tên Phạm Minh Mẫn.

Phạm Thăng Long

Võ Văn Kiệt - Công Với Nước Hay Công Với Đảng?

Nguyễn Việt Khanh

Đã có nhiều bàn tán nhân cái chết của một người cộng sản thuộc loại được gọi là có “bề dầy cách mạng” và đầy quyền uy, vào lúc cuối trào chế độ CS, đó là cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt.


Theo hệ thống truyền thông BBC thì quốc tế khen ngợi ông Kiệt là một nhân vật thuộc phe cải cách, muốn Xích lai. gần với phương Tây và thúc đẩy kinh tế thị trường. Jean Claude Pomonti, bình luận viên thời sự chính trị Đông Nam Á của tờ Le Monde ở Pháp thì nói về̀ ông Võ Văn Kiệt rằng, “Ông là một cá tính mạnh, luôn lôgíc về tư tưởng đổi mới, kể cả khi hồi hưu, ông cởi mở cả với những người bất đồng chính kiến, bênh vực dân, báo chí, chống bảo thủ, tham nhũng." Theo báo chí VN trong nước thì Bộ Ngoại giao Mỹ đã gửi lời chia buồn trước việc ông Võ Văn Kiệt từ trần trong đó có đoạn: "Sự lãnh đạo của ông Kiệt với vai trò là Thủ tướng từ năm 1991 đến 1997 mang lại kết quả là công cuộc cải cách giúp cải thiện cuộc sống của hàng chục triệu người Việt Nam. Những nỗ lực của ông đã góp phần mở đường bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam vào năm 1995." Cũng theo tin BBC, ông Võ Văn Kiệt lên làm thủ̉ tướng trong một giai đoạn chuyển hướng quan trọng của Việt Nam. Đây là thời gian Việt Nam tìm cách làm lành với Trung Quốc sau khi đánh Cam Bốt là chư hầu Trung Quốc, và tìm cách thoát ra khỏi thế bị bao vây kinh tế của Phương Tây, trong hoàn cảnh Liên sô sụp đổ không còn nơi nương tựa. Mặt khác, Việt Nam cũng phải quay sang thân thiện với khối Đông Nam Á, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, và thu hút đầu tư nước ngoài, từ các nước châu Á như Hàn Quốc, Singapore.

Những nhận định trên cho thấy ông Võ Văn Kiệt quả là đã có công với đảng cộng sản Việt Nam và với tài phiệt quốc tế. Bởi vì qua các ký kết hợp đồng thương mại mang tầm vóc quốc gia, ông Võ Văn Kiệt đã giúp thành lập một giai cấp tài phiệt bản xứ, gồm có: các thành phần quyền lực trong đảng cộng sản Việt Nam, ông Kiệt và vợ con của ông Kiệt, tay chân đàn em và đồng bọn đồng chí của ông Kiệt, với sự hỗ trợ của tư bản thế giới trong kế hoạch khai thác thị trường Việt Nam hoang sơ. Cách làm giầu vắn tắt sơ lược là: thu mua ép giá đất đai ruộng vườn của các nông dân, bán rẻ sang nhượng tài nguyên đất nước, cổ phần hoá các công ty, mà bản chất là tư hữu hoá của công, chưa kể những tiền thuế, tiền phí đủ loại bòn rút, trên xương máu nước mắt của người dân nghèo Việt Nam qua các phương thức đầu cơ tích trữ, trả rẻ nhân công vân vân … Ông Võ Văn Kiệt đã tạo được công lớn với đảng CSVN khi ở vị trí thủ tướng, đã đóng trò đổi mới, mở rộng thị trường Việt Nam cho các con buôn thế giới đến khai thác đầu tư chỉ với giới quyền lực đảng, trong khi chính thức thì đảng vẫn nhân danh chuyên chính vô sản để ngăn mọi đầu tư rộng rãi ra ngoài quần chúng. Võ Văn Kiệt giúp đảng cộng sản Việt Nam làm lành với Trung Quốc bằng cách hiến đất dâng biển của tổ tiên cho Trung Quốc trong khi nước đỡ đầu lớn nhất của Việt Nam là Liên Xô tan rã. Ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đã ký Nghị định 31/CP cho phép bắt giam không cần án tòa nhằm trấn áp tất cả những ai tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền trong nước.

Đối với đất nước Việt Nam tuy nhiên, ông Võ Văn Kiệt và đảng của ông ta lại là những tội đồ.

Dưới sự lãnh đạo của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt và đảng của ông ta, Việt Nam sau 33 năm nay đã trở thành một bãi rác tạp nhạp của thế giới. Tập tục tham nhũng được xem là quốc nạn và mang tính đặc thù Chủ Nghĩa Xã Hội vì nó gắn liền với hệ thống quyền lực. Lãnh đạo đảng đứng trên tất cả. Các mầm non tương lai của dân tộc trên đất nước được bán sang các nước lân bang hành nghề ấu dâm. Thiếu niên Việt Nam đói khát lê la đầu đường xó chợ, phụ nữ dù quê hay tỉnh thì cũng sẳn sàng lấy bất cứ người ngoại quốc nào có thể cho họ vài trăm đô. Thanh niên Việt Nam để thoát khỏi những cảnh nghèo đói tuyệt vọng đã đua nhau hối lộ các cán bộ quyền chức để được đi ra ngoại quốc hành nghề “ô sin” tức là nghề đi làm mướn.

Tóm lại, qua cái gọi là “Đổi Mới” ông Võ Văn Kiệt đã giúp đảng cộng sản Việt Nam tiến hành biến thái, nghĩa là trở thành một chính quyền độc tài tư bản, gồm những đại tài phiệt gồm vài trăm gia đình trong giới lãnh đạo CS nắm trọn tài nguyên đất nước. Đối với tư bản thế giới thì ông Võ Văn Kiệt cũng có công vì đã giúp cho túi lợi nhuận của tư bản tài phiệt thế giới ngày càng phình to trên sự khốn cùng của người lao động Việt Nam. Đồng hành với sự “Đổi Mới” của ông Võ Văn Kiệt, là sự héo hắt không tương lai và ngày mai của đại khối người dân lao động đang làm công ở đợ ngay trên đất nước của mình.

Ông Bộ Trưởng Nông Nghiệp Cao Đức Phát trước Quốc Hội vào ngày 17 tháng 11 năm 2007 đã cho biết, hàng trăm ngàn người dân nghèo chỉ đến ngày Tết mới có cơm ăn, còn lại quanh năm thì chỉ có cháo. Bộ trưởng Lao động, Thương binh, Xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân vào ngày 03 tháng 6 năm 2008 đưa ra nhận định, sau gần chục năm thực hiện các mục tiêu phát triển, gần một nửa dân số Việt Nam vẫn bị nạn đói nghèo đe dọa.

Riêng với nghị định 31/CP, ông Võ Văn Kiệt đã thành công biến đổi những người có lúc đặt vấn đề tự do dân chủ VN trở thành những người a dua hùa theo chủ trương an phận sống chung với đảng để “thay đổi” đảng từ từ trong vài ba thế hệ nữa!

Với các dữ kiện rõ ràng như vậy, trước lịch sử, ai có thể nói ông Võ Văn Kiệt có công với dân tộc Việt Nam?

Nguyễn Việt Khanh
Ngày 20 tháng 6 năm 2008

Hồi nào họ "iả" đâu ?

Trương Minh Hòa

Việt Cộng thường hay quơ "nhân dân" làm bình phong để núp bóng nhân dân mà làm hại nhân dân, bán đứng nhân dân, bắt nhân dân làm nô lệ "trường kỳ làm đầy tớ" nhưng được đảng phong quân hàm là "chủ". Đây là thứ chủ dỏm, thể hiện tính lật lọng của đảng Cộng Sản: hễ họ nói trắng thì phải hiểu là đen là trúng phóc, nên đảng xưng là đầy tớ nhân dân là phải hiểu đó là "chủ nhân dân", còn: nhân dân làm chủ là đầy tới. Câu bích chương, khẩu hiệu cả nước ai cũng biết: "nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý, đảng lãnh đạo" đã tự nó mâu thuẫn, khỏi cần giải thích thêm những gì mà "Cộng Sản nói, làm trái ngược" là điều ai cũng nhìn thấy, dù sông Cửu Long có thể cạn bởi Việt Cộng cho phép Tàu và các nước xây đập ở thượng nguồn; quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị dâng cho Trung Cộng, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Nhan nhản trong các cơ chế thống trị, người Việt Nam không còn lạ gì với:

- Quân đội Nhân Dân, hay còn được gọi là: Quân hại nhân dân, là một lực lượng do nhân dân cung cấp nhân lực hoàn toàn miễn phí, nhưng không bảo vệ cái mà nhân dân đang cần, đó là tổ quốc; trái lại tập thể nầy chỉ dành để bảo vệ quyền lợi, quyền lực của thiểu số cầm quyền, chẳng khác nào là lũ "lâu la" trong một đảng cướp - Công An Nhân Dân được tuyển chọn từ thành phần trung kiên có lý lịch theo đảng cướp 3 đời, với "nghiệp chuyên" là đàn áp nhân dân

- Ủy Ban Nhân Dân có hệ thống từ xã, huyện, tỉnh, là tổ chức chuyên môn "kềm kẹp nhân dân", công cụ bóc lột nhân dân tận xương tủy nhưng cái mà đảng Cộng Sản không bao giờ dành hai chữ "nhân dân", vì đây là vấn đề hết sức "khẩn trương, nghiêm túc" đó là Ngân Hàng Nhà Nước.

Theo đúng cái chủ nghĩa Marx Lenin, hễ bất cứ thứ gì của các nước tự do là "tư bản" được kèm theo một lô từ ngữ: phản động, lạc hậu, lỗi thời, đế quốc, sừng sỏ, bóc lột .... nhưng có cái thứ "tư bản" Cộng Sản không bao giờ chê, theo lời dạy của trùm Cộng Sản Việt Nam là Hồ Chí Minh khẳng định như một thứ chân lý, cũng dám nằm trong hệ tư tưởng gian ác của hắn: "Con người là TƯ BẢN quí báu". Theo đó, con người đúng là "mỏ thịt chất lượng" có thể khai thác vô tận, là thứ không cần mua sắm, lúc cần thì xài thoải mái, lúc không cần hay máy hư là vất bỏ không hối tiếc. Con người đa dụng, đa năng và cũng dể sử dụng, khỏi đổ xăng, thay nhớt bảo trì mà máy vẫn chạy đều đều nếu biết dùng "bạo lực cách mạng", được kích động bởi những từ ngữ như câu của Hồ Chí Minh xúi dục thanh niên, mầm non: "đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên":

    "Máy người chẳng mất tiền mua.
    Chỉ cần chỉa súng là lùa máy đi"

Con người được đảng và Bác khai thác "triệt để" từ sức lao động trong sản xuất nông trường, nhà máy tập thể, kể cả sinh mạng giúp đảng Cộng Sản thành công trong các cuộc chiến do ngoại bang Nga-Tàu chỉ đạo; riêng giới phụ nữ còn được đảng coi là "cực kỳ chất lượng", là "mỏ phụ nữ" đa dụng trong công tác "hộ lý" cho tập đoàn lãnh đạo, đoàn quân xâm lược xẻ dọc Trường Sơn, nếu cần nhu cầu công tác trong "tình hữu nghị" với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đem dâng cho quan thầy giải trí, như trường hợp của Nguyễn Thị Hằng, sau khi "liên hoan" cũng với các "đồng chí" trong bộ chính trị như Xuân Thủy, người phụ nữ nầy từng được mang qua tận Liên Sô để "chiêu đãi tình dục hoàn toàn miễn phí" cho một viên tướng hải quân Liên Sô thời chiến tranh Việt Nam, trở thành thứ "đĩ đại đồng"; Nguyễn Văn Trỗi cưới vợ mới một tháng, ngu si theo lịnh đảng, mang mìn đặt nơi công cộng, bị bắt, kết án tử hình với tội danh khủng bố, vợ hắn là Quyên bị dụ vào mật khu, nơi nầy được Nguyễn Hữu Thọ và các đồng chí cao cấp khác thay phiên nhau "giải phóng" trở thành nàng kiều thời đại, rồi trôi dạt ra tận Hà Nội gặp vị "cha già Dịch" tiếp tục "hội ý" và sau đó đưa sang Cu Ba, được biên chế sống chung với lãnh tụ râu xồm Fidel Castro gần 6 tháng, mới trở về và thành "phụ nữ tiên tiến".

Dưới chế độ miền Bắc, phụ nữ còn thay nam làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm ... khi chồng đi "sinh Bắc Tử Nam" và phụ nữ cũng là "mỏ chất đạm" chuyên sản xuất nhau tươi cung cấp cho toàn đảng toàn dân bữa ăn "bồi dưỡng" thay thịt, cá khi "đất nước ta còn nghèo" phải đưa quân vào nam ... dùng ngâm rượu với mật ông Hà Giang (ong hút nhựa từ cây thuốc phiện) cho các cán bộ lãnh đạo, để có sức mà giải phóng phụ nữ tiếp hầu sản xuất thêm chất liệu; nhau xấu được nuôi heo, chó và thứ bỏ cũng được dùng làm phân bón, cùng với bèo hoa dâu, gia tăng năng xuất, làm giàu cho xã hội chủ nghĩa ... con người đúng là: "tư bản quí báu" đấy.

Ngay cả CỨT người, đảng cũng không "phung phí" một cục nào. Việc "bảo vệ CỨT như bảo vệ con ngươi trong tròng mắt" đã được đảng, Bác quan niệm ngay từ thời còn "đánh Tây giành Đập Lột"; trong quyển sách có tựa là "Mối Thù Phải Trả" của tác giả Nguyễn Ngọc Nga, nguyên là một người vì lòng yêu nước mà nghe theo tiếng gọi: "Mùa thu rồi ngày hai mươi ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến ..." là một nhân chứng sống, vạch trần tội ác của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, theo tác giả thì từ thời ấy, Cứt cũng là thứ được coi là "tài sản quý báu" qua câu chuyện "CON CHÓ", từ trang 301 đến 314, có nói về một đơn vị Việt Minh ở miền Nam nuôi con cháu để ăn thịt bồi dưỡng, nhưng cũng phải "hội ý, đấu tranh tư tưởng quyết liệt" với tổ làm rẫy, vì nuôi chó là tổ nầy hao mất một số cứt người "chất lượng" từ những đồng chí trong tổ chức, có khả năng làm giảm lượng hoa màu, cũng là mặt hàng nuôi quân "chủ yếu". Tại miền Bắc cũng thời đánh Tây, chuyện "Tai bay vạ gió" từ trang 161 đến 180, tác giả nói về những cán bộ Cộng Sản đã tỏ ra hối tiếc khi gia đình ông Lâm Văn Hồ làm nghề "đổ thùng" thu cứt từ những gia đình giàu có, tư sản ở Hà Nội, ăn nhiều thịt cá và các thứ bổ dưỡng, mà lại phung phí vứt xuống đường cống ... nên Cứt rất là "bổ" cho cây lắm thay!... Cứt có tầm vóc "cực kỳ chiến lược" trong quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, là "cơ sở cơ bản" đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc về thời kỳ ... đồ đá, là đạt mục đích yêu cầu "thời thượng". Sau năm 1954, miền Bắc xã hội chủ nghĩa khai thác triệt để giá trị "chất lượng cao" của Cứt, nên người dân rất quý trọng "cứt", là động cơ chủ yếu sản xuất có tính cách quy mô nông trường và cá thể từ những mảnh đất nhỏ chung quanh "cơ ngơi" của từng "hộ", nên cứt và nước đái trở thành "mặt hàng chủ yếu, chiến lược" của mọi người, đúng như câu tục ngữ: "xã hội chủ nghĩa, cầu ỉa cũng rào", do cứt rất quý, ỉa mà không có "quy hoạch" và "ỉa không có chánh sách" là mất đi nhiều tài sản quí báu cơ!

    "Cầu tiêu ta làm nên tất cả.
    với cứt người, ruộng lúa biến thành cơm"

Ngay trong các trại tù từ thời sau 1954 miền Bắc đến sau 1975 miền Nam, Cứt, Cứt và cứt ... trở thành "quan hệ sản xuất chất lượng cao", nên tất cả các trại tù đều có "đội tù gánh cứt" với tên gọi có vẻ cũng cách mạng lắm, đó là "đội phân xanh"; hàng ngày đội tù nầy hốt cứt ở các hầm cầu từ mỗi trại, láng ... tù bị đối sử tàn tệ đủ thứ mà còn bị "bóc lột tận hậu môn", trại giam luôn cho tù ăn những thứ "làm ra cứt" nhanh như bo bo, khoai lan, sắn ... thế là tù ỉa nhanh, ỉa mạnh, ỉa đều đều ... để cho các người tù bị đì trong đội phân xanh có công việc làm, lao động tốt: "gánh, gánh, gánh, gánh Cứt, gánh cứt về ... gánh về rẫy tù ... rãy tù ...". Nhưng một điều chắc chắn là không có người tù nào ngu đến độ: "vai gánh cứt một thành hai ..."

Do cứt vô cùng quan trọng, nên ở miền Bắc, đảng và nhà nước có "chính sách chủ yếu" là: không xây cầu tiêu, ngoài ra đảng còn ban bố cho dân có quyền tự do "quản lý và tiêu dùng cứt" mà không sợ vi phạm chính sách hay mang tội "phản động"; đó là thứ tự do "cơ bản" còn lại sau khi hầu hết các quyền tự do làm người bị tước đoạt dưới chế độ "sức người thay sức trâu bò, máy máy". Trong xã hội chủ nghĩa, tất cả các quyền tự do trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế của Liên Hiệp Quốc đều biến mất, dù các chính quyền Cộng Sản đều phải đặt bút ký tên cam kết cho qua truông khi gia nhập; nhưng đảng Cộng Sản có quan niệm nhân quyền khác: "difference issues", theo họ là tùy theo hoàn cảnh địa lý, lịch sử, dân tộc ... nên những cái mà Liên Hiệp Quốc không ghi, thì lại có ở Việt Nam, Trung Cộng ... như:

- Quyền tự do hút thuốc
- Tự do uống rượu (nếu có đủ tiền)
- Tự do chửi các nước tư bản phản động, chửi mãn đời, sang đời con, chửi hoài mà không bao giờ sợ công an đàn áp, trái lại còn được khen thưởng (còn chửi Hồ Chí Minh, đảng là vô tù)
- Quyền tự do quản lý cứt, nước đái
- Cán bộ đương nhiên được quyền tự do tham nhũng, hối lộ, bóp chẹt, đàn áp dân, rút ruột công trình
- Cán bộ còn có quyền tự do cho con du học, xuất ngoại, chuyển tiền ra ngân hàng ngoại quốc
- Con cán bộ có quyền tự do kết hôn với những người Việt tỵ nạn thuộc thành phần: "đĩ điếm du côn" như thủ tướng Phạm Văn Đồng mạt sát ... nên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam còn có nhiều "quyền tự do" đấy.

Những người Việt tỵ nạn nào sống một thời gian ở nước ngoài, cảm thấy ở các nước tư bản phản động bóc lột, bốc lủm gì đó, khó sống, hãy về Việt Nam ở luôn để hưởng được nhiều thứ tự do "cơ bản" nêu trên; còn ở các nước tư bản mà khen Việt Cộng đổi mới, tự do, tiến bộ, thoải mái ... nhưng không chịu về thiên đàng Cộng Sản ở luôn, là nói láo, láo cá vặt đấy ... nếu không phải là thành phần gián điệp trà trộn, cũng là tỵ nạn gian, đón gió trở cờ. Miền Bắc thấm nhuần nên kinh tế xã hội chủ nghĩa, dân chúng đã "giác ngộ cao" biết thế nào là giá trị của Cứt, nên xây nhà, cơ quan, các công trình sư cũng không quan trọng việc xây cầu tiêu, nếu xây thêm nhà cầu là phí phạm công quỹ nhà nước, thay vì dùng tiền xây cầu tiêu, thì dùng tiền ấy để bảo trì Lăng của Hồ Chủ Tịch còn có ý nghĩa hơn. Theo tác giả Trần Bì, bài viết: "Đảng ta và xây dựng cơ bản" trong nguyệt san Con Ong Việt số 94, trang 20 ghi rằng:

"Đầu tháng 5-2008, báo đảng có đăng tin:

    - Trung tâm Y Tế Dự Phòng huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình vừa hoàn thành một tòa nhà ba (3) tầng với 15 phòng, nhưng không có nhà vệ sinh nào cả. Rồi thì trường Cao Đẳng Sư Phạm có cả ngàn học sinh, tỉnh Hòa Bình cũng không có phòng vệ sinh nào cả."

    Đoạn khác tác giả ghi rằng: "Ngày nọ, (cố) đồng chí tổng bí thư Đỗ Mười, bí danh Théo Hiên (Thiến Heo) đến khánh thành một tòa nhà năm (5) tầng. Sau bài diễn văn gần hai giờ, đồng chí Đỗ Mười cho phép báo chí đặt câu hỏi. Một ông nhà báo thắc mắc:

    - Báo cáo đồng chí tổng bí thư,
    tại sao ngôi nhà đồ sộ năm tầng với hơn năm mươi phòng mà không tìm đâu ra một nhà vệ sinh?

    Đồng Chí Tổng Bí Thư Đỗ Mười kính mến, vui vẻ giải thích:

    - Như các đồng chí biết đấy. Ngôi nhà nầy được phân bổ cho các cơ quan như sau: tầng một là nhà trẻ, tầng hai cho công nhân nhà máy, tầng ba cho nông dân, tầng bốn cho văn nghệ sĩ, tầng năm đặc biệt dành riêng cho các đồng chí lãnh đạo đảng ta. Cả năm tầng đều không cần đến nhà ỉa, nhà đái..

    Vì tầng một là nhả trẻ, chúng ỉa trong bô, không cần nhà vệ sinh.- Tầng hai dành cho công nhân nhà máy, công nhân ỉa trong xí nghiệp, không cần nhà vệ sinh

    -Tầng ba cho nông dân. Nông dân ỉa ngoài đồng, không cần nhà vệ sinh-Tầng bốn dành cho văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ ỉa vào mồm nhau, không cần nhà vệ sinh

    -Tầng năm dành cho các đồng chí lãnh đạo. Các đồng chí lãnh đạo ra ỉa trên đầu nhân dân. Không cần nhà vệ sinh".

Truyền thống "No Toilet" đưa đến" No Worry" trong "thiên đàng Cộng Sản" trở thành một thứ "truyền thống cách mạng" đã có từ thời Bác từ Trung Hoa trở về qua cọc mốc biên giới 108 ở Cao Bằng, Bác chui trong hang Pác Pó, nên hổng cần nhà vệ sinh, muốn ỉa cứ ra "núi Mác" hay "suối Lenin" mà "giải phóng" thoải mái, có ai phê bình, kiểm điểm đâu? Từ đó mà toàn đảng có truyền thống cách mạng cụ thể, duy vật: "ỉa bụi, đái gốc cây" lúc "cách mạng" chưa thành công; và sau khi thành công, về thành thì: "ỉa đường phố, đái gốc hè", cứ thế mà phát huy đến khi cả nước tiến tới .... thời kỷ bộ lạc; thời nầy chắc chắn tới 1000% là đái ngoài hang động, hay bất cứ nơi nào, không sợ ai chụp hình, quay phim đưa lên truyền hình, đăng báo và cũng không sợ bị cảnh sát, nhân viên hội đồng thành phố đến biên giấy phạt vì tội danh không cụ thể chút nào "ỉa đái bậy" làm mất vệ sinh công cộng.

Con cháu Bác ở miền Nam thuộc nhánh tay sai Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, vốn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, nên không cần nhà cầu, tức là: "chiến sĩ ta đụng đâu ỉa đó ở các vùng nông thôn.." đến khi: "cách mạng vùng lên để ỉa hè ..." là đưa cả nước tiến lên, vì "nhà cầu của ta bao lao" song hành với: "Ngục tù bao la" dành để nhốt nhân dân ... nên sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều cán bộ gốc Tarzan đã ngơ ngáo "tiến vào Saigon, cướp cạn là trận nầy, tiến vào Saigon ta giải phóng nhà dân ...", khi tiếp thu những ngôi nhà, căn "hộ" do "tàn dư Mỹ Ngụy để lại", họ cực kỳ phẫn uất khi nhà thấy "những nhà cầu phản động" nằm ngay trong nhà, nhiều tên cán ngố lên lớp rằng:

"Mấy thằng Mỹ Ngụy ở dơ hết biết, ai đời làm cầu ỉa trong nhà".

Trong khi đó, nhiều "đỉnh cao trí tuệ loài người, giai cấp tiên tiến" từ miền Bắc vào tiếp thu, tiếp quản nhà cửa, của cả như là "chiến lợi phẩm", nhìn thấy những "cầu tiêu" tráng men bóng láng, soi mặt vào cũng thấy từng mụt mụn, nốt ruồi, cái thẹo, hàm răng hô như bàn nạo dừa của dân tỉnh Kiến Hòa nên yên tâm đây là nơi có thể "tồn trữ cá, lươn" an toàn, an ninh như ở trong Lăng Hồ Chủ Tịch; thế là cán bộ cách mạng tiên tiến bèn ra chợ mua cá, lươn ... mang vào đó để dành, ngày hôm sau thì tất cả những "bọn cá lươn phản động" đã vượt đường cống đi mất, một cách bí mật ... những "giai cấp tiên tiến" ấy biến căm thù thành hành động, chửi rủa là: "nạn trộm cấp cá, lươn do tàn dư chế độ Mỹ Ngụy để lại".

Đàn anh Trung Cộng là bậc thầy trong việc "khai thác tận đáy quần ... con người", ngoài khai thác sức lao động, sinh mạng, đương nhiên là CỨT cũng thuộc mặt hàng "chiến lược", với dân số đông nhất thế giới, Trung Cộng được coi là "Mỏ cứt vĩ đại nhất thế giới". Cứt là mặt hàng chiến lược mà người Hoa đã nhìn thấy từ lâu, bằng chứng tại Việt Nam trước đây, một số người thuộc sắc dân Tiều Châu đến lập nghiệp, ngoài mang theo hai cái cần-xé gia tài, họ mang cả lối sinh hoạt buôn bán, trồng trọt nên cứt được khai thác triệt để, một số người dùng để bón cải rất tốt, từ đó có danh từ "phân Tiều". Sau năm 1949, chắc chắn mặt hàng chiến lược Cứt, được Mao Trạch Đông đưa lên tầm sản xuất "vĩ mô" cho cả nước, đây cũng là bước khai triển chủ nghĩa Maoist nhằm xây dựng xã hội chủ nghĩa. Mao Chủ Chí còn cho là: "Chết cũng là lần chót đóng góp vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, cách mạng", thế là người chết được đốt thành tro để thành phân bón ruộng ... do đó, tất cả các món thức ăn nào như: dưa muối, củ cải muốn, xì dầu, tương, chao .... để câu: "MADE IN CHINA" thì phải hiểu là những sản phẩm đó có nguồn gốc từ con người mà ra, thật là "tuyệt vời" đấy!

Thế vận hội được tổ chức tại Bắc Kinh vào tháng 8 năm 2008, là cơ hội để đảng và nhà nước Trung Cộng phô trương sự thành công cái mô thức "lấy kinh tế thị trường, định hướng theo xã hội chủ nghĩa", phát huy thanh thế, làm sống lại chủ nghĩa Maoist và từ đó đứng lên: "dậy mà đi" trở thành lãnh đạo khối Cộng Sản tàn dư thế giới,....và nhân dịp nầy cũng để thu tiền do du khách, các đoàn lực sĩ mang đến ... cái lợi cực kỳ quan trọng là: nhờ thế vận mà đảng và nhà nước Trung Cộng thu được rất nhiều CỨT, đây là thứ "cứt chất lượng" do những người sống trong các nước "tư bản phản động" ăn toàn la bơ sữa, thịt cá, đồ bổ ... nếu cứt nầy được ỉa tại nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thì nguồn lợi cũng cao, cũng như thu tiền vé vào cửa vậy; tức là đảng và nhà nước Trung Cộng thu tiền lẫn cứt mà "lòng phơi phới một tương lai".

Cho nên sau khi mở cuộc "vạn lý trường chạy ngọn đuốc thế vận" vào những tháng trước, vào trung tuần tháng 6 năm 2008, là giai đoạn chuẩn bị "thu hoạch Cứt" của toàn thế giới, đây là thứ "cứt năm châu đại đồng" vô cùng chất lượng, thứ "cứt hiện đại" đa văn hóa, do hàng triệu, triệu người đa ngôn ngữ với nguồn gốc "không nói tiếng Quan Thoại" đến để "trút những thứ tàn dư chất lượng" vào hệ thống cầu tiêu Trung Quốc. Nhằm chuẩn bị quy mô chiến lược "thu cứt toàn thế giới", tức là "biến cứt người thành của mình", là sách lược bành trướng Bắc Kinh được áp dụng một cách sáng tạo, tài tình, uyển chuyển qua việc "thu cứt" toàn thế giới; đảng và nhà nước Trung Cộng ra lịnh cho hàng ngàn người Trung Hoa tiên tiến, hình như cũng phải tuyển lựa theo tiêu chuẩn "lý lịch tốt nhiều đời" và không phải là người Tây Tạng, Tân Cương cùng nhau lao vào công tác chỉ với chăm sóc hệ thống "cầu tiêu", nghe đâu số lượng cầu tiêu sẵn sàng "ứng chiến làm cuộc đại cách mạng văn hóa thu cứt người" lên đến 8 ngàn cầu tiêu tại Bắc Kinh, thật là quy mô. Muốn thu cứt cũng phải "lắm công phu", vì hệ thống cầu tiêu ở Trung Quốc được xây dụng theo mô thức "ngồi xổm" là thế ngồi ỉa cơ bản mà đảng và nhà nước đã "giáo dục" nhân dân ỉa ở ngoài đồng từ thời Mao Chủ Tịch còn trốn chui trốn nhủi ở vùng phía Bắc Trung Quốc trong cuộc "vạn lý trường chinh" từ 1943 đến 1936, đó là truyền thống "ỉa chạy" vừa ỉa vừa sợ quân của Thống chế Tưởng Giới Thạch đến bắt bất cứ lúc nào ... thế ỉa xổm nầy được các "đồng chí cố vấn Trung Quốc mang vài giáo dục, học tập cách ỉa cho toàn đảng Cộng Sản Việt Nam, nên du kích miền Nam có thói quen ngồi xổm trên ghế, y như lúc ỉa ngoài đồng, dân chúng gọi là "kiểu ngồi nức lụt".

Hiện nay đảng và nhà nước Trung Cộng đang "điều nghiên" cách nào để hốt, thu hoạch "toàn bộ" cứt của du khách quốc tế trong thế vận hội nầy; nhưng có một trở ngại quan trọng là dân Tây quen ngồi ỉa theo lối người tàn tật, nhưng đây là lối "ngồi ỉa phản động, tiểu tư sản đấy", khác với kiểu "ngồi ỉa kách mệnh". Nhưng nếu làm theo kiểu ngồi xổm, là lối ỉa tiên tiến, mang bản chất cách mạng vô sản, thì liệu du khách ngoại quốc có HAPPY ngồi ỉa, trút hết "tư sản quý báu con người vào cầu tiêu" hay không?.

Đây là vấn đề "nhạy cảm" và cũng rất quan trọng, nếu nhà cầu không đàng hoàng, thì uy tín của Trung Cộng bị xuống cấp thêm sau vụ đàn áp người Tây Tạng, không khí bị ô nhiễm, thức ăn bị nhiễm độc, tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng .v..v... do nhu cầu thu hoạch cứt thuộc hàng chiến lược như quốc phòng, nên nhà nước Trung Cộng còn cho những "Toilet Guiders" tuyển lựa từ thành phần "tiên tiến" có lý lịch tốt nhiều đời, chắc chắn là thuộc thành phần gia đình cách mang ... học Anh Ngữ với chủ đề là môn: "Toilet language" để đáp ứng nhu cầu hướng dẫn du khách tìm đến nơi trút bầu tâm sự trong thời gian "liên hoan" thế vận hội tại Bắc kinh; một điểm khá quan trọng khác là thức ăn ở Trung Quốc đang bị thế giới quan ngại về chất độc, vi khuẩn, qui trình làm ăn dơ ... nhưng cũng tốt thôi, du khách càng ăn càng ỉa nhiều là "đạt mục đích yêu cầu", là Trung Cộng thu được thêm nhiều cứt.

Do đó, kỳ thế vận hội 2008, Trung Cộng thu được nhiều lợi nhuận, nhất là số Cứt từ khắp nơi trên thế giới đổ về đây để ỉa nhanh, ỉa nhiều, ỉa mãi ... để họ có phân bón phát triển nông nghiệp, đưa đất nước tiến tới thiên đàng Cộng Sản, chắc chắn sẽ phải đến vào năm 3 ngàn; tức là từ đây đến đó cũng gần 1000 năm, Trung Cộng và Việt Cộng còn dư thời giờ để chuẩn bị tẩu tán tiền vơ vét ra nước ngoài.

    "Ỉa, ỉa, ỉa và thế giới cùng ỉa ....
    Mặt mạnh giúp cho xã hội chủ nghĩa.
    Đạt thành tích cao trong ngành trồng tỉa.
    Xuất khẩu ra nhiều mặt hàng từ cầu ỉa ...

Trương Minh Hòa